Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (502.26 KB, 43 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<i><b>PHẦN LÝ THUYẾT 2 ĐIỂM</b></i>
<b> </b>
<b>Câu 1:Nêu chủ đề (thông điệp) bao trùm vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”- Lưu Quang Vũ </b>
-Qua tác phẩm “Hồn Trương Ba da hàng thịt”, tác giả muốn gửi đến người đọc thông điệp: được sống làm người
quý giá thật, nhưng được sống đúng là mình, sống trọn vẹn những giá trị mình vốn có và theo đuổi càng quý
hơn.
-Sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên với sự hài hòa giữa thể xác và tâm hồn.
-Con người phải ln biết đấu tranh với nghịch cảnh, với chính bản thân, chống lại sự dung tục, để hoàn thiện
nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý .
<b>Câu 2: Nhận xét cách xây dựng cốt truyện độc đáo ( tình huống truyện ) trong tác phẩm “Chiếc thuyền</b>
<b>ngồi xa” của Nguyễn Minh Châu ?</b>
<b>-Trong tác phẩm, đó là sự kiện Phùng chứng kiến lão đàn ông đánh vợ một cách tàn bạo. Trước đó, anh nhìn đời</b>
bằng con mắt của người nghệ sĩ rung động, say mê trước vẻ đẹp huyền ảo- thơ mộng của thuyền biển. Trong
giây phút tâm hồn thăng hoa những cảm xúc lãng mạn, Phùng phát hiện ra hiện thực nghiệt ngã của đơi vợ
chồng bước ra từ con thuyền “thơ mộng” đó.
<b>-Tình huống đó được lặp lại lần nữa: bên cạnh hình ảnh người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng “đòn của ơng</b>
chồng”, Phùng cịn được chứng kiến phản ứng của chị em thằng Phác trước sự hung bạo của cha đối với mẹ. Từ
đó, trong người nghệ sĩ đã có sự thay đổi cách nhìn đời. Anh thấy rõ những cái ngang trái trong gia đình thuyền
chài, hiểu sâu thêm tính chất người đàn bà, chị em thằng Phác, hiểu thêm người đồng đội (Đầu) và hiểu thêm
chính mình.
<b>-Ý nghĩa</b> : Nguyễn Minh Châu đã xây dựng được tình huống mà ở đó bộc lộ mọi mối quan hệ, bộc lộ khả năng
ứng xử, thử thách phẩm chất, tính cách, tạo ra những bước ngoặt trong tư tưởng, tình cảm và cả trong cuộc đời
nhân vật. Tình huống truyện mang ý nghĩa khám phá, phát hiện đời sống.
<b>Câu 3: Trình bày cuộc đời và sự nghiệp của tác giả Lỗ Tấn ?</b>
-Lỗ Tấn (1881-1936) tên thật là Chu Thụ Nhân
-Quê ở phủ Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang, miền Đơng Nam Trung Quốc.
-Ơng là nhà văn cách mạng lỗi lạc của Trung Quốc thế kỉ XX. “Trước Lỗ tấn chưa hề có Lỗ Tấn; sau Lỗ Tấn có
vơ vàn Lỗ Tấn” (Qch Mạt Nhược).
-Mồ cơi cha lúc 13 tuổi
-Học giỏi,nhận học bổng sang Nhật học nghành y ở Tiên Đài.
-Tuổi trẻ của Lỗ Tấn đã nhiều lần đổi nghề để tìm một con đường cống hiến cho dân tộc: từ nghề khai mỏ đến
hàng hải rồi nghề y, cuối cùng làm văn nghệ để thức tỉnh quốc dân đồng bào.
-Con đường gian nan để chọn ngành nghề của Lỗ Tấn vừa mang đậm dấu ấn lịch sử Trung Hoa thời cận hiện
đại, vừa nói lên tâm huyết của một người con ưu tú của dân tộc.
-Ơng quan niệm rất tích cực:chữa bệnh thể xác khơng quan trọng bằng chữa bệnh tinh thần .
-Mục đích viết văn của Lỗ Tấn: ơng muốn dùng ngịi bút của mình để phanh phui các căn bệnh tinh thần của
quốc dân, lưu ý mọi người tìm phương thuốc chạy chữa.ơng đã hát cho đồng bào mình nghe bài hát lạc điệu của
chính họ, chỉ cho họ thấy những bước đi sai nhịp trên con đường tiến về tương lai .
-Quan điểm sáng tác văn nghệ của Lỗ Tấn được thể hiện nhất quán trong toàn bộ sáng tác của ông: phê phán
những căn bệnh tinh thần khiến cho quốc dân mê muội, tự thoả mãn “ngủ say trong một cái nhà hộp bằng sắt
khơng có cửa sổ”.
- Tác phẩm chính: AQ chính truyện (Kiệt tác của văn học hiện đại Trung Quốc và thế giới), các tập Gào thét,
Bàng hoàng, Truyện cũ viết theo lối mới, hơn chục tập tạp văn có giá trị phê phán, tính chiến đấu cao.
-Bác Hồ rất thích đọc và tìm hiểu về Lỗ Tấn
- Ông xứng đáng là nhà văn hiện thực xuất sắc của TQ, năm 1981 cả Thế giới kỉ niệm 100 năm sinh và tôn vinh
ông là danh nhân văn hoá thế giới.
<b>Câu 4: Nêu ý nghĩa nhan đề truyện và hình tượng chiếc bánh bao tẩm máu ?</b>
Nhan đề "Thuốc"
+ Thuốc, nguyên văn là "Dược", phản ánh một quá trình suy tư nặng nề của Lỗ Tấn, động cơ và mục đích đổi
nghề của Lỗ Tấn.
+ Là phương thuốc truyền thống chữa bệnh lao. Một phương thuốc phản khoa học.
+Thấy được tình trạng tê liệt, u mê, lạc hậu, ...vv của người dân Trung Quốc lúc bấy giờ
+Mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân và cách mạng chưa thật sự gắn bó sâu sắc .
+Tác giả mong muốn tìm ra một phương thuốc hữu hiệu để chữa căn bệnh tinh thần này, nhằm đưa nhân dân
Trung Quốc thốt khỏi tình trạng lạc hậu,để tiến lên phía trước
Hình tượng chiếc bánh bao tẩm máu
<b>+ “Bánh bao tẩm máu người”, nghe như chuyện thời trung cổ nhưng vẫn xảy ra ở nước Trung Hoa trì trệ. Tầng</b>
nghĩa thứ nhất - nghĩa đen của tên truyện là: thuốc chữa bệnh lao. Thứ mà ông bà Hoa Thuyên xem là “tiên
dược” để cứu mạng thằng con “mười đời độc đinh” đã không cứu được nó mà ngược lại đã giết chết nó - đó là
thứ thuốc mê tín.
+ Trong truyện, bố mẹ thằng Thuyên đã áp đặt cho nó một phương thuốc quái gở. Và cả đám người trong quán
trà cũng cho rằng đó là thứ thuốc tiên. Như vậy, tên truyện cịn hàm nghĩa sâu xa hơn, mang tính khai sáng: đây
là thứ thuốc độc, mọi người cần phải giác ngộ ra rằng cái gọi là thuốc chữa bệnh lao được sùng bái là một thứ
thuốc độc.
<b>+Người Trung Quốc cần phải tỉnh giấc, không được ngủ mê trong cái nhà hộp bằng sắt khơng có sửa sổ.</b>
+ Chiếc bánh bao - liều thuốc độc lại được pha chế bằng máu của người cách mạng - một người xả thân vì
nghĩa, đổ máu cho sự nghiệp giải phóng nơng dân... Những người dân ấy (bố mẹ thằng Thuyên, ông Ba, cả
Khang...) lại dửng dưng, mua máu người cách mạng để chữa bệnh.... Với hiện tượng chiếc bánh bao tẩm máu
Hạ Du, Lỗ Tấn đã đặt ra một vấn đề hết sức hệ trọng là ý nghĩa của hi sinh.
+Tên truyện vì thế mang tầng nghĩa thứ ba: Phải tìm một phương thuốc làm cho quần chúng giác ngộ cách
mạng và làm cho cách mạng gắn bó với quần chúng.
<b>Câu 5: Nhận xét về ý nghĩa của chi tiết về nghĩa địa và con đường mòn ?</b>
-Nghĩa địa của những người chết chém hoặc chết tù ở phía bên tay trái ,cịn nghĩa địa của những người chết
nghèo ở phía tay phải .Như vậy,những người chết chém,chết tù chôn chung một khu.Nghĩa là người ta khơng
phân biệt người làm cách mạng,làm chính trị vì nhân dân với kẻ trộm cướp,giết người.Họ cho rằng tất cả đều là
giặc .
-Nghĩa địa của người chết chém và chết nghèo chỉ cách nhau một con đường mịn.Hình ảnh con đường mịn
được nhắc đến trong văn của Lỗ Tấn, để diễn tả một thói quen, nếp nghĩ,một kiểu ứng xử.Như vậy,con đường
mịn khơng chỉ là ranh giới tự nhiên mà còn là ranh giới của lòng người, định kiến lâu đời trong xã hội .
-Bà mẹ của Hạ Du và mẹ của bé Thuyên,cả hai cùng chung nỗi đau mất con, nhưng giữa họ dường như bị ngăn
cách bởi một khơng gian vơ hình, dù rằng đến cuối truyện,họ dần vượt qua khoảng ngăn cách đó .
<b>Câu 6: Nhận xét về không gian, thời gian nghệ thuật và ý nghĩa của chi tiết vòng hoa trên mộ Hạ Du ?</b>
+ Câu chuyện xảy ra trong 2 buổi sớm vào hai mùa thu, mua xuân có ý nghĩa khơng tượng trưng. Buổi sáng đầu
tiên có 3 cảnh: cảnh sáng tinh mơ đi mua bánh bao chấm máu người, cảnh pháp trường và cảnh cho con ăn
bánh, cảnh quán trà.... Ba cảnh gần như liên tục, diễn ra trong mùa thu lạnh lẽo. Bối cảnh quán trà và đường phố
là nơi tụ tập của nhiều loại người do đó hình dung được dư luận và ý thức xã hội. Buổi sáng cuối cùng là vào
+ Vịng hoa trên mộ Hạ Du: Có thể xem vịng hoa là cực đối lập của “chiếc bánh bao tẩm máu”. Phủ định vị
thuốc là bằng chiếc bánh bao tẩm máu, tác giả mơ ước tìm kiếm một vị thuốc mới- chữa được cả những bệnh tật
về tinh thần cho toàn xã hội với điều kiện tiên quyết là mọi người phải giác ngộ cách mạng, phải hiểu rõ “ý
nghĩa của sự hi sinh” của những người cách mạng.
+ Chi tiết vòng hoa trên mộ Hạ Du chủ đề tư tưởng tác phẩm mới được thể hiện trọn vẹn, nhờ đó mà khơng khí
của truyện vốn rất u buồn tăm tối song điều mà tác giả đưa đến cho người đọc khơng phải là tư tưởng bi quan.
<b>Câu 7: Trình bày tiểu sử và sự nghiệp của Mikhain SôlôKhôp .</b>
-SôlôKhôp là nhà văn Nga lỗi lạc, sinh(1905 – 1984), xuất thân trong một gia đình nơng dân, thuộc tỉnh Rơxtốp
trên vùng thảo ngun sơng Đơng.
-Ơng tham gia cách mạng sớm như thư kí ủy ban trấn,trưng thu lương thực .
-Năm 1925,ông trở về quê,bắt tay vào viết tiểu thuyết “Sông Đông êm đềm”-cuốn tiểu thuyết tâm huyết của nhà
văn .
-Năm 1926,ơng đã có một số truyện ngắn được xuất bản .
-Năm 1932,được bầu vào đảng viên đảng cộng sản Liên Xô .
-Năm 1939,được bầu làm viện sĩ viện hàn lâm khoa học Liên Xô .
-Những năm chiến tranh vệ quốc, ông tham gia vào Hồng Quân với tư cách là phóng viên báo Sự Thật .
-Ơng rất gắn bó với con người và cảnh vật quê hương trong những bước chuyển mình đau đớn và phức tạp của
lịch sử. Chính vì thế tác phẩm của ơng thấm đẫm hơi thở và linh hồn của cuộc sống vùng sông Đông.
-Sôlô Khốp là người trực tiếp tham gia cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, ông thấu hiểu được những nỗi khổ đau
-Ơng coi sứ mệnh cao cả nhất của nghệ thuật là ca ngợi nhân dân-người lao động, nhân dân-người xây dựng,
nhân dân anh hùng.
-Sôlô Khôp được trao tặng giải thưởng nô ben về văn học năm 1965.
-Các tác phẩm tiêu biểu:Những truyện ngắn sông Đông, Sông Đông êm đềm(tác phẩm được viết năm
1925-1940,gồm 4 quyển-8 phần) , Số phận con người ,Thảo nguyên xanh
<b>Câu 7: Ý nghĩa bao trùm tác phẩm “SỐ PHẬN CON NGƯỜI”</b>
- Nhân vật chính trong tác phẩm là Xơcơlơp có cuộc đời gặp nhiều bất hạnh. Nhưng anh vẫn thể hiện được nét
tính cách Nga kiên cường và nhân hậu:
<b>* Tính cách kiên cường : </b>
+ Trong chiến tranh, anh chịu quá nhiều bất hạnh. Sau chiến tranh, anh lại sống trong cô đơn, đau khổ, phiêu bạt
nhiều nơi để kiếm sống. Nhưng anh vẫn không thốt một lời than vãn, không suy sụp tinh thần, không sa ngã,
không rơi vào bế tắc, tuyệt vọng.
+ Với bản lĩnh cao đẹp, với tấm lòng nhân hậu thắm thiết, anh trở thành chỗ dựa vững chắc cho bé Vania (bố
mẹ đã chết trong chiến tranh).
Tấm lòng nhân hậu :
+ Xơcơlơp nhận ni bé Vania từ tính thương “Với niềm vui khơng lời tả xiết” khơng tính tốn, vụ lợi
+ u thương, chăm sóc chu đáo cho Vania hơn cả người cha đối với con.
+ Những mất mát, đau thương, anh âm thầm chịu đựng “nhiều đêm thức giấc thì gối ướt đẫm nước mắt”, khơng
cho bé Vania biết, vì sợ em buồn .
<b>-</b> Hai số phận bất hạnh đặt cạnh nhau, đã kết hợp với nhau, biết nương tựa vào nhau để vươn lên và không
ngừng hi vọng vào cuộc sống là phẩm chất tuyệt vời của những con người chân chính.
<b>Câu 8: Nội dung tác phẩm “Thuốc” của Lỗ Tấn: </b>
<b>-</b> Phản ánh sự u mê ,tê liệt của nhân dân TQ trước cách mạng Tân Hợi, sự lạc hậu về chính trị của quần
chúng đối với người làm cách mạng và bi kịch của người cách mạng tiên phong Hạ Du.
<b>-</b> Mối quan hệ giữa quần chúng và nhân dân chưa thực sự gắn bó
<b>-</b> Tác giả mong muốn tìm ra một phương thuốc hữu hiệu để chữa căn bệnh tinh thần này, nhằm đưa nhân
dân Trung Quốc thốt khỏi tình trạng lạc hậu,để tiến lên phía trước .
<b>Câu 9: Trước khi trở thành nhà văn, Lỗ Tấn đã học những nghề nào? Tại sao cuối cùng ông chuyển sang</b>
<b>làm văn nghệ ? Nêu tên 3 tác phẩm của ông.</b>
- Trước khi trở thành nhà văn Lỗ Tấn đã học những nghề: Hàng hải với ước mong mở rộng tầm mắt – học nghề
khai thác mỏ với nguyện vọng làm giàu cho tổ quốc – học nghề y để chữa bệnh cho dân nghèo như bố ông.
- Đang học y khoa ở Tiên Đài (Nhật), ơng đột ngột đổi nghề Vì: Một lần xem phim, ông thấy người TQ khỏe
mạnh hăm hở đi xem người Nhật chém người TQ làm gián điệp cho Nga (chiến tranh Nga –Nhật), ơng giật
mình, nghĩ rằng chữa bệnh thể xác không bằng chữa bệnh tinh thần cho quốc dân. Dân chủ trương dùng ngòi
bút để phanh phui căn bệnh tinh thần của quốc dân và lưu ý mọi người tìm phương chữa trị.
<b>Câu 10: Trình bày vắn tắt cuộc đời và sự nghiệp HÊMINGUÊ</b>
-Hêminguê là nhà văn Mĩ nổi tiếng, sinh(1899-1961), trong gia đình trí thức khá giả, là người từng đoạt giải
Nobel về văn học.
<b>-Hêminguê là một cây bút xông xáo khơng mệt mỏi.Từng làm báo và phóng viên mặt trận .</b>
-Ơng là người đề xướng ra ngun lí “Tảng băng trôi” (Đại thể là nhà văn không trực tiếp phát ngơn cho ý
tưởng của mình mà xây dựng hình tượng có nhiều sức gợi để người đọc có thể rút ra phần ẩn ý, nghệ thuật độc
thoại nội tâm, kết hợp biểu tượng, ẩn dụ).
-Sáng tác của ông để lại dấu ấn sâu sắc trong văn xuôi hiện đại phương Tây và góp phần đổi mới lối viết truyện,
tiểu thuyết của nhiều thế hệ nhà văn trên thế giới .
-Ông viết nhiều đề tài:chiến tranh, những trận đấu bò,săn thú dữ,đấu quyền Anh, dù viết về Châu Phi hay Châu
Mĩ,ông đều nhằm ý đồ: “viết một áng văn xuôi đơn giản và trung thực về con người” .
-Năm 1954,ông nhận giải thưởng Noben về văn học .
-Năm 1961,ông tự sát
-Các tác phẩm tiêu biểu: Giã từ vũ khí ,Mặt trời vẫn mọc, Ơng già và biển cả, Chuông nguyện hồn ai.
<b>Câu 11: Em hiểu như thế nào về ngun lí “Tảng băng trơi”</b>
<b>-Hêming lấy hình ảnh tảng băng trơi phần nổi ít, phần chìm nhiều đặt ra yêu cầu đối với tác phẩm văn chương</b>
phải tạo ra “ ý tại ngôn ngoại” .
<b>- Nhà văn không trực tiếp công khai phát ngôn cho ý tưởng của mình mà xây dựng hình tượng có nhiều sức gợi</b>
để người đọc tự rút ra phần ẩn ý.
<b>-một trong những biện pháp chủ yếu thể hiện nguyên lí “Tảng băng trôi” là độc thoại nội tâm kết hợp dùng ẩn</b>
dụ, biểu tượng.
<b>Câu 12: Nêu ý nghĩa hình tượng con cá kiếm</b>
-Hình tượng con cá kiếm được phát biểu trực tiếp qua ngôn từ của người kể chuyện, đặc biệt là qua những lời
trị chuyện của ơng lão với con cá ta thấy ơng lão coi nó như một con người. Chính thái độ đặc biệt, khác thường
này đã biến con cá thành “nhân vật” chính thứ hai bên cạnh ông lão, ngang hàng với ông. Con cá kiếm mang ý
nghĩa biểu tượng.
-Nó là đại diện cho hình ảnh thiên nhiên tiêu biểu cho vẻ đẹp , tính chất kiên hùng vĩ đại của tự nhiên. Trong
mối quan hệ phức tạp của thiên nhiên với con người không phải lúc nào thiên nhiên cũng là kẻ thù. Con người
và thiên nhiên có thể vừa là bạn vừa là đối thủ.
-Con cá kiếm là biểu tượng của ước mơ vừa bình thường giản dị nhưng đồng thời cũng rất khác thường, cao cả
mà con người ít nhất từng theo đuổi một lần trong đời.
<b>Câu 13: Nhan đề truyện Vợ Nhặt </b>
-Tên truyện kích thích sự chú ý của người đọc.Đây khơng phải là cảnh lấy vợ đàng hồng, có ăn hỏi,có cưới xin
theo phong tục truyền thống của người Việt, mà là nhặt được vợ .
-Tên truyện gợi lên số phận , cảnh ngộ của con người.Số phận nghèo khó của gia đình Tràng,Thị, dân trong xóm
Ngụ Cư.Anh Tràng nhặt vợ như người ta nhặt được rơm rác ngồi đường.
-Gía trị rẻ rúng, tình cảnh tủi nhục của người nghèo trong nạn đói năm 1945
-Sự cưu mang , đùm bộc,giúp đỡ nhau của những người cùng chung cảnh ngộ. Tình cảm nhân đạo sâu sắc trong
tác phẩm .
