Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

Thảo luận nhóm TMU tư tưởng hồ chí minh luận điểm hồ chí minh đến việc “trồng người” hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.46 KB, 37 trang )

MỤC LỤC
A. Lời mở đầu........................................................................................................2
B. Nội dung...........................................................................................................4
I. Cơ sở đưa ra luận điểm......................................................................................4
1. Quan điểm của Bác về vai trò con người.....................................................4
1.1 Con người là nhân tố quyết định sự thành công của cách mạng.........4
1.2 Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng..............5
2. Quan điểm của Bác về xây dựng con người................................................8
2.1. Ý nghĩa của việc xây dựng con người.................................................8
2.2 Nội dung xây dựng con người mới.....................................................10
II. Phân tích luận điểm.........................................................................................12
III. Ý nghĩa luận điểm.........................................................................................17
IV. Liên hệ luận điểm Hồ Chí Minh đến việc “trồng người” hiện nay................22
1. Về giáo dục................................................................................................22
1.1 Thực trạng vấn đề “trồng người” trong nền giáo dục.......................22
1.2 Nguyên nhân của thực trạng..............................................................24
1.3 Biện pháp khắc phục..........................................................................25
2. Về Đảng.....................................................................................................26
2.1 Thực trạng “trồng người” của Đảng và Nhà nước ta hiện nay........26
2.2 Nguyên nhân của thực trạng..............................................................30
2.3 Biện pháp khắc phục..........................................................................30
C. Kết luận...........................................................................................................24


A. Lời mở đầu
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Lãnh tụ vĩ đại trọn đời hy sinh cho đất nước và
hạnh phúc của nhân dân. Người cũng được biết đến như người thầy vĩ đại của
cách mạng Việt Nam, Anh hùng giải phóng dân tộc, Người cịn là nhà thơ, nhà
danh nhân văn hóa thế giới. Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Đảng Cộng sản Việt Nam, cách mạng nước ta đã vượt qua muôn vàn khó khăn,
thử thách, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đó là thắng lợi của Cách mạng


tháng Tám và việc thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Nhà nước
do dân làm chủ đầu tiên trong lịch sử dân tộc.
Để làm nên sự thành cơng đó một phần cũng nhờ quán triệt sâu sắc lời căn
dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cơng tác bồi dưỡng, chăm sóc thế hệ trẻ - thế
hệ tương lai, mà tồn Đảng, tồn dân và tồn qn ta ln xây dựng được lực
lượng kế cận hùng hậu, trung thành, có đủ phẩm chất và năng lực đưa đất nước
vượt qua những thời điểm khó khăn, đưa cách mạng đến những thắng lợi vinh
quang, ghi dấu ấn đậm nét vào tiến trình phát triển của dân tộc. Do vậy, theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh, bất kỳ một đất nước, một tổ chức nào muốn phát triển
bền vững, muốn có một tương lai rạng rỡ phía trước thì đất nước, tổ chức đó
phải biết quan tâm đến vấn đề “trồng người”, tức là phải luôn biết chăm lo, giáo
dục, đào tạo thế hệ trẻ, thế hệ kế tiếp. Đó là một quy luật phát triển tất yếu.
Ngày 13-9-1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến dự và phát biểu tại “Lớp học
chính trị của giáo viên cấp II, cấp III toàn miền Bắc”, Bác đã xác định rõ việc


trồng cây cũng giống như việc trồng người là việc làm xuất phát từ lợi ích thiết
thực trước mắt cũng như lâu dài nhằm phục vụ cuộc sống: “Vì lợi ích mười năm
thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Đến nay hơn 60
năm, lời căn dạy của Bác vẫn luôn được coi là kim chỉ nang cho các cán bộ của
Đảng, đội ngũ các giáo viên Việt Nam trong sự nghiệp “trồng người”.


B. Nội dung
I. Cơ sở đưa ra luận điểm
1. Quan điểm của Bác về vai trò con người.
1.1 Con người là nhân tố quyết định sự thành công của cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh, "Trong bầu trời khơng gì q bằng nhân dân. Trong thế
giới khơng gì mạnh bằng lực lượng đồn kết của nhân dân". Vì vậy, “Vơ luận
việc gì, đều do người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả”. Người

cho rằng "Việc dễ mấy khơng dân cũng chịu, việc khó mấy dân liệu cũng xong".
Nhân dân là người sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần. Nếu không có
dân thì Chính phủ khơng đủ lực lượng; nếu khơng có Chính phủ thì nhân dân
khơng có ai dẫn đường. Con người là vốn quí nhất, quí trọng sinh mạng của dân,
trong đấu tranh cố gắng ít hy sinh tính mạng. Hồ Chí Minh ln u q dân,
tiết kiệm sức dân, tôn trọng đức và tài của dân, lắng nghe ý kiến của dân. Chăm
lo đời sống của dân: “việc gì có lợi cho dân thì hết sức làm dù nhỏ mấy. Việc gì
có hại cho dân thì hết sức tránh.” Vì vậy mọi chủ trương chính sách pháp luật
phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của dân.
Hồ Chí Minh tổng kết ngắn gọn rằng: “dân ta tốt lắm”. Phẩm chất tốt đẹp
của dân từ lòng trung thành và tin tưởng vào cách mạng, vào Đảng, không sợ
gian khố, tù đày, hy sinh đến việc dân nhường cơm sẻ áo, chở che, đùm bọc, bảo
vệ, nuôi nấng bộ đội và cán bộ cách mạng. Dân ta là tài năng, trí tuệ và sáng tạo,
họ biết "giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà
những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra"'. Đặc biệt là


lòng sốt sắng, hăng hái của dân để thực hiện con đường cách mạng. Hồ Chí
Minh có niềm tin vững chắc rằng với tinh thần quật cường và lực lượng vơ tận
của dân tộc ta, với lịng u nước và chí kiên quyết của nhân dân và quân đội ta,
chẳng những chúng ta có thể thắng lợi, mà chúng ta nhất định thắng lợi. Hồ Chí
Minh thể hiện ở niềm tin vào dân “đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đơng
Dương dấu cái gì đang sục sơi, đang gào thét và sẽ bùng nổ khi thời cơ đến”.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, phải tin dân, dựa vào dân. Hồ
Chí Minh có niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh và tính sáng tạo của quần chúng
nhân dân. Đã là người cộng sản thì phải tin dân và niềm tin sẽ tạo nên sức mạnh
cho người cộng sản.
Như vậy, nhân dân là yếu tố quyết định thành cơng của cách mạng. "Lịng
u nước và sự đồn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai
thắng nổi".

