Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Khảo sát đặc điểm ngôn ngữ của các trailer cổ động, quảng bá về chương trình truyền hình vtv đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (622.36 KB, 93 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

PHẠM HOÀNG LAN

KHẢO SÁT ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ
CỦA CÁC TRAILER CỔ ĐỘNG, QUẢNG BÁ
VỀ CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH
CỦA VTV ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Đà Nẵng – Năm 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

PHẠM HOÀNG LAN

KHẢO SÁT ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ
CỦA CÁC TRAILER CỔ ĐỘNG, QUẢNG BÁ
VỀ CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH
CỦA VTV ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60.22.02.40

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Người hướng dẫn khoa học: TS. Bùi Trọng Ngoãn



Đà Nẵng – Năm 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
Tác giả luận văn

Phạm Hoàng Lan


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...........................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài.......................................................................1
2. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................3
4. Phương pháp nghiên cứu .....................................................................3
5. Bố cục đề tài.........................................................................................4
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu .............................................................4
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VỀ
TRAILER CỔ ĐỘNG QUẢNG BÁ ...............................................................6
1.1. PHONG CÁCH BÁO CHÍ CƠNG LUẬN.................................................6
1.1.1. Đặc điểm của báo chí.....................................................................6
1.1.2. Đặc trưng của phong cách ngơn ngữ báo chí ..............................11
1.2. TRUYỀN HÌNH VÀ NGƠN NGỮ TRUYỀN HÌNH..............................20
1.2.1. Giới thiệu về truyền hình .............................................................20
1.2.2. Ngơn ngữ truyền hình ..................................................................22
1.3. TỔNG QUAN VỀ TRAILER CỔ ĐỘNG, QUẢNG BÁ ........................26

1.3.1. Khái niệm quảng cáo ...................................................................26
1.3.2. Khái niệm trailer ..........................................................................27
1.3.3. Khái niệm quảng bá chương trình ...............................................27
1.4. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ VTV ĐÀ NẴNG ...........................................29
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1...................................................................................31
CHƯƠNG 2. LỰA CHỌN CHƯƠNG TRÌNH ĐỂ QUẢNG BÁ VÀ XỬ
LÝ VỀ NỘI DUNG QUẢNG BÁ..................................................................32
2.1. LỰA CHỌN CHƯƠNG TRÌNH ĐỂ QUẢNG BÁ..................................32
2.1.1. Chương trình đặc biệt, chương trình quan trọng, đặc sắc............33


2.1.2. Sự kiện quan trọng, nổi bật..........................................................35
2.1.3. Tần số xuất hiện quảng bá ...........................................................37
2.2. CÁCH XỬ LÝ NỘI DUNG QUẢNG BÁ ...............................................38
2.2.1. Thủ pháp tóm tắt văn bản ............................................................38
2.2.2. Tiêu điểm thông tin......................................................................41
2.2.3. Những yếu tố nổi bật ...................................................................42
2.3. MỐI QUAN HỆ GIỮA HÌNH VÀ LỜI ...................................................42
2.3.1. Tỉ lệ về thời lượng giữa hình và lời .............................................42
2.3.2. Chức năng dẫn nhập của lời đối với hình ....................................47
2.3.3. Chức năng thuyết minh của lời đối với hình ...............................47
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2...................................................................................51
CHƯƠNG 3. ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ CỦA TRAILER CỔ ĐỘNG,
QUẢNG BÁ VỀ CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH CỦA VTV ĐÀ
NẴNG ..............................................................................................................52
3.1. ĐẶC ĐIỂM NGỮ ÂM VÀ TRÌNH BÀY VĂN BẢN.............................52
3.1.1. Hướng đến sử dụng ngữ âm chuẩn ..............................................52
3.1.2. Cách viết và đọc các yếu tố ngữ âm nước ngoài .........................54
3.1.3. Thể thức văn bản..........................................................................56
3.2. ĐẶC ĐIỂM TỪ VỰNG............................................................................59

3.2.1. Các lớp từ vựng được sử dụng với tần số cao .............................59
3.2.2. Các hình thức tu từ từ vựng ngữ nghĩa ........................................68
3.3. ĐẶC ĐIỂM CÚ PHÁP .............................................................................70
3.3.1. Các kiểu câu được sử dụng phổ biến...........................................70
3.3.2. Các hình thức tu từ cú pháp .........................................................75
3.4. ĐẶC ĐIỂM DIỄN ĐẠT ...........................................................................75
3.4.1. Lựa chọn các câu đơn nghĩa và các câu suy lý đơn giản.............75
3.4.2. Tạo lập các hàm ý chủ động ........................................................79


3.4.3. Xu hướng sản xuất trailer hiện đại...............................................79
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3...................................................................................81
KẾT LUẬN .....................................................................................................82
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................84
QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI (bản sao)


