Tải bản đầy đủ (.pdf) (264 trang)

Cáu trúc, ngữ nghĩa, ngữ vựng của phép nối trong tiếng việt (so sánh với tiếng anh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.71 MB, 264 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
-------------------------

Ngơ Thị Bảo Châu

CẤU TRÚC, NGỮ NGHĨA, NGỮ DỤNG
CỦA PHÉP NỐI TRONG TIẾNG VIỆT
(SO SÁNH VỚI TIẾNG ANH)

Chuyên ngành : Ngôn ngữ học
Mã số
: 60 22 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. TRỊNH SÂM

Thành phố Hồ Chí Minh - 2009


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
So với các phân môn khác, ngữ pháp văn bản là một trong những phân mơn
xuất hiện khá muộn và có lịch sử chưa dày.
Xuất phát từ vai trò, ý nghĩa của phép liên kết nói chung, phép nối nói riêng,
chúng tơi thiết nghĩ đây là một trong những vấn đề đáng quan tâm. Thật sự, phép
nối đóng vai trị là thành tố tạo tính mạch lạc cho văn bản, là một trong những
yếu tố trọng yếu của vấn đề tạo lập và tiếp nhận văn bản.
Thế nhưng, thực tế là, nhiều nhà Việt ngữ học xem xét phép nối thông qua


phát ngôn, mà chưa xem xét nó thơng quan khái niệm cú (clause). Chúng tơi,
đứng trên quan điểm “cú”, sẽ phân tích những đặc điểm về cấu trúc, ngữ nghĩa,
ngữ dụng của phép nối tiếng Việt.
Đặc biệt, trong khi tiếp xúc với tiếng Anh, người viết thấy có những điểm
tương đồng và khác biệt giữa phép nối của ngôn ngữ này với tiếng Việt; do đó,
người viết tiến hành so sánh phép nối giữa hai ngơn ngữ. Chính những sự tương
đồng phản ánh sự qui luật chung về tư duy, diễn đạt ý tưởng chung của nhân
loại; còn sự dị biệt lại phản ánh sự khác biệt về loại hình ngơn ngữ cũng như sự
nghiêng về mặt hình thức ngữ pháp – tiếng Anh hay ngữ nghĩa – tiếng Việt của
hai ngôn ngữ.
Đồng thời, việc nghiên cứu đề tài này cũng phục vụ trực tiếp cho việc giảng
dạy phân môn Ngữ pháp văn bản, Tiếng Việt thực hành cũng như việc rèn luyện
ngoại ngữ của người viết.


2.

Lịch sử vấn đề

2.1. Ngoài nước
Năm 1976, nhà xuất bản Lodon và Nework đã cho ra đời quyển “Cohesion
in English” –Phép Liên kết trong tiếng Anh của M.A.K Halliday và Ruqaiya
Hassan [108]. Đây có thể xem là cơng trình đầu tiên đánh dấu lịch sử nghiên cứu
về phép nối. Trong quyển sách, hai tác giả đã trình bày khá kỹ về các phép liên
kết: Quy chiếu (Reference), Phép thế (Substitution), Phép tỉnh lược (Ellipsis),
Phép liên kết từ vựng (Lexical cohesion) và trong đó có Phép nối (Conjunction).
Về phép nối, Halliday và Hassan nhấn mạnh rằng sự nối kết phải dựa trên mối
quan hệ ngữ nghĩa của chúng. Nhưng đó khơng phải là mối quan hệ cố định, mà
là “cái theo sau được kết nối một cách hệ thống với cái đã đi trước”. Đây là cơng
trình nghiên cứu khá kỹ và đi vào chi tiết vào phép nối nói riêng, các phép liên

kết khác nói chung. Sau đi đưa ra khái niệm về phép nối, Halliday và Hassan đã
phân phép nối thành 4 loại chính theo quan hệ ngữ nghĩa của chúng: i.Bổ sung
(Additive), ii.Đối lập (Adversative), iii.Nhân quả (Causal) và iv.Quan hệ thời
gian. Đồng thời, tác giả cũng thống kê một số liên từ biểu hiện những quan hệ
ngữ nghĩa trong phép nối, và phân tích một số liên từ tiêu biểu. Nhìn chung,
đóng góp lớn của cơng trình là về lí thuyết văn bản nói chung, phép nối nói riêng
cũng như những quan hệ ngữ nghĩa trong phép nối.
Đến năm 1998, ấn bản lần 2 của M.K.Halliday về “An Introduction to
Functional Grammer” - Dẫn luận ngữ pháp chức năng, (được tái bản lần 6) do
Hoàng Văn Vân dịch [31]. Trên cơ sở cơng trình thứ nhất năm 1976, Halliday
tiến hành bổ sung và sữa chữa những vấn đề có liên quan, đặc biệt về liên kết.


Cơng trình trình bày và phân tích khá kỹ về khái niệm Cú (Clause) và xem cú là
khái niệm cơ sở để soi sáng các góc độ của văn bản. Đây là cơng trình được
nhiều nhà nghiên cứu đánh giá cao và được xem là cơng trình khơng thể khơng
biết đến khi nghiên cứu ngữ pháp văn bản nói chung, phép nối nói riêng. Đầu
tiên, tác giả làm rõ khái niệm cú đứng trên ba kiểu ý nghĩa khu biệt hàm chứa
trong cấu trúc của một cú: i.Cú như là một thông điệp – “clause as a masage”
(cấu trúc Đề - Thuyết, ), ii. Cú như là một sự trao đổi – “clause as an exchange”
(hệ thống ngữ pháp và hệ thống thức (mood), Chủ – Vị (chủ ngữ ngữ pháp) và
iii.Cú như là sự thể hiện – “clause as a representation” (chủ ngữ logic: hành
thể, cú được xem như chứa đựng một ngun tắc cơ bản để mơ hình hóa kinh
nghiệm, tức là cú được xem xét như là một q trình - process). Sau đó,
M.K.Halliday mở rộng khái niệm Cú - dưới cú (những tổ hợp nhỏ hơn cú) và
trên cú (những tổ hợp lớn hơn cú). Công trình cũng đưa ra sự biện luận khá kỹ
về việc chọn cú làm đơn vị cơ bản đề nghiên cứu ngữ pháp chức năng. Từ những
kiến thức nền tảng về “cú”, tác giả soi sáng vào khái niệm: Liên kết và Ngôn bản
(mục 9) - đây là nội dung trọng tâm mà chúng ta cần nghiên cứu. Ở mục này, tác
giả cũng trình bày những phép liên kết cơ bản, nhưng sự phân chia có khác