1.2 Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng.
 Con người là mục tiêu giải phóng của sự nghiệp cách mạng.
Mục tiêu của cách mạng là giải phóng con người, mang lại tự do, hạnh
phúc cho con người; nhưng sự nghiệp giải phóng là do chính con người thực
hiện. Với tư cách là mục tiêu của cách mạng, mọi chủ trương đường lối, chính
sách của Đảng phải vì dân, vì lợi ích của dân. Bao nhiêu lợi ích cũng vì dân.
Dân trước hết là giai cấp công nhân, liên minh với nơng dân, trí thức cũng là
một tầng lớp cần coi trọng.


Con người là chiến lược số một trong tư tưởng và hành động của Hồ Chí
Minh. Mục tiêu này được cụ thể hóa trong ba giai đoạn cách mạng nhằm giải
phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
Giải phóng dân tộc là xóa bỏ ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc, giành lại
độc lập tự do cho dân tộc. Con người trong giải phóng dân tộc là cả cộng đồng
dân tộc Việt Nam. Phạm vi thế giới là giải phóng các dân tộc thuộc địa.
Giải phóng xã hội là đưa xã hội phát triển thành một xã hội khơng có chế
độ người bóc lột người, một xã hội có nền sản xuất phát triển cao và bền vững,
văn hóa tiên tiến, mọi người là chủ và làm chủ xã hội, có cuộc sống ấm no tự do
hạnh phúc, một xã hội văn minh tiến bộ. Xã hội đó phát triển cao nhất là xã hội
cộng sản, giai đoạn đầu là xã hội xã hội chủ nghĩa.
Giải phóng giai cấp là xóa bỏ sự áp lực, bóc lột của giai cấp này đối với
giai cấp khác; xóa bỏ sự bất cơng, bất bình đẳng xã hội; xóa bỏ nền tảng kinh tếxã hội, đẻ ra sự bóc lột giai cấp; dần dần thủ tiêu sự khác biệt giai cấp, các điều
kiện dẫn đến sự phân chia xã hội thành giai cấp và xác lập một xã hội khơng có
giai cấp. Con người trong giải phóng xã hội là các giai cấp cần lao, trước hết là
giai cấp công nhân và giai cấp nơng dân. Phạm vi thế giới là giải phóng giai cấo
vơ sản và nhân dân lao động cả nước.
Giải phóng con người là xóa bỏ tình trạng áp bức, bóc lột, nơ dịch con
người; xóa bỏ các điều kiện xã hội làm tha hóa con người, làm cho mọi người
được hưởng tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát huy năng lực sáng tạo, làm chủ

xã hội, làm chủ tự nhiên và làm chủ bản thân, phát triển toàn diện theo bản chất


tốt đẹp của con người. Con người trong giải phóng con người là cá nhân mỗi
con người. Phạm vi thế giới là giải phóng lồi người.
Các “giải phóng” đó kết hợp với nhau, giải phóng dân tộc đã có một phần
giải phóng xã hội và giải phóng con người, đồng thời nối tiếp nhau, giải phóng
dân tộc mở đường cho giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp và giải phóng xã
hội.
 Con người là động lực của cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh, con người là vốn quý nhất, động lực, nhân tố quyết
định thành công sự nghiệp cách mạng. Người nhấn mạnh: “mọi việc đều do
người làm ra”, “Ý dân là ý trời”, “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần
dân liệu cũng xong”. Cách mạnhg là sự nghiệp của quần chúng. Nhân dân là
những người sáng tạo chân chính ra lịch sử, thơng qua các hoạt động thực tiễn
cơ bản nhất như lao động sản xuất, đấu tranh chính trị-xã hội, sáng tạo ra các giá
trị văn hóa. Nói đến nhân dân là nói đến lực lượng, trí tuệ, quyền hành, lịng tốt,
niềm tin, đó chính là gốc, động lực cách mạng.
Với tư cách là động lực của cách mạng, cần phải tổ chức và thức tỉnh hàng
chục triệu nông dân, phải thức tỉnh và tổ chức tồn thể giai cấp cơng nhân. Có
như vậy mới tạo ra sức mạnh to lớn để có thể làm cách mạng thành cơng. Họ
phải có trí tuệ, bản lĩnh, văn hố, đạo đức, được ni dưỡng trên nền truyền
thống lịch sử và văn hoá hàng ngàn năm của dân tộc. Lịch sử đã chứng minh,
quần chúng nhân dân là lực lượng sáng tạo cơ bản, có dân là có tất cả. Xuất phát
từ sự đánh giá đúng con người và hiểu biết con người, con người là động lực chỉ


có thể thực hiện được khi hoạt động có tổ chức, có lãnh đạo. Đảng cách mạng
lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng, qua phong trào cách mạng của
quần chúng, Đảng sẽ nhân sức mạnh của con người lên gấp bội lần.

