Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

skkn một số BIỆN PHÁP góp PHẦN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG bồi DƯỠNG học SINH GIỎI THPT KHI GIẢNG dạy CHUYÊN đề “CUỘC CÁCH MẠNG THÁNG mười NGA năm 1917

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.16 KB, 34 trang )

SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO NINH BÌNH
TRƯỜNG THPT CHUYÊN LƯƠNG VĂN TUỴ
---------------------------------

BẢN ĐĂNG KÝ SÁNG KIẾN NĂM 2020
TÊN SÁNG KIẾN: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG BỒI
DƯỠNG HỌC SINH GIỎI THPT KHI GIẢNG DẠY CHUYÊN ĐỀ: “CUỘC CÁCH
MẠNG THÁNG MƯỜI NGA NĂM 1917”
Tác giả sáng kiến: 1. Thạc sỹ Vũ Thu Hương
2. Thạc sỹ Bùi Thị Thanh Vân
3. Trần Thị Hòe
4. Thạc sỹ Đinh Thị Thanh Dung
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy

Ninh Bình, tháng 5 năm 2020

1


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Kính gửi: Hội đồng sáng kiến trường THPT chuyên Lương Văn Tụy
Chúng tôi ghi tên dưới đây:
TT Họ và tên

Ngày tháng
năm sinh

Nơi cơng


tác

Chức vụ

Trình độ
chun
mơn

1

Vũ Thu Hương

07/07/1987

Giáo viên

Thạc sỹ

2

Bùi Thị Thanh
Vân

10/10/1982

Giáo viên

Thạc sỹ

30%


3

Trần Thị Hòe

05/11/1987

Giáo viên

Cử nhân

20%

4

Đinh Thị Thanh

21/10/1981

Trường
THPT
chuyên
Lương
Văn Tụy
Trường
THPT
chuyên
Lương
Văn Tụy
Trường

THPT
chuyên
Lương
Văn Tụy
Trường
THPT
chuyên
Lương
Văn Tụy

Tỷ lệ (%)
đóng góp
vào việc
tạo ra
sáng kiến
30%

Giáo viên

Thạc sỹ

20%

Dung

1. Tên sáng kiến, lĩnh vực áp dụng
- Là nhóm tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến : “Một số biện pháp góp phần nâng cao chất
lượng bồi dưỡng học sinh giỏi THPT khi dạy học chuyên đề: Cách mạng Tháng Mười Nga
năm 1917”
- Lĩnh vực áp dụng:

+ Giảng dạy chuyên đề “Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917” – phần Lịch sử thế giới
hiện đại.

2


+ Ôn thi học sinh giỏi tỉnh, học sinh giỏi khu vực, học sinh giỏi Quốc gia và thi THPT
quốc gia.
2. Nội dung
a. Giải pháp cũ thường làm:
- Chi tiết giải pháp cũ:
Với bộ môn Lịch sử, nội dung ôn luyện phục vụ thi HSGQG hầu như bao quát toàn bộ chương
trình cấp học bao gồm cả lịch sử Thế giới và lịch sử Việt Nam. Trong chương trình lịch sử thế
giới cận đại, cuộc Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 có ý nghĩa quan trọng. Cuộc Cách
mạng này khơng chỉ có ý nghĩa sâu sắc với nước Nga mà cịn có ý nghĩa thời đại sâu sắc. Cách
mạng tháng Mười Nga năm 1917 thành công đã mở đầu thời kì lịch sử thế giới hiện đại; làm thay
đổi cục diện chính trị thế giới; cổ vũ và để lại nhiều bài học kinh nghiệm cho cách mạng thế giới,
trong đó có Việt Nam. Dưới ảnh hưởng to lớn của Cách mạng tháng Mười, Nguyễn Ái Quốc đã
tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam- độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, đưa đến sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930 giúp cách mạng Việt Nam đi
từ thắng lợi này đến thắng lợi khác (Cách mạng tháng Tám 1945, kháng chiến chống Pháp 19451954, kháng chiến chống Mĩ 1954-1975…). Đây là một trong những vấn đề trọng tâm trong các
kì thi học sinh giỏi và ơn thi THPTQG.
Tuy nhiên, do chưa nhận thức thấu đáo về bài tập lịch sử, chưa thường xuyên sử dụng bài tập
hoặc còn gặp nhiều khó khăn trong việc xây dựng hệ thống bài tập và sử dụng bài tập nên khi
dạy “Chuyên đề: Cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917” các Thầy cô giáo thường thực
hiện một số phương pháp như sau:
+ Trong q trình giảng bài mới, có thể đã áp dụng công nghệ thông tin để cung cấp những hình
ảnh sinh động… nhưng giáo viên chủ yếu dành thời gian cho thơng báo, miêu tả, giải thích, ghi
bảng hoặc đọc cho học sinh chép bài. Nếu có phát huy trí lực học sinh, gây sự chú ý các em, giáo
viên cũng chỉ nêu câu hỏi đơn giản: “Tại sao trước cách mạng Tháng Mười, nước Nga được coi

là khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền chủ nghĩa đế quốc?”,“Trình bày hoàn cảnh, diễn biến, ý
nghĩa của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917”, “Phân tích ý nghĩa của cách mạng
Tháng Mười Nga năm 1917 và cho biết công lao của Lê Nin đối với cuộc cách mạng này?”V…
v…
+ Cuối giờ học, giáo viên căn dặn học sinh về nhà học bài và trả lời những câu hỏi trong
sách giáo khoa.
3


- Ưu điểm, nhược điểm và những tồn tại cần khắc phục:
+ Ưu điểm: đảm bảo đựợc tiến độ thời gian, chương trình, giáo viên khơng mất nhiều thời
gian, cơng sức cho việc soạn bài và giảng dạy.
+ Nhược điểm: khơng gây được hứng thú, khơng kích thích được khả năng tư duy, sáng
tạo của học sinh. Hơn nữa, bên cạnh việc lĩnh hội kiến thức thì học sinh cịn rất cần được rèn
luyện về khả năng độc lập làm việc, tinh thần và ý chí quyết tâm đạt kết quả cao trong học tập.
b. Giải pháp mới cải tiến:
* Mô tả bản chất của giải pháp mới:
Với mong muốn nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi ở trường phổ thông, sau khi
tiếp cận với nhiều tài liệu và bằng thực tiễn dạy học chúng tôi đã đưa ra một giải pháp mới với
mong muốn cải thiện được tình hình. Chúng tơi đã viết chun đề “Một số biện pháp nâng cao
chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi THPT khi giảng dạy cuộc Cách mạng tháng Mười Nga năm
1917” với hy vọng có thể chia sẻ những kinh nghiệm về linh hội nội dung và tiến hành phương
pháp bồi dưỡng học sinh giỏi với các đồng nghiệp cùng các em học sinh trong quá trình giảng
dạy và học tập chuyên đề này.
Chuyên đề gồm có hai phần:
Phần 1: Lựa chọn nội dung ôn tập khi dạy học phần Cách mạng tháng Mười Nga năm
1917. (xem phụ lục trang 10 - 14)
Phần 2: Phương pháp ôn tập cho học sinh giỏi khi dạy học phần Cách mạng tháng Mười
Nga năm 1917. (xem phụ lục trang 15 - 32)
Thực hiện chuyên đề này, chúng tôi đã:

2.1. Xác định động cơ, hứng thú học tập cho học sinh
Xác định mục tiêu học tập là hình thành ở học sinh động cơ đúng đắn trong học tập lịch sử.
Động cơ là động lực bên trong thúc đẩy trực tiếp con người ta hoạt động. Tuyệt đại bộ phận động
cơ của con người đều là biểu hiện cụ thể của nhu cầu. Nhu cầu có thể biểu hiện dưới các hình
thức như hứng thú, ý định, mong muốn...Hứng thú là biểu hiện tình cảm, nhu cầu nhận thức của
con người. Ý định là một nhu cầu chưa phân hố, chưa có ý thức rõ rệt, nó khiến con người mơ
hồ cảm thấy muốn làm một cái gì, nhưng chưa rõ vì sao mình định làm như thế và chưa rõ làm
như thế nào. Như vậy, bước thứ nhất của công việc dạy học lịch sử là làm thế nào khơi gợi được
hứng thú của học sinh đối với việc học tập, làm rõ mục đích học tập từ đó khơi gợi hứng thú học