<b>Câu 14: Ý nghĩa nhan đề truyện ngắn Rừng xà nu</b>
-Những cánh rừng xà nu bạt ngàn ở Tây Nguyên là hình ảnh gắn bó máu thịt giữa tác giả với những kỉ niệm sâu
sắc trong cuộc đời chiến đấu và viết văn tại chiến trường Tây Nguyện.Mang đậm đà khí vị khơng khí Tây
Ngun thời chống Mĩ .
-Rừng xà nu là hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng cho con người Tây Nguyên anh hùng, cụ thể là dân làng
Xôman với những con người ưu tú như cụ Mết, Tnú,Dít,Mai,...vv.
-Bức tranh thiên nhiên rừng xà nu thật hùng vĩ, với sức sống mãnh liệt,sự sinh sôi nảy nở không ngừng,bất chấp
đạn đại bác của giặc bắn phá mõi ngày.Qua đó,nó biểu tượng cho tinh thần quật khởi của nhân dân Tây Nguyên
quyết vượt lên đau thương,theo đảng làm cách mạng.
-Nhan đề rừng xà nu còn gợi lên chủ đề tác phẩm, cũng như cảm hứng sử thi, bi tráng của thiên truyện đặc sắc
này .
<b>Câu 16: Ý nghĩa nhan đề truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”</b>
-Tác phẩm mang lại cách nhìn nhận đúng đắn về cuộc sống và con người. Một cách nhìn đa diện , nhiều chiều,
phát hiện ra bản chất thực sau vẻ ngoài đẹp đẽ của hiện tượng
-Nội dung truyện mở ra những nghịch lí của đời thường.Một trưởng phịng muốn có một tấm lịch có cảnh
thuyền và biển vào buổi sớm có sương mờ.Một nghệ sĩ nhiếp ảnh tài năng chụp được một bức ảnh như ý,cảnh
thuyền và biển thật đẹp, có lẫn hình ảnh con người ngồi trên thuyền đang từ ngoài xa tiến vào bờ vào buổi sáng
có sương mờ.Bên cạnh bức ảnh tuyệt đẹp đó là cảnh người đàn ơng vũ phu đánh vợ .
-Truyên mang đến cho người đọc suy nghĩ về nhiều mặt của cuộc sống: Đó là vấn đề miếng cơm, manh áo, vấn
đề đông con, vấn đề bạo hành trong gia đình .
<b>Câu 17: Nêu ý nghĩa nhan đề của tác phẩm Ai đã đặt tên cho dịng sơng?</b>
- Ai đã đặt tên cho dịng sơng là một câu hỏi gợi sự chú ý của mọi người về cái tên đẹp của con sông: sông
Hương, sông thơm.
- Là cái cớ để nhà văn tìm hiểu, lí giải vẻ đẹp của con sông:
+Bằng huyền thoại: Người làng Thành Chung có nghề trồng rau thơm.Vì u q con sơng xinh đẹp, nhân dân
hai bên bờ sông đã nấu 100 lồi hoa đổ xuống sơng cho làn nước thơm mãi mãi. Huyền thoại ấy đã trả lời cho
câu hỏi ai đã đặt tên cho dịng sơng. Cách lí giải gợi niềm biết ơn đối với những người có cơng khai phá ra
miền đất này.
+Bằng chính nội dung bài kí: chất thơ của con sông rất phù hợp với tên gọi của nó.
-Tình u, lịng tự hào về vẻ đẹp của quê hương, đất nước
<b>Câu 18: Nêu ý nghĩa tình huống truyện trong tác phẩm Vợ nhặt?</b>
- Tóm tắt tình huống: Trong tác phẩm Vợ nhặt, Kim Lân xây dựng một tình huống truyện độc đáo, tình huống
nằm ngay trong nhan đề của truyện - tình huống nhặt vợ của anh cu Tràng. Anh cu Tràng - một người dân xóm
ngụ cư nghèo, xấu nhặt được vợ qua 2 lần quen biết. Lần thứ nhấtTràng đang gò lưng kéo xe thóc cho Liên đồn
lên Tỉnh, hắn hị một câu cho đỡ nhọc. Chủ ý của hắn không muốn ghẹo cô nào. Nhưng mấy cô ả cứ đẩy thị ra,
thế là thị ra đẩy xe bò cho Tràng. Lần thứ 2, khi Tràng dang uống nước ở cổng chợ Tỉnh, thị chạy lại mắng sưng
sỉa vào mặt Tràng. Tràng khơng nhận ra người quen vì hơm nay thị rách quá. Sau đó Tràng mời thị ăn bánh đúc,
thị ăn một chặp 4 bát bánh đúc…rồi theo Tràng về làm vợ.
- Đây là một tình huống éo le, vừa vui lại vừa buồn. Nó có ý nghĩa làm nổi bật nội dung tư tưởng của truyện:
+Tố cáo tội ác của Thực dân Pháp và Phát Xít Nhật gây ra nạn đói năm 1945 làm cho hơn 2 triệu người chết
đói, phơi bày số phận bi thảm của con người.
+Đồng thời ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của người lao động nghèo: đói gần kề cái chết người ta vẫn luôn cưu mang
và giúp đỡ lẫn nhau,vẫn luôn hướng tới hạnh phúc.
<b>Câu 19: Nêu ý nghĩa của tình huống truyện trong tác phẩm Chiếc thuyền ngồi xa ?</b>
<b>-</b> Tình huống truyện trong Chiếc thuyền ngồi xa là tình huống nhận thức của Phùng. Có ba lần Phùng
nhận thức.
+Lần thứ nhất: Phùng phát hiện ra một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp - bức tranh chiếc thuyền vó bè trên biển
trong sương sớm. Lúc ấy Phùng nhận thức một điều: bản thân cái đẹp chính là đạo đức.
+Lần thứ hai: Phùng phát hiện ra cảnh bạo lực trong gia đình người phụ nữ hàng chài. Phùng nhận thức: ngun
nhân của bạo lực gia đình chính là cái đói nghèo, bạo lực gia đình là nguyên nhân gây ra nỗi bất hạnh cho người
phụ nữ và sự mặc cảm cho những đứa trẻ.
+Lần thứ ba: Phùng chứng kiến cách giải quyết của Đẩu - khuyên người đàn bà hàng chài li hôn, điều này
không hợp lý. Phùng nhận thức: pháp luật phải gắn liền với cuộc sống.
- Qua đó, tác giả muốn gửi thông điệp cho người đọc bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con
người: một cách nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng, cuộc
sống .
<b>Câu 21:Trình bày ngắn gọn các tập thơ của Tố Hữu ? </b>
Thơ Tố Hữu gắn bó chặt chẽ với cuộc đấu tranh cách mạng Việt Nam từ những năm 1940 cho đến sau này.
<b>a. Tập thơ Từ ấy(1937 – 1946). gồm 71 bài sáng tác trong 10 năm (1937 – 1946). Tác phẩm được chia làm ba</b>
phần:
- Xiềng xích (30 bài) được viết trong nhà giam thể hiện nỗi buồn đau và ý chí, khí phách của người chiến sĩ
cách mạng.
- Giải phóng (14 bài) viết từ lúc vượt ngục đến 1 năm sau ngày độc lập nhằm ngợi ca lí tưởng, quyết tâm đuổi
giặc cứu nước và thể hiện niềm vui chiến thắng.
<b>-Những bài thơ tiêu biểu: Mồ côi, Hai đứa bé, Từ ấy,…</b>
<b>b. Tập thơ Việt Bắc (1947-1954)</b>
- Gồm 24 bài sáng tác trong thời kì kháng chiến chống Pháp.
- Việt Bắc là bức tranh tâm tình của con người VN trong kháng chiến với những cung bậc cảm xúc tiêu biểu:
tình yêu quê hương đất nước, tình đồng chí đồng đội, tình qn dân, lịng thủy chung cách mạng. Đồng thời thể
hiện quyết tâm bảo vệ sự toàn vẹn của đất nước.
- Những bài thơ tiêu biểu: Phá đường, Việt Bắc, Bà mẹ Việt Bắc, Bầm ơi, Ta đi tới,…
<b>c. Gió lộng (1955-1961):</b>
+ Cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
+ Phong trào đấu tranh chống Mĩ - Ngụy ở miền Nam.
- Tác phẩm thể hiện niềm vui chiến thắng, cuộc sống mới với những quan hệ xã hội tốt đẹp. Còn là lòng tri ân
nghĩa tình đối với Đảng, Bác Hồ và nhân dân.
- Những bài thơ tiêu biểu: Trên miền Bắc mùa xuân, Thù muôn đời muôn kiếp không tan, Mẹ Tơm, bài ca mùa
xuân 1961,…
<b>d. Ra trận (1962-1971), Máu và Hoa (1972-1977)</b>
Phản ánh cuộc đấu tranh của dân tộc kêu gọi cổ vũ tinh thần chiến đấu của dân tộc. Ca ngợi Bác Hồ, tổng kết
lịch sử đấu tranh.
<b>Câu 22: Nêu những đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam từ 1945 đến 1975</b>
<b>- Một nền văn học thống nhất chặt chẽ dưới sự lãnh đạo của Đảng, phục vụ chính trị và cổ vũ chiến đấu.</b>
<b>- Một nền văn học hướng về đại chúng trước hết là công nông binh.</b>
+ Công nông binh (nhân dân lao động) là động lực của cách mạng và kháng chiến, trong sản xuất và chiến đấu.
+Một nền văn học nói về họ và vì họ, phản ánh tâm tư, tình cảm, ước mơ, nguyện vọng của họ.
<b>+Hình ảnh con người mới, cuộc sống mới trong thơ văn.</b>
<b>-Một nền văn học đậm đặc khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.</b>
<b>+ Đề cập những đề tài có ý nghĩa lịch sử và có tính chất tồn dân.</b>
<b>+ Những hình tượng anh hùng, những tính cách, sự tích anh hùng mang tầm vóc thời đại. Giọng điệu anh hùng</b>
ca.
<b>+Lạc quan trong mỏu lửa, tin tưởng mónh liệt vào tương lai tươi sỏng và chiến thắng.</b>
<b> Cõu 23: Nờu những đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam từ 1975 đến hết thế kỉ XX</b>
<b>1. Quá trình phát triển và những thành tựu</b>
<b>- Hai chặng đờng phát triển</b>
<b>+1975 – 1986 : Chuyển tiếp (trăn trở, tìm đờng)</b>
<b>+Từ 1986 trở đi : Đổi mới</b>
<b>* Những dấu hi ệu ( đặc điểm) chính của sự đổi mới</b>
<b>-Thiªn vỊ tÝnh thÕ sù và hớng nội ; từ cao rộng đi vào chiều sâu cá nhân chủ thể sáng tạo.</b>
<b>-Chất nhân văn, nhân bản bộc lộ và thể hiện trong thân phận nhân vật</b>
<b>-Cá thể hoá hơn về phơng pháp, đa dạng hơn phong c¸ch, më réng c¸ch thøc, thđ ph¸p nghƯ thuật, tạo lập ngôn</b>
từ.
<b>-Cú s i mi, s tr li trong đổi mới của các tác giả trớc 1975. Đã xuất hiện một lực lợng nhà văn sau 1975</b>
mà xu hớng nổi trội là cố gắng tìm tịi đổi mới, đến nỗi có trờng hợp có tính quyết liệt.
<b>-Xt hiƯn xu hớng thị trờng, ngoại lai.</b>
<b>-V ni dung vn hc, thnh tu đáng ghi nhận là sự đổi mới cách nhìn, phản ánh, cảm nhận ; lấy cá nhân (cuộc</b>
sống, số phận) và bối cảnh gắn với nhu cầu cá nhân làm trục xoay chính. Về nghệ thuật là sự đa dạng trong
ph-ơng pháp, thủ pháp
<b>- Đã có những tác giả, tác phẩm đợc ghi nhận (thơ/trờng ca, văn xuôi, kịch. Là những trờng hợp vừa truyền thống</b>
vừa đổi mới ; gắn với dân tộc, hội nhập với quốc tế, tiếng lịng nhà văn hịa với tiếng nói xã hội. Thanh Thảo,
Hữu Thỉnh, Xuân Quỳnh, Nguyễn Duy, Trần Nhuận Minh, Y Phơng,...(thơ). Nguyễn Minh Châu, Lê Lựu,
Nguyễn Khải, Nguyễn Khắc Trờng, Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh,...(văn xuôi), Lu Quang Vũ (kịch)
<b>-“Tây Tiến” là bài thơ hay của Quang Dũng và cũng là bài thơ hay của thơ ca thời chống Pháp.</b>
<b>-“Tây Tiến” là đơn vị bộ đội được thành lập đầu năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên</b>
giới Việt – Lào, tiêu hao lực lượng địch ở thượng Lào cũng như miền Tây Bắc bộ VN
<b>-Địa bàn hoạt động khá rộng từ Châu Mai, Châu Mộc sang Sầm Nứa rồi vịng về Thanh Hóa. </b>
<b>-Lính Tây Tiến phần đông là sinh viện, học sinh Hà Nội.</b>
<b>-Quang Dũng từng làm đại đội trưởng ở đó từ khi mới thành lập đến cuối năm 1948, sau khi rời đơn vị, chuyển</b>
sang đơn vị khác. Nhớ đơn vị cũ, ông viết bài thơ “NHỚ TÂY TIẾN”. Bài thơ in lần đầu năm 1949 – đến năm
1957 được in lại và đổi tên “TÂY TIẾN”.
<b>Câu 25: Trình bày phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu ?</b>
- Tố Hữu là nhà thơ trữ tình chính trị thể hiện nồng nhiệt tự hào lý tưởng cách mạng, đời sống cách mạng của
nhân dân ta.
- Tố Hữu là nhà thơ của lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn. Khuynh hướng sử thi, cái tơi trữ tình – cái tơi
chiến sĩ mang tầm vóc hồnh tráng, màu sắc lịch sử được diễn tả bằng bút pháp lãng mạn, hình tưởng thơ kì vĩ,
- Nét đặc sắc trong thơ Tố Hữu là có giọng điệu riêng. Thơ liền mạch, nhất khí tự nhiên, giọng tâm tình, ngọt
ngào tha thiết.
- Nghệ thuật thơ Tố Hữu giàu tính dân tộc. Phối hợp tài tình ca dao, dân cam các thể thơ dân tộc và “thơ mới”.
Vận dụng biến hố cách nói, cách cảm, cách so sánh ví von rất gần gũi với tâm hồn người. Phong phú vần điệu,
câu thơ mượt mà, dễ thuộc dễ ngâm.
<b>Câu 26: Nêu hoàn cảnh sáng tác bài thơ VIỆT BẮC –của Tố Hữu ? : </b>
- Việt Bắc là quê hương cách mạng, là căn cứ địa vững chắc của cuộc kháng chiến, nơi đã che chở đùm bọc cho
Đảng, Chính Phủ, bộ đội trong suốt những năm kháng chiến chống Pháp gian khổ.
- Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, tháng 7 năm 1954, Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương được kí kết, hịa bình
trở lại, miền Bắc nước ta được giải phóng.
- Tháng 10 năm 1954, các cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về thủ đô Hà
Nội.
- Một trang sử mới của đất nước và một giai đoạn mới của cách mạng được mở ra. Nhân sự kiện trọng đại này,
Tố Hữu viết bài thơ Việt Bắc
- Bài thơ được trích trong tập Việt Bắc (1947 - 1954)
<b>Câu 27: Trình bày về Sự nghiệp văn chương Nguyễn Tuân ? . </b>
Hơn nửa thế kỉ cầm bút, Nguyễn Tuân đã để lại cho nền văn học nước nhà một sự nghiệp văn chương khá lớn.
1.Trước cách mạng tháng 8: Chủ yếu xoay quanh 3 đề tài:
<b>-Chủ nghĩa xê dịch: Một chuyến đi, Thiếu quê hương</b>
-Vẻ đẹp của vang bóng một thời: Vang bóng một thời, Tóc chị Hồi
<b>-Đời sống trụy lạc: Chiếc lư đồng mắt cua, đem đến cho ông những cảm giác mới lạ, mãnh liệt “ tôi muốn mỗi</b>
ngày trong cuộc sống của tôi, phải cho tôi cái say của rượu tối tân hôn”–Một lá thư không gở .
2. Sau cách mạng tháng 8:
<b>-Lòng yêu nước, tinh thần dân tộc là động lực khiến ơng nhiệt tình chào đón cách mạng và đem ngòi bút phục</b>
vụ cho 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ và xây dựng CNXH qua hàng loạt tác phẩm: Đường vui (1949),
<b>Tình chiến dịch (1950) Tùy bút kháng chiến (1955), Sông Đà (1960), Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972).</b>
<b>-Nguồn cảm hứng sáng tác của ông vẫn là cái đẹp của non sơng gấm vóc, những phẩm chất tinh thần cao quí</b>
của nhân dân ta trong chiến đấu, lao động và xây dựng đất nước.
<b>Câu 28: Trình bày phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân ? </b>
Nguyễn Tuân là nhà văn có phong cách độc đáo, rõ nét:
<b>a.Trước cách mạng tháng 8 /19 45:</b>
<b>-Phong cách nghệ thuật là lối chơi ngông bằng văn chương: Cố ý làm khác người, thích cái độc đáo, cái duy</b>
nhất khơng giống ai… từ đề tài, lối kết cấu, hành văn, cách dùng từ, đặt câu.
<b>-Tính uyên bác, tài hoa của Nguyễn Tuân được thể hiện ở:</b>
<b>+Vận dụng tri thức của nhiều ngành văn hóa nghệ thuật khác nhau để quan sát hiện thực, sáng tạo hình tượng.</b>
<b>+ Ln nhìn người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ và sáng tạo nên những nhân vật tài hoa nghệ sĩ</b>
<b>+Tô đậm cái phi thường xuất chúng, gây cảm giác mãnh liệt, dữ dội đến mức khủng khiếp – Đẹp đến tuyệt vời. </b>
<b>b.Sau cách mạng tháng 8/ 1945:</b>
-Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân có sự chuyển biến quan trọng: Giọng văn trở nên tin u, đơn hậu.
Ơng vẫn tơ đậm cá tính, phong cách độc đáo trên mọi trang viết.
<b>-Thiên nhiên là những cơng trình mỹ thuật thiên tạo tuyệt vời (Sông, nước, cây ,cỏ…). Con người bình</b>
thường(nhân dân lao động và chiến sĩ) dưới ngịi bút ơng cũng là những con người tài hoa.
<b>Câu 29: Đặc điểm con người Nguyễn Tuân .</b>
+ Giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc .
+ Có ý thức cá nhân phát triển cao .
+ Rất mực tài hoa.
+ Quý trọng nghề văn .
<b>Câu 30: Nêu hoàn cảnh ra đời Bản tun ngơn độc lập của Hồ Chí Minh - 19/8/1945 chính quyền ở thủ đơ</b>
Hà Nội đã về tay nhân dân ta.
-Cuối tháng 8/1945, tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang, Hà Nội, lãnh tụ Hồ Chí Minh soạn thảo bản Tuyên
ngôn Độc lập.
-2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Người thay mặt Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hồ, đọc bản Tun ngơn Độc lập trước hàng chục vạn đồng bào ta, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, mở ra một kỷ nguyên mới Độc lập, Tự do.
<b>Đề 31: Trong bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm có sử dụng nhiều chất liệu của văn học dân gian.</b>
<b>Hãy nêu một số ví dụ cụ thể và nhận xét về cách sử dụng chất liệu dân gian của tác giả </b>
-Đoạn thơ đã sử dụng đậm đặc chất liệu văn hóa dân gian trong đó có văn học dân gian. Từ các truyền thuyết
vào loại xa xưa nhất của dân tộc ta như Lạc Long Quân và Âu Cơ, Thánh Gióng, Hùng Vương đến truyện cổ
tích, Trầu Cau, đặc biệt là nhiều câu ca dao, dân ca, của nhiều miền đất nước:
Ví dụ: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” Là từ câu ca dao:
Tay bưng chén muối đĩa gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau
“Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi” gợi nhớ đến câu ca dao:
“Yêu em từ thuở trong nôi
Em nằm em khóc anh ngồi anh ru”
“Biết q trọng cơng cầm vàng những ngày lặn lội” là được rút từ câu ca dao:
Cầm vàng mà lội qua sông
Vàng rơi chẳng tiếc, tiếc công cầm vàn
-Chất liệu văn học dân gian đã được tác giả sử dụng vào đoạn thơ một cách linh hoạt và sáng tạo. Khơng lặp lại
hồn tồn các câu ca dao, dân ca, nhà thơ thờng chỉ dùng một hình ảnh hoặc một phần của các câu ca đó để đa
vào tạo nên câu thơ của mình. Các truyền thuyết và truyện cổ tích cũng được sử dụng theo cách gợi nhắc tới
bằng một hình ảnh hoặc tên gọi. Tác giả vừa đa người đọc nhập cả vào mơi trường văn hóa, văn học dân gian
đồng thời lại thể hiện được sự đánh giá, cảm nhận được phát hiện của tác giả về kho tàng văn hoá tinh thần ấy
của dân tộc.