2. Quan điểm của Bác về xây dựng con người
2.1. Ý nghĩa của việc xây dựng con người


Xây dựng con người là yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách

mạng, vừa cấp bách, vừa lâu dài và có ý nghĩa chiến lược.
Khi kể đến sự thành cơng của cách mạng Việt nam, yếu tố con người luôn
được đặt lên hàng đầu. Trải qua một nghìn năm đơ hộ, xâm lăng, hết lần này đến
lần khác tổ quốc bị xâm lăng nhưng người Việt Nam ta vẫn giữ tồn vẹn được
những yếu tố văn hóa, đạo đức, phẩm chất tốt đẹp của người cũng như lãnh thổ
của đất nước mình. Tại sao thời kỳ qn Mơng Ngun hùng cường đánh đâu
thắng đó, học chinh phục đến tận châu Âu nhưng cũng bại trận dưới Việt Nam?
Tại sao Điện Biên Phủ trở thành mồ chôn giặc Pháp? Tại sao đế quốc Mỹ phải
nếm lấy sự thất bại ở Việt Nam? Đó phần lớn là vì con người. Con người Việt
Nam ta với tinh thần nồng nàn yêu nước, chịu thương chịu khó, lại tài trí dũng
cảm, khơng chịu khuất phục mà cố gắng lấy độc lập tự do về cho cách mạng của
đất nước. Phẩm chất đó được truyền từ đời này sang đời khác, trở thành truyền
thống tốt đẹp của dân tộc ta.
Đến nay, tuy nước ta không cịn phải chịu cảnh chiến tranh chết chóc.
Nhưng các thế lực vẫn xem Việt Nam là miếng bánh béo bở và lăm le nó bởi vì
vị trí địa lý cũng như tài nguyên thiên nhiên vô giá của nước ta. Một trong


những cách để răn đe chúng đó là xây dựng Việt Nam ngày càng lớn mạnh hơn.
Để đất nước ngày càng phát triển, tuyệt nhiên vẫn lấy con người vẫn là yếu tố
cốt lõi.


Xây dựng con người là một trọng tâm, bộ phận hợp thành của


chiến lược phát triển đất nước, có mỗi quan hệ chặt chẽ với nhiệm vụ xây dựng
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Con người là trung tâm của phát triển bền vững. Phát huy tối đa nhân tố
con người với vai trò là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của phát triển
bền vững; đáp ứng ngày càng đầy đủ hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của mọi
tầng lớp nhân dân; xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội dân chủ, công bằng,
văn minh; xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập quốc tế để
phát triển bền vững đất nước.
Phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong quá trình phát triển đất
nước; kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển xã
hội và bảo vệ tài ngun, mơi trường, bảo đảm quốc phịng, an ninh và trật tự an
tồn xã hội.


Hồ Chí Minh nếu 2 nhận điểm về sự cần thiết của việc xây dựng

con người:
- “Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. “Trồng người” là công việc
lâu dài, gian khổ, phải cần đến “trăm năm”, nghĩa là xuyên suốt cuộc đời mỗi
con người. Giáo dục con người đem đến lợi ích trước mắt và lâu dài. Nó phải
được kết hợp song song với quá trình đi lên xã hội chủ nghĩa và đạt được những


thành tựu cụ thể trong suốt quá trình cách mạng. “Trồng người” là trách nhiệm
của Đảng, Nhà nước, các thể chế chính trị- xã hội kết hợp với tính tích cực, chủ
động của từng người.
- “Muốn xây dựng xã hội chủ nghĩa, trước hết cần phải có những con người
xã hội chủ nghĩa”. Chủ nghĩa xã hội sẽ tạo ra được con người xã hội chủ nghĩa,
con người xã hội chủ nghĩa là động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việc xây

dựng con người xã hội chủ nghĩa phải được đặt ra ngay từ đầu và được quan tâm
suốt tiến trình xây dựng nên chủ nghĩa xã hội.
2.2 Nội dung xây dựng con người mới
Xây dựng con người mới là đào tạo, xây dựng con người phát triển toàn
diện: Đức, trí, thể, mỹ. Hồ Chí Minh hay nhắc nhiều đến đức và tài. hồng và
chuyên, song không hề coi nhẹ việc rèn luyện thể lực và giáo dục thẩm mỹ cho
con người nhất là thanh, thiếu niên.
 Xây dựng con người mới, con người tồn diện có thể khái quát ở những
điểm sau:
- Có ý thức làm chủ, tinh thần tập thể xã hội chủ nghĩa và tư tưởng “Mình
vì mọi người, mọi người vì mình”. có tinh thần dám nghĩ dám làm, dám chịu
trách nhiệm, quyết vươn lên hàng đầu, có tinh thần tiến nhanh- mạnh- vững lên
chủ nghĩa xã hội.
- Có lịng u nước nồng nàn, trung với đảng, hiếu với dân. Và tinh thần
quốc tế trong sáng, lành mạnh.
- Có phương pháp làm việc khoa học, có biện pháp, có quyết tâm. Phong
cách quần chúng, dân chủ, yêu thương.


- Có năng lực để làm chủ: bản thân, gia đình và cơng việc mình đảm nhiệm,
đủ sức khỏe và tư cách tham gia làm chủ nhà nước và xã hội.
 Phương pháp xây dựng con người:
- Xây dựng đời sống mới để có con người mới (ăn, mặc, ở, đi lại, làm việc),
môi trường sống vệ sinh bảo vệ sức khỏe. Chống giặc dốt, nâng cao dân trí, xây
dựng nền giáo dục dân chủ. Giáo dục đạo đức công dân, xây dựng nền đạo đức
cách mạng Việt Nam, chống chủ nghĩa cá nhân. Xây dựng phương pháp làm
việc khoa học, hiệu quả của cán bộ, đảng viên nói riêng và tồn dân nói chung.
- Phát động phong trào thi đua yêu nước để xây dựng đời sống mới, con
người mới. “ Mỗi người tốt, mỗi việc tốt là những bông hoa đẹp. Cả dân tộc ta là
một rừng hoa đẹp”. đấu sao cho những mặt tốt ngày càng nhiều hơn, những cái

xấu ngày càng ít. Q trình phấn đấu để trở thành người tốt chính là q trình
đấu tranh để xóa bỏ cái cũ, cái xấu, xây dựng cái tốt, cái mới từ ít đến nhiều, từ
thấp đến cao, từ chưa hồn thiện đến hồn thiện. Đó cũng chính là quá trình
tham gia thi đua, tranh đua và hợp tác không ngừng vươn lên của mỗi người.
Tạo nên một xã hội văn minh tốt đẹp hơn.
- Phát triển giáo dục - đào tạo, biện pháp quan trọng để xây dựng con người
mới. Giáo dục là quá trình đào tạo, rèn luyện con người trở thành người lao
động, thành các công dân đủ năng lực làm chủ - những con người Việt Nam phát
triển đức, trí, thể, mỹ và có nghề thông qua việc dạy và học. Việc dạy và học
không chỉ giới hạn trong các trường đào tạo, mà cịn là q trình tự học, tự đào
tạo và đào tạo lại, học trong cuộc sống, học suốt đời. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí
Minh từng nói “Hiền, dữ của con người khơng phải là tính sẵn. Phần nhiều do


