Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo Bộ luật dân sự Việt Nam 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (246.14 KB, 23 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
≈≈≈≈≈≈≈≈≈≈

≈≈≈≈≈≈≈≈≈≈

TIỂU LUẬN
Đề tài:
“Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo Bộ luật dân sự Việt Nam 2015”
Sinh viên thực hiện: Lưu Hồng Phương Trang
Mã sinh viên: 1911115545
Lớp: K58F
Gỉang viên hướng dẫn: Th.s Lưu Thị Bích Hạnh

TP.HCM, tháng 5 năm 2020



MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Mục lục
MỞ ĐẦU……………………………………………………………………………1
NỘI DUNG
Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NĂNG LỰC HÀNH VI DÂN SỰ CỦA CÁ
NHÂN

TRONG

QUAN



HỆ

PHÁP

LUẬT

DÂN

SỰ……………………………...3
1.1.

Khái niệm chung về năng lực chủ thể trong quan hệ pháp luật dân

sự……3
1.1.1. Khái niệm năng lực chủ thể, năng lực hành vi dân sự của cá
1.2.

nhân…………...3
Ý nghĩa của việc qui định năng lực hành vi dân sự của cá

nhân…………..6
1.2.1. Bảo vệ quyền và lợi ích của cá nhân khi tham gia quan hệ dân sự……………
6
1.2.2. Góp phần nâng cao trách nhiệm của các bên tham gia khí kết hợp
đồng……...6
1.2.3. Góp phần ngăn

ngừa,


răn

đe

các

hành

vi

vi

phạm

pháp

luật………………….7
1.2.4. Cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp khi vụ việc dân sự liên quan đến năng
lực

hành

vi

dân

sự

của




nhân……………………………………………………….7
Chương 2: QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ NĂNG LỰC
HÀNH

VI

DÂN

SỰ

CỦA



NHÂN……………………………………………...8
2.1.

Căn cứ xác định mức độ năng lực hành vi dân sự của cá
nhân……………..8


2.2.

Các

mức

độ


năng

lực

hành

vi

dân

sự

của



nhân

………………………….9
2.2.1.

Năng

lực

hành

vi


dân

sự

đầy

đủ………………………………………………..9
2.2.2. Năng lực hành vi dân sự một phần……………………………………………
10
2.2.3. Người khơng có năng lực hành vi dân sự……………………………………
12
2.2.4.

Người

mất

năng

lực

hành

vi

dân

sự………………………………………….13
2.2.5.


Người



khó

khăn

trong

nhận

thức,

làm

chủ

hành

vi……………………….14
2.2.6. Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự…………………………………..15
KẾT LUẬN………………………………………………………………………..17
Tài liệu tham khảo………………………………………………………………..18



6

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài.

Trong giai đoạn kinh tế - xã hội đang từng bước phát triển tại Việt Nam hiện
nay, nhu cầu đời sống nhân dân tăng cao, mỗi cá nhân phải không ngừng nổ lực
tham gia các mối quan hệ xã hội hay quan hệ pháp luật dân sự nói riêng một cách
bền vững và ổn định để tạo ra giá trị lợi ích về tinh thần, vật chất cho bản thân và
cộng đồng. Trong đó, giao dịch dân sự là một trong những hoạt động quan trọng,
nhằm hướng đến lợi ích hợp pháp cho các bên chủ thể mong muốn đạt được khi xác
lập giao dịch đó. Tuy nhiên, khơng phải cá nhân nào cũng có quyền tham gia vào
các giao dịch dân sự. Pháp luật dân sự Việt Nam quy định chỉ có những cá nhân có
năng lực chủ thể mới có quyền tham gia những giao dịch này. Cụ thể hơn là tư cách
chủ thể của cá nhân chỉ đầy đủ, hoàn thiện và độc lập để tham gia vào một quan hệ
pháp luật dân sự cụ thể khi họ có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân
sự - hai yếu tố cấu thành năng lực chủ thể. Đầu tiên nói đến là năng lực pháp luật
dân sự căn cứ tại khoản 2 và 3 điều 16 của BLDS 2015 quy định: “Mọi cá nhân đều
có năng lực pháp luật dân sự như nhau. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ
khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết”. Vậy nếu năng lực pháp luật
dân sự là tiền đề, là quyền dân sự khách quan của chủ thể thì năng lực hành vi dân
sự được hình thành do những điều kiện nhất định, có mức độ khác nhau tương ứng
với độ tuổi và khả năng nhân thức, điều khiển hành vi của cá nhân đó. Tuy nhiên, cả
hai năng lực pháp luật và hành vi dân sự đều là thuộc tính cá nhân, tạo nên sự độc
lập của chủ thể cá nhân trong các quan hệ dân sự.
Ngày nay, đời sống sinh hoạt của mỗi cá nhân ngày càng đa dạng và phức tạp
kéo theo đó là sự phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực giao lưu dân sự. Tất nhiên,
ngồi những tình huống thuận lợi ra thì việc xuất hiện những tranh chấp liên quan
đến các vấn đề năng lực hành vi dân sự của cá nhân khi tham gia vào quan hệ pháp
luật dân sự là không thể tránh khỏi. Chẳng hạn, người tham gia giao dịch chưa
thành niên, mất hay gặp hạn chế năng lực hành vi dân sự, hay lợi dụng người chưa
thành niên để tiến hành giao dịch dân sự bất hợp pháp,… Bộ luật dân sự 2005 đã có
những mâu thuẫn về thuật ngữ “trẻ em”, “vị thành niên”, “người chưa thành niên”,



