Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

PHÂN TÍCH lí LUẬN bàn TAY vô HÌNH TRONG học THUYẾT KINH tế của ADAM SMITH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.3 KB, 20 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TPHCM
KHOA KẾ TĨAN KIỂM TỐN



ĐỀ TÀI
PHÂN TÍCH LÝ LUẬN “BÀN TAY VƠ HÌNH” TRONG
HỌC THUYẾT KINH TẾ CỦA ADAM SMITH. NHẬN
XÉT VÀ Ý NGHĨA.
GVHD:TS.NGUYỄN MINH TUẤN
NHĨM THỰC HIỆN:
1.TRẦN QUỐC PHƯỚC
2.LÊ MINH ĐỊAN
3.NGUYỄN QUỐC CƯỜNG

4.LÊ THANH BÌNH
5.CHÂU MINH TRÍ
6.LƯƠNG VŨ HẢI

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, NĂM 2008


ĐỀ TÀI: PHÂN TÍCH LÝ LUẬN “BÀN TAY VƠ HÌNH” TRONG HỌC
THUYẾT KINH TẾ CỦA ADAM SMITH. NHẬN XÉT VÀ Ý NGHĨA
CHƯƠNG I
Sơ lược về tiểu sử của Adam Smith
Adam Smith (1723 - 1790 ) là người Scotland.
Ông tốt nghiệp ĐH Glasgow (đáng kinh ngạc ở
tuổi 17!) Ông sang nghiên cứu ở Oxford rồi
quay về Scotland dạy tại ĐH Edinburgh và ĐH
Glassgrow. Ông dạy Triết học Đạo đức. Phải 10


năm sau khi rời ghế chủ nhiệm bộ môn, ông mới
viết sách khiến tên tuổi trở nên lỗi lạc. Khi thôi
dạy Glassgrow, ông đi du ngoạn để gặp gỡ các
nhà tư tưởng lớn thời đó. Thời kỳ này giúp ơng
định hình các tư tưởng và khi về Scotland ông
bắt đầu viết sách. Tác phẩm lớn nhất của ông là
'The Wealth of Nations', xuất bản 1776. Trong tác phẩm, ông nhấn mạnh lợi
ích của chun mơn hố và nhu cầu sinh ra hệ thống cơ chế thị trường, phản
hồi qua hệ thống giá.
 Chi tiết:
Adam Smith là một nhân vật trầm lặng, sống một cuộc đời ẩn dật, một con
người ít viết thư từ và đã ra lệnh đốt bỏ một số bản thảo khi gần qua đời vì
vậy người đời sau hiểu rõ các tư tưởng của Adam Smith hơn là cuộc đời của
nhà Kinh Tế Học này.
Khơng có tài liệu nào ghi rõ ngày sinh của Adam Smith, chỉ biết rằng ông
được rửa tội vào ngày 5 tháng 6 năm 1723 tại Kirkcaldy, một ngôi làng đánh
cá nhỏ nhưng thịnh vượng với dân số gần 1,500 người và nơi này gần thành
phố Edinbug, xứ Tô Cách Lan. Adam Smith là con trai của ơng Adam Smith
trong lần lập gia đình thứ hai với bà Magaret Douglas, con gái của một chủ
đất giàu có. Ơng Adam Smith cha chỉ là một người kiểm soát thuế vụ, đã qua
đời trước khi Adam sinh ra. Người ta khơng biết gì về tuổi trẻ của Adam
ngoài câu chuyện kể lại rằng năm lên 4 tuổi, Adam đã bị bắt cóc do một
nhóm người Gypsies sống lang thang và sau cuộc báo động tìm kiếm, cậu bé
Adam đã được nhóm người kia bỏ lại.


Năm 1737 và ở vào tuổi 14, Adam Smith theo học Đại Học Glasgow vào
thời gian này đã là một trung tâm danh tiếng của thời kỳ Khai Sáng
(Enlightenment). Giảng dạy tại đại học này có Giáo Sư Francis Hutcheson
nổi danh về ngành triết học luân lý (moral philosophy), là người đầu tiên dạy