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BTV

: Biên tập viên

TH

: Thực hiện

THVN

: Đài Truyền hình Việt Nam


VTV Đà Nẵng

: Trung tâm Truyền hình Việt Nam tại TP.Đà Nẵng


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực tiễn hoạt động báo chí ở nước ta hiện nay rất đa dạng và phong phú.
Cùng với sự phát triển nhiều loại hình thơng tin đại chúng, ngơn ngữ báo chí
cũng tách dần ra theo từng ngành riêng, trong đó truyền hình được đánh giá là
một trong những thể loại báo chí có ưu thế nổi trội bởi nó sử dụng tất cả các
dạng thức ngơn ngữ mà báo in, báo nói (phát thanh), mạng Internet và các
phương thức tuyên truyền khác sử dụng.
Bắt đầu từ những năm nửa cuối thế kỷ 20, chính truyền hình đã tạo nên
một cuộc cách mạng thông tin và làm nên sự bùng nổ truyền thông. Truyền hình
đã được nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau với những mục đích khác nhau:
về vai trị, vị trí của nó đối với các vấn đề xã hội, chính trị, kinh tế; về phương
thức, cách thức thơng tin…Trong khi tiếp cận nhiều vấn đề như vậy thì ngơn ngữ
truyền hình là đề tài chưa được chú trọng mặc dù vấn đề này có ảnh hưởng vơ
cùng lớn đối với chất lượng sản phẩm truyền hình. Cùng với những hình ảnh
thực tiễn sống động, cách sử dụng ngơn ngữ của các chương trình truyền hình
có những đặc điểm khác biệt, ngơn ngữ truyền hình cần được xem xét từ góc
độ ngơn ngữ viết và cả ngơn ngữ nói.
Ở Việt Nam hiện nay chưa có một cơng trình nào nghiên cứu ngơn ngữ
truyền hình một cách thấu đáo. Trong khi thể loại báo chí truyền hình được đánh
giá là thành tựu to lớn của khoa học công nghệ hiện đại, là loại hình báo chí hiện
đại nhất của thời đại việc chú ý đến nội dung trong đó có ngơn ngữ trong các
chương trình truyền hình sao cho tương xứng với vị trí vai trị của truyền hình là

việc làm đáng kể. Vì thế người làm nghề cũng như người nghiên cứu phải tự
mình mị mẫm theo cách riêng của mình. Người làm nghề thì phải vừa học vừa
làm, vừa sáng tạo vừa đúc kết kinh nghiệm; các nhà nghiên cứu thì khơng có


2
điều kiện đi thẳng vào vấn đề, vậy nên trong một thời gian khá dài, vấn đề ngơn
ngữ truyền hình vẫn là một khoảng trống vốn “một mình mình biết, một mình
mình hay”. Từ thực tế này, việc nghiên cứu đặc điểm ngơn ngữ truyền hình ở
Việt Nam trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
Trước sự cạnh tranh rất lớn từ các đơn vị sản xuất truyền hình, các
phương tiện truyền thơng, đặc biệt là với các loại hình truyền thông mới, việc
xác định chiến lược quảng bá và nội dung chương trình là hai yếu tố sống cịn
để định vị thương hiệu trên thị trường truyền hình. Quảng bá về chính chương
trình truyền hình của mình đã và đang là một hướng đi mới mà các đài truyền
hình hướng đến. Hiện tại vẫn chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách bao
quát và có hệ thống từ góc độ ngơn ngữ học về đặc điểm ngơn ngữ của
chương trình trailer cổ động, quảng bá. Do đó, chúng tôi chọn đề tài: “Khảo
sát đặc điểm ngôn ngữ của các trailer cổ động, quảng bá về chương trình
truyền hình của VTV Đà Nẵng” làm đề tài luận văn thạc sĩ. Từ việc nghiên
cứu đề tài, chúng tôi hi vọng có sự đóng góp thiết thực vào sự phát triển của
VTV Đà Nẵng nói riêng, của Đài THVN nói chung.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở nhận diện các đặc điểm sử dụng ngôn ngữ làm nên phong
cách riêng của các chương trình trailer cổ động, quảng bá qua việc khảo sát,
phân tích, đánh giá đặc điểm sử dụng ngơn ngữ của các chương trình này.
Qua đó chỉ ra được tác động của ngôn ngữ đối với người xem.
Các vấn đề nêu ra trong luận văn về đặc điểm ngôn ngữ của các trailer
cổ động, quảng bá về chương trình truyền hình của VTV Đà Nẵng sẽ là cơ sở
để các biên tập viên có một cách nhìn nhận chính xác hơn về thực trạng ngơn

ngữ mà mình sử dụng. Từ cách nhìn nhận này, các biên tập viên sẽ có cách
giải quyết hợp lý nhằm nâng cao chất lượng thơng tin của truyền hình trong
tương lai.


3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Tìm hiểu một số đặc điểm ngơn ngữ chủ yếu trong các chương trình trailer
cổ động quảng bá về chương trình truyền hình của VTV Đà Nẵng xét trên các
phương diện ngữ âm, từ vựng, cú pháp, diễn đạt, mối quan hệ giữa hình và lời.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Các trailer cổ động, quảng bá về các chương trình truyền hình được phát
sóng trên VTV Đà Nẵng trong năm 2014 và 2015.
4. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp được sử dụng nghiên cứu trong quá trình thực hiện
đề tài:
4.1. Phương pháp lịch sử
Phương pháp này được sử dụng để tìm hiều đặc điểm của báo chí, đặc
trưng của phong cách ngơn ngữ báo chí, truyền hình và ngơn ngữ truyền
hình...nhằm xác lập những tri thức nền tảng cũng như các khái niệm về quảng
cáo, trailer, quảng bá chương trình.
4.2. Phương pháp tổng hợp
Tổng hợp những tài liệu thu thập được, các khảo sát trên các văn bản giấy
từ kho tư liệu lưu trữ của VTV Đà Nẵng.
4.3. Phương pháp mô tả
Mô tả cách sử dụng ngữ âm, từ vựng, cách diễn đạt ngôn ngữ trên các
trailer cổ động, quảng bá về chương trình truyền hình của VTV Đà Nẵng.
4.4. Phương pháp so sánh, đối chiếu
So sánh và đối chiếu theo khn mẫu về đặc điểm ngữ âm và trình bày

văn bản, đặc điểm từ vựng, đặc điểm cú pháp và đặc điểm diễn đạt.
4.5. Phương pháp phân tích
Đây là phương pháp cơ bản nhất làm cơ sở cho việc nhận định, đánh giá