7

hay độ tuổi tham gia quan hệ pháp luật dân sự chưa có sự thống nhất giữa BLDS và
các bộ luật khác đã gây ra khó khăn trong việc áp dụng và thực thi pháp luật. Từ đó,
quyền lợi hợp pháp của người dân khi tham gia quan hệ pháp luật dân sự không
được đảm bảo. Tuy nhiên, BLDS 2015 số 91/2015/QH13 được Nhà nước ban hành
đã có sự thay đổi và phát triển một số điều khoản sao cho tin gọn, hợp lý và đồng bộ
hơn những vấn đề BLDS 2005 cịn thiếu sót.
*Lý do chọn đề tài:
Nhận thấy việc nghiên cứu, làm luận văn về năng lực hành vi dân sự của cá
nhân trong quan hệ pháp luật dân sự dựa theo BLDS 2015 là một việc làm có ý
nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn nằm xác định tư cách chủ thể của cá nhân cũng
như quyền, trách nhiệm khi xác lập, thực hiện quan hệ pháp luật dân sự của họ.
Ngồi ra, sự tị mị và muốn hiểu sâu, hiểu rộng về chuyên đề trong BLDS 2015 đã
có bước tiến gì so với trước đó đã thôi thúc tôi chọn đề tài: “Năng lực hành vi dân
sự của cá nhân trong Bộ luật dân sự 2015” để làm bài luận giữa kì của mình cho
mơn Pháp luật đại cương.


8

Chương 1:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NĂNG LỰC HÀNH VI DÂN SỰ CỦA CÁ NHÂN
TRONG QUAN HỆ PHÁP LUẬT DÂN SỰ
1.1.

Khái niệm chung về năng lực chủ thể trong quan hệ pháp luật dân


sự:
1.1.1. Khái niệm năng lực chủ thể:
Chủ thể được xem là yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc hình thành nên
các quan hệ pháp luật, đặc biệt là quan hệ pháp luật dân sự. Dựa trên lý thuyết, chủ
thể trong quan hệ pháp luật là cá nhân, tổ chức có năng lực chủ thể, theo điều kiện
do pháp luật quy định, tham gia vào các quan hệ pháp luật nhất định. Vì vậy, để trở
thành chủ thể của quan hệ pháp luật nhất định, cụ thể thì phải có năng lực pháp luật
và năng lực hành vi pháp luật, tức là phải có khả năng tự mình thực hiện các quyền
và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Việc xác định chủ thể của một ngành luật
và xác định điều kiện liên quan đến năng lực chủ thể của ngành luật đó là do đặc thù
của quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của ngành luật.
Theo điều 1 của BLDS 2015 thì chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự được
quy định bao gồm: cá nhân và pháp nhân. Nhà nước là chủ thể đặc biệt. Mỗi cá
nhân và pháp nhân để trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự phải đáp ứng
điều kiện năng lực chủ thể đầy đủ. Vậy năng lực chủ thể là gì? Theo góc nhìn của
những nhà tâm lý học tơi tìm được, năng lực chủ thể của cá nhân là tổng hợp các
quan điểm, sự hiểu biết, tư duy hay đặc điểm, thuộc tính tâm lý của cá nhân phù hợp
với yêu cầu đặc trưng của một hoạt động nhất định nhằm đảm bảo cho hoạt động đó
diễn ra đạt hiệu quả cao. Hiểu theo tính chất tâm sinh lý, năng lực chủ thể của cá
nhân được hiểu là quá trình cá nhân tiếp thu kiến thức, vận dụng tư duy để giải
quyết các vấn đề, sử dụng kỹ năng khi làm một công việc nào đó. Trong cùng một
điều kiện hồn cảnh nhất định nhưng mỗi cá nhân khác nhau có thể tiếp thu kiến
thức với một mức độ khác nhau. Chẳng hạn như cùng một bài giảng từ một giáo
viên nhưng mức độ hiểu bài, vận dụng làm bài tập của từng sinh viên lại khác nhau,
từ đó kết quả học tập các sinh viên trong lớp cũng có sự chênh lệch. Sinh viên khá
giỏi dường như hội tụ ý chí tập trung, sự chủ động tự học, sự nhanh nhạy khi đọc tài


9


liệu, kinh nghiệm,…Có thể thấy, những cá nhân có khả năng đáp ứng các điều kiện
nêu trên càng nhiều thì khả năng xác lập được sự công nhận về năng lực, tiếng nói
trong các hoạt động học tập của lớp càng lớn. Năng lực chủ thể của cá nhân xuất
hiện từ khi sinh ra và có thể phát triển tăng dần đến một độ tuổi nhất định thì phát
triển đầy đủ nhưng cũng có nhiều trường hợp ngược lại. Vì vậy, khái niệm năng lực
chủ thể khó xác định và đưa ra thành một điều luật cụ thể.
Cho đến nay, bộ luật dân sự vẫn chưa có khái niệm chính thức về năng lực
chủ thể. Tuy nhiên, căn cứ vào các quy định hiện hành của BLDS về năng lực pháp
luật và năng lực hành vi dân sự của cá nhân, có thể rút ra khái niệm về năng lực chủ
thể như sau: “ Năng lực chủ thể của cá nhân là khả năng mà cá nhân bằng hành vi
có ý chí của mình xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự
khi được pháp luật trao quyền hoặc phải gánh vác nghĩa vụ.”
Như đã trình bày trước đó, năng lực chủ thể của cá nhân bao gồm năng lực
pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự. Trong đó, năng lực pháp luật dân sự là
quyền sẵn có của cá nhân khi sinh ra do pháp luật ghi nhận. Còn năng lực hành vi
dân sự của cá nhân là hình thành qua một khoảng thời gian của chủ thể trong việc
thực hiện, kiểm soát và làm chủ hành vi. Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật
giống nhau nên cần xem xét yếu tố năng lực hành vi dân sự của cá nhân để xác định
tư cách chủ thể khi tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự.