<b>Câu 32: Nêu vµi nÐt vỊ tiĨu sư c ủa Hồ Chí Minh . </b>
- Hồ Chí Minh tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung, lớn lên lấy tên là Nguyễn Tất Thành, khi hoạt động cách
mạng lấy tên là Nguyễn ái Quốc – Hồ Chí Minh, sinh ngày 19 – 5 – 1890 trong một gia đình nhà Nho nghèo
yêu nớc , quê ở Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An .
- Ngời sớm có lịng u nớc, chống sự xâm lợc của thực dân Pháp . Năm 1911, xuất dơng tìm đờng cứu nớc .
Ng-ời đã đến nhiều nớc châu Âu, châu á, châu Phi, châu Mĩ, làm nhiều nghề khác nhau để kiếm sống, chủ yếu NgNg-ời
- Năm 1918, tham gia Đảng xã hội Pháp, thành lập Hội những ngời Việt Nam yêu nớc . Năm 1919 gửi bản yêu
sách về quyền của các dân tộc đến hội nghị hịa bình ở Vecxây .
- Từ năm 1923 đến 1941 Ngời hoạt động chủ yếu ở Liên Xô, Trung Quốc và Thái Lan, thành lập các tổ chức
chính trị, tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin vào trong nớc . Tổ chức và lãnh đạo các phong trào cách mạng
Việt Nam .
- Ngµy 3 – 2 – 1930 Ngêi chđ täa héi nghÞ hợp nhất ba tổ chức cộng sản Đông Dơng, thành lập Đảng cộng sản
Việt Nam .
- Thỏng 2 1941 Ngời về nớc trực tiếp chỉ đạo phong trào đấu tranh cách mạng . Thành lập mặt trận Việt
Minh, chuẩn bị lực lợng và dành thắng lợi quyết định trong cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 .
- Ngày 2 – 9 – 1945 Ngời đọc Tuyên ngôn độc lập , khai sinh nớc Việt Nam dân chủ cộng hòa .
- Sau cuộc tổng tuyển cử lần thứ nhất ngày 06 – 1 – 1946 Ngời đợc bầu làm Chủ tịch nớc và từ đó ln đảm
nhận chức vụ cao nhất của Đảng và Nhà nớc cho đến khi qua đời ngày 2 tháng 9 năm 1969 .
- Năm 1990 nhân kỉ niệm 100 năm ngày sinh của Ngời , UNESCO đã suy tôn Ngời là “Anh hùng giải phóng dân
tộc, nhà văn hóa lớn” .
- Cuộc đời hoạt động của Nguyễn ái Quốc – Hồ Chí Minh là cuộc đời của một con ngời hết lịng vì nớc , vì
dân , trung thành tuyệt đối với lợi ích của nhân dân lao động . Bên cạnh sự nghiệp cách mạng vĩ đại , Ngời còn
để lại một sự nghip vn húa ln .
<b>Cõu 33: Quan điểm sáng tác văn học của H Chớ Minh ? </b>
- Ngời xem văn nghệ là một hoạt động tinh thần phong phú, phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp cách mạng.
- HCM luôn quan niệm văn chơng phải có tính chân thật v dõn tc. Nhà văn phải tránh lối viết cầu kì xa lạ.
Hình thức tỏc phm phải trong sáng, hấp dẫn, ngôn từ phải chọn lọc.
<b>Cõu 34. Sự nghiệp văn học của H Chớ Minh ? </b>
<b>-HCM đã để lại cho nhân dân ta một sự nghiệp văn chương vô cùng lớn lao về tầm vóc, phong phú đa dạng</b>
về thể loại, đặc sắc về phong cách, viết bằng tiếng : Pháp , Hán , Việt .
*Văn chính luận : Viết từ những năm đầu TK XX, với bút danh Nguyễn Aùi Quốc – Mục đích Đấu tranh
chính trị tiến cơng trực diện kẻ thù –Khẳng định ý chí chiến đấu, tinh thần độc lập dân tộc – tác phẩm tiêu
biểu : Bản án chế độ thực dân Pháp, Tuyên ngơn độc lập, Lời kêu gọi tồn quốc kháng chiến…
*Truyện – kí : Viết khoảng 1922 – 1925 , bằng tiếng Pháp - Vạch trần bản chất đen tối của thực dân
pháp ,ca ngợi lòng yêu nước, tinh thần cách mạng của dân tộc – truyện ngắn Nguyễn Quốc cơ động, cốt
truyện sáng tạo, ý tưởng thâm thúy, giàu chất trí tuệ - Tác phẩm tiêu biểu : Paris , Lời than vản của bà
<b>Trưng Trắc, Vi Hành</b>
*Thơ ca: Là lĩnh vực nổi bật trong sự nghiệp văn chương của HCM . Thơ Người thể hiện một tâm hồn
nghệ sĩ tinh tế, tài hoa , một tấm gương nghị lực phi thường, nhân cách cao đẹp của người chiến sĩ cách
mạng vĩ đại – Có trên 250 bài có giá trị : Thơ HCM (86 bài) bằng tiếng Việt , Thơ chữ Hán ( 36 bài ) là
<b>những bài cổ thi thâm thúy , Nhật kí trong tù ( 133 bài)</b>
<b>Câu 35.Đặc điểm phong cách nghệ thuật trong văn ch ơng cña _HCM ? </b>
-Phong cách đa dạng mà thống nhất, kết hợp sâu sắc giữa chớnh trị và văn chơng, giữa t tởng và nghệ thuật, giữa
truyền thống và hiện đại. ở mỗi loại lại có phong cách riêng, c ỏo hp dn.
- Văn chính luận: bộc lộ t duy sắc sảo, giàu tri thức văn hoá, gắn lÝ ln víi thùc tiƠn.
- Truyện kí rất chủ động và sáng tạo. lối kể chân thực, tạo khơng khí gần gũi,có khi giọng điệu châm biếm,
sắc sảo, thâm thuý và tinh tế. Truyện ngắn của Ngời rất giàu chất trí tuệ và tính hiện đại.
- Thơ ca có phong cách đa dạng: nhiều bài cổ thi hàm súc, uyên thâm đạt chuẩn mực cao về nghệ thuật, có
những bài là lời kêu gọi ... dễ hiểu.
<b>Câu 38: Hãy cho biết tác phẩm Tuyên ngôn độc lập của chủ tịch Hồ Chí Minh ra đời trong hồn cảnh</b>
<b>nào? Nhằm mục đích gì? </b>
<b>*Hồn cảnh ra đời:</b>
-Ngày 19/8/1945, chính quyền ở Hà Nội về tay nhân dân. Ngày 26/8/1945, chủ tịch Hồ Chí Minh từ chiến
khu cách mạng Việt Bắc về tới Hà Nội. Tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang, Người soạn thảo bản Tuyên
ngôn độc lập. Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Người thay mặt chính phủ lâm thời nước
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hồ, đọc bản Tun ngơn độc lập trước hàng chục vạn đồng bào.
ngoài biên giới. Hồ Chủ tịch biết rõ hơn ai hết là một số nước đế quốc sẽ nhân nhượng cho Pháp trở lại
Đông Dương. Hơn nữa để chuẩn bị cho cuộc xâm lược này, Pháp đã tung ra thế giới dư luận xảo trá: Đơng
Dương (trong đó có Việt Nam) là thuộc địa của Pháp , Pháp đã có cơng khai hố và bảo hộ xứ này, bởi thế
phát xít Nhật bị Đồng Minh đánh bại thì Pháp quay trở lại là điều đương nhiên.
<b>*Giá trị bản TNĐL. </b>
-TNĐL là văn kiện có giá trị lịch sử to lớn, tuyên bố chấm dứt chế độ thực dân phong kiến mở ra kỉ nguyên
độc lập của dân tộc.
-TNĐL là một bài văn chính luận ngắn gọn, súc tích lập luận chặt chẽ đanh thép, lời lẽ hùng hồn đầy sức
-TNĐL bác bỏ hoàn toàn luận điệu Đông Dương thuộc quyền bảo hộ của Pháp.
*Đối tượng mà bản Tuyên ngôn độc lập hướng tới không những là đồng bào cả nước, mà còn là nhân dân
thế giới – cả bọn thực dân đế quốc Pháp, Anh, Mỹ. Cần thấy bản Tuyên ngôn độc lập không chỉ khẳng định
quyền tự do độc lập của dân tộc mà còn bao hàm cuộc tranh luận ngầm vạch trần luận điệu xảo quyệt của
kẻ thù trước dư luận quốc tế
<b>Câu 39: Hãy cho biết ý nghÜa lÞch sử vn hc của bản tuyên ngôn .</b>
<b> * ý nghÜa lÞch sư </b>
Bản tuyên ngôn đánh dấu một sự kiện lịch sử trọng đại của đất nớc . Tuyên bố chấm dứt chế độ thực dân ,
đánh đổ chế độ quân chủ lập hiến, lập nên nớc Việt Nam dân chủ cộng hòa .
Tun ngơn độc lập cịn đập tan những luận điệu xảo trá của bọn đế quốc Mĩ, Anh, Pháp về việc khai hóa
, bảo hộ để nhằm tái chiếm Đông Dơng .
Tuyên ngôn độc lập vừa giải quyết đợc nhiệm vụ độc lập dân tộc,lại vừa giải quyết đợc nhiệm vụ dân chủ
cho nhân dân (“Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mơi thế kỉ mà lập nên chế độ cộng hoà”), tức là bên
cạnh chữ Độc lập lại có thêm chữ Tự do, mở ra một kỉ nguyên mới cho đất n ớc : kỉ nguyên độc lập, tự do . Đó là
t tởng lớn , chân lí của thời đại mà sau này Bác đã đúc kết trong câu nói nổi tiếng : “Khơng có gì q hơn Độc
lập, Tự do” .
Tun ngơn độc lập là kết quả của bao nhiêu máu đã đổ, bao nhiêu tính mệnh đã hi sinh, và là kết quả
của bao nhiêu hi vọng . Tuyên ngôn là sự tiếp nối lời thơ sang sảng hào hùng của Lí Thờng Kiệt . Ta nghe trong
Tun ngơn độc lập âm vang của hồi kèn xung trận , của khúc ca khải hồn trong Bình Ngơ đại cáo ca Nguyn
Trói .
*Vị trí của bản Tuyên ngôn trong tiến trình phát triển của lịch sử vn học .
Tuyờn ngụn độc lập là áng văn chính luận ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ,lí lẽ đanh thép, lời lẽ
hùng hồn đầy sức thuyết phục, đạt đến độ mẫu mực của văn chính luận
<b>CÂU 40: Ph©n tÝch: Nghệ thuật đặc sắc của “Vợ Nhặt” :</b>
+ Cách dựng truyện : tự nhiên, đơn giản nhưng chặt chẽ . Kim Lân khéo làm nổi bật sự đối lập giữa hoàn
cảnh và tính cách.
+ Giọng Văn ; mộc mạc, giản dị . Ngơn ngữ gần với khẩu ngữ, nhưng có sự chắt lọc kĩ lưỡng , có sức gợi
đáng kể : bước “ngật ngưỡng”, đường “khẳng khiu, nhấp nhỉnh”, vẻ mặt “ phớn phở”, dãy phố “úp súp, dật
dờ “… Cách viết như thế tạo nên một phong vị và sức lôi cuốn riêng.
+ Nhân vật : Kim Lân khắc họa được hình tượng sinh động . Bà cụ Tứ, Tràng tiêu biểu cho những người lao
động cơ cực, nhưng vẫn nguyên vẹn tấm lòng nhân hậu, trong sáng . Hạnh phúc của cả cái gia đình khốn
khổ ấy làm cho người đọc xúc động .
<b>Câu 41:Nêu ý nghĩa hình tượng sóng trong bài thơ cùng tên của Xuân Quỳnh ?</b>
- “Sóng” là hiện tượng ẩn dụ của tâm trạng người phụ nữ đang u. Sóng là một sự hịa nhập và phân tán của
nhân vật trữ tình “ em”. Nhà thơ đã sáng tạo hình tượng sóng khá độc đáo nhằm thể hiện những cung bậc tình
cảm và tâm trạng của người phụ nữ đang yêu.
- Cả bài thơ được kiến tạo bằng thể thơ 5 chữ với một âm hưởng đều đặn, luân phiên như nhịp vỗ của sóng.
<b>1.Tĩm tắt tác phẩm : “ VỢ CHỒNG A PHỦ” c ủ a Tơ Hồi</b>
Mỵ là cơ gái nghèo, đẹp và có tài thổi sáo. Vì cha mẹ mắc nợ nhà thống lý nên Mỵ bị bắt cóc về làm dâu
trừ nợ. Ở nhà thống lý, cô bị đối xử như một súc nô, bị hành hạ về cả thể xác lẫn lẫn tâm hồn. Cô làm việc
quần quật, bị đánh đập tàn nhẫn. Dần dần, Mỵ sống âm thầm như “Con rùa ni trong xó cửa”, mặt cơ “lúc
<b>2.Tĩm tắt tác phẩm : “ VỢ NHẶT” c ủ a KIM LÂN</b>
Vợ nhặt phản ánh nạn đói khủng khiếp năm 1945, cái đói buộc người ta phải sống ly hương, Trong nạn đói,
ngượi chết như ngả rạ “khơng khí vẩn lên mùi ẩm thối và mùi gây của xác người ”.Giữa lúc ấy, Tràng –
một thanh niên nghèo khó, ế vợ, lại dẫn về một người đàn bà. Sự xuất hiện của thị vừa tạo sự tò mò, vừa lóe
chút niềm vui, vừa mang sự lo lắng, ngạc nhiên cho những người dân nghèo xóm ngụ cư, cho bà cụ Tứ và cả
Tràng nữa. Thị là một phụ nữ bất hạnh, nghèo đói “quần áo tả tơi như tổ đỉa”, chỉ vì nghèo, vì cái ăn mà thị
chấp nhận trở thành vợ nhặt của Tràng (Tràng mời thị ăn một chập bốn bát bánh đúc) .Bà cụ Tứ là người mẹ
hiền, rất mực thương con. Bà có dâu giữa lúc khơng ngờ. Hạnh phúc và nỗi lo khiến người mẹ nghèo khóc
nhiều trong đêm tân hôn của hai con. Cô dâu đã đem lại một luồng sinh khí mới cho ngơi nhà tồi tàn, cho
những con người tội nghiệp. Trong bữa ăn ngày đói thảm hại, họ cố nuốt món chè cám đắng chát và nghẹ ứ
trong cổ họng, họ cố nói chuyện vui về tương lai. Kết thúc tác phẩm là hình ảnh lá cờ đỏ bay phấp phới và
đoàn người đi phá kho thóc của Nhật hiện lên trong trí nhớ của Tràng .
<b>3.</b>
<b> Tĩm tắt tác phẩm: “ NGƯỜI LÁI ĐỊ SƠNG ĐÀ ” của Nguyễn Tn</b>
Bài tùy bút viết về ơng lái đị sơng Đà là bạn của tác giả. Ơng làm nghề lái đị trên sơng Đà đã 10 năm.
Công việc của ông là chở chè mạn, chè cối về xi. Ơng là người thích đối đầu với sóng to gió lớn, chạy
thuyền trên khúc sơng khơng có thác, ơng cảm thấy dại tay, buồn ngủ. Ơng có trí nhớ tuyệt vời, nhớ tỉ mỉ
như đinh đóng vào lịng các luồng nước.Sơng Đà bắt nguồn từ Vân Nam, Trung Quốc. Sơng Đà hùng vĩ,
<b>.Tĩm tắt tác phẩm : “ RỪNG XAØ NU” c ủ a Nguyễn Trung Thành</b>
khốc cho đến chết. Tnú xơng ra, anh bị giặc bắt và đốt 10 ngón tay. Dân làng Xô Man đồng khởi giết giặc
cứu Tnú. Anh gia nhập lực lượng quân giải phĩng, chiến đấu chống kẻ thù để giải phĩng bản làng.
5.Tóm tắt tác phẩm: “ THUỐC” c ủa Lỗ Tấn
Vợ chồng lão Hoa Thuyên – chủ quán trà có con trai bị bệnh lao (căn bệnh nan y thời bấy giờ). Nhờ
người giúp, lão Hoa Thuyên đi tìm mua chiếc bánh bao tẩm máu người tử tù về cho con ăn, vì cho rằng như
thế sẽ khỏi bệnh. Sáng hôm sau, trong quán trà mọi người bàn tán về cái chết của người tử tù vừa bị chém
sáng nay. Đó là Hạ Du, một nhà cách mạng. Nhiều người cho là ngu, anh điên, dại .Ngồi ra ,họ cịn bàn về
hiệu quả của mĩn thuốc kì lạ,bác cả khang lúc nào cũng khẳng định về hiệu quả của mĩn thuốc ấy. Thế rồi,
thằng Thuyên cũng chết vì chiếc bánh bao ấy khơng trị được bệnh lao.Năm sau vào tiết Thanh minh, mẹ
HạDu và mẹ bé Thuyên đến bãi tha ma viếng mộ con. Hai bà mẹ gặp nhau tại đây đều xót xa cho cái chết
con mình. Hai người mẹ đau khổ có sự đồng cảm với nhau. Họ rất ngạc nhiên khi thấy trên mộ Hạ Du xuất
hiện vòng hoa trắng hồng xen lẫn nhau. Thấy được sự thức tỉnh của mẹ Hạ Du qua câu hỏi “ thế này là thế nào
?” và bà đã khĩc; hành động của mẹ bé Thuyên bước sang con đường mịn để an ủi mẹ Hạ Du. Kết thúc tác
phẩm là hình ảnh con quạ bay vút lên trời cao.
<b>6.Tĩm tắt tác phẩm “</b><i><b> SỐ PHẬN CON NGƯỜI” </b><b> của Sơlơkhốp</b></i>
Nhân vật chính trong tác phẩm là Xơcơlơp. Chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ, Xơcơlơp nhập ngũ rồi bị
<i><b>7.Tóm tắt tác phẩm “Ơng gìa và biển cả” –Hêming .</b></i>
Ơng già Xanchiagơ đánh cá ở vùng nhiệt lưu, nhưng đã lâu không kiếm được con cá lớn nào. Đêm ngủ ơng mơ
về thời trai trẻ với tiếng sóng gào, hương vị biển, những con tàu, những đàn sư tử. Thả mồi ông đối thoại với
chim trời, cá biển.Thế rồi, một con cá lớn tính khí kì quặc mắc mồi. Đây là một con cá <i>Kiếm to lớn, mà ông</i>
hằng mong ước. Sau cuộc vật lộn cực kỳ căng thẳng và nguy hiểm, Xanchiagô đã giết được con cá.Ơng buộc
nó thật chặt vào mạng thuyền.Nhưng lúc ơng lão đưa thuyền quay vào bờ, một con cá mập, rồi từng đàn cá mập
hung dữ đuổi theo rỉa thịt con cá Kiếm. Ông phải đơn độc chiến đấu đến kiệt sức với lũ cá mập để bảo vệ con
cá kiếm. Khi ông già mệt rả rời quay vào bờ thì con cá Kiếm chỉ cịn trơ lại bộ xương.
<i><b>8.Tóm tắt tác phẩm “Những đứa con trong gia đình”-Nguyễn Thi </b></i>
chiến khiêng bàn thờ ba má sang nhà chú năm hết sức xúc động. Cuối tác phẩm, anh Tánh cùng đồng đội tìm
được Việt.Anh được đưa về điều trị ở bệnh xá dã chiến. Sức khỏe hồi phục dần. Việt nhớ chị Chiến, muốn viết
thư nhưng không biết viết sao. Việt cũng không muốn kể chiến công của mình vì chưa thấm gì với thành tích
của đơn vị .