sinh viên bằng tiếng Anh, không dùng tiếng La Tinh, và các quan điểm về
Kinh Tế và Triết Học của ông Hutcheson đã ảnh hưởng rất mạnh tới Adam
Smith sau này. Trong một bức thư viết 15 năm sau, Adam Smith đã nói tới
"Tiến Sĩ Hutcheson khơng bao giờ có thể quên được". Tốt nghiệp năm 1740,
Adam Smith nhận được một học bổng, theo học trường Balliol thuộc Đại
Học Oxford. Trong thời gian sáu năm tại trường đại học này, các sinh viên
học tập cách tự học (self-education) để quán triệt các nền triết học cổ điển và
đương thời, họ phải đọc các tác phẩm của các tác giả Hy Lạp và La Mã,
cùng với các công trình của các giáo sư đại học thời đó.
Khi trở lại Glasgow, Adam Smith đi tìm việc làm. Nhờ các liên hệ của gia
đình bên mẹ, nhờ sự trợ giúp của nhà luật học và triết học Lord Henry
Kames, Adam Smith được nhận làm Giảng Sư tại Đại Học Edinburg với
nhiệm vụ phụ trách các buổi thuyết trình cơng (public lectures), đây là một
hình thức giáo dục với tinh thần "cải tiến" (improvement) được các nhà trí
thức thời đó ưa chuộng. Các bài thuyết trình cơng này gồm nhiều đề tài từ
mơn tu từ học (rhetoric) tới ngành chính trị kinh tế học (political economy).
Trong bài điếu văn viết về Adam Smith nhiều năm về sau, Tạp Chí "Q
Ơng" (Gentleman 's Magazine) đã bình luận rằng "cách phát âm và thể văn
của ông Adam Smith đã hơn hẳn những thứ đang dùng tại xứ Tơ Cách Lan".
Trình độ hiểu biết của Adam Smith đã khiến cho ông được mời làm Giáo Sư
Lý Luận (professor of logic) tại Đại Học Glasgow vào năm 1751 ở tuổi 27,
rồi năm sau, trở thành Giáo Sư môn Triết Học Luân Lý (moral philosophy),
một môn học bao gồm các ngành thần học tự nhiên (natural theology), đạo
đức học (ethics), luật học (jurisprudence) và chính trị kinh tế học.
Thời gian đảm nhận chức vụ Giáo Sư tại Đại Học Glasgow là "thời kỳ sung
sướng nhất và danh dự nhất của đời tôi", theo như lời Adam Smith mô tả về
sau. Mỗi ngày trong tuần lễ, ông Adam thuyết giảng từ 7:30 tới 8:30 sáng
trước lớp học tối đa 90 sinh viên tuổi từ 14 tới 16, còn đợt giảng bài từ 11
giờ tới 12 giờ trưa được thực hiện 3 lần một tuần lễ. Vào buổi chiều, ông lo
công việc của trường đại học khiến cho vào năm 1758, Adam Smith được

bầu làm khoa trưởng. Các bạn và người quen của Adam Smith trong thời
gian này gồm một số nhà quý tộc, nhiều người nắm giữ các chức vụ cao cấp
của chính quyền. Các nhà trí thức và khoa học gồm có Joseph Black, một


người tiền phong về ngành Hóa Học, James Watt là nhà phát minh ra máy
hơi nước, Robert Foulis là nhà sáng lập ra Viện Hàn Lâm Kiểu Mẫu của
nước Anh (The British Academy of Design), David Hume là nhà triết học
danh tiếng. Adam Smith còn quen thân với Andrew Cochran, một nhà bn,
ngun viện phó của Đại Học Glasgow, người sáng lập ra Câu Lạc Bộ Chính
Trị Kinh Tế Học (the Political Economy Club), nhờ đó Adam Smith thu thập
được nhiều hiểu biết của thế giới thương mại để rồi về sau viết ra tác phẩm
"Tài Sản của các Quốc Gia".
Tác phẩm đầu tiên của Adam Smith là cuốn "Lý thuyết về các Tình Cảm
Luân Lý" (The Theory of Moral Sentiments) xuất bản vào năm 1759, được
viết ra với thể văn hào nhoáng, chải chuốt, chứa đựng nhiều giai thoại, mang
tính chất phân tích và tác phẩm này đã tạo nên thứ ấn tượng sâu xa. Adam
Smith đã mô tả qua tác phẩm các nguyên tắc về "bản chất con người"
(human nature) và đặt vấn đề về nguồn gốc của khả năng tạo ra các phán xét
luân lý, kể cả cách phán xét các hành vi của chính mình trong việc tư lợi
(self-interest) và tự bảo tồn (self-preservation). Adam Smith đã cho rằng
trong mỗi người chúng ta có một "con người bên trong" (an inner man) đóng
vai trị một người khách quan không thiên vị, thường chấp nhận hay lên án
các hành động của chính ta và của các người khác. Qua tác phẩm "Các Tình
Cảm Luân Lý", Adam Smith đã có nhận xét quan trọng như sau mà sau này
ông lặp lại trong tác phẩm "Tài Sản của các Quốc Gia": “con người tự tìm
kiếm mình (self-seeking men) thường bị dẫn dắt bởi "một bàn tay vơ hình"
(an invisible hand) … mà khơng ai biết, khơng do chủ đích, để làm thăng
tiến các lợi ích (interest) của xã hội. Các cá nhân được xã hội hóa để trở nên
các thành viên giàng buộc bởi giai cấp và theo khuynh hướng thị trường

(market-oriented) nhờ đó hệ thống kinh tế vận chuyển”.
Tác phẩm "Lý thuyết về các tình cảm luân lý" đã sớm mang lại danh tiếng
cho Adam Smith. Nhiều người từ xa đã tới nghe ông diễn thuyết kể cả hai
sinh viên từ Moscow. James Boswell cũng xác nhận lý thuyết của Adam
Smith là quan trọng và Charles Townshend đã phải chú ý đến lý thuyết này.
Ông Townshend là một nhà trí thức kiêm kinh tế học tài tử, một chính khách
nhiều ảnh hưởng và về sau là Bộ Trưởng Thương Mại (Chancellor of the
Exchequer) tức là nhân vật chịu trách nhiệm về các chính sách thuế vụ của
nước Anh mà hậu quả là Cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ. Ông Townshend mới lập
gia đình và đang tìm kiếm một gia sư cho đứa con riêng của bà vợ, tức là
Hầu Tước Buccleuch trẻ. Do sự thán phục tác phẩm kể trên và cũng do lời
khuyên của David Hume, Charles Townshend đề nghị với Adam Smith một
số thù lao khó từ chối: lương 500 bảng Anh một năm cộng với phí tổn du