Năng lực hành vi dân sự của cá nhân:
Năng lực hành vi dân sự của cá nhân được quy định cụ thể tại Bộ luật dân sự

số 91/2015/QH13 ngày 24 tháng 11 năm 2015. Đây là một vấn đề được nhiều người
quan tâm. Chúng ta thường thắc mắc rằng: “Tơi có quyền làm những điều này
không? Và trong những trường hợp nào thì giao dịch dân sự tơi thực hiện được cơng
nhận?”. Vì thế, năng lực hành vi dân sự là một trong những nội dung quan trọng của
Bộ luật Dân sự bởi vì nó là cơ sở để xem xét một chủ thể có tư cách tham gia xác
lập, thực hiện một mối quan hệ pháp luật hay không.

Trước hết, khả năng hưởng quyền dân sự của cá nhân là quyền khách quan
mà pháp luật quy định sẵn cho các chủ thể. Nhưng không phải mọi chủ thể cá nhân
đều được hưởng quyền dân sự này. Để khả năng ấy có thể biến thành hiện thực cần


10

những điều kiện khách quan cũng như chủ quan nhất định. Điều kiện khách quan
mà mỗi cá nhân có thể thực hiện quyền dân sự của mình là chủ trương, đường lối
chính sách của Đảng và Nhà nước, điều kiện kinh tế - xã hội chính là yếu tố khách
quan giúp cho các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định được thực thi. Hiện
nay, Việt Nam đang trên đà phát triển, có nền tảng vững chắc về kinh tế - xã hội và
nhiều cơ hội vươn mình ra quốc tế. Đây sẽ là chỗ dựa vững chắc để Nhà nước ta cải
tiến bộ máy và đảm bảo điều khoản về năng lực hành vi dân sự của cá nhân được
triển khai hiệu quả trên thực tế.
Ngoài ra, để tự mình thực hiện quyền và nghĩa vụ của bản thân, cá nhân phải
có khả năng nhận thức, chịu trách nhiệm, làm chủ được hành vi mà cá nhân xác lập
trong các quan hệ pháp luật dân sự sao cho phù hợp với quy định pháp luật. Bởi lẽ
đó, năng lực hành vi của con người là điều kiện chủ quan để họ thực hiện quyền và
gánh vác nghĩa vụ thông qua hành vi cụ thể. Về phương diện ngôn ngữ thì “năng
lực” là điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện hoạt động nào đó,
“hành vi” là là cách cư xử biểu hiện ra ngoài của một người trong một hoàn cảnh cụ
thể nhất định. Vì vậy ở phương diện này thì năng lực hành vi là khả năng xử sự và
kiểm soát làm chủ các xử sự đó của cá nhân. Về phương diện tâm, sinh lí, năng lực
hành vi của cá nhân được thể hiện qua cả hai yếu tố lý trí và ý chí. Trong đó, lý trí là
khả năng nhận thức sự vật bằng suy luận, biểu hiện mức độ, khả năng làm chủ của
mỗi cá nhân. Cịn ý chí là mong muốn chủ quan, là sự theo đuổi một mục đích nhất
định thiên về cảm giác, tình cảm chủ quan của bản thân. Nếu hành vi của một người
chỉ được thực hiện bằng cảm giác mà khơng có khả năng nhận thức hành vi bằng
suy luận thì cá nhân đó khơng có khả năng điều khiển hành vi. Chỉ khi thỏa mãn

đầy đủ hai thuộc tính lý trí và ý chí thì cá nhân mới có khả năng kiểm sốt hành vi
của mình và chịu trách nhiệm về hành vi đó.
Tuy nhiên, việc xác định khả năng lý trí và ý chí (nhận thức và làm chủ hành
vi) của mỗi cá nhân khi tham gia quan hệ pháp luật không hề dễ dàng trên thực tế.
Bởi vì trong dân sự, số lượng các quan hệ mà chủ thể tham gia hằng ngày là rất lớn,
không thể yêu cầu trong mối quan hệ dân sự nào chủ thể phải chứng minh khả năng
nhận thức và làm chủ hành vi của mình. Vì thế, pháp luật Việt Nam cũng như pháp
luật nhiều nước lấy độ tuổi làm tiêu chí xác định năng lực hành vi dân sự của cá
nhân, ngồi ra cịn có một số tiêu chí khác. Bởi vì q trình hình thành nhân cách,


11

khả năng nhận thức phải trải qua thời gian. Khi cá nhân đạt đến độ tuổi thích hợp thì
mới hồn thiện và đủ khả năng kiểm soát hành vi của mình, chịu trách nhiệm pháp
lý do hành vi mình gây ra nhưng đây chỉ là điều kiện cần.
1.2.
Ý nghĩa của việc qui định năng lực hành vi dân sự của cá nhân:
1.2.1. Bảo vệ quyền và lợi ích của cá nhân khi tham gia quan hệ dân sự:
Những quy định về năng lực hành vi dân sự đảm bảo được quyền lợi của
chính cá nhân là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự và đồng thời đảm bảo được
quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác, đặc biệt khi có tranh chấp xảy ra.
Ví dụ, kể từ khi sinh ra, con người có quyền tham gia vào các giao dịch dân sự, tiêu
biểu là hợp đồng, bất cứ hợp đồng nào kể cả bằng văn bản hay lời nói, nhưng nếu
một đứa trẻ 6 tuổi hay một người bị khuyết tật não bẩm sinh tiến hành giao dịch tài
sản có được từ việc thừa kế từ người khác mà khơng có sự đồng ý của người đại
diện, rõ ràng ở đây quyền lợi của cả người mua và người bán khơng được đảm bảo.
Trong tình huống này, người đại diện có quyền u cầu tịa án tun bố giao dịch vơ
hiệu. Đó là một trong những lí do năng lực hành vi dân sự được đưa vào luật nhằm
đảm bảo quyền lợi công bằng cho các chủ thể trong các hoạt động quan hệ dân sự.