trước. M.K.Halliday nhập tỉnh lược và thay thế làm một; như vậy, từ năm phép
liên kết, trong cơng trình này chỉ cịn bốn. Tác giả phân chia tỉ mỉ Phép nối theo
ba lĩnh vực: i.Chi tiết hóa (Elaboration), ii.Bành trướng (Expantion) và iii.Tăng
cường (Enhancement). Theo chúng tơi, cách nhìn nhận liên kết dựa trên khái
niệm “cú” của M.K.Halliday có nhiều ưu điểm, nó mang tính khái quát cao. Và
chúng tôi, trong luận văn này, phần lớn theo quan điểm của M.K.Halliday để
nghiên cứu phép nối của tiếng Việt. Đồng thời, trong cơng trình này, Halliday
cũng trình bày khá kỹ về các quan hệ ngữ nghĩa của phép nối. Trên cơ sở kế


thừa, chúng tôi soi sáng vào phép nối tiếng Việt; đồng thời phân chia lại, thay
đổi một số thuật ngữ để phù hợp với một ngôn ngữ đơn lập như tiếng Việt.
Tóm lại, Halliday là một trong những người đặt những viên gạch đầu tiên
để xây dựng nền móng cho việc tìm hiểu phép nối nói riêng, liên kết nói chung.
Đến năm 1992, nhà xuất bản Philadelphia ở Amsterdam cho ra mắt bạn
đọc cơng trình của J.R.Martin [120] về “English Text – System and Structure”
(Văn bản tiếng Anh - Hệ thống và Cấu trúc). Đây có thể xem là cơng trình
nghiên cứu khá kỹ về các phép liên kết, trong đó có phép nối. Chính tác giả này
đưa đến bạn đọc khái niệm Nối bên trong (Internal relations) và Nối bên ngoài
(External relations) - điểm mới của tác giả so với Halliday. Và Martine đã đưa ra
những tiêu chí phân biệt hai loại quan hệ nối này. Đặc biệt, tác giả đã dựa vào
ngữ cảnh cụ thể (Circumtaintial identifying relationals) để phân biệt Nối bên
ngoài (External relations), và dựa vào khái niệm Phóng chiếu (Projection) để
nhận dạng kiểu Nối bên trong (Internal relations). Tác giả cũng chia từng loại
nối bên trong và bên ngoài theo các loại quan hệ: i.Bổ sung (Addictive relations),
ii.Nhân quả (Consiquential relations), iii.So sánh (Comparative relations),
iv.Thời gian (Temporal) và v.Định vị (Locative relations). Ở mục thứ 6 của
quyển sách, tác giả có đề cập đến: Conhesion and register (Liên kết và ngữ vực)
và Cohesive harmony analysis (Phân tích tính hài hịa liên kết). Ở phần thứ nhất
(Conhesion and register), tác giả chủ yếu tóm tắt và trích dẫn lại một số nhận

định của M.K.Halliday và Ruaqaiya Hassan về vấn đề có liên quan đến liên kết
và ngữ vực. Phần còn lại – Cohesive harmony analysis (Phân tích tính hài hịa
trong liên kết), J.R.Martin đề cập đến kỹ năng (hay thủ thuật – Procedure) khảo
sát sự tương tác của chuỗi sở chỉ, chuỗi từ vựng và ngữ pháp kinh nghiệm. Thủ


pháp Cohesive harmony analysis chủ yếu để xem xét sự liên kết trong đơn vị văn
bản; do đó, nó chú ý đến môi trường tồn tại của phép liên kết. Tuy nhiên, cơng
trình chỉ là những bước phát thảo sơ bộ về phép nối.
Năm 2000, quyển “English Grammer - An Introduction” của Peter Collins
và Carmella Hollo [93] được tái bản (lần 2). Quyển sách gồm hai phần
A.Grammatical Decription (Mô tả ngữ pháp) và B.Looking at language in
context (Xem xét ngôn ngữ trong ngữ cảnh). Ở phần thứ 2, mục Cohesion – Liên
kết và Analysis of Cohesion in sample texts – Phân tích phép liên kết trong
những văn bản tiêu biểu - đã đề cập đến vấn đề liên kết và phép nối. Theo hai tác
giả, ở cấp độ vĩ mô, có các loại phép liên kết: 1).Deictic (Trực chỉ), 2).Generic
(Loại Thể) và 3).Logical signposts (Dấu hiệu logíc). Ở cấp độ vi mơ, liên kết có
các loại: 1).Đồng sở chỉ (Co-reference), 2).Thay thế (Substitution) và 3).Tỉnh
lược (Ellipsis).
Theo hai tác giả này, 1).trực chỉ (deictic) là những đơn vị định vị các nhân
vật tham gia giao tiếp, định vị không gian, thời gian (ngữ cảnh hội thoại và thời
gian hội thoại). Cụ thể đó là: i.Participant identification (Nhận ra người tham
gia giao tiếp), ii.Place and time indicators (yếu tố chỉ không gian, thời gian),
iii.Temporal ordering expressions (Sự diễn đạt theo trật tự thời gian) và iv.Tense
and aspect (Thì và Thể - cũng là một yếu tố xác định thời gian của hành động).
Về 2).Loại thể (Generic), đó là những yếu tố làm cho bố cục của văn bản trở nên
rõ ràng, theo một mẫu thức xác định: “in set patterned ways”, chẳng hạn như
phân chia văn bản thành từng chapter (chương), paragraphs (đoạn)…Về 3).Dấu
hiệu logic (Logical signposts), đó là những dấu hiệu trình bày ngữ liệu theo một
chuỗi logic, chuỗi trật tự thời gian như: first (đầu tiên), then (sau đó)…, on one



hand (một mặt), on the other hand (mặt khác)…Tóm lại, ba ý nghĩa ở cấp độ vĩ
mơ trên chính là những quan hệ ý nghĩa chỉ thời gian, không gian và trật tự diễn
đạt.
Và hai tác giả đi sâu vào từng khía cạnh: i.Text Orientation (Định hướng
văn bản), ii.Grammatical cohesion (Liên kết ngữ pháp), iii.Logical connectors
(Những yếu tố liên kết logíc) và iv.Lexical Cohesion (Liên kết từ vựng). Trong
mỗi phần vừa nêu, Peter Collins và Carmella Hollo đều có đề cập ít nhiều đến
phép nối. Chẳng hạn, trong phần Text Orientation (Định hướng văn bản), hai tác
giả có kể đến: Temporal ordering expression – Diễn đạt trật từ thời gian (Tr164)
và liệt kê liên từ như: First, second, next... Đến mục Logical connectors, tức
những yếu tố liên kết logic, tác giả lại đưa ra bốn loại liên kết logíc: i.Addictive
(Bổ sung), ii.Adversative (Tương phản), iii.Causal (Nhân-quả) và iv.Temporal
(Thời gian) (tr171-172). Bốn kiểu này là những loại phép nối mà M.K.Halliday
và các tác giả khác đã nêu. Do đó, trên cơ sở kế thừa, chúng tôi sẽ tiến hành bổ
sung và điều chỉnh những vấn đề trùng lắp.
Ngoài ra, lấy cú làm đơn vị phân tích cơ bản, Peter Collins và Carmella
Hollo còn đề cập đến những loại cú (clause types) và những mối quan hệ giữa
các cú hay câu như: Đẳng lập (coordination) và Chính phụ (subordination). Nhìn
chung, có đề cập đến lí thuyết, nhưng cơng trình chủ yếu đi vào các khía cạnh
ứng dụng của phép nối.
Năm 2008, cơng trình bằng tiếng Anh của David Nunan [64] “Introduction
Discourse Analysis” - “Dẫn nhập phân tích diễn ngơn” được hai dịch giả Hồ Mỹ
Huyền và Trúc Thanh dịch sang tiếng Việt. Sau khi đề cập đến khái niệm diễn
ngôn cũng như phân biệt khái niệm diễn ngôn và văn bản, Nunan đề cập đến liên


kết, trong đó có phép nối. Ngồi việc đề cập đến khái niệm phép nối, tác giả còn
đề cập đến bốn loại quan hệ ngữ nghĩa chủ yếu trong phép nối, đó là: i.Nghich