4


tập của học sinh, khiến họ khát khao muốn được biết, kích thích tính tích cực học tập của học
sinh.
Động cơ học tập môn lịch sử của học sinh phải được tạo ra bởi quyền lợi được hưởng của các
em (được khen thưởng, cộng điểm, vào đại học…) hoặc bằng sức mạnh của nội dung bài học.
Khơng có động cơ học tập, học sinh sẽ khơng có nhu cầu tham gia tích cực vào bài học. Vì vậy
chỉ có thể nâng cao được chất lượng dạy học lịch sử ở trường chuyên nói chung, bồi dưỡng học
sinh giỏi sử nói riêng khi hình thành ở học sinh động cơ, thái độ học tập đúng đắn.
2.2. Hình thành sớm ở học sinh những năng lực học và làm bài thi môn lịch sử
- Năng lực học là khả năng tự mình chiếm lĩnh kiến thức lịch sử một cách có hiệu quả dưới sự
điều khiển, hướng dẫn của thầy. Muốn vậy học sinh phải được trang bị những cơ sở mang tính
phương pháp luận nhận thức lịch sử. Kiến thức lịch sử mà học sinh lĩnh hội là những kiến thức
đã được khoa học xác nhận và được ghi chép trong sách giáo khoa bộ môn. Xuất phát từ đặc
trưng của kiến thức lịch sử, chúng ta cần hình thành ở học sinh những kỹ năng cơ bản sau:
+ Kỹ năng học, ghi nhớ các sự kiện, hiện tượng lịch sử một cách hệ thống.
+ Kĩ năng phát hiện vấn đề và giải quyết vấn đề.
+ Kĩ năng làm bài thi mơn lịch sử.
- Để giúp học sinh hình thành các năng lực học và làm bài tốt môn Lịch sử nói chung, về Cách

mạng tháng Mười năm 1917 nói riêng, giáo viên có thể hướng dẫn các em sử dụng một số
phương pháp như sau:
+ Vận dụng phương pháp học theo “sơ đồ tư duy”, kết hợp với “từ khoá”
+ Xác định, liên hệ những sự kiện lớn của thế giới có tác động trực tiếp tác động Việt Nam
trong cùng thời kì.
+ Làm quen và ơn luyện thành thạo các dạng câu hỏi thường gặp trong đề thi khi hỏi về Cách
mạng tháng Mười Nga năm 1917.
- Khi bước vào kì thi hay kiểm tra, giáo viên cần nhắc nhở các em chú ý:
Thứ nhất, phải đọc và phân tích đề bài để hiểu yêu cầu và nội dung mà câu hỏi, bài tập đặt ra.
Đây là công việc đầu tiên, không thể thiếu được để tránh việc xa đề, lạc đề, không phân phối đủ
thời gian cho bài viết.
Thứ hai, phải xây dựng dàn ý để đáp ứng yêu cầu cơ bản của bài, giữ được sự cân đối giữa các

(6)
(7)

Cácbênbên
traocông
trả
phần, chủ động được thời gian. Dàn bài gồm các phần chủ yếu: Phần mở bài, phần thân bài++vàHai
tùnhận
binhthựcvà tếdân


phần kết luận.

thường
miền bịNam
bắt. Việt
5


Nam có hai chính
+ Hoa Kì cam kết
quyền, hai qn
góp phần vào việc
đội, hai vùng kiểm
hàn gắn vết thương


Thứ ba: Khi làm bài học sinh phải chú ý làm câu dễ trước, khó sau và cố gắng hồn thành hết
mọi câu mà đề ra. Trong khi viết phải chú trọng nhiều đến cách hành văn- dùng từ ngữ giản dị,
trong sáng, đúng ngữ pháp, khơng viết sai chính tả, diễn đạt gọn, thể hiện rõ cảm xúc…
Để hình thành những kĩ năng học lịch sử nói trên, trong quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi, giáo
viên nên tập trung cho các em làm bài tập lịch sử dưới nhiều dạng khác nhau, kể cả kĩ năng trắc
nghiêm, tự luận và thực hành.
2.3. Tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm các chủ đề hoặc bài tập lịch sử.
Trong thực tiễn giảng dạy, phương pháp này rất phù hợp và đem lại hiệu quả cao khi giải
quyết các vấn đề lịch sử mang tính chất tổng hợp, nâng cao cũng như phù hợp với trình độ
nhận thức của học sinh giỏi để các em có thể phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo cũng
như các kĩ năng phân tích, lập luận bảo vệ ý kiến của mình, phát triển khả năng tự đánh giá và
đánh giá lẫn nhau.
Khi tham gia thảo luận, các nhóm cùng trao đổi, hợp tác và học hỏi lẫn nhau, bổ sung kiến
thức cho nhau.
2.4. Xây dựng hệ thống câu hỏi, bài tập ôn luyện cho học sinh theo định hướng phát triển
năng lực
Câu hỏi, bài tập cần luyện cho học sinh giỏi môn lịch sử cũng phải tuân thủ qui luật nhận thức
và yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tiếp cận năng lực của học sinh:
Nhận biết, thể hiện khả năng nhớ, thuộc kiến thức, thường được hỏi bằng các từ: Nêu..., Trình
bày..., Hãy kể...
Thơng hiểu, thể hiện khả năng phân biệt, so sánh, giải thích, chứng minh, thường được hỏi bằng

các từ: Hãy chứng minh rằng..., Vì sao...? Tại sao...? (có khi thay bằng: Hãy trình bày/giải thích
ngun nhân/ lý do...), Hãy so sánh... (có khi thay bằng: Hãy nêu những điểm giống nhau, khác
nhau...).
Vận dụng, thể hiện khả năng tư duy cao hơn, khả năng đánh giá, phán xét, phân tích tổng hợp
có thể vận dụng kiến thức để giải quyết một vấn đề. Loại câu hỏi này thường dùng các từ Phân
tích... Nhận xét..., Đánh giá...
Các mức độ nhận thức lịch sử nói trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau.
Khơng biết lịch sử diễn ra như thế nào thì cũng khơng thể hiểu, giải thích, đánh giá được lịch sử.
Ngược lại, muốn giải thích, đánh giá, vận dụng được cũng phải trên cơ sở của biết lịch sử.
Tóm lại, thông qua việc thực hiện 4 bước trên, chúng tôi đã:
6


- Khai thác rộng và sâu những kiến thức liên quan đến Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917
qua đó giúp bản thân giáo viên nâng cao hiểu biết về nội dung kiến thức về Cách mạng Tháng
Mười.
- Trên cơ sở đó, giáo viên hướng dẫn, giúp đỡ học sinh ôn tập, củng cố vững chắc mảng kiến
thức về Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 trong chương trình lịch sử thế giới. Từ đó, thơng
hiểu và vận dụng để nắm một số nội dung chuyên sâu mang tính bổ dọc, khái quát vấn đề; đồng
thời có được cách đánh giá, nhìn nhận tác động trở lại đối với một số vấn đề lịch sử liên quan
trong cùng giai đoạn hay các giai đoạn trước đó và kế tiếp. Do vậy, học sinh sẽ nắm vững, hiểu
sâu, nhớ lâu cũng như có thể vận dụng linh hoạt hệ thống kiến thức đã học để thực hành các dạng
bài tập nâng cao.
- Rèn luyện một số kĩ năng học và làm bài thi học sinh giỏi để đạt kết quả cao như kĩ năng hệ
thống hóa kiến thức theo sơ đồ, bảng biểu; kĩ năng so sánh, phân tích, tổng hợp các sự kiện, hiện
tượng lịch sử…
- Đặc biệt, sau khi đã cung cấp kiến thức, hướng dẫn phương pháp, trong quá trình dạy học, bồi
dưỡng học sinh giỏi, giáo viên phải tập trung cho học sinh làm bài tập lịch sử dưới nhiều dạng
khác nhau, kể cả kỹ năng trắc nghiệm, tự luận và thực hành, từ đó:
+ Giúp học sinh biết cách tìm tịi để nhận ra yếu tố đã cho, yếu tố phải tìm và mối quan

hệ giữa chúng.
+ Giúp học sinh hình thành một mơ hình khái quát để giải quyết các bài tập, đối tượng
cùng loại.
+ Xác lập được mối liên quan giữa bài tập mô hình khái qt và các kiến thức tương
xứng.
* Tính mới, tính sáng tạo của giải pháp:
- Dưới sự hướng dẫn có giám sát chặt chẽ, học sinh được cung cấp một cách có hệ thống và đầy đủ tồn bộ phần kiến
thức nền cơ bản cần có theo yêu cầu.
- Giáo viên khơng độc thoại trên lớp trong q trình giảng bài mới mà phải giành thời gian nhất
định cho việc đưa ra và tổ chức học sinh tham gia giải quyết các loại bài tập, câu hỏi:
+ Bài tập, câu hỏi nêu vấn đề
+ Bài tập, câu hỏi gợi mở
+ Bài tập, câu hỏi kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh

7


- Dành khoảng thời gian phù hợp tại lớp để rèn tư duy, phản xạ nhanh nhạy trước những dạng bài tập,
câu hỏi…; rèn kĩ năng giải nhiều dạng bài tập khác nhau, có thời gian để rèn luyện phát triển tư duy của
học sinh để đáp ứng yêu cầu giải quyết những tình huống mới lạ trong các bài tập. Đồng thời, phải nắm bắt
chính xác khả năng của từng đối tượng học sinh từ đó có định hướng rõ ràng cho các em trong quá trình
lĩnh hội tri thức cũng như rèn kỹ năng giải bài tập, có giải pháp điều chỉnh, bổ sung kịp thời những thiếu hụt
của học sinh để có hiệu quả học tập cao nhất.
- Giúp học sinh tích cực chủ động tiếp cận nhanh chóng với cơng nghệ hiện đại cũng như mở rộng tầm nhìn,
sự giao lưu học hỏi đối với các đơn vị bạn. Bên cạnh hiệu quả học tập còn rèn cho các em ý thức độc lập tự
chủ và bản lĩnh học tập.
3. Hiệu quả kinh tế, xã hội dự kiến đạt được
* Hiệu quả kinh tế
- Giảng dạy kiến thức, tập huấn học sinh giỏi Quốc gia, bồi dưỡng học sinh giỏi mũi nhọn… là
nhiệm vụ trọng tâm, nhiệm vụ chính trị của trường THPT Chun, vì vậy rất khó để có thể quy đ ổi ra tiền,

rất khó đánh giá một cách định lượng về hiệu quả kinh tế của việc hình thành kĩ năng giải bài tập cho
học sinh chuyên Sử nói riêng và học sinh THPT nói chung. Tất nhiên nếu khơng được hướng dẫn để
có kĩ năng làm bài tốt, để mất ít thời gian mà hiệu quả lại cao, thì một em học sinh mỗi năm sẽ phải mua
khoảng 10 cuốn tài liệu, trung bình mỗi cuốn khoảng 30.000đ, như vậy mỗi em một năm sẽ mất
khoảng: 10 x 30000đ = 300.000đ, mỗi lớp khoảng 35 học sinh - một năm sẽ mất khoảng: 35 x
300.000 = 10.500.000đ v.v..
- Bên cạnh đó, đề tài cịn mang lại một số hiệu quả khác, đó là:
+ Học sinh tiết kiệm được thời gian ở trên lớp để luyện nhiều dạng bài tập.
+ Giáo viên tiết kiệm được thời gian soạn giảng về lý thuyết (đây là việc gây tốn nhiều thời gian nhất).
+ Giảm kinh phí mời giáo sư để dạy những kiến thức nền cơ bản, ôn luyện thi…
2. Hiệu quả xã hội
- Sáng kiến này đã được nhóm tác giả triển khai thực nghiệm cho học sinh chuyên Sử khóa
2015 – 2018 (khóa 57), khóa 2016-2019 ( khóa 58), học sinh ơn thi đại học những năm gần
đây của trường THPT chuyên Lương Văn Tụy. Hiệu quả mà sáng kiến này cùng với các
chuyên đề kiến thức khác nữa mang lại về mặt giáo dục, xã hội trước hết là kết quả thi đại học,
thi học sinh giỏi các cấp của học sinh. Trước khi thực hiện sáng kiến, các kết quả thi cũng
tương đối cao, nhưng từ khi thực hiện sáng kiến các kết quả thi là vượt trội hơn rất nhiều

8


- Với cùng thời gian như khi tiến hành phương pháp cũ, hiệu quả học tập được nâng cao rõ rệt (Học sinh
không chỉ nắm vững kiến thức nền cần có mà cịn hiểu sâu sắc các vấn đề, biết vận dụng các kiến thức linh
hoạt, sáng tạo từ đó phát triển năng lực tư duy).
- Học sinh được rèn luyện khả năng độc lập nghiên cứu để chiếm lĩnh kiến thức, đây chính là yếu tố quan
trọng, là tiền đề phát triển năng lực của các em trong công việc sau này.
- Nhờ việc tiếp cận và khai thác cơng nghệ thơng tin, các em có thể bắt nhịp với thời đại và mở ra một tư
duy mới trong việc phát huy tiềm năng của mình trong quá trình học tập nghiên cứu tiếp theo.
4. Điều kiện và khả năng áp dụng
Phương pháp đổi mới được đề cập đến trong đề tài không chỉ dùng cho tập huấn học sinh giỏi

Quốc gia mà còn dùng để bồi dưỡng học sinh giỏi Khu vực, học sinh giỏi Tỉnh, luyện thi THPT Quốc gia…
Vì vậy, khơng chỉ áp dụng cho việc dạy học ở Trường Chuyên mà có thể áp dụng ngay với mọi trường
THPT, đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp giảng dạy hiện nay trong giáo dục.
Chúng tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật và hoàn
toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Ninh Bình, ngày tháng 5 năm 2020
Người nộp đơn
(Ký và ghi rõ họ tên)

XÁC NHẬN CỦA LÃNH ĐẠO ĐƠN VỊ

9


PHỤ LỤC
PHẦN NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ
Phần I: Lựa chọn nội dung ôn tập khi dạy học phần Cách mạng tháng Mười Nga năm
1917.
1. Mục tiêu
- Hiểu được vì sao năm 1917 nước Nga tiến hành hai cuộc cách mạng.
- Quá trình chuyển biến từ Cách mạng tháng Hai sang Cách mạng tháng Mười. Từ đó, rút ra
được đặc điểm, tính chất của hai cuộc cách mạng này.
- Ý nghĩa lịch sử của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, những bài học kinh nghiệm của
cuộc cách mạng này đến phong trào cách mạng thế giới, ảnh hưởng to lớn của nó đến phong trào
giải phóng dân tộc trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
2. Các vấn đề giảng dạy phần Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917.
1. Hai cuộc cách mạng ở nước Nga năm 1917
a, Tình hình nước Nga trước cách mạng
Năm 1917 đã nổ ra hai cuộc cách mạng ở nước Nga ở nước Nga đó là cách mạng dân chủ tư
sản tháng 2 và Cách mạng tháng Mười Nga. Sở dĩ cách mạng nổ ra và giành thắng lợi của nước

Nga năm 1917 là do nó có đầy đủ những khách quan và chủ quan thuận lợi.
10


* Điều kiện chủ quan:
- Kinh tế:
+ Sau cải cách nơng nơ năm 1861 của Nga hồng, nền kinh tế Nga bước vào giai đoạn tư bản
chủ nghĩa.
+ Đầu tk XX, Nga từng bước tiến lên giai đoạn đế quốc (tiến hành cuộc chiến tranh Nga- Nhật
1904-1905). Quá trình tập trung sản xuất, tập trung tư bản diễn ra mạnh ở nước Nga dẫn tới xuất
hiện các tổ chức độc quyền ở Nga. Chủ nghĩa đế quốc đầu tk XX đã tạo ra những điều kiện
khách quan về kinh tế và xã hội cho một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa có thể nổ ra và giành
thắng lợi.
+ Mặt khác ở Nga vẫn tồn tại quan hệ sản xuất phong kiến với nền nơng nghiệp lạc hậu.
- Chính trị:
Nước Nga vẫn duy trì chế độ quân chủ chuyên chế lạc hậu- đứng đầu là Nga hoàng…
- Xã hội: Năm 1914, Nga hoàng đã đẩy nhân dân Nga vào cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất.
Khi chiến tranh nổ ra, nước Nga đã bộc lộ đầy đủ những mâu thuẫn của thời đại: nhân dân Nga
>< Nga hồng, nơng dân >< địa chủ, vô sản >< tư sản, tư sản >< phong kiến, đế quốc Nga >< đế
quốc khác.
→ Làm cho tình hình xã hội Nga trở nên sơi sục.
* Điều kiện khách quan:
Nga ngày càng sa lầy, thất bại trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Trong bối cảnh đó, Nga ở
trong tình trạng bị khủng hoảng trầm trọng:
- Chính trị: thối nát.
- Kinh tế: kiệt quệ.
- Mâu thuẫn xã hội ngày càng trở nên gay gắt trong lòng nước Nga, đặc biệt mâu thuẫn giữa
nhân dân Nga với Nga hoàng.
→ Chiến tranh thế giới thứ nhất đã tạo khiến cho nước Nga trở thành khâu yếu nhất trong hệ
thống dây chuyền chủ nghĩa đế quốc, tạo điều kiện khách quan thuận lợi cho cách mạng nổ ra và

giành thắng lợi.
* Tình thế cách mạng:
- Xét về giai cấp lãnh đạo, Đảng Bơnsêvích đứng đầu là Lênin đã tập dượt qua thực tế đấu
tranh và ngày càng trưởng thành, đã sẵn sàng lãnh đạo.