<i><b>9.Tóm tắt tác phẩm “Chiếc thuyền ngồi xa”-Nguyễn Minh Châu</b></i>
Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đã từng tham gia kháng chiến chống Mĩ. Anh được trưởng phịng phân cơng xuống
vùng biển để chụp một bức ảnh cảnh biển buổi sáng. Anh quan sát nhiều ngày nhưng không chụp được bức ảnh
nào vừa ý. Cuối cùng, anh cũng chụp được một bức ảnh vừa ý mà theo anh đó là bức ảnh “trời cho”. Đó là cảnh
mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đơi chút hồng hồng của mặt trời
chiếu vào”. Toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng hài hòa và rất đẹp. Ngay lúc ấy, Phùng thấy mũi
thuyền tiến thẳng vào bờ. Một người đàn ông và đàn bà rời thuyền. Tiếng quát của người đàn ông chỏ lên
thuyền. Người đèn bà cao lớn, đường nét thô kệt, mệt mỏi sau một ngày kéo lướt vất vả. Người đàn ông tấm
lưng rộng và cong như chiếc thuyền, mái tóc tổ quạ, lão đi chân chữ bát. Người đàn ơng trở nên hùng hổ và
đánh vợ mình rất dã man. Người đàn bà không chống trả, mà chỉ cam chịu. Khơng chỉ thế , Phùng cịn chứng
kiến cảnh cha con thằng Phác đánh nhau. Đặc biệt trong câu chuyện của người đàn tại tòa án huyện với chánh
án Đẩu và Phùng. Người đàn bà cố giải thích cho vị chánh án và Phùng hiểu rõ câu chuyện thực về cuộc đời của
gia đình chị, mặc cho vị chánh án khuyên chị nên bỏ người đàn ông vũ phu kia. Cuối cùng cả chánh án Đẩu và
Phùng hiểu ra sự việc và cả hai người rất thông cảm với chị. Cuối tác phẩm, Đẩu đi tìm người đàn ơng vũ phu,
cịn Phùng thì đi tìm thằng Phác để thực hiện cuộc hòa giải . mong muốn đem lại hạnh phúc trọn vẹn cho gia
đình . Sau đó , anh trở về phịng văn hóa, suy nghĩ về bức .
<i><b>10.Tóm tắt tác phẩm “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ</b></i>
Trương Ba làm nghề trồng vườn, có tâm hồn trong sáng, thật thà, chất phác, cần cù, yêu thương vợ, con
cháu. Do thái độ làm việc tắc trách của Nam Tao, Bắc Đẩu, Trương Ba bị chết bất ngờ. Vì thương Trương Ba là
người đã từng chơi cờ với mình nên Đế Thích u cầu Nam Tào cho hồn Trương Ba nhập vào xác anh hàng thịt
để được sống lại. Thế là hồn Trương Ba vẫn giữ nguyên vẹn, nhưng phải trú trong xác anh hàng thịt. Đều trớ
trêu bất hạnh cũng bắt đầu xảy ra. Hồn Trương Ba không thể sống chung với vợ người hàng thịt. Về nhà Trương
Ba cũng không được vợ con, cháu và bạn bè q mến, u thương vì thân xác thơ kệch, tính cách thơ phàm của
anh hàng thịt. Trương Ba rất đau khổ. cuộc đối thoại giữa hồn và xác diễn ra quyết liệt. Với thế lực âm u, đui
mù của xác hàng thịt, Trương Ba hồn tồn đuối lí trong cuộc đối thoại này, đành nhập trở lại xác hàng thịt.
Cuối tác phẩm, Trương Ba đề nghị Đế Thích cho cu Tị sống lại và trả xác cho anh hàng thịt, cịn mình chọn cái
chết để giải thốt, khơng nhập vào xác của ai nữa .Chỉ nhập vào những sự vật thân thương trong vườn của gia
**********PHẦN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 3 ĐIỂM **************
<b>Đề 1: “Văn hóa, đó là cái cịn lại khi người ta đã quên hết tất cả”. Em suy nghĩ gì về câu nói trên ?</b>
HS tự viết phần mở bài
Văn là vẻ đẹp, hóa là biết đổi. Như vậy, văn hóa là tồn bộ những thành tựu về vật chất và tinh thần của con
người từ thời nguyên thủy cho đến thời đại hiện nay và tương lai. Đó là những thành tựu về văn học, nghệ thuật,
khoa học , ... vv. Văn hóa vừa mang tính cộng đồng, dân tộc, nhân loại, vừa bao hàm ý nghĩa đối với cá nhân .
Ở mỗi người đó là sự tiếp thu, rèn luyện và phát triển trí thức, đạo đức. Muốn thế con người phải học tập. Nói
một người có văn hóa thì người đó phải có tri thức và nhân cách .
Tóm lại, việc trau dồi văn hóa, việc học chân chính khơng tùy thuộc vào cái người ta “có” mà thuộc cái
người ta “thành”-biết áp dụng vào thực tế kiến thức đã học .
Tuy vậy, văn hóa khơng phải là những kiến thức tích lũy trong trí nhớ con người. Sự trau dồi văn hóa, sự
học khơng phải là cố nhồi nhét cho thật nhiều kiến thức, rồi lặp lại như con vẹt . Cách học đó đơi khi có thể làm
cho người ta trở nên lệch lạc, kiêu ngạo. Tưởng nhớ nhiều là hơn người , buộc người khác phải kính phục mình.
Chỉ nhớ những điều đã học, lặp lại kiến thức đã học nhiều khi sẽ làm cho mình dần dần trở nên nơ lệ sách vở,
trở thành mọt sắc, khơng cịn khả năng tự tìm tịi, suy nghĩ, sáng tạo. Câu nói “Qúa tin vào sách, chẳng thà
khơng có sách” của người xưa đã cảnh giác chúng ta điều đó .
Tuy nhiên, ý kiến phê phán cách học nhồi nhét, lệch lạc trên hồn tồn khơng phủ nhận cái học trong sách
vở. Cách học trong sách vở xưa nay vẫn là cách hữu hiệu để trao dồi văn hóa, phát triển nhân cách, tài năng,
miễn là theo phương pháp, tích cực như đã trình bày ở trên.
Tóm lại, câu nói trên hoàn toàn bác bỏ quan niệm học, trau dồi văn hóa một cách thụ động, nhồi nhét mà
khẳng định quan niệm chủ động học tập, rèn luyện văn hóa. Việc học tập trong nhà trường hiện nay vẫn nhiều lý
thuyết, ít thực hành, nặng thuyết giảng. Cho nên chúng ta cần học tập, rèn luyện tri thức một cách tích cực, chủ
<b>Đề 2: Suy nghĩ về mục đích học tập do UNESCO đề xướng: “Học để biết, học để làm, học để chung sống,</b>
<b>học để tự khẳng định mình”</b>
HS TỰ NÊU PHẦN MỞ BÀI
Trước hết, mỗi người chúng ta cần xác định rõ hiểu được mục đích học tập được nêu ra: Học để biết là
bước khởi đầu để có tri thức, có hành trang chủ động bước vào cuộc sống. Học để làm là bước tiếp theo để ứng
dụng, thực hành một cách thiết thực và hiệu quả, không bỏ phí những tri thức đã lĩnh hội được. (HS TỰ LẤY
DẪN CHỨNG LIÊN HỆ THỰC TẾ BẢN THÂN). Từ hai mục đích trên, cần tiếp tục học để chung sống, hòa
nhập cộng đồng, hội nhập với thế giới trong thời đại mới, cộng tác với các nước trên thế giới để cùng tiến bộ.
Cuối cùng hồn tất q trình học tập là cái đích: “học để tự khẳng định mình”, học để làm chủ bản thân, hồn
thiện nhân cách của mình trong mối quan hệ với cộng đồng (HS TỰ LẤY DẪN CHỨNG LIÊN HỆ THỰC TẾ
BẢN THÂN).
Như vậy từng mục đích học tập cụ thể thống nhất với nhau theo một q trình khơng ngừng tiến bộ của
con người. Cũng cần hiểu rằng, việc học tập trước hết là hoạt động của mỗi con người, nhưng cũng là mục đích
chung cho sự phát triển của tồn xã hội. Bởi lẽ, sự tiến bộ của mỗi cá nhân, sự hoàn thiện của từng con người là
cơ sở cho sự tiến bộ của cộng đồng. Vì thế mục đích xã hội học tập được nhấn mạnh: “học để chung sống, học
để tự khẳng định mình”. Cũng có thể xem đây là những mục đích cao nhất của q trình học tập. Có tri thức, có
lao động, con người mới hịa nhập được với cộng đồng và tự khẳng định được chính mình. (HS TỰ LẤY DẪN
CHỨNG LIÊN HỆ THỰC TẾ BẢN THÂN, CÓ THỂ LIÊN HỆ VỚI GƯƠNG HỌC TẬP CỦA MỘT AI ĐĨ.
SO SÁNH VỚI NGƯỜI KHƠNG ĐƯỢC HỌC TẬP SẼ RA SAO ? ).
Mặt khác, khái niệm “học” ở đây cũng rất rộng mở:học kiến thức, học kỹ năng, học cách sống, học giao
tiếp ứng xử, học trong nhà trường, ngoài xã hội (HS TỰ LẤY DẪN CHỨNG LIÊN HỆ THỰC TẾ BẢN
THÂN, CÓ THỂ LIÊN HỆ VỚI GƯƠNG HỌC TẬP CỦA MỘT AI ĐÓ).
HS TỰ NÊU PHẦN KẾT BÀI
<b>Đề 3: Cuộc vận động: “Nói khơng với những tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục” đã</b>
<b>góp phần định hướng đúng đắn và tích cực cho việc dạy và học trong nhà trường. Nêu suy nghĩ và trách</b>
<b>nhiệm của học sinh trong cuộc vận động này ?</b>
Hiện nay tình trạng học tập chạy theo thành tích, khơng chú ý thực chất là một vấn đề phổ biến trong xã hội,
nhất là vấn đề thi cử của học sinh. Cuộc vận động nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong
giáo dục đã góp phần điều chỉnh đáng kể việc dạy và học trong nhà trường. Mỗi học sinh cần có trách nhiệm
loại trừ những hiện tượng tiêu cực bằng chính hành động cụ thể của mình.
giáo dục (bán đề, quay bài, sửa điểm... Chú ý: cần lấy dẫn chứng cụ thể từ các hiện tượng có thật trong xã hội).
"Bệnh thành tích trong giáo dục" là: vì chạy theo những danh hiệu mà cố tình vi phạm những quy định về
kiểm tra, đánh giá tạo ra thành tích ảo, khơng đúng với thực chất và cũng làm cản trở sự phát triển của giáo dục
(hiện tượng "cấy” điểm, báo cáo sai sự thật… Chú ý: cần lấy dẫn chứng cụ thể từ các hiện tượng có thật trong
xã hội)
Những tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng trong đời
sống xã hội và để lại những di chứng không tốt trong đời sống tinh thần của thế hệ sau. Vì vậy, "nói khơng với
những tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục" là để: Đảm bảo cơng bằng trong xã hội: đánh giá
đúng năng lực học tập của mỗi cá nhân, từ đó mỗi cá nhân có được vị trí xứng đáng của mình trong trường lớp
và ngoài xã nội. Để chất lượng giáo dục đào tạo được tốt hơn: nhờ đánh giá đúng kết quả, chất lượng giáo dục -
đào tạo mà các ban ngành có giải pháp đúng đắn cho thực trạng giáo dục, từ đó nâng cao chất lượng giáo dục -
đào tạo. Để khơng lãng phí của thời gian, tiền bạc của xã hội: tránh được những tiêu cực những bệnh thành tích
là giảm được việc đầu tư khơng đúng nơi (chạy chọt vào các trường chuyên, lớp chọn, tránh được việc cá nhân
học sinh có kết quả và báo cáo sai lệch, tránh được việc biếu xén...). Để thúc đẩy tiến bộ xã hội : giáo dục có
phát triển thì mới tạo thành động lực thúc đẩy tiến bộ xã hội. Cuộc vận động này được sự ủng hộ mạnh mẽ của
học sinh, sinh viên, phụ huynh học sinh và tồn xã hội. Vì vậy, "nói khơng với những tiêu cực trong thi cử và
bệnh thành tích trong giáo dục" là một phong trào thiết thực, cần hành động ngay, hành động quyết liệt và liên
tục.
Thật vậy, học sinh đến trường học qua loa đối phó, nưng điểm số và kết quả học tập thì rất cao- đó là
những biểu hiện cụ thể, triệu chứng của bệnh “ chuộng” thành tích. Nhiều lúc ta cảm thấy ngạc nhiên trước lối
học của một số hoc sinh, lên lớp thì nghệch ngoạc vài chữ, ngáp lên ngáp xuống, học theo kiểu “ cưỡi ngựa xem
hoa”, về nhà thì vở vất đầu giường. Thế nhưng, khơng hiểu sao cứ đến kì thi lại có khơng ít người rất tự tin cầm
bút vào phòng thi, rốt cuộc “ may mắn” làm sao, điểm vẫn trên trung bình, danh sách học sinh tiên tiến, học sinh
giỏi ở các trường vẫn “ thừa thắng xông lên”. Tại sao lại có sự mâu thuẫn đến như vậy? Thật là khó lí giải. Họ
thơng minh đến nỗi khơng cần học bài, hiểu bài cũng có thể thi, làm kiểm tra điểm cao à. Và rồi khi bước vào kì
thi đại hoc thật sự, kết quả lại khiến nhiều người sửng sốt, bất ngờ. Có chăng chỉ là những học sinh tiêu biểu đó
đã gặp may mắn trong khi quay cóp, tài liệu hay là do thái độ ỷ lại vào bạn bè, sự dễ dãi của một số thầy cơ
trong các kì thi.
Có thể thầy cơ khơng nỡ nhìn học sinh của mình buồn khi nhận những con điểm kém, kết quả tồi nên họ đã
làm ngơ trước một vài điều hay là với tâm lí sợ trị học khơng giỏi một phần là do thầy cơ dạy khơng hay, có
trường hợp nhiều học sinh đỗ xô đi học một giáo viên A, B,.. nào đó khơng chỉ đơn thuần là giáo viên đó dạy
giỏi, giảng hay mà cịn vì giáo viên đó “ thương” học trị và biểu hiện ra đó là cho học sinh biết trước những đề
kiểm tra, khi cho điểm thi lại hết sức nhẹ nhàng với học trị “ tại gia” của mình. Xin nói thẳng chính vì thương
kiểu đó mà đã có khơng ít những kết quả sai lệch, học giả nhưng điểm thật. Và những thầy cơ đó có thật sự
thương học sinh của mình mà đang huỷ hoại dần vốn kiến thức và ý thức học tập của hcọ sinh, dần dần họ cứ
nghĩ rằng cứ có thật nhiều tiền mua q chăm sóc thầy cơ hay có một chỗ ngồi êm ấm trong nơi học thêm thì sẽ
dễ dàng với việc học, thi, kiểm tra.
Ông bà ta đã từng nói: “Khơng học thì làm sao có tương lai”. Tương lai đó khơng htể mua bằng tiền, bằng
những mẹo vặt khi làm bài hay sự nài nỉ của một ai đó... Tương lai là do chính bản thân mình nắm lấy, mình bắt
giữ, phải đổ mồ hơi, nước mắt trong học tập thật sự thì mới có một tương lai tươi sáng. Trong kì thi đại học vừa
qua đã có khơng ít “ sĩ tử” thành “tử sĩ” chỉ vì học khơng đúng với bản thân, hổng kiến thức trầm trọng, thế
nhưng trong các năm học trước hay thi tốt nghiệp vẫn luôn là “ giỏi”. Chính lúc bước vào kì thi chung của cả
nước, kì thi đại học gắt gao thì khả năng của mỗi học sinh mới được thể hiện thật sự chính xác, ai giỏi có cố
gắng thì sẽ đậu, ai mà chỉ biết mánh khoé, học giả dối thì phải nhận kết quả thấp, hi vọng rằng họ sẽ không than
vãn là “ học tài thi phận”. Không biết rằng trước kết quả đáng buồn của học sinh mình, thầy cơ có hối hận hay
khơng, vì đã quá dễ dãi trong việc dạy dỗ học sinh của mình.
Chắc mọi người vẫn chưa quên vụ” chạy trường, lớp điểm” ở trường Lê Quý Đôn vừa qua gây xôn xao
trong bộ giáo duc và cả xã hội hay là kì thi tốt nghiệp năm ngối có trường thi tốt nghiệp đạt o%, tức là không
một học sinh nào đậu. Không biết là nên thất vọng bao nhiêu cho đủ đây, trước hậu quả mà bệnh thành tích đã
gây ra trong nhà trường.
của một số học sinh, không chuyên tâm vào học hành, chỉ biết học đối phó, qua loa và cách dạy có thể chưa hợp
lí, làm học sinh thích thú.
Khơng thể để khối u nhọt- bệnh thành tích này hồnh hành và phát triển trong học đường. Gia đình và thầy cơ
giáo cần kiểm tra về kiến thức và việc học của học sinh chặt chẽ hơn nữa, tạo ra nhiều phương pháp học khiến
học sinh thích thú nên hạn chế những lối học “thầy đọc, trị chép” khơ khan. Hơn hết quan trọng nhất là ý thức
của mỗi hcọ sinh, sự nỗ lực và cố gắng của từng bạn, lúc đầu có thể khó khăn nhưng về sau bạn có thể có được
niềm vui đích thực khi đón nhận những điểm số tốt xứng đáng với sức mình bỏ ra.
Cuộc vận động : “Nói khơng với những tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục” hướng tới
việc dạy và học thuộc tất cả các cấp trong nhà trường. Đối với hoạt động dạy của giáo viên, cuộc vận động này
định hướng, điều chỉnh mục đích giảng dạy. Dạy để học sinh có hiểu biết, tri thức thực sự, tồn diện, khơng
chạy đua theo thành tích nhất thời, đảm bảo chất lượng dạy, đảm bảo công bằng trong đánh giá thi cử, chọn
đúng học sinh có năng lực, có kiến thức vững vàng, khơng để xảy ra tình trạng, nâng điểm tùy tiện nâng điểm,
đánh giá sai thực chất của học sinh.Để giảm tiêu cực, kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2009, bộ giáo dục tổ chức thi
trắc nghiệm các mơn tự nhiên (trừ Tốn), cịn các mơn viết tự luận thì chấm chéo giữa các tỉnh
Đối với hoạt động học tập của học sinh, cuộc vận động này cũng điều chỉnh lại mục đích và cách học đã và
đang có hiện tượng sai lệch như học tủ, học để đối phó với kì thi, quay cóp trong kiểm tra, thi cử.
Do đó, đây là cuộc vận động nhằm nâng cao chất lượng dạy và học, để hoạt động dạy và học trong nhà
trường trang bị cho học sinh tri thức, vốn hiểu biết thực sự. Đây cũng là cuộc vận động nhằm đảm bảo cho nền
giáo dục trong nước lành mạnh, tiến bộ, khắc phục tình trạng lạc hậu để từng bước hội nhập với nền giáo dục
các nước trên thế giới. Bởi vì,giáo dục là chiến lược đào tạo con người, nhân lực cho xã hội. Nó là cái góc của
Những giải pháp để phong trào "nói khơng với những tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo
dục" đạt kết quả tốt. Cần quán triệt vấn đề chặt chẽ từ trên xuống, cán bộ lãnh đạo cần là người tiên phong và
kiên quyết thực hiện. Tuyên truyền sâu rộng cho phong trào để có được sự ủng hộ và hậu thuẫn mạnh mẽ của
các nhà lãnh đạo, của nhân dân, của giáo viên và học sinh cũng như toàn ngành giáo dục. Lên án mánh mẽ các
biểu hiện của những tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục. Mỗi giáo viên, học sinh cần thấy
được tính cấp thiết của vấn đề "nói không với những tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục" và
thực hiện nghiêm túc.
Bài học cho bản thân: Là đối tượng quan trọng của cuộc vận động, mỗi học sinh cần có ý thức học tập tốt và
tích cực hưởng ứng cuộc vận động, luôn nỗ lực phấn đấu vươn lên, trung thực trong học tập và thi cử.
Tóm lại, "Nói khơng với những tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục” là cuộc vận động có
ý nghĩ thiết thực góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Mỗi cá nhân trong xã hội có
trách nhiệm tham gia, hưởng ứng cuộc vận động để thực hiện tốt trách nhiệm của bản thân đối với cộng đồng.