đối, ii.Bổ sung, iii.Thời gian và iv.Nguyên nhân. Ngồi ra, cơng trình cịn đề cập
đến khái niệm và phân tích một vài cấu trúc đề thuyết trong diễn ngơn. Do vậy,
những lí thuyết của cơng trình có thể được xem là cơ sở lí thuyết để nghiên cứu
ngữ nghĩa, ngữ dụng của phép nối trong tiếng Việt.
Như vậy, trong khả năng bao quát tư liệu có thể chưa đầy đủ của chúng
tôi, phép nối đã được nhiều nhà Anh ngữ học chú ý đến; và những thành tựu của
nó, nhất là về mặt lí thuyết cũng đạt được những nền móng cơ bản.
2.2. Trong nước
Phạm vi trong nước, cũng có khá nhiều cơng trình đề cập đến văn bản, liên
kết và cấu trúc, ngữ nghĩa, ngữ dụng của phép nối.
Năm 1980, Nhà xuất bản Đại học và trung học chuyên nghiệp Hà Nội đã
giới thiệu với bạn đọc cơng trình “Ngữ pháp tiếng Việt” của Hồng Trong Phiến
[66]. Trong cơng trình này, điểm đóng góp nổi bật của tác giả chính là đưa ra các
mơ hình của câu ghép ứng với từng loại quan hệ trong câu ghép - mà theo quan
niệm của chúng tôi là phép nối như: i.câu nhân quả, ii.câu điều kiện, iii.câu nhân
nhượng, iv.câu mục đích, v.câu so sánh, vi.câu đồng loại, vii.câu tương phản,
viii.câu lựa chọn và ix.câu gộp. Chính những mơ hình này là tài liệu vơ cùng q
báu để chúng tôi xem xét các quan hệ ngữ nghĩa cơ bản của phép nối cũng như
bổ sung thêm vào phép nối một hệ thống liên từ thể hiện sự nối kết giữa các cú
hay phát ngôn.


Năm 1985 (tái bản vào 05/04/1999), cơng trình của Trần Ngọc Thêm [76]
về “Hệ thống liên kết và văn bản Tiếng Việt” đã được cơng bố. Đây là cơng trình
có giá trị và đánh dấu một bước phát triển mới của ngữ pháp văn bản nói chung,
phép nối nói riêng. Cơng trình nghiên cứu sâu rộng các khía cạnh của văn bản;
khái quát cả ba bình diện ngữ pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng của phép nối. Cơng
trình trình bày ba phần chính. Phần 1 gồm ba chương, đề cập về các khái niệm
và cái nhìn khái quát về “Liên kết văn bản”. Ở phần 2, tác giả bắt đầu đi vào
“Các phương thức liên kết giữa các phát ngôn”. Đây là chương đề cập đến các

phương thức (phép) liên kết ở mặt hình thức, trong đó có phép nối. Trần Ngọc
Thêm dựa trên các loại phát ngôn, chia phép liên kết thành hai loại cơ bản: Phép
nối lỏng (dựa trên phương thức liên kết hợp nghĩa và phát ngôn hợp nghĩa) và
Phép nối chặt (dựa trên phương thức liên kết trực thuộc và phát ngôn trực thuộc
(mà tác giả gọi là ngữ trực thuộc). Trong phép nối lỏng, Trần Ngọc Thêm cịn
trình bày mơ hình của các yếu tố từ vựng làm thành phần chuyển tiếp hay các từ
làm phụ tố có ý nghĩa so sánh (mà chúng tơi gọi chung là liên từ) như: cũng, lại,
vẫn, càng, còn, cứ…Tác giả cũng đề cập đến cấu trúc khái quát của phép nối:
ArB cũng như trình bày những quan hệ ngữ nghĩa cơ bản của phép nối. Dựa trên
quan hệ ngữ nghĩa, tác giả chia phép nối theo ba quan hệ cơ bản, mỗi quan hệ lại
có những tiểu loại cơ bản: i.Quan hệ định vị (thời gian, không gian); ii.Quan hệ
logic diễn đạt (bao gồm: Trình tự diễn đạt, Thuyết minh- bổ sung và Xác minh –
nhấn mạnh); và iii.Quan hệ logic sự vật (bao gồm: Nhân quả, và Tương phản –
đối lập). Còn phần 3, tác giả đề cập đến khái niệm liên kết ở mặt nội dung. Tóm
lại, đứng trên quan điểm phát ngơn, Trần Ngọc Thêm đã mô tả những đặc điểm
cơ bản của một phép nối nói chung. Từ mơ hình lí thuyết chung này, chúng tôi


kế thừa có điều chỉnh để khảo sát mơ hình của một số tiểu loại phép nối. Có thể
nói, đây là một trong những cơng trình nghiên cứu sâu và kỹ về phép nối của
tiếng Việt.
Năm 2001, Nhà xuất bản Giáo Dục đã ra mắt bạn đọc cơng trình của
Nguyễn Thị Việt Thanh [74] về “Hệ thống kiên kết lời nói tiếng Việt”. Đối tượng
nghiên cứu là ngơn bản, đề cập khá sâu về những vấn đề khái quát chung liên
quan đến liên kết lời nói, tác giả chia liên kết lời nói thành hai phương thức
i.“Bằng phương thức ngữ kết học” và ii.“Bằng phương thức ngữ dụng học”.
Trong phương thức liên kết ngữ kết học lại được chia thành ba tiểu loại: Liên kết
duy trì chủ đề, Liên kết phát triển chủ đề và Liên kết logic. Trong đó, phép nối
thuộc phương thức liên kết logic. Tác giả cũng đã đề cập đến phép nối khơng có
liên từ: “mặc dù từ nối không được sử dụng nhưng quan hệ ngữ nghĩa vẫn được