11


- Quần chúng nhân dân Nga đã từng được tập dượt đấu tranh. Khi Nga hoàng đẩy họ vào chiến
tranh thế giới khiến họ lâm vào cảnh khốn cùng → càng thêm quyết tâm lật đổ chế độ Nga
hoàng.
- Cuộc cách mạng Nga được sự chuẩn bị đầy đủ về mặt tư tưởng:
+ Đảng Bơnsêvích là Đảng đi theo chủ nghĩa Mác, được cổ vũ bởi hệ tư tưởng cho một cuộc
cách mạng xã hội.
+ Khi chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ, giai cấp tư sản Nga đã thỏa hiệp với phong kiến,
đẩy nước Nga vào chiến tranh. Trong bối cảnh đó, Đảng Bơnsêvích đã xác định nước Nga phải
tiến hành một cuộc cách mạng dân chủ tư sản dưới sự lãnh đạo của Đảng Bơnsêvích nhằm lật đổ
Nga hồng, giải quyết những mâu thuẫn trong lịng xã hội Nga, đưa nước Nga đi theo con
đường xã hội chủ nghĩa.
+ Trong bối cảnh chiến tranh thế giới thứ nhất, Lênin đã đề cao khẩu hiệu cách mạng: Biến
chiến tranh đế quốc thành nội chiến cách mạng → Sự chuẩn bị về mặt tư tưởng thể hiện nghệ
thuật chớp thời cơ của Lênin.
→ Xuất phát từ những điều kiện khách quan và chủ quan nêu trên mà cuộc Cách mạng tháng
Hai đã nổ ra và giành thắng lợi. Cách mạng đã nổ ra và lật đổ chế độ Nga hồng, tiến tới thành
lập chính quyền Xơ viết.
b, Cách mạng tháng Hai năm 1917
- Đến đầu năm 1917, tình hinh kinh tế- chính trị của nước Nga đã lâm vào tình trạng khủng
hoảng trầm trọng, nội bộ giai cấp thống trị mâu thuẫn sâu sắc. Tình thế cách mạng đã hình thành.
Quần chúng nhân dân do bị áp bức và phải chịu hậu quả của chiến tranh thế giới thứ nhất, được
sự giáo dục và lãnh đạo kịp thời của Đảng Bônsêvich đã xuống đường tham gia cuộc Cách mạng

tháng Hai năm 1917.
- Ngày 23/2/1917 cách mạng bùng nổ bằng cuộc biểu tình của 9 vạn nữ cơng nhânPê-tơ-rơ-gơrát và lan rộng khắp thành phố, đến ngày 27/2/1917 phong trào nhanh chóng chuyển từ tổng bãi
cơng chính trị sang khởi nghĩa vũ trang. Chiếm các công sở, bắt giam các tướng tá, Bộ trưởng
của Nga hồng.
- Lãnh đạo: Đảng Bơn-sêvích- đội tiên phong của giai cấp cơng nhân.
- Hình thức đấu tranh: chuyển từ tổng bãi cơng chính trị sang khởi nghĩa vũ trang.
- Lực lượng tham gia: công nhân, binh lính, nơng dân (66.000 binh lính giác ngộ, đứng về phe
cách mạng).
12


- Kết quả: Nga hồng Nicơlai II thối vị, chế độ quân chủ chuyên chế sụp đổ. Chỉ trong vòng 8
ngày, quần chúng nhân dân đã vùng dậy lật đổ chế độ cũ, bầu ra các Xô viết đại biểu cơng nhân,
nơng dân và binh lính. Giai cấp tư sản thành lập Chính phủ lâm thời. Nga trở thành nước Cộng
hịa.
- Tính chất: là một cuộc cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới, lãnh đạo cuộc cách mạng là giai
cấp vô sản và động lực chủ yếu là công nhân, nơng dân và binh lính. Cách mạng tháng Hai đã lật
đổ chế độ phong kiến, tạo điều kiện để tiến hành cách mạng XHCN ở nước Nga.
c) Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917
- Sau Cách mạng tháng Hai, Nga tồn tại 2 chính quyền song song:
+ Chính phủ lâm thời (tư sản)
+ Xô viết đại biểu (vô sản)
- Đây là tình hình độc đáo của nước Nga sau Cách mạng tháng 2/1917, 2 chính quyền này đại
diện cho lợi ích của các giai cấp đối kháng tư sản - công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động.
Ngày 27/2/1917 đại biểu các Xô viết đã họp và thành lập Xơ viết Pêtơrơgrát, đảm nhận chức
năng một chính quyền. Tuy nhiên, lúc này chiếm đa số trong Xô viết là những người Men-sêvích và xã hội cách mạng. Những người này đã ủng hộ giai cấp tư sản thành lập Chính phủ lâm
thời do Huân tước Lơvốp làm Thủ tướng. Trước tình hình đó Lê-nin đã thơng qua Đảng Bơn-sêvích đề ra bản Luận cương tháng 4.
- Đánh giá tình hình nước Nga sau Cách mạng tháng Hai, Lênin cho rằng: “Đặc điểm của tình
hình hiện nay ở Nga là bước quá độ từ giai đoạn thứ nhất của cách mạng, là giai đoạn đã đem lại
chính quyền cho giai cấp tư sản do trình độ giác ngộ và tổ chức của giai cấp vơ sản cịn thấp, tiến

lên giai đoạn thứ hai của cách mạng, là giai đoạn phải đem lại chính quyền cho giai cấp vơ sản
và những tầng lớp nghèo trong nông dân”.
→ Từ đánh giá tình hình trên, Lênin đã đề ra đường lối chuyển biến từ cách mạng dân chủ tư
sản sang cách mạng XHCN.
- Trước hết Đảng Bơn-sê-vích chủ trương đấu tranh hịa bình để tập hợp lực lượng. Tháng
7/1917 cuộc biểu tình hịa bình của cơng nhân, binh lính, thủy thủ Pêtơrôgrát bị đàn áp đẫm máu
(400 người bị chết và bị thương). Phong trào cách mạng bị khủng bố mạnh mẽ, khả năng đấu
tranh hịa bình khơng cịn, Đại hội lần thứ VI của Đảng Bơn-sê-vích Nga từ ngày 26/7  3/8 đã
xác định khẩu hiệu chính trị mới là” “Lật đổ nền chuyên chính của giai cấp tư sản bằng con
đường khởi nghĩa vũ trang”.
13


- Đến đầu tháng 10/1917, khơng khí cách mạng đã bao trùm hết nước Nga. Trước tình hình đó,
Lê-nin bí mật từ Phân Lan trở về nước trực tiếp lãnh đạo khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.
- Diễn biến khởi nghĩa
+ Đêm 24/10/1917 khởi nghĩa bắt đầu, các đơn vị cận vệ đỏ đã chiếm được những vị trí then
chốt của thủ đô và bao vây cung điện Mùa Đơng, nơi ẩn náu cuối cùng của Chính phủ tư sản.
+ Đêm 25/10 (7/11) quân khởi nghĩa đã tấn công cung điện Mùa Đông: Vào lúc 09h40’ đêm
25/10 đại bác của các đơn vị cận vệ đã bắt đầu nã đạn vào cung điện Mùa Đông. Đến 1h50’ sáng
26/10, cánh cửa gian phòng, nơi các Bộ trưởng ẩn nấp đã bị lật tung. Người chỉ huy đội cận vệ
đỏ An-tô-nốp Ốp-sen-kô dõng dạc tuyên bố “Nhân danh ủy ban quân sự cách mạng Xơ viết
Pêtơrơgrát, tơi tun bố Chính phủ tư sản lâm thời đã bị lật đổ”.
+ Sau Pêtơrôgrát là thắng lợi ở Mátxcơva, đầu 1918 cách mạng giành được thắng lợi hoàn toàn
trên đất nước Nga rộng lớn. Cách mạng tháng Mười giành thắng lợi, chính quyền đã thuộc về tay
nhân dân.
- Tính chất Cách mạng tháng Mười Nga:
+ Đối tượng và mục đích của cách mạng: Lật đổ ách thống trị của phong kiến và tư sản Nga,
giải phóng nhân dân và các dân tộc bị đế quốc Nga thống trị để xây dựng một xã hội mới tốt đẹp
hơn- Nhà nước xã hội chủ nghĩa.