Nâng cao chất lượng học tập không chỉ là trách nhiệm của nhà trường, xã hội, mà trước hết mỗi cá nhân, học
sinh cần phải có sự cố gắng, nghiêm khắc với bản thân. Chỉ có kiến thức, hiểu biết thực sự mới đem đến cho
mỗi người giá trị chân thực, đóng góp tích cực cho cộng đồng và đem lại hạnh phúc cho bản thân . Thiết nghĩ
đây là trách nhiệm không chỉ chỉ của riêng ai.
<b>Đề 4 : Tuổi trẻ học đường suy nghĩ và hành động để góp phần giảm thiểu tai nạn giao thơng.</b>
Trong nhiều năm trở lại đây, vấn đề tai nạn giao thơng đang là điểm nóng thu hút nhiều sự quan tâm của
dư luận bởi mức độ thiệt hại mà vấn đề này gây ra. Tuổi trẻ học đường – những công dân tương lai của đất nước
– cũng phải có những suy nghĩ và hành động để góp phần giảm thiểu tai nạn giao thông.
Thực trạng tai nạn giao thông ở Việt nam hiện nay: Đang diễn ra hàng ngày hàng giờ trên cả nước, 33 -34
người chết và bị thương / 1 ngày. Trong số đó, có khơng ít các bạn học sinh, sinh viên là nạn nhân hoặc là thủ
phạm gây ra các vụ tai nạn giao thông. Sự coi thường luật giao thông của những ngừơi tham gia giao thơng. Đây
tiên cho mình mà cứ băng qua đường bất cứ chỗ nào.
Người lái xe khi điều khiển phương tiện giao thông nồng độ cồn trong máu khơng vượt q 80ml/1 lít máu.
Nhưng ở nước ta, lái xe ôtô và xe máy uống bia là chuyện bình thường. Chúng ta có thể nhìn qua các quán bia
vào buổi chiều, xe máy chật cứng vỉa hè.
Sự coi thường luật giao thơng đã trở thành thói quen mà ít bị phạt. Đó là ngun nhân chính gây ra nhiều tại
nạn giao thông. Theo thống kê của các cơ quan chức năng, bình quân mỗi tháng trên cả nước xảy ra hàng ngàn
vụ tai nạn giao thơng (TNGT); có 35 người chết và cả trăm người bị thương mỗi ngày. Trong số những nạn
nhân của TNGT, 40% ở trong độ tuổi trẻ, từ 15 đến 24 tuổi. Theo tính tốn của Ngân hàng Phát triển Châu Á,
TNGT gây ra tổn thất cho Việt Nam vào khoảng 900 triệu USD/năm, chưa kể những đau thương, mất mát mà
gia đình, xã hội vẫn phải tiếp tục gánh chịu sau khi người thân bị tai nạn.
Hiện nay an toàn giao thông là một vấn đề lớn, được cả xã hội quan tâm. Đi khắp các nẻo đường gần xa khẩu
ngữ “An tồn giao thơng là hạnh phúc cho mọi nhà” như lời nhắc nhở, cũng là lời cảnh báo với những người
đang tham gia giao thông, hãy chấp hành luật giao thơng để đem lại an tồn cho mình và hạnh phúc cho gia đình
mình. Nhưng hàng năm số vụ tai nạn giao thông vẫn không hề suy giảm, ngược lại nó cịn tăng lên rất nhiều. Cứ
mỗi năm, Việt Nam có tới gần một nghìn vụ tai nạn giao thơng, nhiều nhất là xe máy. Ngun nhân chính gây ra
các vụ tai nạn phần lớn là do ý thức chấp hành luật lệ giao thông của người dân: uống rượu bia vượt quá nồng
độ cho phép khi lái xe, không đội mũ bảo hiểm ở phần đường bắt buộc phải đội mũ bảo hiểm, chở trên ba người
phóng nhanh vượt ẩu…
Một mặt, đó là chất lượng đường sá kém và nguyên nhân là do sự tắc trách của các cơ quan xây dựng, ăn
hối lộ, rút xén vật liệu. Mặt khác chúng ta phải lên án những kẻ chỉ vì các lợi ích cá nhân mà qn đi tính mạng,
sự an toàn của người đi đường. Trên đường quốc lộ, đường lớn vẫn còn những kẻ rải đinh xuống lòng đường để
thu lợi bởi những đồng tiền kiếm được từ vá xe, thay lốp. Họ không hiểu hết được sự nguy hiểm của việc làm
đó, với tốc độ cao như vậy những người tham gia giao thông khi bị thủng săm đột ngột sẽ bị văng người ra khỏi
xe và nguy cơ tử vong là rất lớn.
Theo thống kê, những người thiệt mạng do tai nạn giao thông chủ yếu là đàn ơng, trụ cột của gia đình.
Những người vợ xót xa khi mất đi người chồng thân u, đứa con nghẹn ngào trong dịng lệ vì tới đây sẽ chẳng
còn được vòng tay người cha âu yếm vỗ về, bảo ban dạy dỗ trên đường đời. Họ mang đến sự thương tâm cho
toàn xã hội. Hàng năm, nhà nước đã bỏ ra hàng tỉ đồng để nâng cấp các cơ sở giao thông, đường sá cầu cống
phục vụ cho việc đi lại an tồn ở mọi nơi. Nhưng số tiền đó lại khơng được dùng hết, vậy thì nó rơi rơi vào đâu?
Phải chăng, số tiền đó đã rơi vào túi những kẻ rút lõi cơng trình, rút lõi vật tư để làm giàu cho mình. Đó là
những kẻ vơ lương tâm vì lợi ích bản thân mà qn đi sự an toàn chung cho xã hội.
Một vấn đề cũng đang gây sự chú ý và bị lên án rất nhiều đó là tình trạng đua xe của giới trẻ, tầng lớp thanh
niên - những người chủ tương lai đất nước. Đó là những thanh niên đua địi với bản tính “con nhà giàu” cùng
với sự rủ rê của bạn bè, họ sẵn sàng đánh cược với tính mạng của mình. Nhìn những chiếc xe SH, @, FX500 phi
như bay trên những con đường lớn ta khơng khỏi xót xa cho họ. Chỉ vì quá được nuông chiều, thiếu sự bảo ban
của cho mẹ mà họ đã phải trả giá đắt. Những tai nạn xảy ra là điều chắc chắn, nhẹ thì sứt đầu mẻ trán, gẫy tay
gẫy chân. Nặng thì họ phải mãi mãi rời xa cuộc đời. Lý do vì đâu cũng là ở nhận thức của thanh niên. Họ chưa
biết suy nghĩ đúng về những cái lợi hại của việc mình đã làm. Những bậc cha mẹ khi con mình xảy ra tai nạn,
nhận ra thì đã quá muộn, tại sao họ sắm cho con những chiếc xe thật tốt, phân khối thật lớn để chúng đi đua. Họ
làm ra nhiều tiền rồi cũng nhận ra khi mất đứa con thì tiền bạc cũng chẳng giải quyết được gì. Họ hối hận vì tại
sao ngay từ đầu khơng bảo ban con cái mình.
Tất cả những nguyên nhân gây ra tai nạn đều bắt nguồn từ ý thức của người dân. Nếu như họ biết quý bản
thân mình, biết tn thủ luật lệ giao thơng thì sẽ chẳng có những điều thương tâm và đáng tiếc. Hồi chng cảnh
báo luôn rung lên, nhắc nhở mọi người hãy biết chấp hành giao thơng, vì sự an tồn của bản thân và xã hội.
Nêu thêm những con số thống kê về tai nạn giao thông đáng báo động: Trong vòng 10 năm qua, số vụ tai nạn
giao thơng đã tăng gấp 4 lần. Trong năm 2001 có 4.100 trẻ chết do tai nạn giao thông, tương đương với 11 trẻ
chết 1 ngày. Tỷ lệ tử vong ở trẻ em trai gấp 2 lần tỷ lệ này ở trẻ em gái. Trong khi đó có 290.000 trẻ bị thương
do tai nạn giao thông cũng trong 2001, tương đương với 794 trẻ/ngày. Tai nạn giao thông là nguyên nhân tử
vong hàng đầu của trẻ em từ 15 tuổi trở lên.
nạn giao thông ở mức cao cả ở trẻ em và trong toàn dân: Sự hiểu biết cịn hạn chế về an tồn giao thông đường
Các hoạt động sau đang được triển khai nhằm giảm thiểu tai nạn thương tích cho trẻ: Đặt biển báo giới hạn
tốc độ, làm gờ giảm tốc, đèn hiệu giao thông, vạch dành cho người đi bộ ở khu vực có đơng trẻ em. Thực hiện
chương trình giáo dục phịng chống thương tích trong trường học giúp học sinh có kỹ năng về giao thơng để
phịng tránh tai nạn khi đi bộ, đi xe đạp hay xe máy. Tổ chức các cuộc thi an tồn giao thơng cho mọi người đặc
biệt là thanh thiếu niên. Hỗ trợ người dân thực hiện các hoạt động thông tin truyền thông phù hợp với điều kiện
địa phương. Huấn luyện cho các tuyên truyền viên đi đến từng hộ gia đình tuyên truyền về phòng chống tai nạn
bao gồm cả các tai nan giao thông. Hỗ trợ các xã xây dựng sân chơi an tồn cho trẻ để trẻ có thể chơi an tồn xa
đường giao thơng. Tổ chức các cuộc hội thảo cho các cấp lãnh đạo xã về việc thi hành pháp luật bao gồm luật an
tồn giao thơng.
Tóm lại, an tồn giao thơng là hạnh phúc của mỗi người mỗi gia đình và tồn xã hội. Tuổi trẻ học đường với
tư cách là chủ nhân tương lai của đất nước, là thế hệ tiên phong trong nhiều lĩnh vực, có sức khoẻ, có tri thức...
cần có những suy nghĩ đúng đắn và gương mẫu thực hiện những giải pháp thiết thực để góp phần giảm thiểu tai
nạn giao thơng.
<b>Đề 5: Suy nghĩ của em về vai trò, ảnh hưởng của Internet tới cuộc sống của thanh niên hiện nay.</b>
Có nhiều người cho rằng internet chẳng qua là thế giới ảo. Tuy vậy có thể khẳng định một điều rằng những
gì có trong thế giới thực đều được phản ánh vào internet, hơn nửa những gì khơng có trong thế giới thực cũng có
thể tìm thấy trên internet. Như vậy, internet là thế giới thực mà ảo, ảo mà thực. Dù thế nào đi chăng nữa phải
thừa nhận internet là một phần không thể thiếu trong cuộc sống hiện đại .
Chúng ta là những người thuộc thế hệ năng động, sáng tạo 8x, 9x của thế kỉ XXI, thế kỉ mà nền công nghệ
Trước hết, internet là một pho từ điển bách khoa đồ sộ, một thư viện khổng lồ mà tất cả được sắp xếp với
một trật tự gần như hồn hảo. Bạn có thể tra cứu trên mạng những thông tin quan trọng trong mọi lĩnh vực:
khoa học, kĩ thuật, văn hóa, nghệ thuật, thể thao, ... vv. Nó cịn là một trường học mở cửa 24/24 giờ. Internet
cũng là một sân chơi rất thú vị với chương trình game online, các kênh truyền hình, các tờ báo và tập chí điện
tử. Thế giới giải trí thật phong phú, sinh động.
Trong đời sống hiện đại, công việc quá căng thẳng, một khoảng thời gian ngắn tham gia sân chơi ấy cũng là
cách giúp bạn giai tỏa stress, thư giãn để lấy lại cân bằng. Bạn cịn có thể trò chuyện với người thân, bạn bè bất
chấp khoảng cách địa lí. Nó giúp chúng ta gần nhau hơn, mặc dù cơng việc bận rộn và thời gian rất ít. Tóm lại,
internét vừa có thể là thư viện, văn phịng,hội trường, trường học, ngân hàng, ... vv của mọi người. Tất cả mọi
người đều cần đến internet từ nguyên thủ quốc gia cho đến người nơng dân bình thường, từ người có trình độ
cao đến người có trình độ thấp.
Nhưng bạn đừng sợ internet, bạn hãy thế giới ảo ấy làm giàu cho thế giới thực của mình: tri thức, cơ hội,
việc làm, tình bạn, tình yêu, sức khỏe, ... vv. Bạn hãy để internet làm đẹp cho cuộc sống của mình. Hãy tận
hưởng những món ăn ngon trên mạng và cẩn thận đừng để “virus” trên mạng ăn thịt mình. Để làm được điều ấy,
bạn cần phải làm gì ? Đừng q tị mị khi vào mạng. Đừng quá buồn chán mà lên mạng. Đừng trốn tránh thế
giới thực bằng thế giới ảo. Chỉ lên mạng khi cần học tập, làm việc, chia sẽ với bạn bè những thơng tin bổ ích và
những tình cảm lành mạnh. Hãy nhớ rằng internet là phương tiện chứ khơng phải là mục đích. Hãy sử dụng và
điều khiển internet chứ đừng bao giờ để ngược lại.
Tơi cũng có lần nghiện internet. Gia đình tơi tìm tơi mấy ngày liên. Tơi đã mãi mê với những trò chơi điện
tử trực tuyến nguy hại ấy. Hàng ngày đi học về là tôi cứ lao vào phong game. Lúc đầu chỉ chơi 2-3 tiếng đồng
hồ và cứ mỗi ngày như thế, tiền cha mẹ cho đi học, tôi nhịn ăn, chỉ dành cho việc chơi game và tơi đã bị nghiện
cái món nguy hại ấy từ lúc nào không hay. Tôi không mãi mê với việc học nữa mà trong óc tơi lúc nào hình ảnh
những game thủ cứ hiện về. Tơi thường xuyên bỏ học để lao vào các game thủ. Tôi ăn tại phịng game, ngũ cũng
tại đó và có lần tơi đã bị kiệt sức, chủ phịng game đưa tơi nhập viện và cũng ngày ấy, gia đình tơi mới tìm được
Tóm lại, những gì tơi đã trình bày ở trên, đó là những gì tơi đã trải nghiệm về internet. Tôi tin rằng, internet
cũng phong phú và đầy bất ngờ trong cuộc sống. Nhưng bạn cần luôn nhứ rằng: chúng ta tạo ra internet, chứ
không phải internet tạo ra chúng ta. Do đó, chúng ta phải làm chủ bản thân, có đủ bản lĩnh khi vào internet .
<b>Đề 6: “Trái đất là ngôi nhà chung của chúng ta”. Hãy trình bày suy nghĩ của mình về vấn đề mơi trường</b>
<b>và trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với vấn đề bảo vệ môi trường.</b>
Con người không thể tồn tại tách rời môi trường. Nhưng trái đất đang bị ô nhiễm trầm trọng vì những
hoạt động sản xuất thời kì hiện đại hóa, cơng nghiệp, thời kì tiêu thụ và dân số tăng nhanh. Ơ nhiễm mơi trường
xảy ra với mọi quốc gia, vùng miền ảnh hưởng đến mọi yếu tố tạo nên môi trường sống cho con người như: đất,
nước, khơng khí. Trái đất là ngơi nhà chung của chúng ta nhưng chính chúng ta lại đang từng bước phá hoại
ngơi nhà thân u của mình. Nghịch lí ấy lại chính là sự thật.
Khơng nói đâu xa, chỉ cách đây 7, 8 năm, vùng quê của tôi thật đẹp. Những cánh đồng xanh với những
vụ lúa mùa bát ngát. Dưới nước cá tôm rất nhiều, ... vv nhưng giờ đây, mỗi lần đi qua cánh đồng thân yêu ngày
trước làm cho tôi cảm thấy ngạt thở và tức ngực. Với mùi thuốc bảo vệ thực vật nồng nặc đầu độc bầu khơng
khí trong lành. Giờ đây khơng cịn đâu tơm cá trên ruộng đồng, khơng cịn đầu mùi thơm nồng nàn của hương
lúa trổ đòng đòng, ... vv.
Những năm gần đât lúa được mùa. Thóc được đổ vào kho. Đã có than và bếp gas phục vụ sinh hoạt.
Những lò gạch mọc lên, ...vv cuộc sống của người dân khắm khá hơn. Khơng cịn cảnh dùng rơm, củi để nấu
cơm. Tường bê tông thay cho những hàng rào bằng tre, hàng râm bụt. Làng giàu lên nhưng khơng đẹp. Phải
chăng đó là cái giá phải trả cho sự phát triển ?
Tơi vừa xem phóng sự truyền hình về “đất khóc”. Đất ở ngoại ơ thành phố HCM đang khóc. Những dịng
nước đen, nước thải chưa qua xử lí đổ vào đất của vựa lúa ở Nam Bộ. Chúng ta chưa kịp vui mừng với việc mọc
lên những nhà máy, những khu công nghiệp sản xuất xà phịng, thuốc lá, bao bì, chế biến thủy hải sản, ... vv
đem lại lao động cho hàng ngàn công nhân thất nghiệp thì lại phải nghe đất khóc, người cũng khóc. Chúng ta
cỏ. Chính tơi và bạn nhiều khi, chúng ta dọn phịng của mình và vứt rác ra hành lang, xả rác bừa bãi ra hè phố,
ném bịt đựng đồ ăn nhanh xuống lối đi chung của cộng đồng, hồ nước, công viên,..vv Không bao giờ chúng ta
nhận ra nếu không đến một ngày chính chúng ta bị trượt trên chính đống rác của mình theo cả nghĩa đen lẫn
nghĩa bóng.
HỌC SINH CĨ THỂ TỰ MÌNH LẤY VÍ DỤ KHÁC MIỄN SAO HỢP LÍ
Tất cả các quốc gia trên thế giới và trong nước đều đã ý thức được tình trạng ơ nhiễm mơi trường và đưa
ra những giải pháp hữu hiệu như: xử lí khí thải, nước thải, rác thải, tiết kiệm năng lựơng, tài nguyên, phát triển
tài nguyên rừng biển. Tuy nhiên mỗi người cần ý thức được, đây là vấn đề của từng cá nhân, từng gia đình và
của cả cộng đồng nữa.
Tóm lại, Tất cả những gì mà chúng ta có được là do thiên nhiên ban tặng. Vậy, chúng ta hãy giữ gìn những
quà tặng vô giá ấy và hãy biết trao tặng, biết chia sẻ. Đừng để thiên nhiên phải khóc và cạn kiệt vì nó đồng
nghĩa với cái chết. Có thể là muộn, nhưng chúng ta có thể làm được điều đó.
*********PHẦN NGHỊ LUẬN VĂN HỌC 5 ĐIỂM *********
<b>I.PHẦN VĂN XUÔI</b>
<b>Câu 1: Phân tích màn đối thoại giữa hồn Trương Ba với xác hàng thịt. Từ đó phát biểu về mối quan hệ</b>
<b>giữa linh hồn và thể xác, giữa nội dung và hình thức .</b>
Có thể nói, Trương Ba chết một cách vơ lí.Ai cũng biết cái chết của Trương Ba là do sự vô tâm và tắc trách
của Nam Tào. Nhưng sự sửa sai của Nam Tào và Bắc Đẩu theo lời khuyên của Đế thích nhằm trả lại cơng bằng
cho Trương Ba lại đẩy Trương Ba vào nghịch cảnh vơ lí hơn. Linh hồn mình trú nhờ trong xác kẻ khác.
Do sống nhờ vào thể xác anh hàng thịt, hồn Trương Ba đành phải chiều theo một số nhu cầu hiển nhiên của
xác thịt .Linh hồn trong sạch, nhân hậu, ngay thẳng của Trương Ba xưa kia không thể sai khiến được xác thịt thô
phàm của anh hàng thịt mà trái lại còn bị xác thịt ấy điều khiển.Đáng sợ hơn, hồn Trương Ba dần dần bị nhiễm
độc bởi những cái tầm thường của xác thịt anh đồ tể .
Trớc khi diễn ra cuộc đối thoại giữa hồn và xác, nhà viết kịch đã để cho Hồn Trơng Ba "ngồi ôm đầu một hồi lâu
rồi vụt đứng dậy" với một lời độc thoại đầy khẩn thiết:"Không. Không! Tôi không muốn sống nh thế này mãi!
Tôi chán cái chỗ ở không phải là của tôi này lắm rồi! Cái thân thể kềnh càng, thô lỗ này, ta bắt đầu sợ mi, ta chỉ
muốn rời xa mi tức khắc! Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng nhỉ, để nó tách ra khỏi cái xác ny, dự ch mt
lỏt".