lịch và một số tiền hưu tương đương, tất cả lớn gấp hai lợi tức của chức vụ
giáo sư trong khi thứ lợi tức này tùy thuộc vào học phí thu được của sinh
viên.
Vào năm 1763 Adam Smith từ chức khỏi Đại Học Glasgow rồi cùng vị Hầu
Tước Buccleuch trẻ sang Pháp. Họ cư ngụ phần lớn thời gian tại Toulouse và
trong hoàn cảnh buồn tẻ này, Adam Smith bắt đầu viết tác phẩm "Tài Sản
của các Quốc Gia". Sau 18 tháng rảnh rỗi là hai tháng sống tại Geneva và
Adam Smith đã được gặp Voltaire là nhân vật mà ơng kính trọng. Sau đó
Adam Smith đi tới thành phố Paris. Vào thời gian này, David Hume là Đại
Sứ Anh tại nước Pháp. Adam Smith được giới thiệu với các câu lạc bộ văn
học danh tiếng của phong trào Khai Sáng (the French Enlightenment) và nhờ
vậy ông làm quen với nhóm các nhà lý thuyết và cải cách xã hội, được gọi là
các nhà kinh tế (les économistes), đứng đầu nhóm là Francois Quesnay. Đây
là phong trào tìm kiếm phương pháp canh tân nền nông nghiệp của nước
Pháp bằng đường lối cải cách hệ thống thuế vụ và ông Quesnay đã phân tích

lý thuyết về cơng việc tiêu dùng đã được vận chuyển ra sao trong chu kỳ
kinh tế để sinh ra tài sản và sự tăng trưởng kinh tế. Adam Smith đã không
đồng ý với ông Quesnay về niềm tin rằng chỉ có các nơng dân lao động trực
tiếp với thiên nhiên hay đất đai mới thực sự làm ra tài sản, thế nhưng ảnh
hưởng của ông Quesnay đối với Adam Smith rất lớn lao khiến cho nhà Kinh
Tế Học người Anh này đã có ý định đề tặng tác phẩm "Tài Sản của các Quốc
Gia" cho ông Quesnay nếu như ông này đã không qua đời trước khi cuốn
sách được xuất bản.
Cuộc hành trình của Adam Smith tới thành phố Paris bị cắt ngang vì cậu em
trai của Hầu Tước Buccleuch trẻ qua Pháp rồi cả hai đều bị bệnh nặng, cậu
em trai qua đời mặc dù ông và vị cận thần chăm sóc tận tâm. Adam Smith
phải trở về London và làm việc với Lord Townshend vào mùa xuân năm
1767. Vào năm này, ông được bầu vào Hàn Lâm Viện Hoàng Gia (The
Royal Society) và nhờ vậy, làm quen với các nhân tài như Edmund Burke,
Samuel Johnson, Edward Gibbson và có lẽ cả với Benjamin Franklin. Tới
cuối năm 1767, Adam Smith trở lại Kirkcaldy và trong vòng 6 năm tại đây,
ông đã sửa chữa tác phẩm "Tài Sản" rồi sau ba năm sống nơi thành phố
London, tác phẩm kể trên mới được hoàn thành và xuất bản vào năm 1776.
Ngay sau khi được xuất bản, cuốn "Tài Sản của các Quốc Gia" đã được mọi
người khen ngợi, kể cả David Hume. Sau đó Adam Smith được bổ nhiệm
làm Tổng Giám Đốc Thuế Vụ miền Tô Cách Lan, một chức vụ rất nhàn,
lương năm là 600 bảng Anh, vì thế vào lúc tuổi già, ơng rất giàu có. Adam


Smith sống độc thân, trầm lặng tại Edinburg, đôi khi đi du lịch tới thành phố
London hay tới Glasgow, nơi ông được mời giữ chức vụ Viện Trưởng Đại
Học. Adam Smith đã viết thêm một số tác phẩm nhưng các bản thảo đã bị
ơng ra lệnh đốt bỏ. Ơng qua đời vào năm 1790 ở tuổi 67 khi vẫn còn danh
tiếng, được chôn cất trong sân nhà thờ tại Canongate và trên mộ chí của ơng
chỉ ghi vắn tắt rằng đây là nơi an nghỉ của tác giả cuốn sách "Tài Sản của các