xác lập” [74;50]. Nhưng chung qui lại, đóng góp chủ yếu của cơng trình là
nghiên cứu các phương tiện liên kết trên ngữ liệu lời nói.
Năm 2006, quyển “Văn bản và liên kết trong tiếng Việt: Văn bản, Mạch
lạc, liên kết, đoạn văn” của Diệp Quang Ban [6] được tái bản (lần thứ ba). Trong
cơng trình, tác giả trình bày thành từng bài mục rõ ràng về bốn nội dung đã nêu
trong nhan đề sách, rất tiện cho việc tham khảo. Ở phần 2, tác giả đã đề cập đến
phép liên kết, trong đó có Phép nối (từ tr132-134). Lấy phát ngôn làm cơ sở
nghiên cứu như Trần Ngọc Thêm, Diệp Quang Ban cũng chia phép nối thành hai
loại cơ bản: Phép nối lỏng và Phép nối chặt. Đặc biệt, ở phần một, tác giả đã đưa
ra khoảng 15 cách hiểu về khái niệm về văn bản, phân biệt khái niệm văn bản và
diễn ngôn, ngôn ngữ nói và viết và nêu lên những đặc trưng của một văn bản nói


chung. Trần Ngọc Thêm cũng đã đề cập đến cấu trúc đề thuyết – cấu trúc mang
ý nghĩa thông báo trong văn bản.
Năm 2007, nhà xuất bản Đại học Sư phạm đã cho ra mắt bạn đọc quyển
“Văn bản” của tác giả Diệp Quang Ban [7] theo dự án đào tạo giáo viên THPT
cuả Bộ Giáo dục và Đào Tạo. Phải cơng nhận đây là cơng trình viết khá bao qt
về các khía cạnh của văn bản; cơng trình đề cập hầu hết các phép liên kết, trong
đó có phép nối. Trong bài viết của mình, Diệp Quang Ban đã đề cập đến phép
nối và các phương tiện nối; và các quan hệ ý nghĩa thường gặp trong phép nối.
Về phương tiện nối, ông chia làm hai loại lớn: Quan hệ từ (bình đẳng / phụ
thuộc) và Từ ngữ nối kết (đại từ thay thế/những tổ hợp từ ngữ có ý nghĩa quan hệ
và có tác dụng liên kết). Cịn về các quan hệ thường gặp trong phép nối, ngoài 4
quan hệ mà Halliday đã nêu: i.bổ sung, ii.tương phản, iii.thời gian, iv.nhân quả;
Diệp Quang Ban còn đề cập thêm hai loại quan hệ nữa: mục đích và điều kiện.
Nhìn chung, các cơng trình là một sự tổng hợp từ các cơng trình đi trước nên sự
đóng góp của nó là khơng đáng kể.
Năm 2002, (tái bản 2005) cơng trình của Hoàng Văn Vân [31] ra đời “Ngữ
pháp kinh nghiệm của cú tiếng Việt: Mô tả theo quan điểm chức năng hệ thống”.

Đây là cơng trình mà tác giả viết dựa chủ yếu vào luận án tiến sĩ được tiến hành
tại Khoa Ngôn ngữ học, đại học Macquarie, Australia với nhan đề tiếng Anh “An
Experiential Grammer of the Vietmam clause: A functional Description”. Cơng
trình dựa trên lý thuyết của M.K.Halliday về cú (clause) trong cơng trình “An
Introduction to Functional Grammer” (Dẫn luận ngữ pháp chức năng) để soi
sáng vào tiếng việt. Thật sự, cơng trình có một ý nghĩa đột phá, đem đến một


cách hiểu mới về ngữ pháp văn bản, bên cạnh cách hiểu cũ – dựa vào phát ngơn.
Nhìn chung, cơng trình là sự vận dụng của ngữ pháp Châu Âu vào tiếng Việt. Dù
chưa nghiên cứu sâu về phép nối, nhưng cơng trình ít nhiều đã khẳng định vai
trị, ý nghĩa của cú trong việc biểu thị kinh nghiệm (cú như là một sự thể hiện
“clause as a representation” để mơ hình hóa kinh nghiệm theo quan điểm chức
năng hệ thống; do đó, nó có ý nghĩa về mặt lí thuyết cho việc chọn cú làm đơn vị
cơ sở của phép liên kết nói chung, phép nối nói riêng.
Nhìn chung, những cơng trình trên đã đề cập khá tồn diện về những vấn
đề chung về văn bản, liên kết và phép nối.
Năm 1995, Đỗ Thị Kim Liên [56] đã đề cập đến “Quan hệ ngữ nghĩa
trong câu ghép không liên từ” - Ngơn ngữ số 2/1995. Trong cơng trình này, tác
giả đã trình bày khá kỹ về quan niệm của các nhà ngữ pháp đi trước: một là
không đề cập đến loại câu ghép không liên từ, hai là không tách câu ghép không
liên từ thành một đối tượng nghiên cứu riêng. Tác giả cũng đề cập đến “những
nhân tố tạo nghĩa trong câu ghép khơng liên từ”. Đó chính là cấu trúc chuyền tải
ý nghĩa; các phương tiện liên kết như phụ từ tình thái, trật tự trước sau…; hay ý
nghĩa của các thành tố trong loại câu ghép này. Về quan hệ ngữ nghĩa, vì đánh
giá cao vai trò của vị ngữ trong việc thể hiện quan hệ ngữ nghĩa trong câu ghép
không liên từ, nên tác giả xem xét các kiểu quan hệ ngữ nghĩa chính của loại câu
ghép này trên hai phương diện cơ bản: i.Các kiểu quan hệ ngữ nghĩa giữa các vị
ngữ và ii.Số lượng các thành tố trong vị ngữ. Đồng thời, tác giả cũng nêu lên
một số quan hệ ngữ nghĩa trong câu ghép khơng có liên từ như: i.Quan hệ ngữ

nghĩa đẳng kết, ii.Quan hệ đối sánh (so sánh đồng nhất, so sánh đối lập - khác
biệt, so sánh đối ứng); và iii.Quan hệ ngữ nghĩa tiếp liên (bao gồm 7 nhóm:


nhóm ý nghĩa thời gian – hành động, nhóm quan hệ nguyên nhân – kết quả,
nhóm quan hệ điều kiện – kết quả, quan hệ luận chứng – thuyết minh, quan hệ
ngữ nghĩa bao hàm, quan hệ giải thích, và quan hệ kết quả, nguyên nhân). Bên
cạnh đó, Đỗ Thị Kim Liên còn đề cập đến “giá trị của các cú trong chỉnh thể của
câu ghép”, phần này có liên quan ít nhiều đến tiêu điểm thơng báo cũng như
quan hệ ngữ nghĩa giữa các cú. Nhìn chung, cơng trình là tài liệu vơ cùng q giá
để chúng tơi nghiên cứu phép nối khơng có liên từ, các quan hệ ngữ nghĩa trong
phép nối và một số cách diễn đạt mang tiêu điểm thông tin khác nhau trong phép
nối, tức ngữ dụng.
Cũng trong năm 2006, cơng trình “Các phương tiện tổ chức và liên kết văn
bản tiếng Việt” của Nguyễn Chí Hịa [45] ra đời. Cơng trình đánh dấu một bước
ngoặt lớn về khái niệm “câu ghép khơng có quan hệ từ” – đứng trên quan điểm
phát ngơn. Trước đó, một số bài viết của tác giả về vấn đề này đã được cơng bố
trên tạp chí Ngơn ngữ, chẳng hạn như bài “Về khái niệm ngữ pháp hóa và câu
ghép khơng có liên từ” [43]. Căn cứ vào kết quả cơng trình nghiên cứu của
Nguyễn Chí Hịa, cộng với những cứ liệu thống kê được¸ chúng tơi trình bày về
phép nối khơng có liên từ - đứng trên quan điểm cú (clause). Bên cạnh đó, cơng
trình “Các phương tiện tổ chức và liên kết văn bản tiếng Việt” của Nguyễn Chí
Hịa cũng đi sâu vào tìm hiểu các khía cạnh ngữ dụng của các liên từ tiếng Việt.
Vấn đề này được chúng tơi vận dụng một cách có bổ sung, điều chỉnh vào phần
ngữ dụng ở chương 2.
Năm 1999, Nguyễn Hữu Tiến [80] cũng đã giới thiệu với đọc giả bài
nghiên cứu của mình về “Quan hệ liên câu trong văn bản tiếng Việt” trong tạp


chí Ngơn ngữ Số 1. Cơng trình đã trình bày tóm lược sơ bộ những khái niệm của

Trần Ngọc Thêm về phép nối như khái niệm, phép nối đẳng lập và chính phụ,
cũng như chức năng thực hiện liên kết hồi qui và liên kết dự báo của phép nối.
Ngoài ra, tác giả cũng đề cập đến “vai trò, ngữ nghĩa, ngữ dụng của các từ ngữ
chuyển tiếp chỉ quan hệ nghịch đối”. Đó là tính kết nối, thơng qua việc “phá vỡ
tính hồn chỉnh vốn có của nó”. Có mâu thuẫn nhưng mức độ không cao nên
câu nghịch đối vừa “tạo lập quan hệ, vừa là dấu hiệu chỉ dẫn hay xác nhận quan
hệ”; và đây là quan hệ thực hiện liên kết “hướng ngoại, gián tiếp, hồi chỉ”. Tóm
lại, trên định hướng phân loại của Trần Ngọc Thêm, cơng trình đã cụ thể hóa
tương đối tỉ mỉ chi tiết, đồng thời phân chia thêm những tiểu loại mới về các loại
quan hệ ý nghĩa trong phép nối tiếng Việt. Đồng thời, tác giả cũng đi vào một
quan hệ cụ thể - quan hệ nghịch đối để phân tích giá trị về mặt ngữ dụng của loại
quan hệ này. Do đó, cơng trình có giá trị tham khảo về phương diện ngữ nghĩa,
ngữ dụng của luận văn.
Cũng năm 2004, Tạp chí Ngơn ngữ số 4 đã đăng bài viết của Võ Văn
Chương [16] về “Liên kết hồi qui trong ngôn ngữ học văn bản – Vài kiến nghị về
cách xác định và phân loại”. Đóng góp đầu tiên của tác giả là đi vào phân biệt
phép tỉnh lược và phép hồi quy. Sau đó, tác giả đi vào miêu tả các dạng thức của
liên kết hồi qui, dựa trên hai cơ sở chủ yếu sau: 1).dựa vào từ loại của kết tố và
2).dựa vào quan hệ ngữ nghĩa giữa chủ tố và kết tố. Trên tiêu chí phân loại thứ
nhất, tác giả chia liên kết hồi qui thành hai dạng chủ yếu: i..kết tố hồi qui là một
đại từ - và ii.kết tố hồi qui là một ngữ danh từ. Hai loại này chủ yếu gặp trong
phép thế. Theo tiêu chí phân loại thứ hai, tác giả chia liên kết hồi qui thành ba
tiểu loại: i.kết tố hồi qui là sự lặp lại từ vựng của chủ tố, ii.kết tố hồi qui là một


ngữ danh từ đồng nghĩa với ngữ danh từ làm chủ tố, và iii.kết tố hồi qui là một
ngữ danh từ có khả năng tóm lược nội dung (resomptif) hoặc khái niệm hóa
(conceptual) chủ tố và kết tố liên kết với chủ tố thông qua phép liên tưởng. Tuy
đề cập chủ yếu đến phép thế, đơi chỗ có nhắc đến phép tỉnh lược, phép liên
tưởng mà chưa đi sâu vào chức năng thực hiện liên kết hồi qui của phép nối;

nhưng đề cập khá kỹ đến liên kết hồi qui nên cơng trình đã đưa ra nhiều hướng
gợi mở cho việc tìm hiểu cách thức liên kết này trong phép nối nói chung. Chính
liên kết hồi qui phục vụ đắc lực cho việc tìm hiểu cấu trúc phép nối ở chương 2.
Đến năm 2007, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội cho xuất bản
quyển “Dụng học Việt ngữ” của Nguyễn Thiện Giáp [30]. Tác giả dành gần 50
trang để đề cập đến khái niệm “Diễn ngôn” và “Văn bản”, và từ trang 176 đến
178, Nguyễn Thiện Giáp đề cập đến Phép nối. Tác giả chia phép nối thành bốn
loại theo quan hệ ngữ nghĩa của chúng: i.Đồng hướng, ii.Ngược hướng, iii.Nhân
quả và iv.Thời gian – trình tự. Thực chất của quan hệ đồng hướng là quan hệ bổ
sung, của quan hệ ngược hướng là quan hệ tương phản. Ngồi ra, tác giả có đề
cập đến liên kết hồi chỉ và khứ chỉ. Theo Nguyễn Thiện Giáp, liên kết hồi chỉ và
khứ chỉ là một phương thức liên kết độc lập với phép nối (và cả phép tỉnh lược,
phép thế). Nhưng trong phần ví dụ, tác giả đã dẫn ra một ví dụ về phép liên kết
hồi chỉ và khứ chỉ, mà đó chính là phép nối: “Chiều nay được nghỉ học. Thế thì
ta đi xem phim nhé.” [30;174]. Liên từ thế thì biểu hiện kết quả trong quan hệ
điều kiện nhân quả. Bốn ví dụ cịn lại cũng là dạng phép nối khơng có liên từ
(mà theo một số tác giả là phép tuyến tính) – xem thêm trang 174. Nhìn chung,
bên cạnh việc đưa ra cách định danh mới về những quan hệ ý nghĩa cơ bản của