Chẳng hạn một trường hợp nhà ông Nguyễn Văn Nam, quận Đống Đa, Hà
Nội, con trai ông Nam nghiện ma túy và đang áp dụng hình thức cai nghiện ma túy
tại gia đình được khoảng 1 tháng. Tuy nhiên, ơng Nam theo dõi thấy cháu vẫn có
hành vi lén lút bán tài sản của cá nhân và gia đình. Để tránh việc con ơng phá tán tài
sản, ơng có thể làm đơn u cầu tịa án tun bố con ơng bị hạn chế năng lực hành
vi dân sự (Theo tạp chí Khoa học Trường đại học Cần Thơ)
1.2.2. Góp phần nâng cao trách nhiệm của các bên tham gia kí kết hợp động:
Pháp luật Việt Nam khi quy định về năng lực hành vi dân sự sẽ khiến các chủ
thể khi tham gia quan hệ dân sự trang bị kiến thức pháp lý cơ bản đảm bảo giao dịch
dân sự của họ không bị vô hiệu. Một trong những điều kiện quan trọng để một giao
dịch dân sự có hiệu lực là điều kiện về chủ thể. Trích tại khoản 1 điều 117 – BLDS
2015, điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự: “Chủ thể có năng lực pháp luật
dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập”. Tôi sẽ
phân tích những trường hợp nào được tham gia các hoạt động quan hệ dân sự với tư
cách chủ thể trong chương 2. Những trường hợp trẻ em chưa đủ 6 tuổi, từ đủ 6 tuổi
đến chưa đủ 15 tuổi; người mất, hạn chế năng lực hành vi dân sự có tuyên bố của


12

tòa Án và một số trường hợp pháp luật quy định thêm muốn tham gia giao dịch phải
có người đại diện hoặc người giám hộ, trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh
hoạt hằng ngày. Nếu khơng có thì những giao dịch họ tham gia có thể bị vơ hiệu
hóa. Do đó, trước khi thực hiện giao dịch dân sự với một cá nhân, đầu tiên phải xem
xét các nhân đó có năng lực hành vi dân sự phù hợp hay không, họ đang ở mức độ
năng lực hành vi dân sự nào? Những vấn đề này tôi sẽ trình bày tại chương 2 của
bài tiểu luận.
1.2.3.

Góp phần ngăn ngừa, răn đe các hành vi vi phạm pháp luật:

Bộ luật dân sự 2015 đã chỉ rõ những trường hợp người mất năng lực hành vi

dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, gặp khó khăn trong nhận thức, điều
khiển hành vi, người có hành vi năng lực đầy đủ, một phần hay khơng có năng lực
hành vi dân sự có quyết định tuyên bố của tịa án. Điều này góp phần ngăn ngừa,
răn đe tình trạng lợi dụng những người yếu thế, ví dụ người mất năng lực hành vi
dân sự để kí kết hợp đồng nhằm chiếm đoạt tài sản.
1.2.4. Cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp khi vụ việc dân sự liên quan đến
năng lực hành vi dân sự:
Các quy định về năng lực hành vi dân sự của cá nhân trong bộ luật dân sự
hiện hành là cơ sở pháp lý quan trọng để cá nhân khởi kiện ra tòa khi quyền và lợi
ích của họ bị các chủ thể khác xâm phạm. Từ những ý nghĩa nêu trên đã phần nào
minh chứng tầm quan trọng của các quy định về năng lực hành vi dân sự của cá
nhân. Vì vậy, cần phải hoàn thiện hơn nữa các quy định này để phù hợp với thực
tiễn cuộc sống.


13

Chương 2:
QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ NĂNG LỰC HÀNH VI DÂN
SỰ CỦA CÁ NHÂN
2.1. Căn cứ xác định mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân:
Trong Bộ luật dân sự 2015 có quy định về năng lực pháp luật dân sự của cá
nhân, đây là quyền dân sự bình đẳng của các cá nhân khơng phân biệt giới tính,
thành phần tơn giáo, độ tuổi,…Tuy nhiên, khả năng xác lập, thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của mỗi cá nhân thông qua hành vi của mình thì hồn tồn khác nhau. Đơn
giản là mỗi cá nhân khi sinh ra có một mơi trường nền tảng khác nhau. Chẳng hạn
như về gia đình, xã hội, họ được nuôi dưỡng, trưởng thành trong điều kiện vật chất
và tinh thần khơng giống nhau thì khả năng nhận thức, điều khiển hành vi từ đó