4
bất kì lĩnh vực nào của báo chí trong khi nghiên cứu.
5. Bố cục đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo; Luận văn gồm 3
chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và tổng quan về trailer cổ động, quảng
bá.
Chương 2: Lựa chọn chương trình để quảng bá và xử lý về nội dung
quảng bá.
Chương 3: Đặc điểm ngôn ngữ của trailer cổ động quảng bá về chương
trình truyền hình của VTV Đà Nẵng.
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
Trước hết việc nghiên cứu ngôn ngữ báo chí gắn liền với những thành
tựu phong cách học. Với quan niệm: “Phong cách là những khuôn mẫu trong
hoạt động lời nói, hình thành từ những thói quen sử dụng ngơn ngữ có tính
chất truyền thống, tính chất chuẩn mực, trong việc xây dựng các lớp văn bản
(phát ngôn) tiêu biểu” [17, tr.19] Đinh Trọng Lạc đã khẳng định rằng ngơn
ngữ báo chí có những nét đặc thù cho phép nó có vị thế ngang hàng với các
phong cách chức năng khác trong ngôn ngữ như: phong cách khoa học, phong
cách hành chính – cơng vụ, phong cách sinh hoạt hàng ngày, phong cách
chính luận. Những biến đổi của ngơn ngữ báo chí hiện nay, bên cạnh việc
thực hiện chức năng đa dạng đối với xã hội còn do sự tác động nhiều mặt của
thời đại.
Theo Vũ Quang Hào: “Nói đến ngơn ngữ báo chí” nếu hiểu “báo chí”
khơng theo nghĩa truyền thống, nghĩa là “báo chí” được hiểu gồm báo in, báo

phát thanh và báo hình, thì có thể nói rằng, ở tập bài giảng này (Ngơn ngữ báo
chí) ngơn ngữ báo hình hồn tồn bị bỏ ngỏ, do chỗ chúng tôi không xác định
được phạm vi khảo sát” [14, tr.8].


5
Tìm hiểu “Bài giảng ngơn ngữ báo chí” của Khoa báo chí trường Cao
đẳng PTTH, chương IV, Ngơn ngữ báo hình, chúng tơi nhận thấy giáo trình
đó chỉ đề cập ngơn ngữ hình ảnh của thể loại này chứ khơng đề cập đến ngôn
ngữ được phát thanh, một phần không thể thiếu của bất kỳ chương trình
truyền hình nào.
Như vậy có thể thấy việc tìm hiểu ngơn ngữ truyền hình là việc làm
khó khăn. Trong điều kiện bùng nổ thơng tin như hiện nay, ngơn ngữ của
chương trình cổ động quảng bá càng phải mang tính chuẩn mực để hướng
cơng chúng vào một chuẩn ngơn ngữ nhất định nhằm góp phần giữ gìn sự
trong sáng của tiếng Việt. Vì vậy, việc sử dụng ngôn ngữ, nhất là thực hiện
các hành động ngôn ngữ một cách linh hoạt để vừa đạt được mục đích thơng
tin tun truyền vừa đảm bảo tính chính xác, tính hấp dẫn, lơi cuốn đối với
người xem truyền hình là việc người làm chương trình quảng bá đặc biệt quan
tâm.


6
CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VỀ TRAILER
CỔ ĐỘNG QUẢNG BÁ
1.1. PHONG CÁCH BÁO CHÍ CƠNG LUẬN
1.1.1. Đặc điểm của báo chí
Hoạt động của con người trong đời sống xã hội khá đa dạng và phong

phú. Bên cạnh hoạt động sản xuất để duy trì sự sống, con người cũng hoạt
động sáng tạo nghệ thuật để thỏa mãn nhu cầu tinh thần… Hoạt động báo chí
là một phần của hoạt động tinh thần “nhằm cung cấp cho công chúng những
thông tin, tức là thông báo cho công chúng biết mọi sự kiện, hiện tượng diễn
ra hàng ngày trong đời sống xã hội, Nội dung của những thông báo đó gọi là
thơng tin. Những thơng tin báo chí là những thơng tin chính trị - xã hội. Nghĩa
là thơng tin báo chí bao giờ cũng chứa đựng những giá trị xã hội hay chính
trị” [25, tr.51]. Khác với thông tin trong giao tiếp cá nhân, hoạt động báo chí
là loại hình hoạt động thơng tin chính trị - xã hội.
Báo chí ra đời trước hết do nhu cầu thơng tin. Thơng tin trong báo chí
có tính xã hội, tính tư tưởng và khuynh hướng rõ rệt. Xã hội càng phát triển,
nhu cầu thông tin của con người càng cao. Do đó, báo chí trở thành cơng cụ
đắc lực phục vụ nhu cầu thông tin của con người.
Người ta dựa vào các tiêu chí khác nhau để phân loại báo chí. Trước
hết, dựa vào phương thức truyền tin chúng ta có: báo nói (phát thanh – truyền
hình) và báo viết. Dựa vào tiêu chí thời gian, tần số xuất phát hành một loại
báo cụ thể, có thể chia báo chí thành các loại như: nhật báo, tuần báo, nguyệt
san, bán nguyệt san hay nguyệt báo. Theo nội dung và dung lượng thơng tin
thì báo dành cho các bài viết ngắn gọn, thơng tin kịp thời cịn tạp chí dành cho
các thông tin chuyên đề, yêu cầu về thông tin cập nhật không quá nhất thiết.