Quốc Gia".
Mặc dù trước Adam Smith đã có nhiều người viết về các vấn đề và nguyên
lý kinh tế , nhưng hầu hết mọi người đều coi ông là cha đẻ của kinh tế
học. Ông là người đầu tiên nhìn thấy lợi ích từ việc cạnh trạnh và lập
luận ủng hộ các chính sách thúc đẩy cạnh tranh bằng cách giảm sự can
thiệp của nhà nước vào nền kinh tế và tránh độc quyền.
 Những tác phẩm chính của Adam Smith
"Lectures on Rhetoric and Belles Lettres," 1748.
"The Theory of Moral Sentiments," 1759.
"Lectures on Rhetoric and Belles Lettres" (1762-1763; in 1958)
"Lectures on Jurisprudence," 1766.
"An Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of Nations," 1776.
"Account of the Life and Writings of David Hume", 1777.
"Thoughts on the State of the Contest with America", 1778.
"Essays on Philosophical Subjects", 1795 - gồm :
"The Principles which Lead and Direct Philosophical Enquiries illustrated
by the History of Astronomy"
“The Principles which Lead and Direct Philosophical Enquiries illustrated
by the History of the Ancient Physics"
“The Principles which Lead and Direct Philosophical Enquiries illustrated
by the History of the Ancient Logic and Metaphysics"


"Of the External Senses"
"Of the Nature of that Imitation which takes place in what are called the
Imitative Arts"
"Of the Affinity between certain English and Italian Verses"
"Review of Johnson's Dictionary", 1755, Edinburgh Review
"Letter to the Authors", 1756, Edinburgh Review
"Preface and Dedication to William Hamilton's Poems on Several

Occasions", 1748, 1758
"Account of the Life and Writings of Adam Smith LL.D." by Dugald Stewart,
1793, Transactions of the Royal Society of Edinburgh.
CHƯƠNG II

Nội dung và phân tích học thuyết “Bàn tay vơ hình”
1/. Nội dung:
Bàn tay vơ hình là một phép ẩn dụ, một tư tưởng kinh tế do nhà kinh
tế học Adam Smith đưa ra vào năm 1776. Trong tác phẩm “Tài sản của các
quốc gia” và những bài viết khác, Smith đã tuyên bố rằng, trong nền kinh tế
thị trường tự do, mỗi cá nhân theo đuổi một mối quan tâm và xu hướng lợi
ích riêng cho cá nhân mình, và chính các hành động của những cá nhân này
lại có xu hướng thúc đẩy nhiều hơn và củng cố lợi ích cho tồn cộng đồng
thơng qua một "bàn tay vơ hình". Ơng biện luận rằng, mỗi một cá nhân đều
muốn thu lợi lớn nhất cho mình sẽ làm tối đa lợi ích của cả cộng đồng, điều
này giống như việc cộng toàn bộ tất cả các lợi ích của từng cá nhân lại.
Smith chỉ sử dụng thuật ngữ "bàn tay vơ hình" ba lần trong ba tác
phẩm của ông. Nhưng sau này, thuật ngữ này đã được sử dụng rộng rãi trở
thành một lý luận kinh tế học.
Theo lý luận này, thì hoạt động của mỗi thành viên trong xã hội chỉ
mang mục đích bảo vệ lợi ích của riêng mình; thơng thường, khơng có chủ


định củng cố lợi ích cơng cộng và cũng khơng biết mình đang củng cố lợi
ích này ở mức độ nào. Tuy nhiên khi đó, hệ thống thị trường và cơ chế giá cả
sẽ hoạt động một cách tự phát vì lợi ích của tất cả mọi người như thể có một
bàn tay vơ hình đầy thiện ý điều khiển tồn bộ q trình xã hội và sự điều
khiển tự phát này cịn có hiệu quả hơn cả khi có ý định làm việc này.
Thuyết của Smith chống lại tư tưởng của chủ nghĩa trọng thương (yêu
cầu có sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế), là mầm mống cho địi hỏi

được tự do kinh doanh, có sự thích hợp với chủ nghĩa tư bản trong một thời
kì dài. Tuy nhiên sau này, thực tế đã cho thấy những điểm chưa hoàn toàn
hợp lý của thuyết này, và người ta vẫn phải dùng đến nhà nước là "bàn tay
hữu hình" thơng qua luật pháp, thuế và các chính sách kinh tế để điều chỉnh
nền kinh tế xã hội kết hợp với cơ chế tự điều chỉnh theo thuyết bàn tay vơ
hình để thúc đẩy sự phát triển về kinh tế xã hội của đất nước.
Cũng giống như các nhà lý luận cổ điển khác, A. Smith ủng hộ mạnh
mẽ tư tương tự do kinh tế, đề cao tự do cạnh tranh . điều đó là hồn tồn phù
hợp với hoàn cảnh kinh tế xã hội của thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản tự do
cạnh tranh.
Trong tác phẩm “ Nguồn gốc sự giàu có của các quốc gia “, ơng
khẳng định rằng chế độ xã hội bình thường hợp với “ trật tự tự nhiên” là xã
hội tư bản, nền kinh tế bình thường là nền kinh tế phát triển trên cơ sở tự do
cạnh tranh, xã hội bình thường là xã hội xây dựng trên cơ sỡ quy luật tự
nhiên, cịn xã hội khơng bình thường là sản phẩm của độc đoán, ngẫu nhiên
và dốt nát của con người.Nhiều nhà kinh tế học cho rằng tính ích kỷ cá nhân
không chỉ là cơ sỡ lý thuyết của ơng, mà A.Smith cịn đề cao tình cảm đạo
đức của con người trong tác phẩn “ lý luận đạo đức”.
Về ngun lý “bàn tay vơ hình “ ơng viết: “Mỗi cá nhân đều cố gắng
sử dụng vốn cảu mình sao cho có được sản phẩm có giá trị cao nhất. Thơng
thường, cá nhân này khơng có chủ định củng cố lợi ích cơng cộng, mà cũng
chẳng biết mình đang củng cố lợi ích này ở mức độ nào.Cá nhân này chỉ có
mục đích bảo vệ sự an tồn và thành quả riêng của mình.Trong q trình
này,một bàn tay vơ hình này đã buộc anh ta phải theo đuổi một mục đích
khơng nằm trong dự định.Trong khi theo đuổi lợi ích của mình,anh ta đã bảo
vệ ln lợi ích của xã hội một cách có hữu hiệu hơn cả khi anh ta có ý định
làm việc này”.