cũng khác đi. Thực tế cho thấy, có những người thành niên nhưng nhận thức và
hành động lại không như người trưởng thành. Ngược lại, có những đứa trẻ ngay khi
cịn nhỏ đã là thần đồng vì có khả năng đặc biệt trong việc lĩnh hội tri thức.
Như đã trình bày ở chương trước, pháp luật Việt Nam lấy độ tuổi làm tiêu chí
xác định năng lực hành vi dân sự của cá nhân. Tuy nhiên, độ tuổi chỉ là điều kiện
cần mà không phải là điều kiện đủ. Căn cứ vào độ tuổi của cá nhân, cụ thể là các
mức tuổi: chưa đủ 6 tuổi, từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi, từ đủ 15 tuổi đến chưa
đủ 18 tuổi và người từ đủ 18 tuổi trở lên. Tại sao tơi nói độ tuổi chỉ là điều kiện
cần? Vì có những trường hợp đặc biệt, người đạt độ tuổi phù hợp tham gia các hoạt
động quan hệ dân sự do pháp luật quy định lại khơng có khả năng nhận thức, trí não
phát triển chậm, khơng bình thường như các cá nhân khác. Tại Việt Nam, hậu quả
để lại của các cuộc chiến tranh tàn khốc là nhiều người dân nhiễm độc Dioxin hay
màu da cam . Khi sinh con, những đứa trẻ ấy có hình hài biến dạng, khơng thể nhận
thức hay điều khiển hành vi. Chính vì thế BLDS quy định nếu cá nhân bị mắc bệnh
tâm thần hay mất năng lực hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, người đại
diện, tịa án sẽ xem xét và tuyên bố cá nhân đó mất năng lực hành vi dân sự. Tương
tự cho người gặp khó khăn và hạn chế năng lực hành vi dân sự. Vì thế, việc cá nhân
phát triển bình thường về thể chất và tinh thần là điều kiện đủ để xác định cá nhân


14

đó có năng lực hành vi dân sự hay khơng. Hay như đã phân tích, cá nhân phải có lý
trí và ý chí để điều khiển hành vi, thuộc yếu tố độ tuổi quy định của pháp luật thì
mới đủ tư cách là chủ thể của một quan hệ pháp luật dân sự. Đây là cơ sở lý luận
chung cũng như khoa học để xác minh mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân.
2.2. Các mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân:
Theo quy định tại các Điều 20, 21, 22, 23, 24 của BLDS chúng ta thấy rằng
pháp luật đã thừa nhận năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo các mức độ khác
nhau. Trong mỗi mức độ đó, các cá nhân có quyền tham gia giao dịch dân sự trong

một phạm vi tương ứng. Cụ thể pháp luật hiện hành quy định các mức độ sau:
2.2.1. Năng lực hành vi dân sự đầy đủ:
* Năng lực hành vi dân sự của người thành niên:
Để có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì một chủ thể phải đáp ứng hai điều
kiện. Thứ nhất, chủ thể đó phải là người thành niên theo quy định tại khoản 1 điều
20 của BLDS 2015: “Người thành niên là người đủ mười tám tuổi trở lên”. Theo từ
điển tiếng Việt thì “thành niên” được hiểu là đến tuổi được pháp luật công nhận là
công dân với đầy đủ các quyền lợi và nghĩa vụ. Điều kiện thứ hai mà pháp luật Việt
Nam quy định là người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường
hợp quy định tại các điều 22, 23, 24 của BLDS 2015. Cụ thể, người thành niên
khơng bị rơi vào các trường hợp bị tịa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, bị
hạn chế năng lực hành vi dân sự hay gặp khó khăn trong nhận thức.
Quy định của BLDS về năng lực hành vi dân sự đầy đủ là kết quả là kết quả
của sự nghiên cứu về luật học và khoa học kết hợp với đời sống thực tế. Theo chứng
minh khoa học của các ngành y tế, sinh học, tâm lý học, … thông thường con người
sẽ đạt đến ngưỡng phát triển toàn diện khi họ đã thành niên. Hiến Pháp nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng ghi nhận cơng dân đủ 18 tuổi có quyền bầu cử.
Con người trong khoảng thời gian 18 năm được ni dưỡng bởi gia đình, xã hội sẽ
hình thành tính cách, phát triển nhận thức cùng các kỹ năng sống cần thiết. Xét về
cơ bản tâm sinh lý, người đủ mười tám tuổi hồn tồn có đầy đủ khả năng nhận thức


15

về sự vật, sự việc và tự quyết định về hành động của mình. Họ có nghĩa vụ phải biết
trước được hành vi của mình đem lại hậu quả gì cho mọi người xung quanh và xã
hội hay không. Nhận thức được việc mình sẽ làm, họ có quyền lựa chọn cách xử sự
trước những sự kiện, nếu họ chọn hành vi gây bất lợi trong khi hồn tồn có thể
hành động ngược lại thì họ phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Khoản 1 Điều
586 BLDS 2015 quy định: “Người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải

tự bồi thường”. Điều này xuất phát từ “khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình
xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự”. Chẳng hạn, người thành niên phải chịu
trách nhiệm do hành vi trái pháp luật của họ bằng tài sản của chính họ. Tuy nhiên,
trong điều kiện này, nhiều người tuy có đầy đủ năng lực hành vi dân sự nhưng khả
năng về tài sản của họ trên thực tế khơng có (người 18 tuổi khơng có bất cứ khoản
thu nhập nào, họ khơng có tài sản riêng để bồi thường). Vì vậy, khi quyết định bồi
thường đối với những người này, có thể động viên người đại diện (cha mẹ,…) bồi
thường thay cho con em họ, nếu họ tư nguyện bồi thường thì ghi nhận sự tự nguyện
đó mà khơng buộc họ bồi thường thay cho con em họ.
Người thành niên từ đầy đủ mười tám tuổi có đầy đủ năng lực hành vi dân sự
cũng như đầy đủ năng lực tố tụng dân sự trước tòa án. Do vậy, cá nhân phải chịu
trách nhiệm về mọi hành vi của mình nếu đã xem xét họ có đầy đủ năng lực hành vi
dân sự. Nếu họ có khiếm khuyết về mặt năng lực như mất năng lực hành vi dân sự
khi có quyết định của tịa án thì phải có người giám hộ, đại diện để chịu trách nhiệm
cho sự việc đó.
BLDS 2015 đã có sự phân định rạch rịi hơn giữa người thành niên ở điều 20
và người chưa thành niên ở điều 21 về năng lực chủ thể của hai nhóm chủ thể này
so với BLDS 2005 quy định chung 2 nhóm đối tượng này chỉ trong điều luật 18.
2.2.2. Năng lực hành vi dân sự một phần:
* Năng lực hành vi dân sự của người chưa thành niên từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18
tuổi:
Ngược lại với quy định về người thành niên, người chưa thành niên là người
chưa đủ mười tám tuổi. Ở độ tuổi dưới mười tám, tùy trường hợp cụ thể mà pháp