7
a. Đặc điểm của báo chí
Theo Nguyễn Đức Dân [9, tr.21 - 29] báo chí có những đặc điểm:
- Đặc điểm “thời sự”
Càng ngày người đọc càng đòi hỏi báo chí thơng tin nhanh và kịp thời
hơn nữa. Các báo cạnh tranh với nhau về việc đưa tin kịp thời. Tính thời sự
trong tin tức thậm chí là những gì “cập phút, cập giờ” chứ khơng chỉ cịn là
những gì cập nhật nữa. Bên cạnh đó thời sự cịn được hiểu là những vấn đề

đang được xã hội quan tâm.
- Đặc điểm “trung thực”
Chức năng quan trọng và cao quý của báo chí là cung cấp những thơng
tin đúng và chính xác cho người đọc. Tính hấp dẫn của một bài báo trước hết
do sự việc nói lên chứ khơng phải ở những lời bình phán chủ quan của người
viết. Vì vậy, trước hết nhà báo phải cung cấp thơng tin chính xác. Sau đó mới
là nghệ thuật viết.
- Đặc điểm “hấp dẫn”
Tự thân sự kiện hấp dẫn độc giả chứ khơng phải hấp dẫn vì những lời
bình của phóng viên. Những thông tin gây chú ý, hứng thú ở độc giả là những
thông tin hấp dẫn. Thông tin quan trọng nhất phụ thuộc từng người. Mỗi
người có một nhu cầu tin tức khác nhau.
Tầm quan trọng của thông tin có thể liên quan tới tính hiếu kì của con
người, có thể liên quan tới kích cỡ sự việc hoặc cũng có thể liên quan tới thời
gian xa hay gần của sự việc.
Ngược lại, tính “hấp dẫn” của tin cũng tác động và quy định ngược lại
thế nào là tính “thời sự”.
b. Đặc điểm của báo chí hiện đại
Theo Nguyễn Văn Dững: “Báo chí truyền thống hoạt động trong bối
cảnh và điều kiện khác với báo chí hiện đại. Thuật ngữ báo chí hiện đại có thể


8
được dùng từ sau khi báo mạng điện tử xuất hiện; bởi vì từ loại hình báo chí
này bổ sung thêm hai đặc tính quan trọng của báo chí là tính tương tác và tính
đa phương tiện (multimedia)” [10, tr.45].
Báo chí truyền thống và báo chí hiện đại chỉ là những thuật ngữ mang
tính chất tương đối. Tuy vậy báo chí hiện đại có thể được xem xét ở các tiêu
chí “về thời gian; về khoa học cơng nghệ - công cụ và phương thức sản xuất
và chuyển tải thông điệp; về trình độ văn hóa của dân cư; về tư duy và phong

cách của người làm báo” [10, tr.168].
Các đặc điểm báo chí hiện đại được Nguyễn Văn Dững [10, tr.168 187] trình bày như sau:
- Tính thời sự của thơng tin báo chí
Thơng tin thời sự là những sự kiện và vấn đề mới, đang và sắp xảy ra
liên quan đến nhiều người và có ý nghĩa thời cuộc. Sự kiện báo chí liên quan
đến hai khái niệm: cái mới và cái lạ.
- Tính cơng khai của thơng tin báo chí
Báo chí hướng tác động đến quảng đại nhân dân, tác động vào số đơng.
Đó là tính cơng khai của báo chí. Tính cơng khai tiềm ẩn sức mạnh của báo
chí, phụ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan và khách quan, phụ thuộc vào mức
độ dân chủ của nền chính trị, tính minh bạch của nền kinh tế và trình độ dân
trí.
- Tính mục đích của thơng tin báo chí
Mọi hoạt động của con người ln có mục đích, có thể là mục đích
mưu sinh, chính trị, nghệ thuật; mục đích cho bản thân, gia đình, cộng đồng;
mục đích trước mắt và lâu dài. Báo chí hiện đại đã có những bước phát triển
vượt trội về mọi mặt, giúp con người có thể thỏa mãn các nấc thang nhu cầu
và mong đợi trên các lĩnh vực của cuộc sống.
- Tính định kỳ, đều đặn của thơng tin báo chí


9
Tính định kỳ của báo chí chính là sự giao ước, là hợp đồng trách nhiệm
xã hội của cơ quan báo chí với cơng chúng trong việc cung cấp và tiếp nhận
thơng tin. Mỗi loại hình báo chí thể hiện tính định kỳ theo đặc trưng của
mình. Tính định kỳ của sản phẩm báo chí tiềm ẩn sức mạnh của báo chí, vì nó
tạo ra phản xạ có điều kiện trong giao tiếp với cơng chúng xã hội.
- Tính phong phú, đa dạng của thơng tin báo chí
Thơng tin báo chí thể hiện nhiều cấp độ, nhiều chiều, nhiều lĩnh vực,
phương tiện và dạng thức biểu hiện. Tính chất phong phú, đa dạng của thơng

tin báo chí thể hiện ở: đối tượng phản ánh trên tất cả mọi lĩnh vực đời sống xã
hội; đối tượng tác động phong phú, đa dạng; kênh chuyển tải thông tin phong
phú; phương tiện và phương thức thông tin nhiều dạng vẻ khác nhau, linh
hoạt; tính chất nhiều chiều tạo sự hấp dẫn.
- Tính dễ hiểu, dễ nhớ và dễ làm theo
Thơng tin báo chí bảo đảm dễ nhớ, dễ hiểu và dễ làm theo là do u
cầu, địi hỏi từ cuộc sống, từ cơng chúng xã hội mà báo chí cần phải đáp ứng.
- Tính tương tác
Trong truyền thơng, tương tác có nghĩa là sự tác động giao tiếp hai
chiều giữa chủ thể với khách thể truyền thông, giữa nhà truyền thông với công
chúng trong những điều kiện nào đó. Tương tác bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau,
trên cơ sở tăng những tương đồng, giảm những khác biệt giữa chủ thể truyền
thông và công chúng.
- Tính đa phương tiện
Đa phương tiện cho phép kết hợp các loại hình truyền thơng trong việc
chuyển tải thơng điệp, nhằm gây chú ý, hấp dẫn và thuyết phục cơng chúng.
Thơng điệp, sản phẩm đa phương tiện có khả năng tác động vào nhiều giác
quan của con người làm tăng độ hấp dẫn, tính khách quan, chân thực, độ tin
cậy và khả năng thuyết phục của thông tin.