phép nối; đóng góp của cơng trình chủ yếu là ở chỗ gợi mở về chức năng thể
hiện liên kết hồi chỉ, khứ chỉ của phép nối nói chung.
Năm 2004, Lê Thị Minh Hằng [39] đã đóng góp bài viết về “Một đề nghị
phân loại câu điều kiện tiếng Việt” cho tạp chí Ngơn ngữ (số 2). Sau khi thống
kê một số cách phân loại câu điều kiện của một số nhà ngữ pháp Tiếng Việt như
Hoàng Tuệ, Hoàng Trọng Phiến…; tác giả đã đưa ra kiến nghị về một hướng
phân loại riêng. Đứng trên quan điểm ngữ nghĩa, Lê Thị Minh Hằng phân loại
câu điều kiện theo hai tiêu chí cơ bản: i.Quan hệ nhân – quả và ii.Tính hiện thực.
Theo tiêu chí “quan hệ nhân quả”, tác giả chia câu điều kiện thành hai bộ phận:
Bộ phận nêu quan hệ nhân quả và Bộ phận nêu quan hệ tiền đề - kết luận. Theo

tiêu chí “tính hiện thực”, tác giả chia câu điều kiện thành hai loại: Điều kiện giả
định và phi giả định (hiện thực). Hệ thống phân loại của tác giả được cụ thể hóa
như sau: 1).Điều kiện kết quả: i.Giả định (bao gồm: Giả thuyết, và Phản sự thật)
và ii.Phi giả định (bao gồm: Tất yếu và Tập quán. 2).Tiền đề - kết luận (gồm ba
tiểu loại: i.Suy đốn, ii.Sóng đơi và iii.Dẫn nhập tình huống). Ngồi ra, cơng
trình cịn cung cấp một số liên từ (mà tác giả gọi là “chỉ tố đánh dấu về mặt hình
thức”) thể hiện những loại câu điều kiện trên. Nhìn chung, cơng trình xốy sâu
vào một quan hệ ngữ nghĩa cơ bản của phép nối - cung cấp một tiêu chí mới
đồng thời đưa ra một kết quả phân định mới về loại quan hệ này.
Ngồi ra, có một số cơng trình đánh dấu về việc nghiên cứu về ngữ dụng
trong phép nối.
Năm 2002, Tạp chí Ngơn ngữ số 5, đã giới thiệu bài báo của Nguyễn Thị
Thìn [77] về “Các từ thì, mà, nhưng ở đầu câu trong chức năng liên kết nghĩa


học”. Bảy trang của bài báo đã trình bày khá kỹ về tính chất đa chức năng của
một số liên từ thông dụng trong tiếng Việt. Chẳng hạn, trong công trình, tác giả
đã trình bày các chức năng biểu hiện quan hệ của liên từ “thì” như: i.quan hệ
thời gian, ii.quan hệ móc xích – đề thuyết, iii.quan hệ điều kiện/ nguyên nhân –
hệ quả. Và liên từ “mà” thể hiện bốn quan hệ chính (mỗi loại lại bao gồm những
tiểu loại) sau: i.quan hệ bổ sung (bao gồm ba quan hệ nhỏ: bổ sung – liệt kê, bổ
sung – tăng cấp, bổ sung – chú thích), ii.quan hệ đối lập (bao gồm ba quan hệ
sau: tương phản (trái ngược), nghịch điều kiện – hệ quả, và mâu thuẫn), iii.quan
hệ móc xích đề thuyết đồng thời với quan hệ nhân - quả và iv.quan hệ đối chiếu
tương đồng. Còn liên từ “nhưng” lại biểu hiện bốn quan hệ ngữ nghĩa sau: i.quan
hệ đối lập, ii.quan hệ bổ sung đồng thời với quan hệ đối lập, iii.quan hệ so sánh
tăng cấp đồng thời với quan hệ đối lập và iv.quan hệ hạn định đồng thời với
quan hệ đối lập. Qua công trình, chúng ta cũng nhận ra đặc điểm ngữ nghĩa, ngữ
dụng, tức nghiêng về mặt nghĩa học, dụng học của các liên từ nói riêng, phép nối
nói chung.

Tạp chí ngơn ngữ số 4 năm 2005 đã ra mắt bạn đọc cơng trình “Quan hệ
ngữ nghĩa của các phát ngơn, giái trị tu từ của từ VÀ trong liên kết văn bản tiếng
Việt” của tác giả Lương Đình Khánh [51]. Tác giả nêu lên những quan hệ ngữ
nghĩa cũng như những chức năng chính yếu của liên từ này: i.quan hệ nguyên
nhân (nhân- quả), ii.quan hệ tương phản, iii.quan hệ bổ sung, và iv.quan hệ thời
gian – đồng thời và nối tiếp. Đây chính là cơ sở để chúng tơi xem xét ý nghĩa
ngữ dụng của một số liên từ đa chức năng trong phép nối tiếng Việt.


Trên tạp chí ngơn ngữ số 12, năm 2008 có bài đăng của Nguyễn Đức Dân
[23] về “Logic ngữ nghĩa của từ thì”. Trong bài viết, tác giả đã đề cập đến những
hàm ý ngữ dụng của cấu trúc nếu…thì, tức quan hệ điều kiện kết quả như: bác
bỏ, bác bỏ để khẳng định, giải thích, khuyên, từ chối, đánh giá, khuyên, …Đặc
biệt, Nguyễn Đức Dân đã trình bày những quan hệ điều kiện hệ quả không chứa
liên từ, mà ý nghĩa điều kiện của chúng vẫn được thể hiện.12 trang báo đã đi sâu
vào khai thác ý nghĩa ngữ dụng của phép nối nói chung, một quan hệ ngữ nghĩa
cơ bản của phép nối – quan hệ điều kiện – kết quả nói riêng. Điểm nổi bật của
tác giả này là đi vào khai thác ý nghĩa ngữ dụng của các quan hệ chủ yếu trong
nội bộ một phát ngơn.
Ngồi ra, năm 2005, cơng trình “Bắt buộc” và “tùy ý” về hai cách biểu
đạt nghĩa trong ngôn ngữ của Cao Xuân Hạo [37] đã gợi mở về vấn đề so sánh
đối chiếu về phép nối giữa tiếng Anh và tiếng Việt. Và tác giả đã khẳng định,
chính từ vựng và ngữ pháp là công cụ để xoay quanh trung tâm duy nhất là nghĩa
học: “Ta thường thấy có những ngữ nghĩa mà trong ngơn ngữ này thì biểu đạt
bằng phương tiện từ vựng mà trong ngôn ngữ kia lại biểu đạt bằng phương tiện
ngữ pháp” [37;6]. Tác giả cũng chỉ ra một cách khái quát những sự khác biệt về
đặc điểm của loại hình ngơn ngữ có biến đổi hình thái và ngơn ngữ đơn lập, qua
đó, tác giả khẳng định cấu trúc nội bộ của từng ngôn ngữ đóng vị trí trung tâm
trong việc biểu đạt nói chung. Nhìn chung, cơng trình có nghĩa phương pháp
luận và định hướng cho việc so sánh một số điểm tương đồng và dị biệt của phép

nối trong hai ngôn ngữ thuộc hai loại hình khác nhau. Cùng với cơng trình này,
một số luận án nghiên cứu về ngôn ngữ học đối chiếu giữa tiếng Việt và tiếng
Anh như: Thái Minh Đức [101] về “A Systematic Functional Interpretation of