+ Giai cấp lãnh đạo: Giai cấp công nhân Nga- đội tiên phong là Đảng Cộng sản Nga.
+ Lực lượng tham gia: Giai cấp cơng nhân, nơng dân, trí thức tiểu tư sản và các dân tộc bị đế
quốc Nga thống trị.
+ Về phương hướng phát triển của cách mạng: Đưa nước Nga tiến lên chủ nghĩa xã hội. Sau khi
cách mạng thành cơng, chính quyền cách mạng đã ra tun bố về quyền bình đẳng của các dân
tộc, tuyên bố giải phóng cho tất cả các dân tộc đã bị đế quốc Nga thống trị, trên cơ sở đó đưa đến
sự ra đời của Liên bang CHXHCN Xô viết.
→ Cách mạng tháng Mười mang tính chất của một cuộc cách mạng vơ sản. Bên cạnh đó, cuộc
cách mạng cịn thực hiện nhiệm vụ giải phóng cho các dân tộc bị đế quốc Nga thống trị nên nó
mang tính chất giải phóng dân tộc. Như vậy, Cách mạng tháng Mười Nga vừa mang tính chất
một cuộc cách mạng vơ sản và cịn mang tính chất giải phóng dân tộc.
d) Ý nghĩa lịch sử của Cách mạng tháng Mười
Cách mạng tháng Mười có ý nghĩa vô cùng to lớn không chỉ với nước Nga mà còn đối với thế
giới:
14


- Cách mạng tháng Mười đã lật đổ ách áp bức bóc lột của chế độ phong kiến và CNTB tồn tại
từ lâu ở nước Nga. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp
bức đứng lên làm chủ đất nước, xây dựng một xã hội mới khơng có người bóc lột người.
- Cách mạng tháng Mười đã đập tan CNTB ở khâu yếu nhất của nó, làm cho CNTB khơng còn
là một hệ thống duy nhất bao trùm thế giới. Thế giới đã phân chia thành hai hệ thống xã hội đối
lập là xã hội TBCN và xã hội XHCN.
- Cách mạng tháng Mười cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp công
nhân trong các nước tư bản, chỉ ra cho họ con đường chống CNTB.
- Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười cũng đã thức tỉnh và cổ vũ phong trào giải phóng dân
tộc của các nước thuộc địa và phụ thuộc ở châu Á, Phi và Mĩ Latinh, chỉ ra con đường đấu tranh
đúng đắn của họ là giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản.
- Cách mạng tháng Mười đánh dấu thắng lợi của chủ nghĩa Mac- Lênin đối với các trào lưu tư
tưởng cơ hội xét lại trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, cung cấp nhiều bài học

kinh nghiệm quí báu cho phong trào cách mạng thế giới.
Phần II: Phương pháp ôn tập cho học sinh giỏi khi dạy học phần Cách mạng tháng Mười
Nga năm 1917.
1. Thực tiễn dạy học lịch sử ở các trường THPT chuyên hiện nay
Về thuận lợi: nhiều học sinh có thái độ tốt, hứng thú với học tập bộ môn, say mê sưu tầm các
loại tài liệu tham khảo bổ sung cho học tập, một số học sinh có năng khiếu bộ mơn có điều kiện
để nghiên cứu chuyên sâu. Số tiết học dành cho chuyên cũng nhiều hơn so với lớp không chuyên
đã tạo điều kiện cho giáo viên và học sinh mở rộng kiến thức.
Về khó khăn: Đa số học sinh chuyên năng lực học tập bộ môn không cao, học yếu các môn
khác nên chọn vào chuyên Sử- Địa, trình độ nhận thức trong một lớp khơng đồng đều. Vì vậy, so
với các chun khác thì chất lượng học tập chuyên Sử- Địa thấp hơn. Chưa có chương trình, sách
giáo khoa, sách giáo viên, tài liệu tham khảo, sách bài tập dành riêng cho chuyên, chưa có phịng
học bộ mơn, phương tiện dạy học hiện đại…Giáo viên không được đào tạo, tập huấn để dạy
chuyên, chủ yếu dạy bằng kinh nghiệm thực tiễn đúc rút từ năm này qua năm khác.
Giáo viên dạy trường THPT chuyên thường chịu áp lực lớn từ nhiều cuộc thi - thi học sinh giỏi
Quốc gia, học sinh giỏi cấp tỉnh, học sinh giỏi khu vực hay học sinh thi đỗ vào Đại học, Cao
đẳng. Đồng thời lại chưa nhận được sự quan tâm đúng mức của các cấp quản lý, phụ huynh học
sinh về bộ môn.
15


Muốn nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi mơn Lịch sử ở trường phổ thơng, cần có sự
đổi mới tư duy dạy và học lịch sử, nhằm khắc phục quan niệm sai lầm cho rằng môn Lịch sử chỉ
là một “mơn phụ”, “mơn học thuộc lịng”, “khơng cần tư duy”. Yêu cầu đổi mới về nội dung và
phương pháp xuất phát từ nguyên tắc tối cao cao phải đảm bảo chất lượng dạy học và quyền lợi
có nhiều tri thức của học sinh.
Đổi mới nội dung dạy học lịch sử không phải là thay đổi nội dung các sự kiện lịch sử, điều
quan trọng là phải luôn luôn làm mới kiến thức cho học sinh, tạo ra tư duy lịch sử mềm dẻo, sự
thấu hiểu và khả năng vận dụng các tri thức lịch sử, tạo ra phong cách học lịch sử là hiểu biết,
khám phá và sáng tạo. Đổi mới về phương pháp khơng có nghĩa là từ bỏ những phương pháp

truyền thống, mà là vận dụng những phương pháp đó, kết hợp với những phương pháp mới một
cách nhuần nhuyễn hơn.
Điều quan trọng nhất là phải xác định mục tiêu cụ thể cho từng chương, từng bài, từng mục.
Đây là cơ sở quan trọng nhất để lựa chọn hình thức tổ chức, phương pháp dạy học và phương
thức kiểm tra, đánh giá. Tuỳ theo việc xác định mục tiêu và những hoàn cảnh cụ thể khác nhau
mà có sự vận dụng phương pháp tương thích: giảng bài, thảo luận nhóm, xeemina, nêu vấn đề,
ngoại khố…
2. Phương pháp và kĩ năng ôn luyện cho học sinh
2.1. Phải xác định động cơ, hứng thú học tập cho học sinh
Xác định mục tiêu học tập là hình thành ở học sinh động cơ đúng đắn trong học tập lịch sử.
Động cơ là động lực bên trong thúc đẩy trực tiếp con người ta hoạt động. Tuyệt đại bộ phận động
cơ của con người đều là biểu hiện cụ thể của nhu cầu. Nhu cầu có thể biểu hiện dưới các hình
thức như hứng thú, ý định, mong muốn...Hứng thú là biểu hiện tình cảm, nhu cầu nhận thức của
con người. Ý định là một nhu cầu chưa phân hoá, chưa có ý thức rõ rệt, nó khiến con người mơ
hồ cảm thấy muốn làm một cái gì, nhưng chưa rõ vì sao mình định làm như thế và chưa rõ làm
như thế nào. Như vậy, bước thứ nhất của công việc dạy học lịch sử là làm thế nào khơi gợi được
hứng thú của học sinh đối với việc học tập, làm rõ mục đích học tập. Cơng việc này tập trung
tiến hành trong bài mở đầu cũng như phần đầu của bài giảng trong suốt quá trình giảng dạy.
Những người thầy có kinh nghiệm thường kết hợp hai yêu cầu đó. Trong bài mở đầu, thầy phải
giúp học sinh thấy được mục đích và u cầu của tồn học kỳ, đồng thời biết nêu ra một số vấn
đề trong nội dung học tập có khả năng khêu gợi hứng thú học tập của học sinh, khiến họ khát
khao muốn được biết, kích thích tính tích cực học tập của học sinh.
16


Động cơ học tập môn lịch sử của học sinh phải được tạo ra bởi quyền lợi được hưởng của các
em (được khen thưởng, cộng điểm, vào đại học…) hoặc bằng sức mạnh của nội dung bài học.
Khơng có động cơ học tập, học sinh sẽ khơng có nhu cầu tham gia tích cực vào bài học. Vì vậy
chỉ có thể nâng cao được chất lượng dạy học lịch sử ở trường chuyên nói chung, bồi dưỡng học
sinh giỏi sử nói riêng khi hình thành ở học sinh động cơ, thái độ học tập đúng đắn.