10
c. Thể loại báo chí
Cùng với sự ra đời của báo chí, các thể loại báo chí cũng hình thành và
dần dần được củng cố theo đặc thù bản chất của chúng. Mỗi thể loại có lịch sử
hình thành riêng theo mục đích, chức năng và đối tượng phản ánh.
Thể loại báo chí là một trong những hiện tượng phức tạp của hoạt động
báo chí. Để có hệ thống lý luận hoàn chỉnh và hoạt động thực tiễn thành thục
là điều không dễ dàng.
Chúng ta biết rằng các sự kiện, hiện tượng, quá trình xảy ra trong đời

sống xã hội có mức độ giá trị khác nhau. Tùy thuộc vào tình huống và mục
đích cụ thể mà nhà báo hoặc Bộ (Ban) biên tập lựa chọn một thể loại thích
hợp để chuyển tải nội dung nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Việc sử dụng đúng
thể loại báo chí có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng và thành công của tác
phẩm, vì khơng chỉ đơn thuần là xác định hình thức thể hiện mà trước hết là
nghiên cứu đối tượng, phân tích nội dung, phạm vi phản ánh và mục đích nhất
định của tác phẩm. Vì vậy, thơng hiểu và sử dụng tốt các thể loại báo chí sẽ
giúp người làm báo lựa chọn nhanh chóng hình thức trình bày bài viết, giúp
công chúng tiếp nhận tác phẩm phong phú, đa dạng và tòa soạn dễ nhận diện
được thể loại để tổ chức trang báo, chương trình phát thanh, truyền hình, các
website một cách khoa học, phù hợp với quan điểm và định hướng tuyên
truyền của chế độ, của giai cấp [16, tr.9 – tr.10].
Lý luận báo chí đã chỉ ra rằng, thể loại báo chí hình thành trong lịch sử
đấu tranh giai cấp, trong sự vận động, phát triển của đời sống xã hội và trong
chính tự bản thân báo chí. Trải qua q trình lao động sản xuất và đấu tranh
chính trị, tư tưởng, cuộc sống địi hỏi báo chí phải có nhiều hình thức thể hiện
phong phú, sinh động nhằm tác động nhanh chóng, hiệu quả vào tình hình xã
hội và ý thức cơng chúng.


11
Những nhà sáng lập nền báo chí cách mạng như C. Mác, Ph. Ănghen,
V.I. Lênin, Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng, Nhà nước ta đều là những
người sử dụng thuần thục các thể loại báo chí.
Chính các nhà kinh điển vừa là nhà cách mạng, vừa là nhà báo, nhà
chính luận xuất sắc đã chỉ ra rằng: một tờ báo hay một nhà báo biết sử dụng
nhiều thể loại báo chí thì báo chí sẽ tăng thêm tác dụng, hấp dẫn và lơi cuốn
cơng chúng báo chí.
Thực tiễn cho thấy, thể loại báo chí ln gắn liền với cuộc sống con
người và có tác dụng lớn đối với đời sống xã hội. Nó cũng là hình thức sáng tạo

mang tính lịch sử , tính quy luật, tính hệ thống của báo chí để phản ánh các sự
kiện, hiện tượng, q trình có thật vừa mới xảy ra trong hiện thực khách quan
cả trong nước và trên thế giới, có ý nghĩa chính trị - xã hội nhất định.
Tùy theo tính chất kỹ thuật và phương thức thực hiện truyền thơng,
người ta có thể chia báo chí thành các loại hình như: báo in (báo, tạo chí, bản
tin thời sự, bản tin thơng tấn); báo nói (chương trình phát thanh); báo hình
(chương trình truyền hình, chương trình nghe nhìn thời sự được thực hiện
bằng các phương tiện kỹ thuật khác nhau); báo điện tử (được thực hiện trên
mạng thơng tin máy tính).
Tóm lại, báo chí là phương tiện thông tin thời sự dành cho công chúng.
Công chúng báo chí là tất cả mọi người, thuộc mọi tầng lớp trong xã hội, bất
kể già, trẻ, trai, gái, dân tộc, tơn giáo…Trong lĩnh vực báo chí, khái niệm
thơng tin được dùng như một danh từ để chỉ một dạng hoạt động của truyền
thơng đại chúng. Trước hết, đó là thơng tin thời sự - nghĩa là báo chí thơng
báo cho công chúng những sự kiện, hiện tượng, vấn đề đã, đang và sẽ diễn ra.
1.1.2. Đặc trưng của phong cách ngơn ngữ báo chí
a. Đặc trưng của phong cách ngơn ngữ báo chí
“Phong cách là những khn mẫu trong hoạt động lời nói, được hình


12
thành từ những thói quen sử dụng ngơn ngữ có tính chất truyền thống và chuẩn
mực trong việc xây dựng các lớp văn bản tiêu biểu” [17, tr.19].
Với đặc điểm về u cầu tính xác thực rất cao, ngơn ngữ báo chí ln
chính xác, hấp dẫn. Ngơn ngữ báo chí là ngôn ngữ sự kiện, thứ ngôn ngữ khách
quan về những hoạt động, những gì đang xảy ra đúng như hiện thực khách quan,
không hàm chứa sự thêm thắt, nhận xét, bình luận chủ quan của người viết.
Trong tiến trình thực hiện các nhiệm vụ của báo chí đối với xã hội, hệ
thống ngơn từ của báo chí loại bỏ và tiếp thu các đặc điểm ngôn ngữ ở các lĩnh
vực, các thiết chế xã hội khác và tự thiết lập nên cho mình hệ đặc điểm riêng.