Bàn tay vơ hình,trước hết thể hiện lợi ích của các cá nhân,nó tác động

như là một lực đẩy,hướng con người tới công việc nào mà xã hội sẵn sàng trả
tiền.A.smith viết: “chúng ta khơng mong có bữa trưa nhờ lịng hào phóng
của người mổ thịt,người nấu bia,hoặc người làm bánh,mà ở cách nhìn của họ
đối với lợi ích của bản thân họ.Chúng ta trơng chờ khơng phải ở lịng nhân
đạo của họ,mà ở tính tự tương thân của họ,và khơng bao giờ nói với họ về
những nhu cầu của chúng ta,mà về những lợi ích của họ”.
Ơng đã nêu ra những luận điểm quan trọng về cơ chế vận động của
nền kinh tế thị trường,mà khơng cần có sự can thiệp của con người,ông viết
“bạn nghĩ rằng bạn đang giúp cho hệ thống kinh tế bằng những quy định,ý
định tốt đẹp và bằng những quy định,ý định tốt đẹp và những hành động can
thiệp của mình.Khơng phải vậy đâu hãy để cho mọi việc xảy ra đừng nhúng
tay vào.Dầu nhờn của lợi cá nhân sẽ làm cho các bánh xe kinh tế hoạt động
gần như kỳ diệu,không cần kế hoạch,không cần quy chế,thị trường giải
quyết tất cả”.
A.smith đã đề cao hiệu quả của lợi ích cá nhân: “những con người bao
giờ cũng cần đến những đồng loại của mình và thật vơ ích khi chờ đợi sự tử
tế duy nhất của họ.Sẽ thành cơng chắc chắn hơn,nếu nó hướng tới lợi ích cá
nhân của họ… Anh hãy đưa tơi cái tơi cần,và anh sẽ có được ở tơi cái mà
chính anh cần”.Thị trường sẽ tại ra cái hài hịa giữa các lợi ích bằng phương
cách của nó: “cứ để cho một cá nhân nào đó chạy theo lịng ham lợi của
mình,anh ta sẽ thấy mọc lên những kẻ cạnh tranh làm anh ta mất nghề.Cứ để
một người nào đó bán hàng của mình qúa đắt,hoặc khơng muốn trả cơng cho
cơng nhân của mình như những kẻ khác,anh ta sẽ mất khách trong trường
hợp thứ nhất và khơng có người lam trong trường hợp thứ hai.Như
vậy,những đông cơ vị kỷ của con người điều khiển trò chơi,và sự tác động
qua lại giữa họ sẽ tạo ra những kết quả bất ngờ nhất-sự hài hịa của xã hội”.
Ơng đã nhận thức rõ vai trò điều tiết của thị trường qua sự tác động của cung
-cầu và giá cả,ông kết luận: “lợi ích cá nhân sẽ khôi phục sự cân bằng.
Lý thuyết “Bàn tay vơ hình”,với sự thúc đẩy của lợi ích cá nhân và sự
điều tiết của thị trường cạnh tranh.Ông đã giải thích việc để giá cả thị trường

được cân bằng,khơng phải xa rời chi phí sản xuất thực tế hàng hóa.Ơng đã
giải thích việc xã hội làm như thế nào để hướng những người sản xuất hàng
hóa phải cung cấp những hàng hóa mà xã hội cần,sư tương đồng cơ bản
trong thu nhập của dân chúng ở mỗi trình độ sản xuất của một quốc
gia.Nghĩa là ơng đã tìm ra trong cơ chế thị trường một hệ thống tự điều tiết
việc cung ứng cho xã hội một cách có trật tự.