giáo dục mà nên”, điều đó để thấy được giáo dục rất quan trọng trong việc xây
dựng và đổi mới con người.
II. Phân tích luận điểm
Tại sao Bác lại quan niệm: “Vì lợi ích mười năm phải trồng cây, vì lợi ích
trăm năm phải trồng người”. Tại sao trồng người lại gắn với việc trồng cây? Bác
Hồ đã dạy chúng ta: “Trồng cây khơng chỉ có lợi ích kinh tế mà cịn có lợi ích về
mặt xã hội, có tác dụng lớn tới vấn đề giáo dục và đào tạo con người”. Tết trồng
cây do Bác Hồ khởi xướng, chỉ đạo và cổ vũ là một tư tưởng lớn, thiết thực, một
mục đích cao cả vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc của con người. Bác Hồ cho rằng
trồng cây là “việc tốn kém mag lợi ích rất nhiều”. Người ước tính “Mỗi tết trồng
được độ 15 triệu cây”,”trong mười năm nước ta phong cảnh sẽ ngày càng tươi
đẹp, khí hậu điều hòa hơn, cây gỗ đầy đủ hơn”. Người luôn biểu dương những
địa phương, đơn vị, cá nhân trồng cây tốt. người cũng nhắc nhở những địa
phương, những hợp tác xã chưa quan tâm đến việc tổ chức” Tết trồng cây”.
Người đặc biệt lưu ý”phải liên hệ chặt chẽ “Tết trồng cây” với kế hoạch trồng
cây gây rừng của Nhà nước. Nhưng không nên lẫn lộn số cây “tết” với số cây

của ké hoạch và phải xem trọng chất lượng, nghĩa là “trồng cây nào, chắc cây
ấy”. Nói chuyện với đồng bào thôn Lạc Trung (Vĩnh Phú) Bác Hồ nhấn mạnh
“Muốn làm nhà thì phải có gỗ. Muốn có gỗ thì phải hăng hái trồng cây. Mọi
người cố gắng trồng nhiều cây thì trong sáu, bảy năm nữa, cả làng sẽ có đủ cây
để làm nhà mới…” Nhưng “cần phải có kế hoạch trồng cây và chăm sóc cây ở
đường cái. Cần giáo dục các em thiếu nhi có ý thức bảo vệ cây, chớ để trâu bò


phá hoại cây”. Nhiều lần Người đã đánh giá: “Sở dĩ Tết trồng cây đã trở nên một
phong trào quần chúng mạnh mẽ, là gì mọi người đều thấy lợi ích thiết thực và
lâu dài của nó”. Bác từng nhắc nơt đồng bào, con cháu:
“ Mùa Xuân là Tết Trồng cây
Làm cho đất nước càng ngày càng xuất…”
Mùa Xuân năm Kỳ Dậu 1969, vào sáng mồng một Tết, tuy lúc đó sức đã
yếu đi nhiều, nhưng Bác vẫn đến chúc Tết đồng bào Sơn Tây và trồng cây đa
lưu niệm ở đồ Vật Lại - Ba Vì. Tháng 7 - 1969, nằm trên giường bệnh, Bác còn
nhắc nhở Đảng bộ Nghệ An cần “có kế hoạch trồng cây bảo vệ rừng”. Bác luôn
quan tâm đến việc trồng cây - trồng rừng bởi rừng đem lại nhiều lợi ích rất thiết
thực. Trong rừng có nhiều loại cây khác nhau. Đây là nguồn thực phẩm, nguồn
nguyên liệu quý cho công nghiệp và dược phẩm, là nguồn gen hoang dại có giá
trị trong lai tạo giống mới cho nông nghiệp và chăn nuôi. Rừng có tác dụng điều
hồ dịng chảy trong sơng ngịi và dưới đất. Rừng cịn cản khơng cho dịng chảy
q nhanh, làm cho lũ xuất hiện chậm hơn, giảm mức độ đột ngột và ác liệt của
từng trận lũ - gây ra hậu quả vô cùng nặng nề cho người dân nhất là khu vực
miền Trung. Nước thấm xuống đất rừng vừa là nguồn dự trữ nuôi cây và các
sinh vật sống trong đất, vừa chảy rất chậm về nuôi các sơng trong thời gian
khơng mưa. Do đó những vùng có nhiều rừng che phủ sẽ giảm bớt được thiên tai
hạn Hán và lũ lụt. Đây chính là những lợi ích thiết thực nhất mà trồng cây đem
lại và chính là nguyên nhân tại sao Bác lại quan tâm, lo lắng nhiều đến thế. Bác
luôn hướng về người dân Việt Nam với tình cảm yêu thương, trân trọng. Cả dân



tộc Việt Nam đều là con cháu của Bác. Bác luôn mong dân tộc Việt Nam được
sống ấm no, hạnh phúc và trồng rừng cũng chính là một trong những biện pháp
quan trọng nhất để đạt được điều đó.
Nhưng trồng rừng khơng thì chưa đủ. Trồng rừng tuy mất nhiều cơng sức
nhưng trồng người cịn khó khăn gian khổ gấp bội. “Vì lợi ích trăm năm phải
trồng người”. “Trồng người” là cơng việc dài, gian khổ, vừa vì lợi ích trước mắt
vừa vì lợi ích lâu dài, là cơng việc của văn hóa giáo dục. Để trồng người có
nhiều biện pháp, trong đó giáo dục đào tạo là quan trọng nhất. Giáo dục tốt sẽ
tạo ra tính thiện, đem biện pháp, trong đó giáo giục đào tạo là quan trọng nhất.
Giáo dục tốt sẽ tạo ra tính thiện, đem lại tương lai tươi sáng cho thế hệ trẻ.
Ngược lại giáo dục tồi sẽ ảnh hưởng xấu tới thế hệ tương lai của đất nước. Giáo
dục là sự nghiệp của quần chúng. Cần phải phát huy đầy đủ dân chủ xã hội chủ
nghĩa, xây dựng quan hệ thật tốt, đoàn kết thật chặt chẽ giữa thầy và thầy, giữa
cán bộ các cấp, giữa nhà trường và nhân dân để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ
đó. Giáo dục nhằm đào tạo những người kế tục sự nghiệp cách mạng to lớn của
Đảng và nhân dân ta. Người luôn chăm lo đến việc nâng cái dân trí, chống giặc
dốt, xố nạn mù chữ, phát triển giáo dục. Người từng nói “Một dân tộc dốt là
một dân tộc yếu”. Người yêu cầu Đảng cầm quyền phải chăm lo đến nâng cao
trình độ học vấn cho nhân dân, chăm lo phát triển mọi mặt của dân tộc ta. Người
thường nói chế độ thực dân đã dùng mọi thủ đoạn ngu dân để đầu độc dân tộc ta,
để hủy hoại nhân dân ta bằng những thói xấu như lười biếng, gian xảo, tham ô…
Cho nên phải làm sao để dân tộc Việt Nam trở thành một dân tộc dũng cảm, yêu


nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập, “sánh
vai với các cường quốc năm châu”. Một nhiệm vụ cực kỳ to lớn và nặng nề của
Đảng và Nhà nước là phải chăm lo giáo dục và đào tạo con người Việt Nam, làm
cho mỗi người đều trở nên những con người mới XHCN có đầy đủ phẩm chất và

tài năng để đảm nhận công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Bởi vì, chất
lượng tồn diện của con người Việt Nam XHCN là nhân tố quyết định vận mệnh
của đất nước, tương lai của dân tộc. Bằng chính sách xã hội và bằng công tác
giáo dục và đào tạo, chúng ta phải ra sức phấn đấu để không ngừng nâng cái
chất lượng của con người mới Việt Nam trên hai phương diện: Với tư cách là
người làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, đồng thời với tư cách là lực lượng sản
xuất chủ yếu của xã hội nước ta, là “lực lượng sản xuất vĩ đạt nhất” như Mác đã
từng khẳng định. Với Bác, con người xã hội chủ nghĩa phải là những người có
phẩm chất đạo đức cách mạng “cần, kiệm, liêm, chí cơng, vơ tư”; phải nghiêm
khắc chống chủ nghĩa cá nhân và ra sức rèn luyện đạo đức cách mạng “như ngọc
càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Theo Người, chừng nào chủ
nghĩa cá nhân với những căn bệnh thường mắc như cậy quyền và cậy thế, kiêu
ngạo và xa hoa, quan liêu và coi thường quần chúng, tự kiêu và không muốn học
tập, không thực hiện tốt phê bình và tự phê bình vẫn cịn hiện hữu, thì chừng đó
cán bộ, đảng viên sẽ khơng thể hết lịng, hết sức phục vụ nhân dân, hồn thành
những trọng trách mà nhân dân tin tưởng giao phó. Với những yêu cầu bắt buộc
đó, con người mới xã hội chủ nghĩa ở nước ra phải được rèn luyện và đào tạo
trong quá trình tổng hợp của ba cuộc cách mạng, trong đó cách mạng khoa học -


kỹ thuật là then chốt. Với những bước phát triển mới chat cách mạng khoa học kỹ thuật, cuộc cách mạng giáo dục phải được coi là một bộ phận hữu cơ không
thể thiếu, phải mở rộng của của giáo dục cho khoa học và kỹ thuật.
Nội dung của cuộc cách mạng giáo dục phải kết hợp chặt chẽ khoa học –
kỹ thuật với lao động sản xuất, “kết hợp lao động sản xuất của tất cả mọi người
với việc giáo dục cho tất cả mọi người”. Làm cho con người ới Việt Nam, từ giai
cấp công nhân, nông dân lao động, trí thức XHCN, mọi cơng dân thuộc các tầng
lớp, các dân tộc đều trở thành những con người mới, vừa cách mạng, vừa khoa
học. Với trình độ khác nhau và ngày càng được nâng cao, mọi người đều tiếp
cận với những kiến thức về van hóa và khoa học, những tri thức về kỹ thuật và
công nghệ mà xã hội cần đến trong những năm trước mắt, đồng thời có được

những dự trữ về kiến thức văn hóa và khoa học cao hơn, trình độ kỹ thuật và
cơng nghệ hiện đại hơn, đáp ứng yêu cầu sau này của sự nghiệp cơng nghiệp hóa
nước nhà. Cần phải nói đến vai trị và vị trí quan trọng của trên 14 triệu học sinh
đại học, phổ thong, tuy đang còn trên ghế nhà trường, nhưng vẫn là tiềm lực
hùng hậu của cách mạng khoa học kỹ thuật, là những người chủ nhân tương lai
của đất nước. Bởi vậy, việc tiếp tục xây dựng và phát triển lực lượng khoa học
và kỹ thuật một cách cân đối, đồng bộ, có chất lượng và cơ cấu phù hợp với
chiến lược phát triển chung, với các hướng khoa học, kỹ thuật và kinh tế ưu tiên
trong từng gia đoạn là một nhiệm vụ có tầm quan trọng lớn. Một mặt, phải tiếp
tục đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên môn và nghiên cứu khoa học, cán bộ đầu
ngành và lien ngành, đặc biệt chú trọng đào tạo các kỹ sư thực hành, kỹ sư thiết


kế, quản lý xã hội, quản lý khoa học và kỹ thuật có tài năng. Mặt khác phải đẩy
mạnh hơn nữa việc đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật, có chính sách để sử
dụng tốt hơn, chăm lo đầy đủ hơn đến đời sống vật chất và tinh thần của đội ngũ
này. Chúng ta hãy nhìn lại chặng đường đã qua, từ khi nước nhà thống nhất,
ngành giáo dục đã có nhiều tiến bộ, chất lượng giáo dục đã được nâng cao,
nhiều thế hệ thanh niên đã công hiến cho công cuộc thống nhất và xây dựng đất
nước. Nhưng bên cạnh đó chúng ta cũng phải nhìn thẳng vào những vấn đề cịn
tồn đọng, những khuyết tật khơng nhỏ đang tồn tại trong xã hội, trong nhà
trường ảnh hưởng xấu đến sự nghiệp giáo dục. Chúng ta cần phải có những biện
pháp cụ thể, cứng rắn để ngăn chặn những tồn đọng đó.
III. Ý nghĩa luận điểm
“Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải
trồng người”
Tư tưởng mà Bác gửi gắm đó là nhấn mạnh vai trò của việc trồng cây cũng
như tầm quan trọng của công cuộc trồng người. Hai việc này tưởng chừng độc
lập nhưng lại có mối quan hệ mật thiết chặt chẽ với nhau và đều thể hiện được
tầm nhìn xa trơng rộng của Người.