Theo Tiến sĩ Bùi Trọng Ngỗn [20, tr.16]: chức năng của ngơn ngữ
trong phong cách báo chí gồm chức năng thơng báo (thơng tin trung thực,
lành mạnh) và chức năng tác động (hướng dẫn dư luận, hướng vào nhu cầu,
nguyện vọng của người đọc, người nghe). Điều đó cũng có nghĩa là: báo chí
sử dụng ngơn ngữ để chuyển tải (thơng báo) thơng tin, sự kiện tác động đến
công chúng. Đồng quan điểm về chức năng của ngơn ngữ trong phong cách
báo chí với TS. Bùi Trọng Ngỗn, chúng tơi nhận thấy rằng: chính sự kiện đã
tạo nên cho ngơn ngữ báo chí một loạt các tính chất cụ thể cần sử dụng trong
quá trình viết báo. Các đặc trưng của phong cách ngơn ngữ báo chí cũng được
tác giả Hồng Anh [1, tr.9-13] lần lượt trình bày cụ thể:
- Tính chính xác:
Tính chính xác khơng chỉ đạt hiệu quả giao tiếp cao mà cịn góp phần
khơng nhỏ vào việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Vì số lượng người tiếp
nhận các sản phẩm của báo chí đơng tới mức khơng xác định được và họ lại luôn
xem các cơ quan báo chí là “ngọn đèn chỉ dẫn” trong việc dùng ngơn từ, cho nên
ngơn ngữ báo chí càng hồn thiện thì tiếng Việt càng có điều kiện phát triển.
- Tính cụ thể:
Mỗi sự kiện được đề cập trong tác phẩm báo chí đều phải gắn liền với


13
một không gian, thời gian xác định; với những con người cũng xác định. Đây
là cội nguồn của sự thuyết phục, vì nhờ những yếu tố đó người đọc – người
nghe có thể kiểm chứng thơng tin một cách dễ dàng. Do đó, trong ngơn ngữ
báo chí nên hạn chế tối đã việc dùng các từ ngữ, cấu trúc không xác định hay
có ý nghĩa mơ hồ kiểu như “một người nào đó”, “ở một nơi nào đó”, “vào
khoảng”, “hình như”…
- Tính đại chúng:
Báo chí là phương tiện thơng tin đại chúng, chính vì thế, ngơn ngữ báo
chí phải là ngôn ngữ dành cho tất cả và của tất cả, tức là có tính phổ cập rộng

rãi. Tuy nhiên, phổ cập rộng rãi khơng có nghĩa là dễ dãi, thấp kém.
- Tính ngắn gọn:
Ngơn ngữ báo chí cần ngắn gọn, súc tích. Sự dài dịng có thể làm lỗng
thơng tin, ảnh hưởng đến hiệu quả tiếp nhận của người đọc, người nghe.
- Tính định lượng:
Các tác phẩm báo chí có tính định lượng về ngơn từ vì chúng thường bị
giới hạn trong một khoảng thời gian hay một diện tích nhất định. Vì thế, việc
lựa chọn và sắp xếp các thành tố ngôn ngữ cần kỹ lưỡng, hợp lý để phản ánh
được đầy đủ lượng sự kiện mà không vượt q khung cho phép về khơng gian
và thời gian.
- Tính bình giá:
Các tác phẩm báo chí khơng chỉ đưa thơng tin về các sự kiện, mà cịn
phải thể hiện cơng khai thái độ của tác giả đối với sự kiện thơng qua sự bình
giá. Sự bình giá này có thể là tích cực mà cũng có thể là tiêu cực, nhưng trong
bất kỳ tình huống nào nó cũng được biểu đạt trực tiếp qua ngơn từ.
- Tính biểu cảm:
Tính biểu cảm trong ngơn ngữ báo chí gắn liền với việc sử dụng các từ
ngữ, lối nói mới lạ, giàu hình ảnh, in đậm dấu ấn cá nhân, và do đó sinh động


14
hấp dẫn hay ít nhất cũng gây được ấn tượng đối với độc giả. Nếu ngơn ngữ
báo chí khơng có tính biểu cảm, những thơng tin khơ khan mà nó chuyển tải
khó có thể được cơng chúng tiếp nhận như mong muốn, vì chúng mới chỉ tác
động vào lý trí của họ.
- Tính khn mẫu:
Đó là những cơng thức ngơn từ có sẵn (lớp từ ngữ văn hóa), được sử
dụng lặp đi lặp lại nhằm tự động hóa quy trình thơng tin, làm cho nó trở nên
nhanh chóng, thuận tiện hơn. Khuôn mẫu bao giờ cũng đơn nghĩa và mang
sắc thái biểu cảm trung tính…Giao tiếp báo chí khơng thể thiếu khn mẫu vì