Theo ông ,nhà nước là công cụ cần thiết để chống thù trong giặc
ngoài,chống tội phạm và bảo vệ đất nước .Tuy nhiên ,đội khi nhà nước cũng
có chức năng kinh tế ,khi nó vượt ra ngồi khả năng của các doanh
nghiệpnhư đào sông,đắp đường…,nhưng nhà nứoc không nên can thiệp sâu
vào các hoạt động kinh tế ,thị trường tự nó sẽ giải quyết tất cả.
2/. Phân tích:
Adam Smith sử dụng hình tượng “bàn tay” để ám chỉ quyền lực chi
phối thị trường. Ông cũng phân quyền lực này thành 2 loại:
1/.Bàn tay hữu hình: Quyền lực chi phối thị trường của Nhà nước. Được
thực hiện thông qua các chũ trương, chính sách chủ quan của giới cầm
quyền.
2/.Bàn tay vơ hình: Quyền lực chi phối thị trường của tự nhiên. Được thực
hiện thông qua các quy luật tự nhiên khách quan, nằm ngoài sự chi phối của
con người.
Rõ ràng, quy luật tự nhiên mạnh hơn suy nghĩ chủ quan của Nhà
nước. Từ đây ta có thể thấy xu hướng ca ngợi “bàn tay vơ hình” của Adam
Smith. Ơng ln kêu gọi chính phủ khơng can thiệp q sâu vào thị trường.
Theo Adam Smith thì có một "bàn tay vơ hình" thúc đẩy sự vận hành
của nền kinh tế thị trường theo quy luật cung cầu và quy luật giá trị, chi phối
tài sản và cách tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ. Cụ thể là những cá nhân tìm kiếm
của cải theo các mục tiêu riêng lẻ lại vơ tình thúc đẩy nền kinh tế và hỗ
trợ phát triển những lợi ích chung của cả xã hội.

Nhờ lý thuyết về kinh tế học của Adam Smith, Charles Dickens đã có
được cách nhìn sâu sắc về những điều phức tạp và bất công của xã hội tư
bản. Và Charles Dickens đã mở lối cho các nhà văn danh tiếng sau này là
Henry James và Henry Adams.
Sau khi Adam Smith bàn luận về thị trường, Karl Marx đã phân tích
bản chất của chủ nghĩa tư bản thời kỳ cuối thế kỷ 19. Lý thuyết Mác Xít
(Marxism) đã đưa tới cuộc Cách mạng vơ sản Nga vào năm 1917 và sự phát
triển của Liên bang Xô Viết sau Chiến tranh Thế giới II.


Rõ ràng là đã có một "bàn tay vơ hình" làm nhiệm vụ điều phối, cung
ứng một nguồn thu nhập khác ngồi lương của cơng chức nên họ mới thể
sống được, sống khỏe, sống không phải lo chén cơm manh áo như đại bộ
phận người dân đang phải đối mặt...
Theo Adam Smith thì có một "bàn tay vơ hình" thúc đẩy sự vận hành
của nền kinh tế thị trường theo quy luật cung cầu và quy luật giá trị, biến
những tính tốn riêng về lợi ích của từng người thành những lợi ích chung
cho xã hội.
Cuộc sống con người tùy mức sống văn minh sẽ có nhưng nhu cầu vật
chất khác nhau. Mức sống càng cao, yêu cầu vật chất từ ăn no mặc ấm đã
nâng lên ăn ngon mặc đẹp. Nhu cầu về cuộc sống tinh thần, tâm lý, được tơn
trọng, được phục vụ cũng địi hỏi những sản phẩm tinh thần mới, do đó mà
sản phẩm hàng hỏa và dịch vụ phát triển không ngừng. Khi số lượng yêu cầu
của một loại sản phẩm (vật chất hay tinh thần) lớn đến một mức độ nào đó
thì sẽ tạo ra thị trường của sản phẩm ấy, nghĩa là có người mua, người bán,
và bàn tay vơ hình của nền kinh tế thị trường sẽ làm nhiệm vụ điều hòa. Số
lượng, chất lượng, giá cả sản phẩm sẽ được đưa từ chỗ thừa đến chỗ thiếu,
thúc đẩy một sản phẩm mới có ưu thế, có ích lợi hơn ra đời và loại bỏ sản
phẩm lạc hậu, kém giá trị ra khỏi thương trường. Hoạt động của bàn tay vơ
hình thật là vơ tư.

Tuy nhiên, vì vơ tư nên bàn tay vơ hình cũng dễ bị lợi dụng. Người ta
đã tạo ra những trạng thái giả tạo, bằng nhưng hiện tượng thiếu hụt hàng hóa
tại một thời điểm, một địa phương nào đó, làm cho giá cả gia tăng đề trục lợi
hoặc dùng những biện pháp hành chính ngăn cản những dịng hàng hóa vận
hành theo quy luật cung cầu, làm cho giá cả biến động, thị trường bị méo
dạng, hay đặt ra chính sách đối xử bất bình đẳng đối với mặt hàng, nguồn
gốc xuất xử, đối tượng tham gia… Như vậy bàn tay vơ hình sẽ bị lừa, sẽ vận
hành một cách khập khễnh, từ đó một yêu cầu vơ cùng chính đáng đặt ra là
Nhà nước phải tham gia vào thị trường với mục tiêu là: gỡ bỏ rào cản, loại
bỏ những yếu tố làm biến dạng thị trường, hướng dẫn sản xuất.
3/ Lý luận về thị trường tự do dựa trên học thuyết “Bàn tay vơ hình”:
Thị trường mà nhà nước không can thiệp vào gọi là :thị trường tự do
Các cá nhân trên thị trường tự do theo đuổi quyền lợi của mình bằng
cách cố gắng làm càng nhiều cho mình càng tốt tùy theo khả năng của
mình,khơng có sự giúp đỡ can thiệp nào của chính phủ.Ý tưởng về một hệ