Một mặt, Bác nhấn mạnh trồng cây là quá trình kéo dài vì “lợi ích mười
năm”, theo Bác: “Muốn xây dựng nông thôn mới, việc đầu tiên của nông thôn
mới là xây dựng lại nhà ở cho đàng hồng,...”, “Muốn làm nhà thì phải có gỗ.
Muốn có gỗ thì phải hăng hái trồng cây. Mọi người cố gắng trồng nhiều cây thì
trong sáu, bảy năm nữa cả làng sẽ có nhiều cây để làm nhà mới…”. Từ đó, hàng


năm Bác đều phát động Tết trồng cây vào ngày đầu xuân và hành động này đã
trở thành một phong tục đẹp của nhân dân cả 3 miền đất nước. Tuy nhiên, trồng
cây thơi thì chưa đủ mà cần phải trồng cây hiệu quả, trồng cây nào chắc cây ấy
và trồng cây rồi thì phải chăm sóc cây để cây sống và tươi tốt, nếu “trồng nhiều
mà khơng chịu khó chăm sóc, để cây chết thì tốn cơng, vơ ích”. Bên cạnh đó
cũng cần liên kết chặt chẽ trồng cây với kế hoạch trồng cây gây rừng và coi đó
là một kế hoạch lâu dài, liên tục. Vì sao Hồ Chí Minh lại coi trọng việc trồng
cây như vậy? Vì Bác nhìn thấy được lợi ích lâu dài mà nó mang lại. Trồng cây
khơng chỉ có lợi ích kinh tế mà cịn mang ý nghĩa chính trị, xã hội to lớn, đồng
thời có tác dụng lớn về mặt giáo dục và đào tạo con người. Một cách tổng quát,
cây xanh đem lại bóng mát, chống xói mịn, sạt lở đất hạn chế lũ lụt. Cây xanh
cung cấp nguồn gỗ lớn để xây dựng nhà cửa, đóng thuyền bè, vật dụng cần thiết
cho cuộc sống, cung cấp gỗ cho công nghiệp chế biến lâm sản, cơng nghiệp nhẹ
và xuất khẩu. Ngồi ra cây xanh cũng đóng vai trị quan trọng điều hịa khí hậu,
tăng lượng khí oxi duy trì sự sống cho con người và sinh vật. Thông qua “Tết
trồng cây” cịn có thể giáo dục trẻ em hình thành tình yêu thiên nhiên, bảo vệ
môi trường sinh thái và củng cố thêm lối sống hòa đồng giữa con người với
thiên nhiên của người Việt. Thơng qua “Tết trồng cây” cịn có thể giáo dục trẻ
em hình thành tình u thiên nhiên, bảo vệ môi trường sinh thái và củng cố thêm
lối sống hòa đồng giữa con người với thiên nhiên của người Việt.
Nếu như trồng cây chỉ là vì lợi ích mười năm thì trồng người lại vì lợi ích
lâu dài trăm năm. Ở đây Bác đang nhấn mạnh vai trò của sự nghiệp giáo dục,



không chỉ giáo dục về nhận thức, hiểu biết kỹ năng và cả về tư tưởng, phẩm
chất, lối sống. Trong bất cứ một quốc gia, dân tộc nào, tuổi trẻ đều là lực lượng
lãnh đạo kế cận, là tương lai của đất nước. Do vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh,
muốn đất nước phát triển bền vững thì trước hết phải biết quan tâm đến vấn đề
trồng người, tức là phải luôn biết chăm lo, giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ, thế hệ kế
tiếp. Công việc này là một q trình lâu dài , khơng ngừng hồn thiện, nâng cao
và thuộc về trách nhiệm của Đảng , Nhà nước, gia đình, cá nhân mỗi người.
Theo quan niệm của Bác, trước hết là phải biết kế thừa những giá trị tốt đẹp của
con người truyền thống, sau là hình thành những phẩm chất mới như: tư tưởng
xã hội chủ nghĩa, đạo đức xã hội chủ nghĩa, tác phong xã hội chủ nghĩa, có trí
tuệ và bản lĩnh để làm, có lịng nhân ái, vị tha, độ lượng. Trồng người khơng
phải là công việc của một giai đoạn nhất định nào cả mà là công cuộc được tiến
hành từ thời kỳ này qua thời kỳ khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trong thời
chiến thì cần giáo dục cho thế hệ trẻ về lòng yêu nước, bồi dưỡng lý tưởng cách
mạng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí
cơng vơ tư, làm cho thế hệ trẻ trở thành những người công dân có ích, những
người chiến sĩ tốt, những người cách mạng chân chính, người chủ tương lai
xứng đáng của đất nước. Cịn trong thời bình thì cần rèn luyện ý chí, tư tưởng
vững vàng trước mọi sự chống phá của kẻ thù, các tư tưởng phản động và những
cám dỗ vật chất đời thường. Bên cạnh đó là khơng ngừng học hỏi, nâng cao
trình độ chun mơn, nghiệp vụ, kỹ thuật để góp phần xây dựng, phát triển đất
nước. Thế giới đang trong thời kỳ cơng nghiệp hố hiện đại hố, mọi thứ đang


thay đổi một cách “nhanh chóng mặt”, chỉ cần gián đoạn, ngừng nghỉ một chút
thơi là có thể sẽ bị tụt hậu lại phía sau so với các nước khác. Trồng người còn
mang ý nghĩa là giáo dục về mặt đạo đức lối sống, như Bác đã nói “Có tài mà
khơng có đức là người vơ dụng. Có đức mà khơng có tài thì làm việc gì cũng
khó”. Chữ “đức” mà Bác dạy là đạo đức cách mạng, trung với nước, hiếu với