2.2. Hình thành sớm ở học sinh những năng lực học và làm bài thi môn lịch sử
- Năng lực học là khả năng tự mình chiếm lĩnh kiến thức lịch sử một cách có hiệu quả dưới sự
điều khiển, hướng dẫn của thầy. Muốn vậy học sinh phải được trang bị những cơ sở mang tính
phương pháp luận nhận thức lịch sử. Kiến thức lịch sử mà học sinh lĩnh hội là những kiến thức
đã được khoa học xác nhận và được ghi chép trong sách giáo khoa bộ môn. Xuất phát từ đặc
trưng của kiến thức lịch sử, chúng ta cần hình thành ở học sinh những kỹ năng cơ bản sau:
Kỹ năng học, ghi nhớ các sự kiện, hiện tượng lịch sử một cách hệ thống. Lịch sử là cụ thể, các
sự kiện, hiện tượng lịch sử luôn luôn gắn liền với một không gian, thời gian, nhân vật nhất định,
mà tách các yếu tố đó ra khỏi sự kiện thì chúng ta khơng thể hiểu được lịch sử nữa. Vì vậy một
trong những yêu cầu quan trọng trong quá trình bồi dưỡng học sinh là giáo viên phải yêu cầu học
sinh thuộc các sự kiện lịch sử cơ bản.
Ví dụ: Thơng qua việc nắm chắc kiến thức cơ bản về tình hình nước Nga đầu thế kỉ XX, học
sinh sẽ nắm được những tiền đề về kinh tế, chính trị, xã hội dẫn đến sự bùng nổ cuộc Cách mạng
tháng Hai năm 1917 ở Nga.
Kĩ năng phát hiện vấn đề và giải quyết vấn đề. Học sinh giỏi môn lịch sử là những học sinh
ham thích, say mê nghiên cứu và học tập mơn lịch sử. Các em phải tự mình phát hiện ra vấn đề
và tìm cách giải quyết vấn đề trong q trình học tập. Các em phải ln ln có ý thức tìm hiểu
để làm sáng tỏ các sự kiện lịch sử và giải thích vì sao như vậy.
Ví dụ: Khi học về những tiền đề dẫn đến sự bùng nổ hai cuộc cách mạng năm 1917 ở Nga, học
sinh sẽ lí giải được vì sao có nhận định nước Nga được coi là khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền
đế quốc chủ nghĩa.
Kĩ năng làm bài thi môn lịch sử. Thi học sinh giỏi hiện nay theo hình thức thi tự luận. Xu
hướng đề thi học sinh giỏi là có nhiều câu (khoảng 7-8 câu). Trong thời gian có hạn (180 phút)
địi hỏi học sinh phải có những kĩ năng cơ bản trong việc nhận thức đề, phân phối thời gian, giải
quyết đề và trình bày bài.

17


Để giúp học sinh hình thành các năng lực học và làm bài tốt mơn Lịch sử nói chung, về Cách

mạng tháng Mười năm 1917 nói riêng, giáo viên có thể hướng dẫn các em sử dụng một số
phương pháp như sau:
Vận dụng phương pháp học theo “sơ đồ tư duy”, kết hợp với “từ khố”
Trong q trình làm bài, độ dài của bài thi không tỉ lệ thuận với điểm số của bài thi. Không phải
cứ viết thật dài là điểm cao, vấn đề cốt lõi là đủ ý và đúng ý. Vì vậy, các em cần sử dụng sơ đồ tư
duy cả trong quá trình học và trước khi làm bài, phải phác thảo ra ý chính cần giải quyết, tránh bị
thiếu sót ý.
Xác định, liên hệ những sự kiện lớn của thế giới có tác động trực tiếp tác động Việt Nam trong
cùng thời kì.
Lịch sử Việt Nam là một bộ phận của lịch sử thế giới, nên sẽ chịu ảnh hưởng trước những tác
động lớn từ bên ngoài. Trong các dạng đề thi, học sinh sẽ gặp những câu hỏi liên quan giữa lịch
sử thế giới và lịch sử dân tộc.
Ví dụ, Ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga đến cách mạng Việt Nam trong cùng thời kì
lịch sử.
Làm quen và ơn luyện thành thạo các dạng câu hỏi thường gặp trong đề thi khi hỏi về Cách
(6)
(7)

mạng tháng Mười Nga năm 1917.

Hai
Cácbênbên
traocông
trả
Dạng câu hỏi có hai vế, vế đầu kết thúc bằng từ “nào” hoặc từ “gì”, vế sau u cầu làm++rõ
tùnhận
binhthựcvà tếdân


những thơng tin liên quan đến vế đầu.


thường
miền bịNam
bắt. Việt
Ví dụ: Kết quả lớn nhất của cuộc Cách mạng tháng Hai là gì? Lí giải vì sao cuộc Cách mạng
Nam có hai chính
tháng Mười 1917 lại bùng nổ ngay sau cuộc Cách mạng tháng Hai thắng lợi. Nêu tính chất của
+ Hoa Kì cam kết
quyền, hai qn
hai cuộc cách mạng ấy.
góp phần vào việc
đội,
hai vùng kiểm
Để trả lời tốt được câu hỏi, học sinh cần phải dựa vào bối cảnh lịch sử cụ thể để phân tích,hàn
lí gắn
vết thương
sốt và ba lực
chiến tranh ở Việt
lượng chính trị.
Dạng câu hỏi cuối câu có cụm từ “như thế nào” và yêu cầu làm rõ nội dung liên quan đến cụm
Nam.

giải, bình luận, nhận xét.
từ đó.

Ví dụ: Từ sự hiểu biết của em về Cách mạng dân chủ tư sản tháng Hai và Cách mạng xã hội
chủ nghĩa tháng Mười Nga năm 1917, hãy cho biết thế nào là Cách mạng dân chủ tư sản kiểu
mới? Thế nào là Cách mạng xã hội chủ nghĩa?
Dạng câu hỏi này khơng khó, chỉ ở dạng nhận biết và trình bày, học sinh có thể đạt điểm tốt nếu
ôn luyện kiến thức vững chắc.

18


Dạng câu hỏi có hai vế, thường sử dụng hai cụm từ “nêu và nhận xét..” hoặc “trình bày và
nhận xét…”
Dạng câu hỏi thể hiện rõ sự phân hoá về trình độ tư duy của thí sinh, thường bắt đầu bằng các
cum từ “Vì sao…?”, “Lí giải…?”, “Phân tích…”, “Chứng minh…”, “Bằng những sự kiện có
chọn lọc hãy làm sáng tỏ…”…
Ví dụ: Hãy bày tỏ ý kiến về nhận định: “Cuộc Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 đã mở ra
trước mắt các dân tộc bị áp bức thời đại giải phóng dân tộc”.
Để trả lời tốt dạng câu hỏi này, học sinh phải bám sát vào bối cảnh lịch sử cụ thể. Phương pháp
tốt nhất khi trả lời dạng câu hỏi này là kết hợp cả hai phương pháp diễn dịch (bằng việc đưa ra
cụm “từ khoá” rồi diễn giải, phân tích), cuối cùng dùng phương pháp quy nạp để tổng kết, khái
quát lại…
Dạng câu hỏi yêu cầu thí sinh làm rõ những thông tin liên quan đến một đoạn văn bản đã được
viết trong sách giáo khoa, yêu cầu các em nhận diện, sau đó bình luận, lí giải hoặc nhận xét…
Ví dụ: Bằng các yếu tố lịch sử ở nước Nga năm 1917, em hãy làm rõ nhận định: Vào năm 1917
ở Nga đã xuất hiện đầy đủ các yếu tố cơ bản làm tiền để cho cách mạng xã hội chủ nghĩa, tạo
điều kiện chắc chắn cho thành công của Cách mạng tháng Mười.
Với dạng câu hỏi này, học sinh cần bám vào “từ khoá” trong đoạn văn bản để xác định thời
điểm xảy ra sự kiện lịch sử. Để trả lời tốt vế sau, phải bám sát vào bối cảnh lịch sử của sự kiện.
Dạng câu hỏi yêu cầu học sinh phải đưa ra quan điểm, ý kiến của mình về một nhận định nào
đó liên quan đến kiến thức trong sách giáo khoa, rồi lí giải, giải thích (có thể là câu hỏi độc lập,
hoặc vế thứ hai của một câu hỏi)
Ví dụ: Nhận định về Cách mạng tháng Mười Nga, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Trong lịch sử
lồi người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế…”. Bằng kiến
thức lịch sử đã học, em hãy:
- Giải thích nhận định của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Phân tích ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga đối với cách mạng Việt Nam.
Với dạng câu hỏi trên, học sinh không làm mở bài mà trả lời ngay để được điểm vế đầu, nếu trả

lời sai vế một sẽ mất điểm cả câu. Vì vậy phải rất thận trọng khi đưa ra quyết định. Hướng trả lời
dạng câu hỏi này theo cấu trúc sau:
Đầu tiên, dẫn toàn lời nhận định trên rồi khẳng định là đúng (hoặc chính xác) hoặc sai (hoặc
khơng chính xác, khơng đúng).
19