Hồn Trơng Ba đang ở trong tâm trạng vô cùng bức bối, đau khổ . Hồn bức bối bởi không thể nào thoát ra khỏi
cái thân xác mà hồn ghê tởm. Hồn đau khổ bởi mình không còn là mình nữa. Trơng Ba bây giờ vụng về, thô lỗ,
phũ phàng lắm. Hồn Trơng Ba cũng càng lúc càng rơi vào trạng thái đau khổ, tuyệt väng.
Trong cuộc đối thoại với xác anh hàng thịt, Hồn Trơng Ba ở vào thế yếu, đuối lí bởi xác nói những điều mà dù
muốn hay không muốn Hồn vẫn phải thừa nhận: “cái đêm khi ông đứng cạnh vợ anh hàng thịt với "tay chân run
rẩy", "hơi thở nóng rực", "cổ nghẹn lại" và "st nữa thì…". Đó là cảm giác "xao xuyến" trớc những món ăn mà
trớc đây Hồn cho là "phàm". Đó là cái lần ơng tát thằng con ơng "tóe máu mồm máu mũi". Xác anh hàng thịt
gợi lại tất cả những sự thật ấy khiến Hồn càng cảm thấy xấu hổ, cảm thấy mình ti tiện. Xác anh hàng thịt cịn c
-ời nhạo vào cái lí lẽ mà ơng đa ra để ngụy biện: "Ta vẫn có một đ-ời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng
thắn,…".
Trong cuộc đối thoại này, xác thắng thế nên rất hể hả tuôn ra những lời thoại dài với chất giọng khi thì mỉa
mai cời nhạo khi thì lên mặt dạy đời, chỉ trích, châm chọc. Hồn chỉ buông những lời thoại ngắn với giọng nhát
sợ kèm theo những tiếng than, tiếng kêu.
Ý thức được điều đó, hồn Trương Ba dằn vặt đau khổ và quyết định chống lại bằng cách tách ra khỏi xác
hàng thịt để tồn tại độc lập. Xác hàng thịt biết rõ những cố gắng ấy là vơ ích và đã cười nhạo hồn Trương Ba,
Trong màng đối thoại này, Trương Ba được trả lại cuộc sống làm người, nhưng là cuộc sống đáng hổ thẹn
vì phải sống chung với sự dung tục và bị sự dung tục đồng hóa. Khơng chỉ dừng lại ở đó, tác giả cịn cảnh báo:
khi con người phải sống trong dung tục thì tất yếu cái dung tục sẽ ngự trị, sẽ thắng thế, sẽ lấn át và sẽ tàn phá
những gì trong sạch, đẹp đẽ, cao quý trong con người .
Như vậy, thể xác và linh hồn là hai phần gắn bó hữu cơ góp phần làm nên một con người. Thể xác là nơi
trú ngụ của linh hồn. Linh hồn tạo nên sự sống, hoạt dộng của thể xác và điều khiển thể xác. Tuy vậy, thể xác
cũng có tính độc lập tương đối của nó, nếu linh hồn khơng giữ vững ý chí thì những nhu cầu, những địi hỏi của
thể xác có thể tác động đến linh hồn. Cuộc đấu tranh giữa linh hồn và thể xác là để đạt tới sự hòa hợp, thống
nhất, để con người làm chủ bản thân và hoàn thiện nhân cách.
Vấn đề quan hệ giữa linh hồn và thể xác có thể khiến chúng ta suy nghĩ về mối quan hệ giữa nội dung và
hình thức trong mỗi sự vật của đời sống .Khi nội dung và hình thức phù hợp với nhau thì sự vật tồn tại và phát
triển và ngược lại sẽ kìm hãm sự phát triển. Hình thức là phương tiện để biểu hiện nội dung, cịn nội dung đóng
vai trị chủ đạo quyết định ý nghĩa tồn tại của hình thức. Sự vật ln ln thống nhất giữa hình thức và nội dung,
cũng như con người cần có sự hài hịa giữa thể xác và linh hồn .
Tóm lại, qua cuộc đối thoại trên, tác giả muốn gửi đến người đọc thông điệp: được sống làm người quý giá
thật, nhưng được sống đúng là mình, sống trọn vẹn những giá trị mình vốn có và theo đuổi càng quý hơn. Sự
sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên với sự hài hòa giữa thể xác và tâm hồn. Con
người phải luôn biết đấu tranh với nghịch cảnh, với chính bản thân, chống lại sự dung tục, để hoàn thiện nhân
cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý .
Câu 2: Phân tích tác phẩm: “Chiếc thuyền ngồi xa” của Nguyễn Minh Châu để thấy được mối quan hệ
<b>giữa hiện thực cuộc sống và tác phẩm nghệ thuật,cảm quan của người nghệ sĩ.</b>
HỌC SINH TỰ NÊU MỞ BÀI
Trong tác phẩm nghệ thuật, cả đối tượng biểu hiện,hình thức, ý tưởng đều hướng tới cái đẹp. Vì thế trong tác
phẩm, chuyến đi của nhân vật Phùng, q rình khổ cơng truy tìm cái đẹp của Phùng-muốn chụp được một bức
ảnh đẹp để đời cũng là quá trình sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ đích thực: ln muốn tìm đến cái đẹp
hồn thiện, hồn mĩ mang tính chất lí tưởng trong tác phẩm nghệ thuật. Cái đẹp trong nó đã bao hàm cái thiện:
“bản thân cái đẹp chính là đạo đức”.
Bức ảnh mà Phùng chụp được sau nhiều ngày khổ cơng suy nghĩ, quan sát, tìm kiếm thực sự chứa đựng
trong đó thế giới của cái đẹp mà người nghệ sĩ hằng khao khát: sự dung dị, đơn giản, hài hòa, gợi cảm xúc và
suy tưởng sâu xa: “Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhịe vào bầu sương mù trắng như sữa, có pha đôi chút
màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên
chiếc mui khum khum đang hướng mặt vào bờ....Toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa,
một vẻ đẹp thật đơn giản và tồn bích,...”
Với bức ảnh ấy, người nghệ sĩ đã phát hiện ra nét cơ bản,quan trọng nhất của giới. Đó là sự gắn kết hài hòa
giữa sự sống, con người, thiên nhiên và nhất là hình ảnh của những con người trên chiếc thuyền đang tiến vào
bờ. Tồn bộ những hình ảnh ấy hàm chứa những ý nghĩ sâu xa, nhưng điều quan trong ở đây tác giả cho người
đọc thấy được khơng chỉ có một bức ảnh nghệ thuật tuyệt đẹp, mà dường như cuộc truy tìm chân lí, sự thực, cái
đẹp vẫn chưa kết thúc.
Bức ảnh đã hoàn tất nhưng sự thật đằng sau bức ảnh vẫn là điều cần khám phá. Khoảnh khắc mà người
nghệ sĩ nắm bắt được qua bức ảnh, không phải là khoảnh khắc dối lừa. Nhưng sự thật sau bức ảnh ấy là cả một
thế giới nhân sinh đầy nghịch lí. Để thấu hiểu được điều này, người nghệ sĩ phải tiếp tục khám phá cuộc sống,
khám phá sự thật ẩn sau cái khoảnh khắc mà anh đã chụp được. Đó chính là cái đích cuối cùng của nghệ thuật,
không chấp nhận cái đẹp nửa vời, hời hợt.
kịch ấy được phơi bày ngay trên bãi cát, nơi con thuyền neo đậu, ngay dưới ánh ban mai màu hồng. Bi kịch ấy
Sau toàn bộ những xung đột dữ dội tưởng chừng như khơng thể dung hịa, khơng thể chấp nhận được là
bản chất sâu xa của đời sống. Cuộc vẫt lộn và giằng co trên bãi cát, trong mắt Phùng-người nghệ sĩ chụp ảnh
con thuyền trong sương sớm, hiển nhiên là sự bạo hành chế ngự của cái ác, cái bạo lực. Cái thế giới nhân sinh
ấy tương phản hoàn toàn với thế giới nghệ thuật mà anh vừa chụp được trong bức ảnh. Nhưng thực chất hai thế
giới ấy không tách rời nhau. Tồn bộ những gì xảy ra trên bãi cát chỉ là một chiều khác của bức ảnh, của những
cảnh tượng mà người nghệ sĩ vừa nắm bắt được.
Cuộc đối thoại giữa vị chánh án với người đàn bà, người nghệ sĩ với người đàn bà lại mở ra một chiều
nữa của cuộc sống hiện thực. Xuất phát từ cái nhìn một chiều, vị chánh án đã đưa ra một giải pháp đơn giản để
giải quyết xung đột gia đình hàng chài. Yêu cầu người đàn bà li hôn. Nhưng điều bất ngờ với tất cả vị chánh án
và người nghệ sĩ nhíêp ảnh Phùng là người đàn bà hàng chài nhất định không chịu từ bỏ người đàn ông vũ phu,
kẻ đã hành hạ mình.
Cái chân lí cuộc sống đầy bi thảm ẩn chứa đằng sau điều này vượt quá tư duy một chiều của vị chánh
án, cũng như cái nhìn cịn đầy mơ hồ lãng mạn của người nghệ sĩ. Với người đàn bà,với những đứa con trên
thuyền, sự sống còn là điều quan trọng nhất. Vì sự sống cịn ấy, vì cái đích cuối cùng của mưu sinh là miếng
cơm, manh áo, người đàn bà chấp nhận mọi đau khổ, chấp nhận sự hành hạ của ông chồng. Sự thật ấy hiển
nhiên khơng phải là cái đẹp tồn bích mà người nghệ sĩ muốn hướng tới, nhưng nó vẫn tồn tại, chừng nào con
người còn phải vật vã với cuộc mưu sinh, cịn phải dẫm đạp lên nhau mà sống. Đó là điều mà nhiếp ảnh Phùng
khám phá được. Với khám phá này, Phùng càng hiểu rõ hơn nhiều mặt khác nhau của cuộc sống.
Tóm lại, Qua tác phẩm cho ta thấy được một quan niệm đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con
người: một cách nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngồi của hiện thực. Bởi
nghệ thuật khơng chấp nhận cái nhìn đơn giản, dễ dãi, dù hình thức của nó có thể được biểu hiện ra thật dung dị
đơn sơ như cảnh tượng con thuyền trên bãi cát trong ánh bình minh của truyện ngắn này.
Câu 3:Phân tích tác phẩm: “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu
<b>HỌC SINH VIẾT PHẦN MỞ BÀI</b>
<b> Phát hiện thứ nhất đầy thơ mộng của ngời nghệ sĩ nhiếp ảnh . "Trớc mặt tôi là một bức tranh mực tàu .... tơi</b>
tởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự hồn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần
của tâm hồn". Đôi mắt tinh tờng, "nhà nghề” của ngời nghệ sĩ đã phát hiện vẻ đẹp “trời cho” trên mặt biển mờ
s-ơng, vẻ đẹp mà cả đời bấm máy anh chỉ gặp một lần. Ngời nghệ sĩ cảm thấy hạnh phúc - đó là niềm hạnh phúc
của khám phá và sáng tạo, của sự cảm nhận cái đẹp tuyệt diệu . Trong hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa giữa biển
trời mờ sơng, anh đã cảm nhận cái đẹp tồn bích, hài hồ, lãng mạn của cuộc đời, thấy tâm hồn mình đ ợc thanh
lọc.
Phát hiện thứ hai đầy nghịch lí của ngời nghệ sĩ nhiếp ảnh. Ngời nghệ sĩ đã tận mắt chứng kiến: từ chiếc
thuyền ng phủ đẹp nh trong mơ bớc ra một ngời đàn bà xấu xí, mệt mỏi và cam chịu; một lão đàn ông thô kệch,
dữ dằn, độc ác, coi việc đánh vợ nh một phơng cách để giải toả những uất ức, khổ đau... Đây là hình ảnh đằng
sau cái đẹp “tồn bích, tồn thiện” mà anh vừa bắt gặp trên biển. Nó hiện ra bất ngờ, trớ trêu nh trò đùa quái ác
của cuộc sống.Chứng kiến cảnh ngời đàn ơng đánh vợ một cách vơ lí và thô bạo, Phùng đã “kinh ngạc đến mức,
trong mấy phút đầu .... vứt chiếc máy ảnh xuống đất, chạy nhào tới”. Hành động đó nói lên nhiều điều.
Về ngời đàn bà vùng biển: Tác giả gọi một cách phiếm định “ngời đàn bà”. Điều tác giả gây ấn tợng chính
là số phận của chị. Ngồi 40, thơ kệch, mặt rỗ, xuất hiện với “khuôn mặt mệt mỏi”, ngời đàn bà gợi ấn tợng về
một cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, nhiều cay đắng. Bà thầm lặng chịu mọi đau đớn khi bị chồng đánh không kêu
một tiếng, không chống trả, không trốn chạy, “tình thơng con cũng nh nỗi đau, sự thâm trầm trong cái việc hiểu
thấu các lẽ đời hình nh mụ chẳng để lộ ra bên ngoài”.... - Một sự cam chịu đáng chia sẻ, cảm thơng. Thấp thống
trong ngời đàn bà ấy là bóng dáng bao ngời phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha.
Câu chuyện của của ngời đàn bà ở toà án huyện Là câu chuyện về sự thật cuộc đời, nó giúp những ng ời nh
Phùng, Đẩu hiểu rõ nguyên do của những điều tởng nh vơ lí. Nhìn bề ngồi, đó là ngời đàn bàn quá nhẫn nhục,
cam chịu, bị đánh đập... mà vẫn nhất quyết gắn bó với lão chồng vũ phu. Nhng tất cả đều xuất phát từ tình thơng
vơ bờ đối với những đứa con. Trong đau khổ triền miên, ngời đàn bà ấy vẫn chắt lọc những niềm hạnh phúc nhỏ
nhoi....
Qua câu chuyện của ngời đàn bà làng chài, tác giả giúp ngời đọc hiểu rõ: khơng thể dễ dãi, đơn giản trong việc
ngời của cuộc sống khốn khổ, vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ cho ng ời thân của mình. Phải làm sao để
nâng cao cái phần thiện, cái phần ngời trong những kẻ thô bạo ấy.
<b> Chị em thằng Phác: Bị đẩy vào tình thế khó xửa khi ở trong hoàn cảnh ấy. ChÞ th»ng</b>
Phác, một cơ bé yếu ớt mà can đảm, đã phải vật lộn để tớc con dao trên tay thằng em trai, ngăn em làm việc trái
luân thờng đạo lí. Cơ bé là điểm tựa vững chắc của ngời mẹ đáng thơng, cô đã hành động đúng khi cản đợc việc
làm dại dột của đứa em, lại biết chăm sóc, lo toan khi mẹ phải đến tồ án huyện. Thằng Phác thơng mẹ theo kiểu
một cậu bé con còn nhỏ, theo cái cách một đứa con trai vùng biển. Nó “lặng lẽ đa mấy ngón tay khẽ sờ trên
khn mặt ngời mẹ, nh muốn lau đi những giọt nớc mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chặng chịt”, “nó tuyên bố
với các bác ở xởng đóng thuyền rằng nó cịn có mặt ở dới biển này thì mẹ nó khơng bị đánh”. Hình ảnh thằng
Phác khiến ngời đọc cảm động bởi tình thơng mẹ dạt dào.
Ngời nghệ sĩ nhiếp ảnh: Vốn là ngời lính thờng vào sinh ra tử, Phùng căm ghét mọi sự áp bức, bất công,
sẵn sàng làm tất cả vì điều thiện, lẽ cơng bằng. Anh xúc động ngỡ ngàng trớc vẻ đẹp tinh khôi của thuyền biển
lúc bình minh. Một ngời nhạy cảm nh anh tránh sao khỏi nỗi tức giận khi phát hiện ra sự bạo hành của cái xấu,
cái ác ngay sau cảnh đẹp huyền ảo trên biển. Hơn bao giờ hết, Phùng hiểu rõ: trớc khi là một nghệ sĩ biết rung
động trớc cái đẹp, hãy làm một ngời biết yêu ghét vui buồn trớc mọi lẽ đời thờng tình, biết hành động để có một
cuộc sống xứng đáng với con ngời.
Cách xây dựng cốt truyện độc đáo :Trong tác phẩm, đó là sự kiện Phùng chứng kiến lão đàn ông đánh vợ
một cách tàn bạo. Trớc đó, anh nhìn đời bằng con mắt của ngời nghệ sĩ rung động, say mê trớc vẻ đẹp huyền
ảo-thơ mộng của thuyền biển. Trong giây phút tâm hồn thăng hoa những cảm xúc lãng mạn, Phùng phát hiện ra
hiện thực nghiệt ngã của đôi vợ chồng bớc ra từ con thuyền “thơ mộng” đó.
Tình huống đó đợc lặp lại lần nữa: bên cạnh hình ảnh ngời đàn bà nhẫn nhục chịu đựng “đòn chồng”, Phùng còn
đợc chứng kiến phản ứng của chị em thằng Phác trớc sự hung bạo của cha đối với mẹ. Từ đó, trong ngời nghệ sĩ
đã có sự thay đổi cách nhìn đời. Anh thấy rõ những cái ngang trái trong gia đình thuyền chài, hiểu sâu thêm tính
Túm lại, Vẻ đẹp của ngịi bút Nguyễn Minh Châu là vẻ đẹp tốt ra từ tình yêu tha thiết đối với con ngời. Tình
yêu ấy bao hàm cả khát vọng tìm kiếm, phát hiện, tơn vinh những vẻ đẹp con ngời cịn tiềm ẩn, những khắc
khoải, lo âu trớc cái xấu, cái ác. Đó cũng là vẻ đẹp của một cốt cách nghệ sĩ mẫn cảm, đôn hậu, điềm đạm chiêm
nghiệm lẽ đời để rút ra những triết lí nhân sinh sâu sắc. Chiếc thuyền ngoài xa là một trong số rất nhiều tác phẩm
của Nguyễn Minh Châu đã đặt ra những vấn đề có ý nghĩa với mọi thời, mọi ngời.
<b>Câu 4: Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong truyện ngắn: “Vợ chồng A Phủ”-Tơ Hồi</b>
<b>( từ khi Mị bị bắt làm con dâu gạt nợ đến khi trốn khỏi Hồng Ngài </b>
HỌC SINH TỰ NÊU MỞ BÀI
Mị là một ngời con gái đẹp, một vẻ đẹp mang tính thuần nhất với vẻ đẹp trong văn chơng. Mị có nhan sắc,
và có khả năng âm nhạc, khơng có đàn tì bà, khơng có nguyệt cầm thì cơ giỏi sáo và giỏi “uốn chiếc lá trên môi,
thổi lá cũng hay nh thổi sáo”. Mà tài năng âm nhạc, cũng theo truyền thống thờng hé mở một tâm hồn tràn đầy
khát khao cuộc sống, khát khao yêu đơng. Quả thế, Mị đã đợc yêu, và đã khát khao yêu, trái tim từng đã bao
nhiêu lần hồi hộp trớc trớc âm thah hò hẹn của ngời yêu.
Nhng ngời con gái tài hoa miền sơn cớc đó phải chịu một cuộc đời có thể nói là bạc mệnh. Để cứu nạn
cho cha, cuối cùng cơ đã chịu bán mình, chịu sống cảnh làm ngời con dâu gạt nợ trong nhà thống lí.
Tơ Hồi đã khơng qn diễn tả nỗi cực nhọc về thể xác của ngời con gái ấy, con ngời với danh nghĩa là
con dâu, nhng thực chất chính là tơi tớ . Thân phận Mị không chỉ là thân trâu ngựa, “Con trâu con ngựa làm cịn
có lúc, đêm nó còn đợc đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái ở cái nhà ngày thì vùi vào việc làm cả ngày
lẫn đêm”.
Song nhà văn xem ra vẫn thông cảm nhiều hơn với nỗi đau khổ về tinh thần. Chính cảm xúc về nỗi đau
thinh thần ấy đã giúp ông sáng tạo ra những ngôn từ, những hình ảnh khó qn: Một cơ Mị mới hồi nào cịn rạo
rực yêu đơng, bây giờ lạng câm, “lùi lũi nh con rùa ni trong xó cửa” . Và nhất là hình ảnh căn buồng Mị, kín
mít với cái cửa sổ lỗ vng bằng bàn tay, Mị ngồi trong đó trơng ra lúc nào cũng thấy mờ mờ trăng trắng không
biết là sơng hay là nắng. Đó quả thực là một thứ địa ngục trần gian giam hãm thể xác Mị, cách li tâm hồn Mị với
cuộc đời, cầm cố tuổi xuân và sức sống của cơ. Rõ ràng tiếng nói tố cáo chế độ phong kiến miền núi ở đây đã đ
-ợc cất lên nhân danh quyền sống. Cái chế độ ấy đáng lên án, bởi vì nó làm cạn khô nhựa sống, làm tàn lụi đi
ngọn lửa của niềm vui sống trong những con ngời vô cùng đáng sống.