dân, có hiếu với ơng bà cha mẹ, u thương tương trợ đồng bào,... Có tài mà
sống ích kỷ, tham ơ, vụ lợi, chỉ nghĩ đến lợi ích cá nhân thì cũng khơng thể làm
rạng danh và phát triển đất nước. Như vậy, “trồng người” phải là một quá trình
liên tục, kéo dài về tất cả mọi phương diện thì mới tạo nên những con người có
ích, trồng người mới đạt được hiệu quả cao.
“Trồng cây” và “trồng người” theo lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể
hiện rõ truyền thống văn hóa Việt Nam được giữ gìn và bồi đắp suốt chiều dài
lịch sử dân tộc. Mục tiêu lớn lao của “trồng cây” và “trồng người” chính là để
đất nước phát triển mãi mãi xanh tươi, đời đời bền vững. Người đã đi xa, nhưng
chiến lược “trồng cây” và “trồng người” tiếp tục được thực hiện, để không chỉ
phát triển kinh tế bền vững đi đôi với nhân thảm thực vật xanh, bảo vệ môi
trường sinh thái, chống biến đổi khí hậu - yêu cầu sống cịn với mỗi quốc gia mà
cịn góp phần bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ trẻ Việt Nam - lực lượng kế cận rường
cột của nước nhà ngày một phát triển và trưởng thành, một trong những nhân tố
quyết định sự thành bại của sự nghiệp cách mạng.


IV. Liên hệ luận điểm Hồ Chí Minh đến việc “trồng người” hiện nay
1. Về giáo dục
1.1 Thực trạng vấn đề “trồng người” trong nền giáo dục
Tư tưởng “ Vì lợi ích mười năm phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm phải
trồng người” của chủ tịch Hồ Chí Minh từ trước đến nay luôn là tiền đề, là cơ sở
cho nền giáo dục Việt Nam học tập, noi theo. Giáo dục Việt Nam luôn luôn nỗ
lực khắc ghi lời dạy của người trong sự nghiệp “ trồng người” phục vụ Tổ quốc.
Mặc dù cịn gặp phải nhiều khó khăn, gian khổ trên con đường “ trồng người”
nhưng giáo dục nước ta đã có được những thành tựu đáng kể. Hệ thống giáo dục
quốc dân từ mầm non đến đại học được xác lập, mạng lưới trường học phát triển
rộng khắp trong cả nước. Hệ thống giáo dục ở nước ta về cơ bản đã đáp ứng
được nhu cầu học tập của nhân dân, hầu hết người dân trong độ tuổi đi học đều
được đến trường. Giáo dục mầm non đang được chấn chỉnh, củng cố và từng

bước phát triển. Hệ thống giáo dục phổ thông 12 năm với chương trình và sách
giáo khoa mới đã thống nhất trong cả nước. Cơng tác phổ cập tiểu học có tiến
bộ. Các trường chuyên, lớp chọn phát triển, chất lượng khá. Ngành dạy nghề đã
trở thành một bộ phận quan trọng của hệ thống giáo dục quốc dân, bao gồm các
trường dạy nghề chính quy và các lớp dạy nghề khơng chính quy. Ngành đại học
và trung học chuyên nghiệp đã bắt đầu tổ chức lại quá trình đào tạo, đa dạng hố
phương thức đào tạo. Cơng tác đào tạo sau đại học được đẩy mạnh. Công tác
quản lý Nhà nước về giáo dục từ mầm non đến sau đại học được thống nhất.
Công tác quản lý ngành, quản lý trường học bước đầu được đổi mới. Tăng


cường phân cấp quản lý giáo dục nhằm tăng quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm
cho các địa phương và cơ sở giáo dục. Ứng dụng rộng rãi công nghệ thơng tin
truyền thơng hình thành giám sát xã hội đối với chất lượng giáo dục . Đẩy mạnh
cải cách hành chính trong tồn ngành, mở rộng mơi trường giáo dục thân thiện.
Những kết quả đạt được thể hiện sự nỗ lực của đội ngũ giáo viên và cán bộ quản
lý giáo dục, sự cố gắng của học sinh, sinh viên, sự lãnh đạo và quản lý của các
cấp uỷ đảng, chính quyền, các đồn thể và sự đóng góp to lớn của nhân dân.
Ngoài ra, chất lượng giáo dục ở cấc cấp học và trình độ đào tạo có tiến bộ, trình
độ hiểu biết, năng lực tiếp cận tri thức của học sinh, sinh viên bước đầu được
nâng cao. Phát triển giáo dục và đào tạo đã chuyển theo hứng đáp ứng ngày càng
tốt hơn nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, khoa học và công nghệ, từng bước
đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động. Hầu hết nhà giáo có trình độ đào tạo
đạt chuẩn và trên chuẩn. Trình độ tin học và ngoại ngữ của đội ngũ nhà giáo đã
được nâng lên, Về cơ bản đội ngũ nhà giáo có ý thức chính trị, phẩm chất đạo
đức nghề nghiệp tốt, hầu hết đều tận tụy với nghề, cần cù chịu khó, có tinh thần
trách nhiệm cao, sáng tạo và quyết tâm tự bồi dưỡng nâng cao năng lực để đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Tuy nhiên, sự nghiệp “trồng người” của giáo dục vẫn còn nhiều nhược
điểm, so với yêu cầu phát triển của đất nước, nền giáo dục của ta còn nhiều yếu

kém. Chất lượng và hiệu quả giáo dục cịn thấp. Trình độ văn hoá, nghề nghiệp,
năng lực thực hành, hiểu biết về xã hội, nhân văn của học sinh còn yếu. Một bộ
phận đáng kể học sinh, sinh viên yếu kém về nhận thức chính trị, đạo đức, lối