16

luật quy định năng lực trách nhiệm dân sự mà người chưa thành niên phải chịu khi
tham gia một số quan hệ pháp luật dân sự khác nhau. Người chưa thành niên được
pháp luật chia thành ba nhóm đối tượng: chưa đủ 6 tuổi, từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 15

tuổi và từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi. Tuy nhiên, việc phân nhóm đối tượng chỉ
mang ý nghĩa tương đối vì trên thực tế chúng ta khơng tìm được một sự đồng nhất
hồn tồn giữa các lứa tuổi khác nhau. Xuất phát tự những đặc điểm khác nhau về
thể chất, nhận thức cũng như tâm sinh lý, những người dưới 18 tuổi được chưa
thành nhiều nhóm đối tượng như trên.
Tuy nhiên, người chưa thành niên có năng lực hành vi dân sự một phần bị
giới hạn từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi, không có đối tượng chưa đủ 6 tuổi. Lý do
là trong BLDS 2015 tại khoản 2 điều 21 quy định: “Giao dịch dân sự của người
chưa đủ sáu tuổi do người đại diện theo pháp luật của người đó xác lập, thực hiện”.
Vì vậy nhóm thuộc độ tuổi chưa đủ 6 tuổi được xếp vào đối tượng “khơng có năng
lực hành vi dân sự”. Tơi sẽ phân tích quy định này trong phần tiếp theo.
Đối với người chưa thành niên có năng lực hành vi dân sự một phần từ đủ 6
tuổi đến chưa đủ 18 tuổi được phân chia thành các mức độ:
+ Thứ nhất, năng lực hành vi dân sự của người chưa thành niên từ đủ 6 tuổi
đến chưa đủ mười lăm tuổi theo khoản 3 điều 21 BLDS 2015. Theo đó, “người từ
đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải
được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu
sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi”. Nhóm này có sự phát triển bình thường
về nhận thức nhưng năng lực hành vi dân sự chưa đầy đủ hay còn gọi là năng lực
hành vi dân sự một phần. Nguyên nhân do suy nghĩ và khả năng nhận thức chưa
tồn diện về tính chất, mức độ phức tạp cũng như hậu quả pháp lý trong hành vi do
mình thực hiện. Vì thế, pháp luật dân sự cơng nhận họ có tư cách chủ thể khi xác
lập, thực hiện các giao dịch nhỏ, mục đích chủ yếu là phục vụ nhu cầu sinh hoạt
hằng ngày và những giao dich dân sự đó phù hợp với nhận thức theo lứa tuổi.
BLDS không quy định cụ thể những giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt
hàng ngày phù hợp với lứa tuổi là gồm những nội dung nào, tuy nhiên, Khoản 20
Điều 3 Luật hơn nhân và gia đình 2014 quy định “Nhu cầu thiết yếu là nhu cầu sinh


17


hoạt thông thường về ăn, mặc, ở, học tập, khám bệnh, chữa bệnh và nhu cầu sinh
hoạt thông thường khác không thể thiếu cho cuộc sống của mỗi người, mỗi gia
đình.” Ví dụ như các giao dịch liên quan đến việc mua bán bút, sách vở, bánh kẹo,
vui chơi giải trí mà giá trị của hàng hóa khơng lớn, khơng cần sự đồng ý trực tiếp từ
người đại diện.
+ Thứ hai, năng lực hành vi dân sự của người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi
đến chưa đủ 18 tuổi theo khoản 4 điều 21 BLDS 2015. Nhóm đối tượng này cũng
có quyền tham gia giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hằng ngày nhưng
không được nêu ra trong BLDS 2015 vì khơng cần thiết. Tuy nhiên, được mở rộng
là có thể tự mình xác lập, thực hiện các giao dịch, không cần sự đồng ý của người
đại diện như quyền tham gia tổ chức thi có giải,…, trừ những giao dịch dân sự liên
quan đến bất động sản, động sản phải đăng kí và các giao dịch dân sự khác theo quy
định của luật phải có người đại diện theo pháp luật đồng ý.
Người đại diện của những cá nhân ở lứa tuổi này có thể yêu cầu tuyên bố
những giao dịch do người chưa thành niên thực hiện mà khơng có sự đồng ý của họ
là vơ hiệu và tồ án xem xét trong những trường hợp cụ thể để chấp nhận yêu cầu
đó theo quy định tại Điều 130 BLDS. Nếu những người đại diện khơng u cầu tồ
án xem xét tính hiệu lực của những giao dịch này thì những giao dịch đó mặc nhiên
được coi là có hiệu lực.
2.2.3. Người khơng có năng lực hành vi dân sự:
Tại BLDS năm 2005 dành hẳn một điều luật để quy định và gọi những người
chưa đủ 6 tuổi là người khơng có năng lực hành vi dân sự. Đến BLDS năm 2015,
người chưa đủ 6 tuổi được xếp vào chung nhóm người chưa thành niên và vẫn giữ
nguyên quy định về giao dịch dân sự đối với đối tượng này. Điều này cũng có
nghĩa, với cách quy định tại Điều 21 BLDS năm 2015 thì khơng cịn khái niệm
người khơng có năng lực hành vi dân sự như BLDS năm 2005. Việc bỏ khái niệm
này là cần thiết. Bởi lẽ, khái niệm người chưa thành niên đã bao gồm người chưa đủ
6 tuổi. Tuy nhiên, trong bài luận này, tôi vẫn sẽ giữ nguyên thuật ngữ này với mong