Tiếp đó, dùng phương pháp diễn dịch, kết hợp sử dụng các dữ liệu lịch sử để phân tích, bình
luận, lí giải, lập luận… nhằm bảo vệ quan điểm của mình.
Cuối cùng, sử dụng phương pháp quy nạp để chốt lại, khẳng định lại một lần nữa nhận định của
mình ở trên.
Khi bước vào kì thi hay kiểm tra, giáo viên cần nhắc nhở các em chú ý:
Thứ nhất, phải đọc và phân tích đề bài để hiểu yêu cầu và nội dung mà câu hỏi, bài tập đặt ra.
Đây là công việc đầu tiên, không thể thiếu được để tránh việc xa đề, lạc đề, không phân phối đủ
thời gian cho bài viết.
Muốn hiểu rõ đề bài, giành một lượng thời gian nhất định (khoảng 5/45 phút,10-15 phút/180
phút) để đọc, suy nghĩ, phân tích đề bài, tìm hiểu những yêu cầu, nội dung cơ bản của đề. Sau đó,
gạch chân những từ, cụm từ quan trọng, thể hiện nội dung cơ bản của đề, từ đó tìm những ý
chính, vấn đề chính cần quan tâm giải quyết rồi ghi ra giấy nháp.
Thứ hai, phải xây dựng dàn ý để đáp ứng yêu cầu cơ bản của bài, giữ được sự cân đối giữa các
phần, chủ động được thời gian. Dàn bài gồm các phần chủ yếu: Phần mở bài, phần thân bài và
phần kết luận.
Cần tránh một số thiếu sót thường gặp là: khơng vạch dàn ý (hay nêu quá sơ lược) khi tiến hành
bài viết một cách tùy tiện, hoặc vạch dàn ý quá chi tiết, mất nhiều thì giờ, ảnh hưởng đến việc
hồn thành bài làm.
Cần chia thời gian hợp lý để hoàn thành các câu hỏi. Tránh tình trạng tập trung, sa đà vào một
số câu hỏi và thiếu thời gian làm những câu còn lại.
Thứ ba: Khi làm bài học sinh phải chú ý làm câu dễ trước, khó sau và cố gắng hồn thành hết
mọi câu mà đề ra. Trong khi viết phải chú trọng nhiều đến cách hành văn- dùng từ ngữ giản dị,
trong sáng, đúng ngữ pháp, khơng viết sai chính tả, diễn đạt gọn, thể hiện rõ cảm xúc…

Để hình thành những kĩ năng học lịch sử nói trên, trong quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi, giáo
viên nên tập trung cho các em làm bài tập lịch sử dưới nhiều dạng khác nhau, kể cả kĩ năng trắc
nghiêm, tự luận và thực hành.
2.3. Tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm các chủ đề hoặc bài tập lịch sử.
Trong thực tiễn giảng dạy, phương pháp này rất phù hợp và đem lại hiệu quả cao khi giải
quyết các vấn đề lịch sử mang tính chất tổng hợp, nâng cao cũng như phù hợp với trình độ
nhận thức của học sinh giỏi để các em có thể phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo cũng

20


như các kĩ năng phân tích, lập luận bảo vệ ý kiến của mình, phát triển khả năng tự đánh giá và
đánh giá lẫn nhau.
Khi tham gia thảo luận, các nhóm cùng trao đổi, hợp tác và học hỏi lẫn nhau, bổ sung kiến
thức cho nhau.
Một số vấn đề tổng hợp có thể thảo luận trong khi giảng dạy chuyên đề Lịch sử Việt Nam
1954- 1975:
1. Vì sao năm 1917, nước Nga lại diễn ra hai cuộc cách mạng: cách mạng dân chủ tư sản
tháng Hai và Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười?
2. Lập bảng so sánh cuộc cách mạng dân chủ tư sản kiểu cũ, cách mạng dân chủ tư sản kiểu
mới và cách mạng xã hội chủ nghĩa : nhiệm vụ, mục tiêu, lãnh đạo, lực lượng, tính chất, hướng
phát triển. Vì sao nói cách mạng tháng Mười năm 1917 có ảnh hưởng mạnh mẽ đến tiến trình
lịch sử và cục diện thế giới?
3. Hãy bày tỏ ý kiến về nhận định: “Cuộc Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 đã mở ra
trước mắt các dân tộc bị áp bức thời đại giải phóng dân tộc”.
4. Hãy trình bày nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của Cách mạng tháng Mười Nga
1917? Lênin đóng vai trò như thế nào đối với thắng lợi của Cách mạng tháng Mười.
2.4. Xây dựng hệ thống câu hỏi, bài tập ôn luyện cho học sinh theo định hướng phát triển
năng lực
Câu hỏi, bài tập cần luyện cho học sinh giỏi môn lịch sử cũng phải tuân thủ qui luật nhận thức

và yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tiếp cận năng lực của học sinh:
Nhận biết, thể hiện khả năng nhớ, thuộc kiến thức, thường được hỏi bằng các từ: Nêu..., Trình
bày..., Hãy kể...
Thơng hiểu, thể hiện khả năng phân biệt, so sánh, giải thích, chứng minh, thường được hỏi bằng
các từ: Hãy chứng minh rằng..., Vì sao...? Tại sao...? (có khi thay bằng: Hãy trình bày/giải thích
ngun nhân/ lý do...), Hãy so sánh... (có khi thay bằng: Hãy nêu những điểm giống nhau, khác
nhau...).
Vận dụng, thể hiện khả năng tư duy cao hơn, khả năng đánh giá, phán xét, phân tích tổng hợp
có thể vận dụng kiến thức để giải quyết một vấn đề. Loại câu hỏi này thường dùng các từ Phân
tích... Nhận xét..., Đánh giá...

21


Các mức độ nhận thức lịch sử nói trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau.
Khơng biết lịch sử diễn ra như thế nào thì cũng khơng thể hiểu, giải thích, đánh giá được lịch sử.
Ngược lại, muốn giải thích, đánh giá, vận dụng được cũng phải trên cơ sở của biết lịch sử.
Trong khi giảng dạy chuyên đề Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, chúng tôi đã xây dựng hệ
thống câu hỏi, bài tập cho học sinh theo định hướng phát triển năng lực như sau:
Câu 1: Vì sao năm 1917, nước Nga lại diễn ra hai cuộc cách mạng: cách mạng dân chủ tư
sản tháng Hai và Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười?
Năm 1917, ở nước Nga diễn ra 2 cuộc cách mạng kế tiếp nhau: Cách mạng dân chủ tư sản
tháng Hai và cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười vì hồn cảnh thực tế đặc biệt của nước
Nga vào năm 1917:
*) Cách mạng tháng Hai:
Đến đầu 1917, nước Nga lâm vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng về mọi mặt:
- Chính trị: Nước Nga vẫn là 1 nước QCCC. Chế độ Nga hoàng lạc hậu và phản động kìm hãm
sự phát triển của đất nước...
- Kinh tế: Sau cải cách nông nô 1861, nước Nga phát triển theo con đường TBCN nhưng là 1
nước tư bản kém phát triển, kinh tế lạc hậu, kiệt quệ về mọi mặt vì sự tồn tại của chế độ nơng nơ

và những tàn tích phong kiến.
- Xã hội: Nước Nga là nơi tập trung cao độ các mâu thuẫn của chủ nghĩa đế quốc…Việc Nga
hoàng đưa nước Nga tham gia chiến tranh thế giới thứ nhất và liên tiếp bại trận làm cho các mâu
thuẫn vốn có càng trở nên gay gắt và địi hỏi phải giải quyết ngay.
- Đảng Cơng nhân xã hội dân chủ Nga do Lê-nin đứng đầu đã sẵn sàng lãnh đạo cách mạng với
khẩu hiệu nổi tiếng ”Biến chiến tranh đế quốc thành nội chiến cách mạng”
→ Như vậy, vào đầu 1917 nước Nga đã có đầy đủ những tiền đề để bùng nổ một cuộc cách
mạng vô sản nhằm lật đổ chế độ phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân. Cách mạng
tháng Hai bùng nổ với mục tiêu đặt ra là giải quyết những mâu thuẫn vốn có trong xã hội.
*) Cách mạng tháng Mười 1917
- Cách mạng tháng Hai đã lật đổ được chế độ Nga hoàng, đưa nước Nga trở thành một nước
cộng hồ. Nhưng nó mới chỉ thực hiện được một nhiệm vụ là xoá bỏ chế độ phong kiến ở Nga.
Các mâu thuẫn còn lại vẫn tồn tại và địi hỏi tiếp tục giải quyết: giành chính quyền hồn tồn về
tay giai cấp vơ sản, đem lại quyền lợi cho nhân dân (giải quyết ruộng đất cho nông dân, giải