Vietnamese Grammar” (1998), Nguyễn Thị Thu Hiền [40] về “Cấu trúc Đề Thuyết” trong bản tin tiếng Anh và tiếng Việt” (2008)... đã gợi mở về việc đối
sánh phép nối ở hai ngôn ngữ này.
Trên cơ sở kế thừa những cơng trình lí thuyết và thực tiễn quan sát những
bài viết cụ thể, luận văn này đặt nhiệm vụ cho mình là trên cứ liệu tiếng Việt,
khảo sát phép nối một cách hệ thống và tồn diện hơn.
3. Mục đích ngiên cứu
Chọn và nghiên cứu đề tài này, chúng tôi nhằm hướng đến những vấn đề sau:
- Làm rõ cấu trúc và chức năng của phép nối trong văn bản. Từ đó thấy được
phần nào vai trị của phép nối trong vấn đề tạo lập và tiếp nhận văn bản.
- Đề xuất một số cánh hiểu, cách phân chia mới về cấu trúc và ngữ nghĩa của
phép nối, cũng như đưa ra một số đặc điểm ngữ dụng của các liên từ trong phép
nối.
- Tìm và nêu lên những đặc điểm nổi bật của phép nối trong tiếng việt và
tiếng Anh. Đồng thời có những đối sánh cần thiết giữa hai ngôn ngữ để làm rõ,
làm nổi bật những đặc điểm đề cập. Từ đó, giúp ích phần nào cho việc học ngoại
ngữ và giảng dạy tiếng Việt của bản thân.
4. Phạm vi nghiên cứu
Do sự hạn hẹp về kiến thức, thời gian cũng như quy mơ của cơng trình,
chúng tơi chỉ tập trung chú ý vào những khía cạnh cơ bản sau:
- Như đã xác định, phép nối được chúng ta khảo sát trên ba bình diện: cấu
trúc, ngữ nghĩa, ngữ dụng. Và có thể phép nối có liên quan mật thiết với với một


số phép liên kết khác, nhưng đối tượng tiếp cận chính của chúng tơi vẫn là phép
nối.

- Hình thức là hình thức của một nội dung, tuy nhiên, trong cách tiếp cận
của chúng tơi, mặt hình thức của phép nối được chú ý nhiều hơn mặt nội dung.
- Khi nghiên cứu về phép nối, chúng tôi chỉ chú ý đến những đơn vị có
chức năng nối hai hay nhiều cụm câu (cú), phát ngôn với nhau, mà không xem
xét những trường hợp liên kết trong nội bộ một phát ngôn, chẳng hạn: Nam và
An là bạn thân. Như vậy, chúng tôi chỉ khảo sát nối giữa các cú, không chú ý đến
nối trong nội bộ một cú.
5. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài một số thủ pháp nghiên cứu mà bất kỳ cơng trình nào, dù khoa học
tự nhiên hay khoa học xã hội đều phải sử dụng như sưu tập, miêu tả, phân loại;
luận văn này sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chính sau:
- Phương pháp hệ thống – cấu trúc: Tính hệ thống, mặt cấu trúc bên trong
và các loại quan hệ trong phép nối được luận văn quan tâm, vận dụng.
- Phương pháp ngữ nghĩa – cú pháp: Nói tới phép nối, là nói tới các loại
quan hệ ngữ nghĩa, do vậy phương pháp này được ưu tiên phân tích.
- Phương pháp phân tích ngữ dụng: Phép nối chỉ được thực hiện một cách
rõ ràng trong những hoàn cảnh giao tiếp cụ thể. Do vậy, các yếu tố như ngữ
cảnh, thể loại, tính tương tác được luận văn vận dụng một cách tổng hợp.


6. Bố cục của luận văn
Luận văn được triển khai trong ba chương chính sau:
Chương 1: Một số vấn đề chung
1.1. Văn bản
1.2. Liên kết
1.3. Phép nối
1.4. Tiểu kết
Chương 2: Phép nối trong tiếng Việt
2.1. Cấu trúc
2.2. Ngữ Nghĩa

2.3. Ngữ dụng
2.4. Tiểu kết
Chương 3: Một vài đối sánh về phép nối trong tiếng Anh
và tiếng Việt.
3.1. Cấu tạo
3.1.1. Tương đồng
3.1.2. Dị biệt
3.2. Ngữ nghĩa
3.1.1. Tương đồng
3.1.2. Dị biệt
3.3. Ngữ dụng
3.1.1. Tương đồng
3.1.2. Dị biệt
3.4. Tiểu kết


Chương 1:

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG

1.1. Văn bản
1.1.1. Khái niệm
Có nhiều quan niệm khác nhau về văn bản. Một số tác giả cho rằng văn
bản là sản phẩm của cả hoạt động viết và nói, tức giao tiếp nói chung.
Sách giáo khoa Tiếng Việt 9 (NXBGD – 1995) định nghĩa văn bản như
sau: “Văn bản là sản phẩm của hoạt động giao tiếp bằng ngơn ngữ, nó là một
thể thống nhất có tính trọn vẹn về nội dung, hồn chỉnh về hình thức”.
D.Crystal cũng quan niệm rằng “Văn bản là một sản phẩm diễn ngôn
xuất hiện một cách tự nhiên dưới dạng nói, viết hoặc biểu hiện bằng cử chỉ,
được nhận dạng vì những mục đích phân tích. Nó thường là một chỉnh thể

ngôn ngữ với một chức năng giao tiếp có thể xác định được, ví dụ như một
cuộc thoại, một tờ áp phích.” [97;72].
Nhưng một số tác giả lại cho rằng văn bản chỉ thuộc dạng viết.
Theo David Nunan: “…tôi sẽ sử dụng thuật ngữ văn bản để chỉ bất kì
cái nào ghi bằng chữ viết của một sự kiện giao tiếp.”[64;21], bởi tác giả phân
biệt khái niệm văn bản với khái niệm diễn ngôn - văn bản trong ngữ cảnh, tức
văn bản nói.
Theo G. Cook thì “Văn bản: một chuỗi ngơn ngữ giải quyết được ở mặt
hình thức, bên ngoài ngữ cảnh.” [95;158].
G.Brown và G.Yule cũng khẳng định: “Chúng ta sẽ sử dụng văn bản
như một thuật ngữ chun mơn, để nói đến việc ghi lại bằng ngôn từ của một
hành động giao tiếp.” [10;6].
Theo Bùi Tất Tươm, văn bản ln tồn tại trong q trình giao tiếp,
được đặt trong một bối cảnh giao tiếp nhất định. Theo quan điểm của Jacques


Lerot – Précis de lingúitique générale, tác giả này khẳng định: “Văn bản là
một phần của lời nói có tính độc lập và mạch lạc tạo thành một hành động
giao tiếp hoàn chỉnh mà nội dung được tổ chức xoay quanh một đề
tài.”[84;65].
Diệp Quang Ban, trong cơng trình “Văn bản và liên kết trong tiếng
Việt” đã đề cập đến định nghĩa của Barthes như sau:
“Chúng ta sẽ gọi cái khách thể của xuyên ngôn ngữ học
(translinguistics) là diễn ngôn (discourse) – tương tự như văn bản (texte) do
ngôn ngữ học nghiên cứu, và chúng ta sẽ định nghĩa nó (hãy cịn sơ bộ) như là
một đoạn lời nói hữu tận bất kỳ, tạo thành một thể thống nhất xét từ quan
điểm nội dung, được truyền đạt cùng với những mục đích giao tiếp thứ cấp,
và có một tổ chức nội tại phù hợp với những mục đích này, vả lại, (đoạn lời
này) gắn bó với những nhân tố văn hóa khác nữa, ngồi những nhân tố có
quan hệ đến bản thân ngôn ngữ (langue).” (Barthes) (dẫn theo [6];15-16 ).