thống như vậy có thể giải quyết các vấn đề sản xuất cái gì ,sản xuất như thế
nào và sản xuất cho ai là một trong những chủ đề lâu đời nhất của kinh tế
học,bắt đầu từ thời Adam Smith.Ông lập luận rằng một cá nhân theo đuổi
quyền lợi của mình được một”bàn tay vơ hình” dẫn dắt tới chỗ làm những
việc có lợi cho xã hội nói chung.
Giả sử bạn muốn trở thành một nhà triệu phú.Bạn ngày đêm suy nghĩ
về những cái mới và phát minh ra một mặt hàng mới,có thể là vơ tuyến,ơtơ
hoặc máy tính cầm tay.Tuy là động cơ cá nhân nhưng bạn đã làm cho xã hội
khá giả lên bằng cách tạo ra những việc làm và những cơ hội mới.Bạn đã
dịch chuyển đường giới hạn sản xuất ra xa hơn-bằng nguồn lực như cũ bây
giờ sản xuất ra được nhiều hàng hơn hay hàng chất lượng cao hơn-và trong
q trình đó bạn trở thành triệu phú.Smith lập luận rằng sự theo đuổi quyền
lực cá nhân khơng có điều hành từ trung ương có thể tạo ra được một xã hội

liên kết chặt chẽ co khả năng đưa ra các quyết định phân bố hợp lý.

CHƯƠNG III

Nhận xét và ý nghĩa
1./ Nhận xét:
Trong 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, chúng ta đã từng bước
phục hồi nền kinh tề thị trường. Nhà nước đã từ đổi mới về mục đích cơ cấu
và phương pháp vận hành dễ phù hợp với nền kinh tế thị trường ấy. Do đó
mà đời sống xã hội đã có một bước tiến khá dài, đại bộ phận nhân dân từ chỗ
thiếu ăn, thiếu mặc đang bước vào ngưỡng cửa ăn ngon măck đẹp. Tuy
nhiên, nếu so sánh với các nước chung quanh, thì khoảng cách tụt hậu chưa
thể rút ngắn, điều này khiến chúng ta phải có những bước cải cách mới để
tạo động lực mới, gia tăng tốc độ tăng trưởng cho nền kinh tế của chúng ta.
Theo ý kiến một số nhà đầu tư có mặt tại Việt Nam nhiều năm nay, thì
tiền lương lao động thấp không hẳn là một ưu thế của nền kinh tế Việt Nam
bởi lương thấp đi đôi với năng suất lao động thấp, điều ấy khơng cịn ý nghĩa
gì nữa về mặt kinh tế, trong khi có thể cịn làm hại về mặt xã hội. Người lao
động thu nhập thấp thì sẽ khơng đủ sống, như vậy họ sẽ khó hoàn thành
nhiệm vụ được giao theo pháp luật hay hợp đồng tương ứng với chức năng,
nhiệm vụ của họ.


Điều này xưa nay các nhà đầu tư không dám có ý kiến với Nhà nước
chúng ta nhưng rõ ràng chế độ tiền lương cán bộ nhà nước quá thấp đã ảnh
hưởng đến nhiệm vụ, chức năng, thái độ làm việc của họ, nhất là trong xử lý
các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong cũng như ngoài nước.
Biểu hiện cụ thể của tình hình này là thủ tục nhiêu khê, rườm rà, một số văn
bản pháp lý không rõ ràng, cách áp dụng và giải thích luật lệ mỗi nơi mỗi
khác, làm cho doanh nghiệp phải đương đầu với các yếu tố:

- Rủi ro cao trong mọi tình huống
- Thời gian quay vịng vốn chậm
- Chi phí vơ hình tăng
- Giá thành trên một đơn vị sản phẩm năm sau cao hơn năm trước, đưa đến
tình trạng khơng thể cạnh tranh được với hàng hố nước ngồi.
Chế độ tiền lương của cán bộ Nhà nước thấp tưởng chừng như khơng
liên can gì với giá thành sản phẩm hàng hố, nhưng suy cho cùng thì sẽ thấy
khi “sản phẩm cơng” mà Nhà nước cung ứng cho doanh nghiệp có chất
lượng kém thì sẽ tạo ra biết bao gánh nặng như đã nêu trên.
Liệu có ai tin rằng cán bộ chúng ta thật sống với đồng lương “hình
thức" đó khơng? Rõ ràng là khơng, vì người ta thừa biết cuộc sống của cán
bộ Nhà nước luôn luôn trên mức trung bình của người dân trong tất cả mã
vùng của đất nước. Như vậy tất nhiên họ phải nhờ vào nguồn thu nhập khác
ngoài lương để giữ được mức sống đang có. Thế thì nguồn thu nhập đó từ
đâu đến, trong khi về hình thức họ khơng tham gia hoạt động dịch vụ
SXKD. Rõ ràng là đã có một "bàn tay vơ hình" làm nhiệm vụ điều phối,
cung ứng một nguồn thu nhập khác ngồi lương của cơng chức nên họ mới
có thể sống được, sống khỏe, sống khơng phải lo chén cơm manh áo như đại
bộ phận người dân đang phải đối mặt.
Khổ nỗi "bàn tay vơ hình" này lại biến cái lợi ích chung thành cái
riêng. Đương nhiên, nguồn thu nhập do "bàn tay vơ hình" này đưa đến vơ
cùng phức tạp, đa dạng, có chất lượng, số lượng và đạo lý khác nhau. Chỉ
riêng xét ớ góc độ đạo lý thơi thì chúng ta cũng có thấy những mức nhận
thức khác nhau:
- Bị xúc phạm, nhưng bất khả kháng.