Nh vậy sức sống của Mị đã vĩnh viễn mất đi ? Không phải thế, bên trong cái hình ảnh con rùa lầm lũi kia
dang cịn một con ngời. Khát vọng hnạh phúc có thể bị vùi lấp, bị lãng quyên trong đáy sâu của một tâm hồn đã
chai cứng vì đau khổ, nhng khơng thể bị tiêu tan. Gặp thời cơ thuận lợi thì nó lại cháy lên từ lớp tro tàn. Và nó,
cái khát vọng hạnh phúc đó đã bất chợt cháy lên, thật nồng nàn và xót xa trong một đêm xuân đầy ắp tiếng gọi
của tình u.
Có thể nói cuộc nổi loạn lần thứ nhất trong tâm hồn Mị là đoạn văn thử thách thực sự ngịi bút của Tơ
Hồi. Làm sao có thể cắt nghĩa đợc vì lí do gì mà cơ Mị của ngày xa, cơ Mị đầy xn tình xn sắc lại bỗng dng
thức dậy trong ngời đàn bà âm thầm, chịu đựng mỏi mòn đúng vào, và chỉ đúng vào cái đêm tình mùa xuân ấy ?
Làm sao con ngời đã chôn vùi cả tuổi thanh xuân trong gian buồng kín mít chỉ có cái lỗ vng nhỏ mờ mờ trăng
trắng kia suốt từng ấy năm trời, vào đúng đêm ấy lại muốn vùng lên, nảy sinh ý định đi chơi xuân ? Nguyên do
là bởi đất trời ? Quả thực bức tranh Hồng Ngài mùa xuân năm ấy có sức làm say đắm lòng ngời, ngất ngây tâm
hồn tuổi trẻ. Song gió rét, sắc vàng ửng của cỏ tranh, hay sự biến đổi màu sắc kì ảo của các lòa hoa đẹp cha hẳn
đã đủ để làm nên cuộc nổi loạn trong một tâm hồn đã bấy nhiêu năm tê dại vì đau khổ. Cần phải có những tác
nhân khác nữa, mạnh mẽ hơn, có sức lơi cuốc Mị ra khỏi hiện tại để Mị trở về với chính mình của xa xa: phơi
phới, trẻ trung, yêu đời.
Tác nhân ấy, theo Tơ Hồi trớc hết phải là hơi rợu. Ngày tết năm đó Mị cũng uống rợu, Mị lén uống từng
bát, “uống ừng ực” rồi say đến lịm ngời đi. Cái say cùng lúc vừa gây sự lãng quên vừa đem về nỗi nhớ. Mị lãng
quên thực tại (nhìn mọi ngời nhảy đồng, ngời hát mà không nghe, không thấy và cuộc rợu tan lúc nào cũng
không hay) nhng lại nhớ về ngày trớc (ngày trớc, Mị thổi sáo cũng giỏi…), và quan trọng hơn là Mị vẫn nhớ
Nhng tác nhân có tác dụng nhiều nhất trong việc dìu hồn Mị bềnh bồng về với những khát khao hạnh
phúc yêu đơng có lẽ vẫn là tiếng sáo bởi tiếng sáo là tiếng gọi của mùa xuân, của tình yêu và tuổi trẻ. Tiếng sáo
lúc đầu đã có tình cảm lắm, nhng cịn vọng lại từ xa, mãi từ ngồi đầu núi, và Mị vẫn còn đủ tỉnh táo để để nhẩm
theo lời hát. ít lâu sau, tai Mị lại vẳng tiếng sáo, nhng khơng cịn vẳng từ ngồi đầu núi xa nữa mà là tiếng sáo
gọi bạ đầu làng. Rồi đến lúc tiếng sáo không chỉ là gọi bạn. Nó gọi bạn u. Và nó “lửng lơ bay ngồi đờng” ,
nh tình ai khơng thể tan, nh lịng ai đợi chờ, hờn trách. Để rồi cuối cùng tiếng sáo rập rờn trong đầu Mị, nó đã trở
nên tiếng lịng của ngời thiếu phụ.
Tơ Hồi đã đặt Mị trong sự tơng giao giữa một bên là sức sống tiềm tàng với một bên là cảm thức về thân
phận. Cho nên trong thời khắc âý, ta mới thấy Mị đầy rẫy những mâu thuẫn. Lòng phơi phới nhng Mị vẫn theo
quán tính bớc vào buồng, ngồi xuống giờng, trơng ra cái lỗ vng mờ mờ trăng trắng. Và khi lịng ham sống trỗi
dậy thì ý nghĩ đầu tiên là đợc chết ngay đi.
Nhng rồi nỗi ám ảnh và sức sống mãnh liệt của tuổi xuân cứ lớn dần , cho tới khi nó lấn chiếm hẳn trọn bộ tâm
hồn và suy nghĩ của Mị, cho tới khi Mị hồn tồn chìm hẳn vào trong ảo giác: “Mị muốn đi chơ . Mị cũng sắp đi
chơi”. Phải tới thời điểm đó Mị mới có hành động nh một kẻ mộng du: quấn lại tó , với thêm cái váy hoa, rồi rút
thêm cái áo. Tất cả những việc đi, Mị đã làm nh trog một giấc mơ, tuyệt nhiên khơng nhìn thấy A Sử bớc vào,
không nghe thấy A Sử hỏi”.
Rồi cái gì đến đã đến. A Sử trói Mị vào cột, rồi lẳng lặng khốc thêm vịng bác đi chơi, bỏ mặc Mị trong
trạng thái mộng du đang chìm đắm với những giấc mơ về một thời xuân trẻ, đang bồng bềnh trong cảm giác du
xuân. Tâm hồn Mị đang còn sống trong thực tại ảo, sợi dây trói của đời thực cha thể làm kinh động ngay lập tức
giấc mơ của kẻ mộng du. Cái cảm giác về hiện tại tàn khốc, Mị chỉ cảm thấy khi vùng chân bớc theo tiếng sáo
mà tay chân đau không cựa đợc. Nhng nếu cái mơ khơng đến một lần nữa thì sự tỉnh ra cũng vậy. Lại một giai
đoạn chập chờn nữa giữa cái mơ và cái tỉnh, giữa tiếng sáo và nỗi đau nhức của dây trói và tiếng con ngựa đạp
vách, nhai cỏ, gãi chân. Nhng bây giờ thì theo chiều ngợc lại, tỉnh dần ra, đau đớn và tê dại dần đi, để sáng hôm
sau lại trở về với vị trí của con rùa ni trong câm lặng, mà cịn câm lặng hơn trớc.
Nhng có lẽ sức sống của Mị bùng lên mạnh mẽ nhất là lúc Mị cởi trói cho A Phủ. Cũng nh Mị, A Phủ là
nạn nhân của chế độ độc tài phong kiến miền núi. Những va chạm mang đầy tính tự nhiên của lứa tuổi thanh
niên trong những đêm tình mùa xuân đã đa A Phủ trở thành con ở gạt nợ trong nhà thống lí. Và bản năng của
một ngời con vốn sống gắn bó với núi rừng, ham thích săn bắn đã đẩy A Phủ tới hiện thực phũ phàng: bị trói
đứng. Và chính hồn cảnh bi thơng đó đã đánh thức lịng thơng cảm trong con ngời Mị. Nhng tình thơng đó
khơng phải tự nhiên bùng phát trong Mị mà là kết quả của một quá trình đấu tranh giằng xé trong thế giới nội
tâm của cô. Mấy hôm đầu Mị vô cảm, thờ ơ với hiện thực trớc mắt: “A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế
thơi”. Câu văn nh một minh chứng sự tê dại trong tâm hồn Mị. Bớc ngoặt bắt đầu từ những dòng nớc mắt :“Đêm
ấy A Phủ khóc. Một dịng nớc mắt lấp lánh bò xuống hai lõm má đã xạm đen”. Và giọt nớc mắt kia là giọt nớc
cuối cùng làm tràn đầy cốc nớc. Nó đa Mị từ cõi quên trở về với cõi nhớ. Mị nhớ mình đã từng bị trói, đã từng
đau đớn và bất lực. Mị cũng đã khóc, nớc mắt chảy xuống cổ, xuống cằm khơng biết lau đi đợc. A Phủ, nói đúng
hơn là dịng nớc mắt của A Phủ, đã giúp Mị nhớ ra mình, xót thơng cho mình.
con ngời nh đợc thổi bùng lên trong Mị, kết hợp với nỗi sợ hãi, lo lắng cho mình. Mị nh tìm lại đợc con ngời
thật, một con ngời còn đầy sức sống và khát vọng thay đổi số phận.
Nhà văn Tơ Hồi đã viết về Mị, A Phủ với tất cả lòng u thơng, thơng cảm, và chỉ có lịng u thơng
thơng cảm, Tơ Hồi mới phát hiện ra vẻ đẹp tiềm tàng trong tâm hồn những con ngời ham sống nh Mị, nh A Phủ.
<b>Caõu 5: Phaõn tớch hỡnh tửụùng caõy xaứ nu trong taực phaồm: “Rửứng xaứ nu”-Nguyeón Trung Thaứnh</b>
<b> </b>
Nguyễn Trung Thành có sở trờng viết về đề tài Tây Nguyên, vùng đất đã quen thuọc với ông từ ngày viết
Đất nớc đứng lên. Nay lai đợc trở về với vùng đất ấy, tác giả gặp lại cái màu xanh bạt ngàn của núi rừng, đặc biệt
là rừng xà nu chạy tít tắp tới tận chân trời. Nhà văn đã từng thốt lên: Tôi yêu say mê cây xà nu, rừng xà nu từ đó.
Bởi vậy cây xà nu trở thành ấn tợng mạnh gợi cảm hứng sáng tác cho nhà văn, và nhan đề tác phẩm ra đời từ đó.
Xà nu, một loại cây họ thông mọc thành rừng, man dại mà trong sạch, hùng vĩ mà cao th ợng. Thân cây
cao vút, vạm vỡ, rắn rỏi, ứ nhựa, tán lá vừa thanh nhã, rừng xà nu gồm hàng vạn, hàng triệu cây nối tiếp nhau vô
Cây xà nu có ý nghĩa quan trọng trong đời sống sinh hoạt hàng ngày của đồng bào Tây Nguyên mà cụ
thể là dân làng Xô Man từ ngàn đời nay: Ngọn lửa xà nu trong bếp của mỗi nhà, ngọn đuốc xà nu soi sáng từng
đêm, đống lửa xà nu ở nhà cụ Mết trong đêm tụ họp dân làng đón chào Tnú trở về... rồi xà nu tham gia vào
những sự kiện trọng đại của làng Xô Man: Dới ánh lửa xà nu ngời dân Xơ Man đêm đêm mài vũ khí chuẩn bị
kháng chiến... Truyện có đến hơn hai mơi lần nhắc đến rừng xà nu ở nhiều góc độ khác nhau. Nh vậy khơng có
cây nào đúng và tiêu biểu cho vóc dáng, cho sức mạnh của dân làng Xô Man bằng cây xà nu. Tên tác phẩm đã
cô đúc chủ đề tác phẩm, mang ý nghĩa khái quát cao, giàu chất lãng mạn, chất thơ hùng vĩ của núi rừng Tây
Nguyên.
Trong tác phẩm Nguyễn Trung Thành đã đồng nhất hình tợng cây xà nu với hình thợng dân làng Xơ Man
u nớc. Xà nu cũng nh dân làng chịu nhiều đau thơng. Những ngày cách mạng Việt Nam cịn chìm trong bão tố
chiến tranh, dân làng Xô Man cũng nh rừng xà nu cùng chung số phận: Làng ở trong tầm đại bác của giặc,
chúng nó bắn đã thành lệ hai lần mỗi ngày... Sự sống nằm trong sự huỷ diệt của bạo tàn, của bom đạn chiến
tranh. Do vậy cả rừng xà nu không cây nào không bị thơng. Có nhiều cây xà nu bị đạn chặt đứt làm đơi, gục ngã
nhng cũng có cây xà nu chỉ để lại vết thơng nhẹ, chóng lành. Cũng nh xà nu, những con ngời Xô Man, thân thể
và trái tim họ đầy thơng tích. Cũng có những đời ngời nh những cây xà nu bị chặt đứt tuổi xuân. Mai ngã xuống
khi hạnh phúc lứa đơi và tình u tuỏi trẻ đang tràn trề... Đó là chuỗi ngày đau thơng của ngời dân làng Xô Man,
những quần chúng bị giết vì ni cán bộ. Anh Suốt bị giết, bà Nhan bị chặt đầu... lng Tnú ngang dọc những vết
dao, mời đầu ngón tay anh bị kẻ thù thiêu cháy. Những ngời con u tú đã ngã xuống: anh Quyết, Mai, cả đứa con
thân yêu của Tnú... nhng cũng nh cây xà nu niềm tin bất diệt vào cuộc sống đã giúp họ vơn lên, vợt qua đau
th-ơng để chờ đón ngày ngày hạnh phúc.
Nguyễn Trung Thành lấy hình tợng cây xà nu đặt trong mối tơng quan mật thiết với con ngời không phải
chỉ là gần gũi trong đời sóng sinh hoạt. Rừng xà nu cịn là hiện thân của sức sỗng mãnh liệt và bất diệt. Bản năng
tự bảo tồn và sự thèm khát vơn tới bầu trời và ánh sáng đã khiến rừng xà nu chiến thắng đợc sự huỷ diệt của đạn
bom. Nghĩa là tại một nơi mà sự sống và cái chết đối diện nhau, sự sống vẫn bất diệt ngay trong sự huỷ diệt.
Cũng giống nh lịch sử của dân làng Xô Man, đó là lịch sử của sự sống khơng bao giờ bị dập tắt, một t thế sống
không hề biết cúi đầu. Thanh niên khơng thể ni cán bộ thì cụ già, và khi cụ già ngã xuống thì đến lợt Mai,
Bên cạnh đó cây xà nu cịn là loại cây ham ánh sáng, ham khí trời cũng giống nh dân làng Xơ Man u
thích tự do. Họ biết u thơng gắn bó với quê hơng, gắn bó với cách mạng, một lòng theo Đảng, theo Bác Hồ :
Đảng còn, Bác Hồ còn là đất nớc này còn , Suy nghĩ của họ đơn sơ là vậy nhng chân thật. Các thế hệ dân làng
Xô Man, từ những ngời cao tuổi nh cụ Mết vẫn khoẻ mạnh, quắc thớc, rắn chắc nh một cây xà nu lớn, hay những
lớp thanh niên trẻ hơn, những lớp mang non đều nỗ lực vơn lên, vợt qua sự huỷ diệt nh những cây xà nu lao vút
lên bầu trời nhọn hoắt nh những mũi lê.
Lấy hình tợng cây xà nu và sức sống mãnh liệt của nó, Nguyễn Trung Thành khắc hoạ sâu hơn tính cách
con ngời Tây Nguyên: anh dũng, kiên cờng. Cây xà nu trở thành hình ảnh ẩn dụ, trở thành biểu tợng cho sức
sống mới và từ đó những con ngời hiện lên chói ngời ý chí đấu tranh và khát vọng hớng tới cuộc sống.
<b>Câu 6 : Phân tích hình tượng nh©n vËt Tnĩ .</b>
phục dù tàn bạo có hiện hình trong mũi súng hay lỡi dao chém ngang dọc trên lng. Ngay từ nhỏ anh đã là ngời
gan dạ, dám đi tiếp tế lơng thực cho cán bộ, làm liên lạc cho cán bộ từ xã lên huyện. Và cũng từ đấy Tnú bộc lộ
một trí tuệ hơn ngời. “Nó khơng thích lội nớc chỗ êm cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi, vợt lên mặt nớc, cỡi lên thác
băng băng nh con cá kình” bởi theo Tnú “Qua chỗ nớc êm thàng Mĩ - Diệm hay phục, qua chỗ nớc mạnh nó
khơng ngờ”. Sức mạnh của Tnú còn đợc hun đúc bởi một tình u lớn của một ngời con gái ln ln hiền dịu,
nhợng nhìn. Vậy mà bằng ấy cái có , Tnú đã không cứu dợc mẹ con Mai khỏi bị kẻ thù giết hại. Mái ấm gia đình
từng là mơ ớc của biết bao đôi thanh niên ấy bỗng chốc tan nát bởi sự tàn ác của kẻ thù. Tnú không cứu đ ợc vợ,
đợc con, đau đớn hơn chính bản thân anh cũng trở thành nạn nhân của sự bạo tàn mà kẻ thù đang sử dụng. Vì
sao vậy ? Vì Tnú cũng chỉ có tay khơng giữa qn thù đầy vũ khí . Hình ảnh mời đầu ngón tay rừng rực cháy bởi
nhựa xà nu nh mời ngọn đuốc khơng chỉ có ý nghĩa tố cáo tội ác qn thù hay nói lên lịng dũng cảm của ngời
chiến sĩ cách mạng mà cịn nói lên một chân lí sâu sắc và tàn nhẫn: khi một Tnú có ý chí mà tay khơng thì ngay
thứ nhựa xà nu thân thiết cái khối chất thơm ngào ngạt và nh đọng nắng quê hơng kia cũng có thể trở thành ngọn
Tnú khơng cứu đợc mẹ con Mai… Lời cụ Mết vang lên “Mày nhớ không Tnú, mày không cứu đợc vợ
mày…Tau không nhảy ra cứu mày. Tau cũng chỉ có hai bàn tay khơng”. Những lời ấy của cụ Mết nh một minh
chứng cho qui luật: không thể chiến đấu với quân thù bằng tay khơng và lịng căm thù mù qng. Chỉ cịn cách
cầm vũ khí, lúc đó lửa xà nu sẽ tắt trên bàn tay của Tnú. Lửa xà nu chỉ còn soi xác giặc ngổn ngang. Núi rừng
Xô Man sẽ ào ào rung động. “Tiếng chuông nổi lên… và lửa cháy khắp rừn… Nghe rõ cha các con, rõ cha. Nhớ
lấy, ghi lấ . Sau này tau chết rồi, bay còn sống phải nói lại cho con cháu: Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm
giáo…”. Đó là một chân lí lớn của cách mạng miền Nam: phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực
phản cách mạng.
Và có lẽ việc Tnú đi lực lợng cũng bắt nguồn từ lí tởng đó. Anh đi lực lợng để hiện thực hóa việc “cầm
giáo” mà cụ Mết truyền dạy và cũng để có điều kiện chiến đấu chống lại kẻ thù xâm lợc. Ra đi để trả thù nớc,
rửa thù nhà. Dù bàn tay anh mỗi ngón chỉ cịn hai đốt, nhng cử động đợc có nghĩa là cầm súng đợc. Anh đi bộ
đội, trở thành tấm gơng lớn soi sáng cả một thế hệ ở làng Xô Man. Đối với dân làng, Tnú là một biểu tợng cho
sức mạnh, niềm tin và ý chí. Bên cạnh cụ Mết, ngời cha tinh thần, Tnú là hiện thân của những khát vọng vơn lên.
Mỗi một việc làm của anh đều đem lại sự nhận thức cho mọi lứa tuổi. Anh về thăm quê, cấp trên cho chỉ có một
đêm, mặc dù nhớ làng bản, nhớ ngời thân nhng anh vẫn vui vẻ bởi có chấp hành nghiêm túc nội qui quân đội
mới là Tnú. Chính những lúc vui vẻ nhất, anh định đùa nhng những ánh mắt chờ đợi của mọi ngời anh lại thơi.
Bởi ở anh một lời nói, một hành động đều có thể để lại một tầm ảnh hởng không nhỏ đến đời sống và tinh thần
của ngời dân Xô Man.
Cuộc đời Tnú, cuộc đời gắn liền với những đau thơng mà không chỉ riêng anh gánh chịu. Cái đau đớn
mang trên thân xác Tnú là hiện hữu cái đau thơng của dân làng Xô Man trong chiến tranh. Cùng với hình tợng
cây xà nu, Nguyễn Trung Thành một lần nữa lên án sự tàn bạo của kẻ thù, đồng thời nhấn mạnh khát vọng của
con ngời, hớng tới tới tơng lai và ánh sáng. Khắc sâu thêm một chân lí, cũng là lời phán quyết thiêng liêng của
lịch sử: Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo.