Tán thành quan điểm thứ nhất về văn bản và để tiện cho việc khảo sát,
chúng ta tạm theo quan niệm của Halliday về khái niệm văn bản.
Theo Halliday, văn bản – một đơn vị của ngôn ngữ - được xác định
không phải dựa vào độ dài ngắn, dạng nói hay viết - “witten or spoken”, bao
gồm một động từ hay nhiều…mà dựa vào tính chỉnh thể, thống nhất về nội
dung ngữ nghĩa của nó - “a semantic unit”: “The word text is used in
linguistics to refer any passage, spoken or written, of whatever of length, that
does form a unified whole.” [108;1] (Văn bản là một thuật ngữ ngôn ngữ học
được dùng để chỉ bất cứ phần văn bản nào, dù là dạng nói hay viết, dù là dài
hay ngắn, nhưng phải là một chỉnh thể thống nhất); hay – “a text is a unit of
language in use” (văn bản là một đơn vị của ngơn ngữ tồn tại trong q trình
sử dụng – giao tiếp hay tư duy).


Theo Halliday, khái niệm văn bản không phải bao giờ cũng được xác
định một cách rõ ràng. Theo tác giả, mọi người hay hiểu lầm rằng chúng ta có
thể dễ dàng xác định những bộ phận (câu, cụm câu) nào sẽ cấu thành nên một
văn bản. Nhưng thật sự thì văn bản được xác định tùy theo văn cảnh và nội
dung của những câu, cụm câu đi trước va sau nó: “…We can consider that a
new text begins where a sentence shows no cohesion with those that have
preseded.” (Một văn bản được đánh dấu ở chỗ bắt đầu một câu mà câu đó
khơng hề có mối quan hệ nào với những câu trước đó) [108;295].
Như vậy, theo Halliday nếu cụm câu (bao gồm nhiều câu – phát ngơn)
có mối quan hệ về ý nghĩa sẽ tạo thành một văn bản. Theo cách hiểu này,
Halliday chỉ quan tâm đến mội dung ý nghĩa mà khơng quan trọng hóa về mặt
hình thức của văn bản. Đồng thời, việc giải mã văn bản khơng phải là chuyện
dễ dàng và đơn giản, nó khơng chỉ địi hỏi tri thức về ngơn ngữ học mà cịn là
những kiến thức liên quan đến văn hóa, xã hội, tâm lí…
1.1.2. Đặc điểm
Bùi Tất Tươm đã đưa ra những đặc điểm của văn bản như: Tính mục

đích, tính hồn chỉnh (nội dung và hình thức) và tính mạch lạc.
- Tính mục đích: Đó là ý định tác động của người nói, viết được cụ thể
hố qua văn bản bằng lực ngơn trung của nó (ví dụ: miêu tả, tường thuật, nghi
vấn, yêu cầu, ra lệnh, khẳng định, thuyết phục, đề nghị…).
Tác giả Bùi Tất Tươm lại khẳng định: “Văn bản là sản phẩm của hoạt
động ngôn ngữ - một trong những công cụ của hoạt động ứng xử” mà lực
ngơn trung có thể thực hiện được hồn tồn hay một phần mục đích giao tiếp.
Chúng tơi đồng ý với ý kiến của tác giả Bùi Tất Tươm, nhưng bổ sung
một vài điểm: Thứ nhất, văn bản là sản phẩm của hoạt động giao tiếp, nó
khơng là mục đích mà là cơng cụ của q trình trao đổi thơng tin, tư tưởng,


tình cảm giữa người và người. Thứ hai, khơng thể chỉ là mục đích của hoạt
động giao tiếp, văn bản là một chỉnh thể trong đó bao gồm các yếu tố như: nội
dung, mục đích, đối tượng, hồn cảnh…giao tiếp.
- Tính chỉnh thể: Có thể hiểu đó là sự thống nhất giữa hai mặt nội dung
và hình thức, cả đề tài và chủ đề và tất cả các thành tố cấu thành văn bản.
Chủ đề: là vấn đề trung tâm mà văn bản đề cập, nó là cơ sở cho sự lí
giải, tiếp nhận văn bản. Chủ đề khác với đề tài - vấn đề được chọn từ thực tế
khách quan để làm cơ sở thể hiện chủ đề của văn bản.
Thơng tin (có thể là hiển ngơn – thơng tin bề mặt, trực tiếp của văn bản;
bao gồm thông tin cơ sở và thông tin bổ sung); hoặc hàm ngơn – thơng tin
gián tiếp, thơng tin chìm được suy ra dựa vào thông tin hiển ngôn và những tri
thức nền của cộng đồng ngơn ngữ đó.
Vì là một chỉnh thể, nên sự thay đổi hay mất đi bất cứ một thành tố nào
cũng sẽ dẫn đến sự thay đổi của tồn bộ hệ thống (văn bản).
- Tính mạch lạc: Tức là sự liên kết bề sâu của văn bản, làm cho các ý
được rõ ràng, dễ hiểu. Tính mạch lạc có mối quan hệ mật thiết với tính logíc.
Chính sự thống nhất giữa chủ đề - đề tài là một trong những yếu tố tạo nên
tính mạch lạc cho văn bản. Vì thế, để đảm bảo cho văn bản có tính mạch lạc,

các thơng tin phải được tổ chức một cách hợp lí (ví dụ theo quan hệ giải thích,
bổ xung, nhân quả, tương phản…), chủ đề bộ phận phải thống nhất với chủ đề
chung của văn bản. Và sự mạch lạc được sự hỗ trợ đắc lực của một số hình
thức diễn đạt (đặc biệt là phép nối mà chúng tơi sẽ đề cập sau).
Tóm lại: “Mạch lạc là tập hợp những quan hệ có ý nghĩa dùng cho mọi
văn bản, phân biệt văn bản với “phi văn bản” và làm phương tiện liên hệ phụ
thuộc lẫn nhau về nội dung giữa các câu, các đoạn văn cụ thể. Mạch lạc
khơng nêu văn bản thơng tin cái gì, mà nêu văn bản tổ chức thành chỉnh thể
ngữ nghĩa như thế nào?” [84;370].


×