- Quyền biến nhất thời để sống và làm việc.
- Xem như một sự cân đối bù trừ với những điều mà đáng lý ra một chế độ
tiền lương phải thực hiện đầy đủ, nhưng Nhà nước chưa làm được.

- Cũng là một sự trả công của xã hội cho cơng sức của mình đã bỏ ra.
- Cũng là một thu nhập do cơng sức của mình tạo ra.
- Là một cơ hội làm ăn mà nếu mình khơng làm thì người khác cũng làm.
- Xem đây là con đường ngắn nhất để đầu tư cho cuộc đời nên phải nắm thời
cơ khai thác triệt để.
- Phải nhanh tay lẹ chân, đánh nhanh đánh bạo kẻo trễ.
Sự xuất hiện của "bàn tay vơ hình" thứ hai bên cạnh bàn tay vơ hình
của nền kinh tế thị trường dễ làm cho sự vận hành của nền kinh tế, cũng như
việc điều hành bộ máy Nhà nước của chúng ta khơng cịn khách quan, thậm
chí trong nhiều trường hợp thiếu trong sáng. Khi ấy bàn tay vơ hình trở
thành bàn tay "ma quái" gây tai họa cho đất nước qua các hành vi tham ơ,
lãng phí.
Tuy nhiên, cũng có người cho rằng, nền kinh tề chúng ta khơng có khả
năng cung cấp một mức lương đủ sống cho công chức Nhà nước. Điều này
khơng đúng, vì nguồn tiền mà bàn tay "ma quái" đó sử dụng thật sự là nằm
trong nền kinh tế của chúng ta đó thơi. Chỉ có điều là ta chưa thật sự quyết
tâm thực hiện cải cách thế chế quản lý Nhà nước, tinh giản bộ máy hành
chính và loại bớt những người ăn lương vô công rồi nghề, để vừa đỡ nhiễu
nhương cho dân, đồng thời tiết kiệm được nguồn tài chính Nhà nước. Có
như vậy sẽ thừa khả năng tăng lương cho những cán bộ có năng lực, cần
mẫn, làm như vậy sẽ vơ hiệu hóa bàn tay vơ hình thứ hai. Cịn nếu ta vấn
tiếp tục duy trì tình trạng dửng dưng với lương "hình thức" như lâu nay thì
đó là cơ hội cho bàn tay ma quái vùng vẫy vô tư giữa bao nhiêu cái khó khăn
của đời sống kinh tế xã hội đất nước.
II/ Ý nghĩa:
Là tiền đề cho sự phát triển nền kinh tế thị trường và tự do thương mại quốc
tế ngày nay. Học thuyết cũng là cơ sở để các nhà kinh tế học sau phát triển.


Đây cũng là học thuyết cho thấy tầm quan trọng của quy luật khách quan,

đặc biệt là quy luật cân bằng về cung-cầu giá cả.
Theo học thuyết đó thì hoạt động của mỗi thành viên trong xã hội chỉ có
mục đích bảo vệ sự an tồn và thành quả của riêng mình; thơng thường,
khơng có chủ định củng cố lợi ích cơng cộng và cũng khơng biết mình đang
củng cố lợi ích này ở mức độ nào. Trong khi đó, hệ thống thị trường và cơ
chế giá cả vẫn hoạt động một cách tự phát vì lợi ích của tất cả mọi người
như thể có một "Bàn tay vơ hình" đầy thiện ý điều khiển tồn bộ q trình xã
hội, buộc cá nhân phải theo đuổi một mục đích khơng nằm trong dự định.
Trong khi theo đuổi lợi ích cá nhân, con người thường bảo vệ ln lợi ích
của xã hội một cách hữu hiệu hơn cả khi có ý định làm việc này. Thuyết của
Adam Smith chống lại tư tưởng của chủ nghĩa trọng thương (yêu cầu có sự
can thiệp của nhà nước vào kinh tế), là tiếng nói của chủ nghĩa tư bản đã
trưởng thành đòi hỏi được tự do kinh doanh. Tư tưởng của Adam Simth
thích hợp với chủ nghĩa tư bản trong một thời kì dài, thời kì tự do cạnh
tranh. Sau này, khi vấp phải những cuộc khủng hoảng kinh tế sâu sắc thì
những nhà kinh tế học khác lại kêu gọi đến bàn tay hữu hình của nhà nước
để điều chỉnh kinh tế. Để khắc phục những khuyết tật của cơ chế "Bàn tay
vô hình", nền kinh tế hiện đại cần được điều hành bởi sự kết hợp giữa "Bàn
tay vơ hình" của thị trường với bàn tay hữu hình của nhà nước thơng qua
luật pháp, thuế và nhiều biện pháp kinh tế, tài chính khác; vai trị vĩ mơ cũng
như vi mơ của nhà nước ngày càng tỏ ra quan trọng trong nền kinh tế thị
trường.





NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
.................................................................................................................
.................................................................................................................

.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................


.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................




×