nó tiết kiệm thời gian và cơng sức cho chủ thể sáng tạo, thích ứng với việc
đưa tin cập nhật, tức thời. Tuy nhiên, các thành tố khn mẫu trong ngơn ngữ
báo chí lại ln kết hợp hài hòa với các thành tố biểu cảm cho nên ngơn ngữ
báo chí thường rất mềm mại, hấp dẫn chứ không khô khan như ngôn ngữ
trong văn bản khoa học và văn bản hành chính là nơi người ta chỉ sử dụng
thuần nhất các thành tố khuôn mẫu mà thôi.
b. Chuẩn mực ngôn ngữ và chuẩn ngôn ngữ trong báo chí
- Chuẩn mực ngơn ngữ
Để đánh giá sự sử dụng ngôn ngữ, cần dựa vào chuẩn mực. Chuẩn mực
là căn cứ của cái đúng và mẫu mực, nó bảo đảm tính thống nhất và tính ổn
định của ngơn ngữ văn hóa.
Hồng Phê xác định: “Chuẩn mực có thể chỉ phương tiện ngơn ngữ mà
cũng có thể chỉ quy tắc. Nghĩa là chúng ta nói có những âm, những từ chuẩn
mực, cũng như nói có những cách phát âm, cách dùng từ chuẩn mực” (dẫn
theo Đinh Trọng Lạc [17, tr.23]).
Chuẩn mực ngơn ngữ (hay chuẩn mực văn hóa của ngơn ngữ tồn dân)
là khái niệm rộng nhất. Đó là tồn bộ các phương tiện ngôn ngữ được sử dụng
đã được mọi người thừa nhận và đã được coi là đúng và mẫu mực trong xã


15
hội nhất định và trong thời đại nhất định cũng như toàn bộ các quy tắc sử
dụng của xã hội đối với ngơn ngữ đó. Chuẩn mực ngơn ngữ khơng gắn với
một phạm vi đặc trưng nào của hoạt động lời nói. Cho nên chuẩn mực ngơn
ngữ chỉ trả lời câu hỏi ngơn ngữ được “dùng có đúng với ngơn ngữ văn hóa
khơng?”. Những từ sao, vì sao, tại sao, vì lẽ gì, cớ làm sao, hà cớ…là đúng
chuẩn mực ngôn ngữ, nhưng từ răng (từ địa phương của miền Trung) là
không đúng chuẩn mực ngôn ngữ.
Chuẩn mực phong cách là tồn bộ các chỉ dẫn thể hiện những tính quy
luật bắt buộc ở một thời kì nhất định của một ngôn ngữ trong việc lựa chọn

và kết hợp những chuẩn mực ngôn ngữ sao cho phù hợp với phong cách của
hoạt động lời nói và với các kiểu và thể loại văn bản. Chuẩn mực phong
cách gắn với một phạm vi đặc trưng của hoạt động lời nói, với một kiểu, một
thể loại văn bản cụ thể. Cho nên chuẩn mực phong cách chỉ trả lời câu hỏi:
“Dùng có phù hợp với hoàn cảnh hay ngữ cảnh (phong cách, kiểu, thể loại)
này không?”[17, tr.23 - 25].
Sử dụng ngôn ngữ một cách chuẩn mực là việc không phải dễ dàng và
cần được mỗi người tự ý thức trau dồi để sử dụng ngôn ngữ một cách chuẩn
mực trong sinh hoạt, đời sống.
Chuẩn ngôn ngữ là mẫu ngôn ngữ đã được xã hội đánh giá, lựa chọn và
sử dụng. Ngôn ngữ chuẩn mực trước hết phải là những thói quen giao tiếp
ngơn ngữ được định hình về mặt xã hội và được chấp nhận trong cảm thức
ngôn ngữ của người bản ngữ. Là cơ sở cho người nói hay người viết tạo lập
lời nói, hay tạo lập văn bản, cũng là cơ sở cho người nghe/người đọc lĩnh hội
được lời nói hoặc văn bản đó.
Chuẩn mực ngơn ngữ bao gồm : chuẩn từ vựng, chuẩn ngữ pháp và
chuẩn phong cách.
+ Nội dung của chuẩn hóa từ vựng bao gồm 3 mặt: mặt ý nghĩa của từ


16
ngữ; mặt ngữ âm của từ ngữ; mặt chữ viết của từ ngữ.
+ Chuẩn mực về ngữ pháp rất cần cho sự hiểu biết tiếng Việt và cho
việc sử dụng tiếng Việt. Chuẩn về ngữ pháp được biểu hiện ở việc cấu tạo các
từ, việc kết hợp các từ thành cụm từ và câu, ở việc cấu tạo các thành phần của
văn bản và các văn bản thuộc các loại khác nhau.
+ Xác định những đặc điểm tất yếu của việc dùng tiếng Việt trong các
lĩnh vực giao tiếp và các tình huống giao tiếp khác nhau của đời sống xã hội
chính là sự chuẩn mực về phong cách. Ngơn ngữ được sử dụng để giao tiếp
trong mỗi lĩnh vực, tình huống như vậy có những nhiệm vụ và mục đích nhất

định, địi hỏi những nhân tố và phương tiện ngơn ngữ đặc thù. Có những
chuẩn mực thuộc ngơn ngữ nói, có những chuẩn mực của ngơn ngữ viết, có
những chuẩn mực thuộc các phong cách sinh hoạt hằng ngày, phong cách
nghệ thuật, phong cách khoa học, phong cách chính luận, phong cách hành
chính, phong cách báo chí,… Khi sử dụng tiếng Việt, chúng ta cần tuân thủ
những nguyên tắc này.
Tác giả Vũ Quang Hào cho rằng: “Chuẩn ngôn ngữ có những qui luật và
cách sử dụng tồn tại khách quan trong một giai đoạn, trong một cộng đồng người
và mang tính chất bắt buộc tương đối với thành viên trong cộng đồng. Nhưng
ngôn ngữ luôn vận động nên cái chuẩn chung khơng những khơng loại trừ mà
cịn cho phép các biến thể khác nhau được sử dụng cùng với chuẩn” [14, tr.20].
Các biến thể đó có thể coi là chệch chuẩn, nhưng khơng phải là sai. Nó
cũng được coi là một sự sáng tạo và được công chúng chấp thuận và đón nhận.
Hồng Trọng Phiến quan niệm: “Chệch chuẩn là một thủ pháp sáng tạo, cách
tân phù hợp với chuẩn, với cái đúng, cái thích hợp và được thói quen dùng chấp
nhận” (dẫn theo Vũ Quang Hào [14, tr.21]).
Có thể khẳng định, chệch chuẩn là một hiện tượng chỉ có tính lâm thời,
chỉ xuất hiện trong một giai đoạn nhất định và mang những sắc thái biểu cảm