18

muốn sẽ rõ ràng hơn trong việc phân chia mức độ năng lực hành vi dân sự theo từng
độ tuổi khác nhau.
Chưa đủ 6 tuổi, cá nhân mới bắt đầu làm quen với cuộc sống, chưa đủ khả
năng nhận thức và chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Hành động của cá nhân
nhận thức và chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Hành động của cá nhân thời
điểm này chủ yếu theo bản năng, phản xạ nên chưa có năng lực hành vi dân sự mà
chỉ có năng lực pháp luật dân sự. Mọi giao dịch dân sự của người chưa có năng lực
hành vi sẽ do người đại diện của họ xác lập và thực hiện. Tuy nhiên, theo điểm a
khoản 2 điều 125 BLDS 2025 về giao dịch được coi là không bị vô hiệu khi: “Giao
dịch dân sự của người chưa đủ 6 tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự nhằm đáp
ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày của người đó”. Vậy theo tôi, BLDS 2015 tại khoản
2 điều 21 nên quy định thêm rằng: “…trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.”
Như vậy sẽ khơng có sự mâu thuẫn, loại bỏ khó hiểu cho người đọc.
2.2.4. Người mất năng lực hành vi dân sự:
Khái niệm “mất” thông thường được hiểu là đang tồn tại, đang có một hiện
tượng, một sự vật nhưng sau đó khơng cịn hiện tượng, sự vật đó nữa. Thông
thường, năng lực hành vi của cá nhân chấm dứt cùng với sự chấm dứt của năng lực
pháp luật của cá nhân đó (chết hoặc tồ án tun bố là đã chết). Tuy nhiên, người
thành niên có thể bị tuyên bố mất năng lực hành vi khi có những điều kiện, với
những trình tự, thủ tục nhất định. Nếu cá nhân bị bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác
mà không thể nhận thức và làm chủ được các hành vi của mình thì bị coi là mất
năng lực hành vi dân sự (Khoản 1 Điều 22 BLDS 2015). Trên cơ sở kết luận của tổ
chức giám định có thẩm quyền, Tồ án có thể tun bố một người bị mất năng lực
hành vi theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan. Chỉ khi có quyết định
của tòa án tuyên một người bị mất năng lực hành vi dân sự thì người đó mới bị coi
là đã mất năng lực hành vi dân sự. Hậu quả pháp lý của quyết định tuyên bố một
người bị mất năng lực hành vi dân sự là tất cả các giao dịch do họ xác lập đều vơ

hiệu. Vì vậy, mọi giao dịch dân sự của những người này do người đại diện của họ
xác lập, thực hiện. Việc pháp luật đặt ra vấn đề người đại diện, giám hộ cho người
mất năng lực hành vi dân sự là cần thiết và có ý nghĩa quan trọng để các cá nhân, tổ


19

chức trong xã hội có nghĩa vụ bảo vệ quyền lợi, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ những
người có điều kiện khó khăn khi bị mất năng lực hành vi dân sự.
Về mặt pháp lý, pháp luật có quy định rất rõ ràng, nhưng về mặt thực tiễn,
đặc biệt là đối với gia đình có hồn cảnh kinh tế khó khăn có người bị tâm thần
hoặc các bệnh khác dẫn đến khơng nhận thức được hành vi thì những quy định về
thủ tục gây nhiều khó khăn cho người dân. Nhiều người khơng có khả năng về chi
phí cũng như về thời gian thực hiện các bước theo luật định nên phần nào các chế
định người giám hộ cho người mất năng lực hành vi dân sự khơng có giá trị nhiều
trong thực tiễn áp dụng.
Trong trường hợp lý do khiến một người bị mất năng lực hành vi dân sự
khơng cịn thì tịa án sẽ ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành
vi dân sự, phục hồi lại năng lực hành vi dân sự cho họ.
2.2.5. Người có khó khăn trong nhận thức điều khiển hành vi:
Trước đây BLDS 2005, căn cứ vào khả năng nhận thức và làm chủ hành vi
mà được phân ra nhiều mức độ khác nhau. Cá nhân khi đủ độ tuổi và không thuộc
trường hợp mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự thì họ là những người có năng
lực pháp luật đầy đủ, là người tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự bằng
hành vi của họ và tự chịu trách nhiệm, tự thực hiện nghĩa vụ dân sự bằng hành vi
của họ. Điều này không phù hợp và không đảm bảo yếu tố cơng bằng về quyền và
lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong các quan hệ dân sự. Bởi trong trường hợp
nếu cá nhân bị khuyết thiếu mà ảnh hưởng đến nhận thức và làm chủ hành vi của họ
(ví dụ người già, người tàn tật có khả năng nhận thức không sáng suốt dẫn tới
không làm chủ và thực hiện được hành vi) nhưng không thuộc trường hợp mất hoặc

hạn chế năng lực hành vi dân sự mà phải thực hiện và chịu trách nhiệm như một
người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì rất bất hợp lý. Vì trên thực tế khơng
phải mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân lúc nào cũng chỉ trong hai thái
cực: hoàn toàn đầy đủ hoặc mất mà có rất nhiều người tuy khả năng nhận thức và
làm chủ không đầy đủ nhưng chưa đến mức mất hoàn toàn năng lực hành vi dân sự
nên việc bổ sung thêm đối tượng người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ


20

hành vi là một điều cần thiết. Sự bổ sung này hoàn toàn phù hợp với nhiệm vụ mà
Hiến pháp 2013 cũng như BLDS 2015 là bảo vệ tối đa quyền con người, quyền
công dân.
Căn cứ vào điều 23 BLDS 2015, để xác định một người có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi thì phải có đủ các điều kiện: Về khả năng nhận thức và
điều khiển hành vi: “người thành niên trong tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà
không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực
hành vi dân sự theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc
của cơ quan, tổ chức hữu quan, trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần. Tòa
án ra quyết định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi và chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ.”
Mặc dù không phải là đối tượng mất năng lực hành vi dân sự, tuy nhiên cũng
khơng giống với người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi cũng gặp nhiều “hạn chế” trong việc thực hiện quyền
của mình. Vì vậy, trong BLDS 2015, đã ghi nhận thêm người có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi thuộc diện được giám hộ. Đây được coi là điểm mới có
giá trị, thể hiện được tính bao quát các trường hợp người được giám hộ, góp phần
bảo vệ tốt hơn các chủ thể là người yếu thế trong các giao dịch dân sự.
Khác với người chưa thành niên chưa đủ 18 tuổi và người mất năng lực hành
vi dân sự phải bắt buộc có người giám hộ. Thì người có khó khăn trong nhận thức

và làm chủ hành vi khơng bắt buộc phải có giám hộ. Đối với đối tượng này, họ được
quyền chọn người giám hộ cho mình. Đây là quy định thể hiện rõ nét sự tơn trọng ý
chí của người được giám hộ trong điều kiện họ vẫn làm chủ được hành vi của mình.
Quy định này thể hiện rõ nét sự tiến bộ trong tư duy lập pháp với mong muốn thể
hiện ý chí của chủ thể tham gia vào quan hệ dân sự “trường hợp giám hộ cho người
có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi thì phải được sự đồng ý của người
đó nếu họ có năng lực thể hiện ý chí của mình tại thời điểm u cầu”.
Khi khơng cịn căn cứ tun bố một người có khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi thì theo u cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích


21

liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan. Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết
định tuyên bố người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
2.2.6. Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự:
Điều 24 Bộ luật dân sự 2015 (BLDS) quy định về hạn chế năng lực hành vi
dân sự như sau:
1. Người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của
gia đình thì theo u cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ
chức hữu quan, tịa án có thể ra quyết định tuyên bố người này là người bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự.
tòa án quyết định người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành
vi dân sự và phạm vi đại diện.
2. Việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị tòa án
tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo
pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày hoặc luật liên
quan có quy định khác.
3. Khi khơng cịn căn cứ tun bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì
theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc

của cơ quan, tổ chức hữu quan, tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố hạn
chế năng lực hành vi dân sự.
Như vậy, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự là người thành niên có
năng lực hành vi dân sự, tuy nhiên do họ bị nghiện ma túy hoặc các chất kích thích
khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình nên họ có thể bị u cầu tun bố là người
bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Yêu cầu tuyên bố một người bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự chỉ được thực hiện bởi người có quyền, lợi ích liên quan, cơ
quan, tổ chức hữu quan có mối quan hệ với người đó. Tịa án cũng là cơ quan duy
nhất có thẩm quyền ra quyết định tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự. Ngoài ra, chỉ những giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của họ mới phải


22

có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, còn giao dịch nhằm phục vụ nhu
cầu sinh hoạt thiết yếu hằng ngày của họ thì khơng bị cưỡng chế. Chẳng hạn, đối
với giao dịch lớn như xe máy, ô tô, giao dịch mua bán nhà ở, mua bán quyền sử
dụng đất chỉ có thể được xác lập và thực hiện với sự đồng ý của người đại diện.
Trường hợp người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện các giao
dịch mà khơng có sự đồng ý của người đại diện thì người đại diện có quyền u cầu
tịa án tun bố giao dịch vô hiệu theo quy định tại Điều 125 BLDS 2015.

KẾT LUẬN
Điều kiện về năng lực chủ thể là yếu tố bắt buộc trong mọi giao dịch dân sự
mà con người muốn tham gia. Trong đó, năng lực hành vi dân sự của cá nhân là nội
dung quan trọng, cần thiết để xác định cá nhân đó có tư cách của một chủ thể hay
khơng. Một cá nhân khơng có năng lực hành vi dân sự thì đương nhiên khơng được
coi là chủ thể của một quan hệ pháp luật dân sự. Bài luận giữa kì: “Năng lực hành vi
dân sự của cá nhân theo Bộ luật dân sự 2015” được em phân tích như trên dựa theo
phần bài giảng của giảng viên và một số tài liệu tham khảo bên ngoài. Bài luận đã

đưa ra cụ thể những mức độ năng lực hành vi dân sự và quyền, trách nhiệm của mỗi
cá nhân chủ thể trong từng độ tuổi, khả năng nhận thức nhất định.
Tuy nhiên, đây là bài viết luận đầu tiên về luật của em nên chắc chắn sẽ
khơng tránh khỏi những sai sót mà em cịn thiếu kinh nghiệm để nhận biết. Mong
giảng viên có thể dành chút thời gian chỉ ra những chỗ sai, thiếu để bài viết của em
có thể hồn chỉnh và tốt hơn ạ. Xin chân thành cảm ơn cô!


23

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật dân sự 2015 của nhà xuất bản tư pháp có hiệu lực từ 01/01/2017.
2. Hiến Pháp 2013 trên cổng thơng tin điện tử Chính phủ nước Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam.
3. Từ điển Tiếng Việt
4. Quy định về các loại năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo Dân Luật –
Mạng cộng đồng pháp luật.
5. Luận văn thạc sĩ của Đỗ Thị Hậu: “Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo
Pháp luật Việt Nam”.
6. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân trong BLDS 2015 - Luật Minh Khuê.
7. Tạp chí khoa học trường Đại học Cần Thơ.



×