sống. Thể lực học sinh giảm sút. Số học sinh, sinh viên khá giỏi, xuất sắc có
tăng lên nhưng số học sinh yếu kém, chất lượng thấp lại tăng nhanh hơn. Con
người được đào tạo thường thiếu năng động, chậm thích nghi với nền kinh tế xã hội đang đổi mới. Học sinh, sinh viên tốt nghiệp khó tìm việc làm. Giáo dục
trung học, giáo dục bổ túc đều giảm sút. Quy mơ giáo dục đại học và chun
nghiệp cịn nhỏ bé. Đại bộ phận đội ngũ giáo viên chưa được đào tạo và bồi
dưỡng tốt, bất cập với yêu cầu đổi mới giáo dục. Đời sống của giáo viên khó
khăn, nhiều người phải làm thêm, "dạy thêm" để sinh sống. Truyền thống tơn sư
trọng đạo bị xói mịn, vị trí xã hội của người thầy bị hạ thấp. Ngành giáo dục
không thu hút được người giỏi. Hệ thống các trường sư phạm rất yếu, chất lượng
thấp. Tình trạng yếu kém của đội ngũ giáo viên và hệ thống trường sư phạm rất
đáng lo ngại. Cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân còn bất hợp lý. Cơ sở vật chất
kỹ thuật của các trường rất nghèo nàn, nhiều trường sở xuống cấp nghiêm trọng,
thiết bị thí nghiệm, nghiên cứu khoa học thiếu thốn và lạc hậu. Công tác quản lý
giáo dục chuyển biến chậm; sự phân công, phân cấp trách nhiệm, quyền hạn
giữa các ngành, các cấp còn chưa hợp lý. Việc sử dụng và quản lý các nguồn đầu
tư cho giáo dục cịn ít hiệu quả, chưa tập trung vào những hướng ưu tiên. Cán bộ
quản lý giáo dục các cấp thiếu được đào tạo, bồi dưỡng.
1.2 Nguyên nhân của thực trạng
Nguyên nhân chủ yếu của thực trạng yếu kém và giảm sút nói trên là:
Nguyên nhân khách quan do áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ khơng hợp lí
dẫn đến kìm hãm sự phát triển của nhân tài, nó tạo ra một lực lượng lớn những


con người có nhận thức bảo thủ, chậm tiến là rào cản cho sự phát triển của đất
nước nói chung và nền giáo dục nói riêng.Thứ hai, nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa chưa có những tiêu chí phát triển rõ ràng khiến hệ thống
giáo dục không thể đáp ứng nhu cầu về nhân lực cho nền kinh tế mới, khả năng
điều tiết nguồn nhân lực, định hướng nghề nghiệp của nền giáo dục bị hạn chế.
Nguyên nhân chủ quan là do bộ máy giào dục không liên kết chặt chẽ với xã
hội, với đơn vị cần nhân lực. Bản thân ngành giáo dục thì chậm đổi mới về cơ
cấu hệ thống, mục tiêu, nội dung và phương pháp, chưa làm tốt chức năng tham
mưu và trách nhiệm quản lý nhà nước. Các cấp uỷ đảng, các cơ quan nhà nước
và xã hội chưa nhận thức đầy đủ vai trò, tác dụng của giáo dục, chưa kịp thời đề
ra các chủ trương và giải pháp có hiệu quả để thúc đẩy sự nghiệp giáo dục phát
triển. Kinh tế chậm phát triển, ngân sách nhà nước dành cho giáo dục cịn có
hạn, dân số tăng nhanh, gây nhiều khó khăn lớn cho sự phát triển giáo dục.
1.3 Biện pháp khắc phục
Qua đó, các biện pháp cần thực hiện đó là cần nghiên cứu những quan điểm
đổi mới triệt để đáp ứng đòi hỏi sự phát triển mạnh mẽ và bền vững của đất
nước, của thời đại, chứ không chỉ dừng ở một số cải cách cụ thể rời rạc, đổi mới
tư duy và triết lý giáo dục, các quan điểm chủ đạo nhằm hiện đại hóa nền giáo
dục nước nhà. Hai, kiến nghị Nhà nước tiến hành cải cách ngay cơ cấu hệ thống
giáo dục quốc dân theo hướng gắn kết giáo dục phổ thông và giáo dục nghề
nghiệp, khắc phục những lệch lạc có tính chất hệ thống hiện tại; giải quyết tốt,
hợp lí việc phân luồng, phân ban, liên thông mềm dẻo, linh hoạt trong toàn hệ


thống, đảm bảo tính tương thích, đồng bộ với cơ chế, tốc độ và yêu cầu mục tiêu
phát triển của nền kinh tế-xã hội. Nhà nước cần khẳng định rõ ràng chủ trương
vận dụng những mặt mạnh của cơ chế thị trường vào việc phát triển nền giáo
dục, coi cơ chế thị trường như một trong nhiều công cụ tạo động lực mạnh để bổ
sung cho các biện pháp kế hoạch hóa và vận dụng chính sách trong việc điều
chỉnh cân đối giữa các mặt : quy mô - chất lượng - hiệu qủa. Coi cơ chế thị
trường lành mạnh là một địn bẩy đảm bảo cho q trình hội nhập và phát triển
tất yếu, có thể và cần phải vận dụng có chọn lọc, đảm bảo cơng bằng trong cạnh

tranh giữa các tổ chức Giáo dục- Đào tạo trong và ngồi nước dưới sự quản lí
một cách chính thức và chặt chẽ của Nhà nước. Bộ GD-ĐT phối hợp cùng các
Bộ và các tổ chức có liên quan xây dựng đường lối chiến lược, chính sách phát
triển dài hạn ; xây dựng các quy chuẩn quốc gia về GD-ĐT, các tiêu chí phát
triển và đánh giá… Tập trung làm tốt chức năng kiểm định, thanh tra, kiểm tra
về GD-ĐT. Đổi mới tư duy về công tác lựa chọn, đào tạo, sử dụng và đãi ngộ
cán bộ quản lý ngành GD-ĐT để có một đội ngũ cán bộ có chất lượng và hiệu
quả.
2.

Về Đảng

2.1 Thực trạng “trồng người” của Đảng và Nhà nước ta hiện nay
Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần quý báu của dân tộc ta, có ý
nghĩa chiến lược quan trọng, định hướng cho sự nghiệp xây dựng, phát triển con
người Việt Nam hôm nay và mai sau. Vận dụng đúng đắn sáng tạo tư tưởng của
Người, trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay, Đảng


×