17
nhất định. Song cũng có những chệch chuẩn lại có sức sống lâu dài, trở thành
khuôn mẫu độc đáo được nhiều người áp dụng, ngược lại cũng có những
chệch chuẩn đi theo khuôn mẫu lại tạo ra sự bất thường tiêu cực.
Chệch chuẩn chế định sự hình thành phong cách nhà báo, và chính
phong cách nhà báo lại là yếu tố khẳng định sự cần thiết và vai trò của việc
sáng tạo chệch chuẩn trong quá trình tạo lập văn bản báo chí.
“Nhìn một cách tổng qt, một hiện tượng ngôn ngữ được coi là đúng
phải thỏa mãn được những địi hỏi của cấu trúc nội tại của ngơn ngữ và phải
phù hợp với truyền thống ngôn ngữ, được mọi thành viên trong cùng một

cộng đồng (trong những điều kiện tương đối thống nhất) hiểu đúng như nhau.
Cái đúng là yêu cầu bắt buộc trong việc sử dụng ngôn ngữ ở tất cả các cấp độ
và ở mỗi cấp độ ấy lại có những yêu cầu, những tiêu chuẩn riêng. Như vậy,
trong chuẩn ngơn ngữ thì cái đúng là nhân tố quan trọng bậc nhất bảo đảm
cho quá trình giao tiếp” [1 , tr.18].
- Chuẩn ngơn ngữ trong báo chí
Báo chí có tầm quan trọng đặc biệt trong đời sống xã hội, trong sự phát
triển kinh tế - văn hóa của địa phương nói riêng và cả nước nói chung, vì thế
ngơn ngữ được sử dụng trong báo chí phải là ngôn ngữ chuẩn.
Giáo sư John Hohenberg cho rằng: “Không thể cẩu thả trong việc sử
dụng ngôn ngữ ở các ngành truyền thông được. Ngôn ngữ phải chuyển được
tin tức, ý kiến và tư tưởng tới quần chúng càng hữu hiệu càng tốt. Cũng
không thể hạ giá văn phạm. ..Sự chuẩn xác của ngôn ngữ làm sắc bén thêm ý
nghĩa của sự kiện. Vi thế sự kiện và chuẩn xác phải luôn luôn đi đôi với
nhau” (dẫn theo Vũ Quang Hào [14, tr.11]).
Chuẩn ngơn ngữ báo chí cần xét trên hai phương diện: phải mang tính
chất quy ước xã hội và phải phù hợp với quy luật phát triển nội tại của ngôn
ngữ trong từng giai đoạn lịch sử.


18
Chuẩn mực ngôn ngữ là một vấn đề lớn trong ngôn ngữ học. Về khái
niệm chuẩn ngôn ngữ, cần xét trên hai phương diện: chuẩn mang tính chất
quy ước xã hội và chuẩn phải phù hợp với quy luật phát triển của nội tại
ngôn ngữ trong từng giai đoạn nhất định. Xác định chuẩn ngôn ngữ, đặc biệt
là chuẩn ngôn ngữ báo chí, cần phải dựa trên những cứ liệu thực tế của ngôn
ngữ ở tất cả các cấp độ: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp và phong cách. Bên cạnh
đó, cần phải xét những lý do ngồi ngơn ngữ vốn ảnh hưởng đến sự phát
triển, thay đổi của nó: những biến đổi lớn lao trong xã hội, vai trò tác động
của các trào lưu, các nhóm xã hội…, cơng cuộc đổi mới và sự mở cửa hội

nhập quốc tế. Về mặt quy luật biến đổi nội tại của ngôn ngữ, nước ta có
những văn bản, những cuộc vận động chuẩn hóa trên cơ sở nghiên cứu gốc
rễ từ nguyên, những biến đổi, sai khác, dị biệt trong hệ thống ngơn ngữ và
q trình phát triển. Về mặt tác động từ bên ngồi, báo chí thể hiện rõ ràng
những biến đổi của ngơn ngữ. Nền báo chí Việt Nam từ khi ra đời cho đến
nay đã trải qua nhiều biến động xã hội ảnh hưởng đến chuẩn. Thế nào gọi là
chuẩn? Ai định ra chuẩn? Chuẩn được xã hội chấp nhận như thế
nào?...Chẳng hạn, thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám, ngơn ngữ báo chí
chịu sự kiểm duyệt gắt gao của thực dân, phát xít. Những quy định về chuẩn
ấy do giai cấp thống trị đề ra và phục vụ cho quyền lợi của chúng, xã hội
Việt Nam không thừa nhận và luôn thể hiện sự phản kháng. Trong cuộc đấu
tranh giữ nước và dựng nước, những lớp từ, những phong cách báo chí thể
hiện tính chất của cuộc chiến đấu ấy, của ý Đảng – lòng dân được coi là
chuẩn mực, đã kêu gọi tinh thần sục sôi của đồng bào theo ngọn cờ chung.
Đến khi thực hiện công cuộc đổi mới, mở cửa, tác động của nền kinh tế thị
trường và những luồng văn hóa, tư tưởng mới thâm nhập đã có ảnh hưởng
ngày càng sâu sắc trong mọi lĩnh vực của đời sống khiến ngôn ngữ báo chí,
văn phong báo chí ngày càng biến đổi đa dạng, phong phú và phức tạp.


×