22


phóng giai cấp cơng nhân…) đưa nước Nga ra khỏi cuộc chiến tranh đế quốc, đưa lại quyền tự
quyết cho các dân tộc phụ thuộc Nga…
- Thêm vào đó, sau Cách mạng tháng Hai, nước Nga xuất hiện tình trạng hai chính quyền song
song tồn tại: Chính phủ lâm thời của giai cấp tư sản và Xô viết đại biểu cơng nhân, nơng dân,
binh lính. Hai chính quyền này đại diện cho lợi ích của hai giai cấp đối kháng nhau nên không
thể cùng tồn tại lâu dài.
- Hơn nữa lúc nào, Chính phủ lâm thời củagc tư sản đã tỏ rõ bộ mặt phản động khi đối mặt với
những vấn đề cấp bách của đất nước: tiếp tục tham gia chiến tranh thế giới, không giải quyết
được vấn đề ruộng đất…
- Trong bối cảnh đó, Lênin và Đảng Bơnsêvích đã chuẩn bị kế hoạch tiếp tục cuộc cách mạng
nhằm lật đổ Chính phủ lâm thời tư sản, giành chính quyền sang tay giai cấp vô sản, thực hiện các
quyền tự do dân chủ cho nhân dân. Luận cương tháng Tư đã vạch ra mục tiêu và đường lối

chuyển từ cách mạng dân chủ tư sản sang cách mạng xã hội chủ nghĩa.
→ Vì vậy, Cách mạng tháng Mười đã bùng nổ tiếp sau Cách mạng tháng Hai và giành thắng lợi
hoàn toàn, giải quyết được những vấn đề là lịch sử nước Nga đặt ra.
Câu 2: Từ sự hiểu biết của em về Cách mạng dân chủ tư sản tháng Hai và Cách mạng xã
hội chủ nghĩa tháng Mười Nga năm 1917, hãy cho biết thế nào là Cách mạng dân chủ tư
sản kiểu mới? Thế nào là Cách mạng xã hội chủ nghĩa?
*) Cách mạng tháng Hai năm 1917 là cuộc cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới
- Lãnh đạo: Đảng Bơnsêvích- chính đảng của giai cấp vô sản.
- Lực lượng: Công- nông- binh.
- Mục tiêu: Lật đổ chế độ Nga hồng, đưa nước Nga thốt khỏi cuộc chiến tranh đế quốc phi
nghĩa, đem lại quyền lợi cho nhân dân Nga…
- Kết quả:
+ Lật đổ được chế độ quân chủ chuyên chế- đứng đầu là nhà vua Nicơlai II.
+ Chính phủ lâm thời tư sản được thành lập, nhân dân thành lập các Xô viết công- nông- binh.
→ Cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới là cuộc cách mạng thực hiện nhiệm vụ của cách mạng
tư sản, do giai cấp vô sản tiến hành với sự tham gia của đông đảo nhân dân lao động…
*) Cách mạng tháng Mười năm 1917 là cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa
- Lãnh đạo: Đảng Bơnsêvích- chính đảng của giai cấp vô sản.
- Lực lượng: Giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn nước Nga.
23


- Mục tiêu: Chuyển từ cách mạng dân chủ tư sản lên cách mạng xã hội chủ nghĩa, thiết lập chế
độ xã hội chủ nghĩa.
- Kết quả: Lật đổ Chính phủ lâm thời tư sản, lập nên chính quyền Xơ viết- chính quyền vơ sản
do Lênin đứng đầu (25-10 tức 7-11-1917).
Câu 3: Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917:
- Giải thích hiện tượng hai chính quyền song song tồn tại ở Nga sau Cách mạng tháng Hai
năm 1917.
- Trình bày mối quan hệ giữa cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới và cách mạng xã hội

chủ nghĩa. Mối quan hệ đó được thể hiện ở nước Nga năm 1917 như thế nào?
*) Giải thích hiện tượng hai chính quyền song song tồn tại ở Nga sau Cách mạng tháng
Hai năm 1917
- Ngày 27-2-1917, Cách mạng dân chủ tư sản đã lật đổ chế độ Nga hồng. Các Xơ viết đại biểu
của công nhân và Xô viết đại biểu của binh lính tồn Pêtơrơgrát đã họp và bầu ra cơ quan lãnh
đạo thống nhất là Xô viết đại biểu công nhân và binh lính Pêtơrơgrát để đứng ra quản lí nhà nước
cách mạng.
- Cùng thời gian ấy, giai cấp tư sản cũng ra sức vận động để nắm chính quyền. Được những
người Mensêvích và Xã hội cách mạng ủng hộ, ngày 2-3-1917, giai cấp tư sản đứng ra thành lập
Chính phủ lâm thời tư sản.
- Như thế, sau Cách mạng tháng Hai, ở Nga xuất hiện một cục diện chính quyền độc đáo chưa
từng thấy, đó là sự tồn tại song song hai chính quyền: Chính phủ lâm thời tư sản và chính quyền
Xơ viết.
+ Chính phủ lâm thời tư sản chiếm ưu thế, nắm quyền lực nhà nước.
+ Chính quyền Xô viết tuy không nắm các cơ quan quyền lực nhưng lại có sức mạnh cách
mạng, được nhân dân và binh lính ủng hộ.
→ Cục diện kì lạ này phản ánh tương quan so sánh lực lượng giữa giai cấp tư sản và vô sản,
chưa bên nào đủ sức loại bên nào.
- Ngày 3-4-1917, Lêni từ Thuỵ Sĩ về Pêtơrôgrát đọc bản Luận cương tháng Tư nêu rõ chủ
trương của Đảng là khơng ủng hộ Chính phủ lâm thời tư sản, kêu gọi chuyển chính quyền về tay
các Xơ viết một cách hồ bình, chấm dứt tình trạng hai chính quyền song song cùng tồn tại. Sự
kiện này có ý nghĩa quan trọng đối với việc đưa cách mạng Nga bước sang giai đoạn mới.
*) Mối quan hệ giữa Cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới và Cách mạng xã hội chủ nghĩa
24


- Theo lí luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, Cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới và Cách mạng xã
hội chủ nghĩa đều có mục đích là lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa, thiết lập chuyên chính vô sản.
- Cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới là thời kì dự bị để làm cách mạng xã hội chủ nghĩa và
tiến thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa.

*) Mối quan hệ đó được thể hiện ở nước Nga năm 1917:
- Đảng Bơnsêvích đã lãnh đạo Cách mạng dân chủ tư sản tháng Hai 1917 giành thắng lợi, lật đổ
được nền quân chủ chuyên chế Nga hoàng nhưng quyền lực lại chuyển sang tay giai cấp tư sản.
- Trước tình thế đó, Lênin đã về nước để lãnh đạo cách mạng. Người đã đọc Luận cương tháng
Tư tại Hội nghị Đảng Bơnsêvích, nêu lên mục tiêu và đường lối chuyển từ Cách mạng dân chủ tư
sản kiểu mới sang Cách mạng xã hội chủ nghĩa và giành lấy “tồn bộ chính quyền về tay Xơ
viết”.
- Nhờ có sự lãnh đạo kịp thời của Đảng Bơnsêvích, đứng đầu là Lênin nên Cách mạng tháng
Mười Nga đã diễn ra nhanh chóng và giành thắng lợi hồn tồn, thiết lập nhà nước vô sản đầu
tiên trên thế giới.
Câu 4: Lập bảng so sánh cuộc cách mạng tháng Hai năm 1917 và cuộc cách mạng tháng
Mười năm 1917 ở Nga: mục tiêu, lãnh đạo, lực lượng, tính chất, hướng phát triển. Vì sao
nói cách mạng tháng Mười năm 1917 có ảnh hưởng mạnh mẽ đến tiến trình lịch sử và cục
diện thế giới?
*) Lập bảng
Nội dung
Mục tiêu

Cách mạng dân chủ tư sản kiểu
mới
- Đánh đổ chế độ phong kiến, xóa

Cách mạng vơ sản
- Lật đổ chính quyền của giai cấp

bỏ những tàn tích phong kiến, thiết tư sản, thiết lập nền chun chính vơ
lập chính quyền của giai cấp vơ sản.

sản.


- Mở đường cho xã hội phát triển.
Lãnh đạo
Động lực
Tính chất
Chính
quyền
nước

Giai cấp vô sản
Quần chúng nhân dân (Công nhân,

- Mở đường cho xã hội phát triển.
Giai cấp vô sản
Quần chúng nhân dân (Cơng nhân,

nơng dân, binh lính)
nơng dân, binh lính)
Cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới
Cách mạng vơ sản
Chun chính cách mạng của giai
Nền chun chính vơ sản được

nhà cấp cơng nhân và nơng dân (chun thiết lập.
chính cơng- nơng)
25


×