Khi xây dựng nhân vật Tnú, Nguyễn Trung Thành đặc biệt dụng công miêu tả đôi bàn tay của anh. Từ
đôi bàn tay này, ngời đọc có thể thấy hiện lên khơng những cả cuộc đời mà cả những tính cách của nhân vật. Khi
Nh vậy, có thể nói bàn tay Tnú đợc miêu tả trải dài theo suốt cả câu chuyện. Dờng nh mọi nét tính cách
cũng nh số phận và chiến cơng của Tnú đều gắn liền với hình ảnh hai bàn tay ấy.
Cũng nh nhiều nhân vật văn học thời chống Mĩ, Tnú đợc xây dựng bằng bút pháp lãng mạn, giầu chất lí
tởng. Qua nhân vật này Nguyễn Trung Thành muốn thể hiện một số phận nhất là con đờng của nhân dân Tây
Nguyên, nhân dân Miền nam trong quá trình đấu tranh giải phóng.
<b> </b>
<b>CÂU 7: Nhân vật trong “Rừng Xà Nu” của Nguyễn Trung Thành đều là những con người kiên</b>
<b>cường,bất khuất của núi rừng Tây Nguyên trong công cuộc chống Mĩ cứu nước,nhưng mỗi người lại</b>
<b>mang những nét riêng,những vẻ đẹp khó qn”. Phân tích vẻ đẹp của các nhân vật Tnu, cụ Mết, Dít,</b>
<b>bé Heng trong truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành để làm sáng tỏ ý kiến trên </b>
Nhân vật Tnú được tác giả khắc họa bằng những nét tính cách hết sức độc đáo, giàu chất sử thi. Trước
hết Tnú gắn bó với cách mạng. Từ nhỏ anh đã ni giấu cán bộ và hồn thành xuất sắc cơng tác giao liên.
Khi bị giặc bắt Tnu dũng cảm chịu đựng những đòn tra tấn của bọn giặc. Sau khi vượt ngục, anh cùng cụ
Mết tiếp tục lãnh đạo dân làng Xôman mài giáo, mài rựa chiến đấu chống kẻ thù.
Tnú là người giàu tình yêu thương. Anh yêu thiết tha bản làng. Sau ba năm chiến đấu trở về làng, anh
nhớ từng hàng cây, con đường, dòng suối, anh bồi hồi xúc động khi nghe âm thanh của tiếng chày chuyên
cần, rộn rã của những người đàn bà và những cô gái Strá, của mẹ anh ngày xưa, của Mai, của Dít.
Anh yêu thương vợ con tha thiết.không đi kontum mua vải được, anh xé tấm dồ để làm tấm choàng cho
Mai địu con. Chứng kiến cảnh kẻ thù man rợ dùng cây sắt hành hạ, đánh đập mẹ con Mai, nỗi đau thương
của Tnú dâng lên tột đỉnh. Anh lao vào lũ giặc với một tiếng thét thật dữ dội và anh dang hai cánh tay rộng
lớn như hai cánh lim chắc của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai.
Tnú cịn là người có tinh thần kỉ luật cao. Ba năm đi lực lượng, lòng nhớ quê hương, dân làng tha thiết
nhưng anh không tự ý bỏ về. Về làng anh xin giấy phép của cấp chỉ huy và trình cho cán bộ của làng (DÍT)
và dân làng xem. Và trở về đơn vị đúng hẹn.
Càng đau thương, Tnú càng căm thù giặc. Vợ con bị giết, lòng căm hận biến đôi mắt anh thành hai cục
lửa lớn. Khi bị giặc bắt, mười đầu ngón tay của Tnú bị đốt cháy, anh không kêu lên một tiếng nào (……)răng
anh đã cắn nát môi anh rồi.
Yêu thương, căm thù biến thành hành động. Tnú thét lên một tiếng. Chính nỗi đau xé lịng của anh đã
khiến anh cùng đồng bào dứt khoát đứng lên tiêu diệt cả một tiểu đội giặc hung ác. Riêng Tnú ra đi lực
lượng để quyết tiêu diệt mọi kẻ thù tàn ác để bảo vệ bản làng, giải phóng q hương.
<b>HS CHUYỂN YÙ</b>
Cụ Mết tiêu biểu cho truyền thống đấu tranh của làng Xôman. Lịch sử đấu tranh của làng, qua lời kể
của cụ, thắm sâu vào tim óc của các thế hệ. Cụ là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại,là pho sử sống của
làng.
Tấm lòng cụ Mết đối với cách mạng trước sau như một, cụ từng nói: “cán bộ là đảng, đảng còn, núi nước
này còn”. Trong những năm đen tối, cụ cùng dân làng từ thanh niên, đến ông già, lũ trẻ đi gác và nuôi cho
cán bộ, năm năm trời chưa có cán bộ bị bắt hay giết trong rừng làng này.
Cụ còn là linh hồn của làng Xơman. Chính cụ đã lãnh đạo dân làng đồng khởi. Hình ảnh ơng cụ mắt
sáng, xếch ngược, ngực căng như một cây xà nu lớn, cất tiếng nói vang vang như một mệnh lệnh tiến công,
thôi thúc họ vùng lên tiêu diệt kẻ thù,…thật rực rỡ như một trang sử thi anh hùng: “thế là bắt đầu rồi, đốt lửa
lên”. Từ ngày ấy ,dân làng Xôman vùng lên đấu tranh và làng Xơman trở thành làng chiến đấu.Như vậy,
đóng góp của cụ là khơng nhỏ trong cơng cuộc đấu tranh giải phóng dân làng, q hương.
<b>HS CHUYỂN Ý</b>
lịng rất vui mừng, Dít vẫn thực hiện kiểm tra giấy phep của anh, rồi từ chỗ gọi Tnú là đồng chí, Dít chuyển
sang gọi bằng anh, xưng em thật tự nhiên như người em gái nhỏ của Mai và Tnú ngày xưa và bày tỏ tình cảm
thân thiết: “sao anh về cĩ một đêm thơi ? (…..) bọn em miệng đứa nào cũng nhắc anh mãi”.
CHUYỂN Ý
Ngày Tnú đi lực lượng,bé Heng mới đứng ngang bụng anh, chưa biết mang củi, chỉ mới đeo cái xà-lét
nhỏ xíu theo người lớn ra rẫy. Ngày Tnú về phep,bé Heng trưởng thành với cách ăn mặc, trang bị ra vẻ một
người lính, một chiến sĩ du kích của bảng làng. Làng Xo6man giờ đây trở thành làng chiến đấu và con đường
vào làng phải qua hai cái dốc chằng chịt hằm bom, hố chơng,bé Heng đã góp phần khơng nhỏ vào việc thiết lập
những công sự này nên tỏ ra rất hãnh diện. Bé Heng tượng trưng cho cây xà nu mới lớn ngọn xanh rờn, hình
nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời, sẽ phát triển đến đâu chưa ai lường được.
HỌC SINH NÊU KẾT BÀI
<b>Câu 8: Nguyễn Tuân là một người yêu thiên nhiên tha thiết . Ơ ng có nhiều phát hiện hết sức tinh tế và</b>
<b>độc đáo về núi sơng cây cỏ trên đất nước mình. (Văn học 12,tập một). Hãy phân tích hình tượng con</b>
<b>sơng Đà trong tác phẩm “Người Lái Đị Sơng Đà” của Nguyễn Tuân để làm sáng tỏ ý kiến trên.</b>
Tác phẩm “Sông Đà” gồm 15 bài tùy bút là kết quả của chuyến đi thực tế Tây Bắc vào năm 1958
của Nguyễn Tuân, ông đã ghi nhận nhiều bức tranh sinh động và nhiều hình ảnh nghệ thuật đầy hấp dẫn
Nét đầu tiên mà người đọc thấy được ở con sơng Đà là tính hung bạo, hiểm ác, dữ dội, đó là những
thác nước gầm réo mn đời. Tiếng nước thác nghe như là ốn trách gì, rồi lại như là van xin, khiêu khích,
giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó gống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng
vầu, rừng tre nứa đang nổ lửa, với đàn trâu da cháy bùng bùng.
Con sông trở nên hung bạo hơn khi sóng nước reo hị làm thanh viện cho đá. Mặt nước hò la vang dậy
quanh mình ùa vào mà bẻ gãy cán chèo, có lúc chúng đội cả thuyền lên.
Cũng có những qng sơng đầy thác ghềnh, lịng sơng như bày một thạch trận trực nuốt chìm những
con thuyền non tay lái : “Mới thấy rằng đây nó bày thạch trận trên sơng, đám tản, đám hịn chia thành ba
hàng chặn ngang trên sơng địi ăn chết cái thuyền”.
Phép nhân hóa được tác giả tận dụng để tả thạch trận mà khúc sông đã bày ra theo một chiến thuật
hiểm ác: “vịng đầu vừa rồi nó mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh, cửa sinh này nằm lập lờ
phía tả ngạn sơng. Vịng thứ hai tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào và cửa sinh lại bố trí
qua phía bờ hữu ngạn”.
Tác giả sử dụng nhiều từ ngữ trong quân sự, võ thuật khi miêu tả ba vòng vi thạch trận:mai phục,
đánh địn tỉa, địn âm, đánh du kích, cửa tử, cửa sinh,...
Bên cạnh nét hung bạo, hiểm ác, con sơng Đà cịn hiện lên với nét hiền hòa thơ mộng, hai bờ sông
tràn ngập cảnh sắc tươi vui.
Con sông Đà thơ mộng được tác giả miêu tả từ trên cao xuống, nó đẹp như mái tóc của người đàn bà
kiều diễm: “con sơng Đà tn dài tn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây
trời Tây Bắc,…”. Nước sơng Đà thay đổi theo mùa: “mùa xn dịng xanh như ngọc bích, mùa thu nước sơng
sống mới đang bắt đầu,nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa, một đàn hươu cúi đầu ngốn bút cỏ
tranh đẫm sương đêm, đàn cá dầm xanh vẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi”.
Tóm lại, cái đẹp của con sơng Đà có khi do những nét hùng tráng dữ dội, có khi từ những nét mượt mà
êm dịu được thể hiện bằng một phong cách nghệ thuật đầy tài hoa của nhà văn. Chính vì thế mà tạo cho tác
phẩm giống như một áng thơ trữ tình bằng văn xi, đồng thời ca ngợi tổ quốc giàu đẹp, thể hiện niềm tin
vào cuộc sống mới đang diễn ra trên đất nước ta.
<b>Câu 9: Phân tích câu nói của cụ già Mết: “Nghe rõ ch ưa, các con, rõ chưa. Nhớ lấy, ghi lấy. Sau này ta o </b>
<b>chết rồi, bay còn sống phải nói lại cho con cháu: chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo !”</b>
- Ý nghĩa của câu nói:
Phải cầm vũ khí của mình khi kẻ thù đã cầm vũ khí.
Phải sử dụng bạo lực của chính nghĩa để đáp lại bạo lực phi nghĩa của quân thù.
- Sự thể hiện qua hình tượng:
Sẽ ra sao nếu kẻ thù đã cầm súng mà ta cha kịp cầm lấy giáo ?
Khi đó ta vẫn có thể có lí tưởng cách mạng, chí trung kiên, lịng căm thù, sức mạnh và tinh thần dũng cảm, như
Tnú đã từng có.
Nhưng ta sẽ khơng thể bảo vệ được hạnh phúc, tình u. Cũng như Tnú đã không thể bảo vệ được mẹ con Mai,
và bàn tay anh còn bị kẻ thù dùng nhựa xà nu thiêu cháy.
Và sẽ ra sao khi ta cầm vũ khí đứng lên:
Cuộc khởi nghĩa hùng tráng sẽ thắng lợi. Như làng Xô man đã chiến thắng trong tiếng chiêng vang trời và ánh
lửa. Sự sống sẽ bảo tồn và phát triển. Mai và đứa con như sẽ tái sinh trong Dít và bé Heng.
Kẻ thù sẽ phải đền tội ác. Tnú sẽ có thể diệt giặc - tên đồn trưởng - bằng chính bàn tay đã bị kẻ thù đốt cháy.
- Giá trị
Đây là câu chuyện của một người, một làng. Nhưng đặt vào hoàn cảnh Rừng xà nu được viết ra, thì đó cũng là
câu chuyện của một thời đại, một đất nước, một cuộc cách mạng. Và có thể cịn lâu bền, lớn lao hơn thế nữa.
Như vậy, đây là chân lí mang tầm lịch sử. Vì lẽ đó, nhà văn đã để cho nó được nói lên bằng giọng nói thiêng
liêng, như để mãi mãi khắc sâu vào kí ức.
<b>Câu 11: Đoạn mở đầu Tun ngơn độc lập của Hồ chí minh được viết rất cao tay: vừa khéo léo vưa kiên</b>
<b>quyết lại vừa hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc. Hãy phân tích để làm sáng tỏ điều đó</b>
Nhằm xây dựng cơ sở pháp lí Bác trích dẫn tun ngơn độc lập của Mĩ 1776 và tun ngơn dân quyền,
nhân quyền của Pháp 1791 vì lí do sau đây:
Đối tượng mục đích của bản tun ngơn:
Nhân dân ta vừa tiến hành cuộc cách mạng giành chính quyền thắng lợi thì đã có bao nhiêu thù trong giặc
ngồil ăm le phá hoại. vận mệnh đất nước lúc này như ngàn cân treo sợi tóc.
Thực dân Pháp đang có ý đồ trở lại chiếm đóng Việt nam. Nhằm dọn đường cho trở ngại này Pháp đã đưa ra
luận điệu “ Nước Việt nam trước đây là thuộc địa của Pháp bị Nhật chiếm đóng, nay phe phát xít đã đầu hàng
vơ điều kiện phe Đồng minh trên tồn thế giới. Pháp là nước thuộc phe Đồng Minh, phe thắng trận nên có quyền
tiếp tục trở lại bảo hộ Việt nam”. Vì vậy mục đích của tun ngơn là bác bỏ luận điệu xảo trá trên. Đối tượng
mà bản tuyên ngôn hướng tới là các nước Anh, Pháp, Mĩ
Bằng việc trích dẫn hai văn kiện này Hồ Chí Minh dẫ khéo léo dùng gậy ông để đập lưng ông, nhắc lại lí lẽ của
tổ tiên họ để dằng buộc họ.
Hai đoạn văn này tập trung khẳng định quyền tự do bình đẳng của con người. Khơng dừng lại ở đó Hồ Chí
Minh đã suy rộng ra là quyền tự do bình đẳng của tất cả các dân tộc trên thế giới.
Bằng biệc trích dẫn này bác đã đặt nước Việt Nam ngang hàng với mọi dân tộc trên thế giới (liên hệ với Đại cáo
bình Ngơ).
<b>Câu 12: Vợ Nhặt là một truyện ngắn rất thành công của nhà văn Kim Lân. Em hãy phân tích những</b>
<b>nét chính về giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm này </b>
<b> HỌC SINH VIẾT PHẦN MỞ BÀI </b>
Giá trị hiện thực: Truyện ngắn Vợ Nhặt cho thấy bức tranh về cuộc sống khốn khổ tủi nhục của
người nơng dân vào cái năm đói khủng khiếp trước Cách mạng tháng 8 năm 1945. Bức tranh hiện thực ấy
được mơ tả chủ yếu thơng qua số phận và hồn cảnh gia đình mẹ con bà cụ Tứ, vợ Tràng trong khung cảnh
tiêu điều, chết chóc xung quanh xóm ngụ cư. Cần chú ý đi sâu phân tích nỗi khốn khổ tủi nhục của mẹ con
bà cụ Tứ và vợ Tràng được thể hiện trong tác phẩm như thế nào?
Giá trị nhân đạo: Phân tích cái nhìn đầy cảm thơng của nhà văn đối với số phận cùng khổ: trong lúc
khốn khổ ấy họ vẫn cưu mang đùm bọc nhau, an ủi động viên nhau để gắng sống... Trong những cảnh bi
thảm, cùng cực, ngòi bút của tác giả vẫn hướng về phần tốt đẹp của con người là khát vọng sống và mái ấm
gia đình. Kết thúc truyện bằng hình ảnh lá cờ đỏ bay phất phới trong óc Tràng đã đem lại cho nhân vật và
người đọc một hy vọng, một niềm tin vào ngày mai.
Một mặt Kim Lân miêu tả cuộc sống túng đói quay quắt, khốn khổ, thảm đạm, ln bị cái chết
ám ảnh của những người nông dân trong nạn đói khủng khiếp năm 1945 (phần phụ). Truyện diễn ra trong
bối cảnh đầy chết chóc và trong nỗi cực kỳ lo âu của những con người này.
Song, mặt khác nhà văn đã thể hiện tinh thần vươn lên cái chết thảm đạm để mà vui, mà hy vọng
của những người nông dân nói trên. (phần chính).Điều đó, thể hiện tập trung qua việc nhiều nhân vật trong
<b> </b>
<b> HỌC SINH VIẾT PHẦN Kết BÀI </b>
<b>Câu 13: Phân tích tác phẩm: “Tun ngơn độc lập” của Hồ Chí Minh</b>
<b>Mở bài:giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm</b>
<b>Thân bài:Bài làm phải đảm bảo các ý sau :</b>
<b>*VỊ c¬ së pháp lí mà Tuyên ngôn đa ra</b>
<b> Mở đầu bản tuyên ngôn của nớc Việt Nam, Bác lại dẫn lời trong hai bản tuyên ngơn của Mỹ và của Pháp.</b>
Nội dung những lời trích dẫn là khẳng định quyền bình đẳng, quyền tự do, quyền sống và quyền mu cầu hạnh
phúc của mỗi cá nhân. Đó là những quyền hiển nhiên, tất yếu và bất khả xâm phạm. Nh vậy, cơ sở pháp lí của
bản tun ngơn là quyền tự do, bình đẳng của con ngời. Hồ Chí Minh đã đứng trên quan điểm ấy mà đối thoại
với bọn đế quốc về quyền dân tộc.
<b> Trớc hết, cách nói, cách viết của Bác vơ cùng khéo léo: khẳng định quyền tự do, độc lập của dân tộc ta bằng</b>
chính những lời lẽ của tổ tiên ngời Mỹ, ngời Pháp, hai bản tuyên ngôn đã từng làm vẻ vang cho truyền thống t
t-ởng, văn hóa của những dân tộc ấy.
<b> Khéo léo mà vẫn rất kiên quyết vì qua đó để nhắc nhở họ đừng phản bội tổ tiên mình, đừng làm vấy bùn lên</b>
lá cờ nhân đạo của những cuộc cách mạng vĩ đại của nớc Pháp, nớc Mỹ nếu nhất định tiến quân xâm lợc Việt
Nam.
<b> ý nghĩa : Bác đặt ba cuộc cách mạng ngang hàng nhau, ba nền độc lập ngang hàng nhau, ba bản tuyên ngôn</b>
ngang hàng nhau. Cách làm này của Bác đã đa dân tộc ta đờng hồng bớc lên vũ đài chính trị thế giới.Mặt khác,
Tuyên ngôn độc lập tuy không trực tiếp dẫn ra, nhng lại gợi nhớ về một sự tiếp nối niềm tự hào, t tởng độc lập
"Cống hiến nổi tiếng của cụ Hồ Chí Minh là ở chỗ Ngời đã phát triển quyền lợi của con ngời thành quyền lợi của
dân tộc. Nh vậy, tất cả mọi dân tộc đều có quyền quyết định lấy vận mệnh của mình" Nh vậy, có thể xem luận
điểm đợc "suy rộng ra" của Hồ Chí Minh là phát súng lệnh khởi đầucho bão táp cách mạng ở các nớc thuộc địa,
báo hiệu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân trên khắp thế giới vào nửa sau thế kỉ XX.
<i> Về cơ sở thực tế: Hồ Chí Minh đã đa ra những dẫn chứng thực tế không thể chối cãi để vạch tội theo lối</i>
bác bẻ ngụy luận của thực dân Pháp.
Thứ nhất, thực dân Pháp kể cơng "khai hóa", Bác đã lên án chúng trên mọi phơng diện (chính trị, kinh tế,
văn hóa). Thủ tiêu mọi quyền chính đáng, tắm máu các phong trào yêu nớc, thi hành chính sách ngu dân, đầu
độc, bần cùng hóa, gây ra nạn đói khủng khiếp hơn hai triệu ngời chết đói,… Tất cả những việc mang danh “khai
hóa” của thực dân Pháp trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa.
Thứ hai, thực dân Pháp kể công "bảo hộ", Bác nêu rõ : chúng không những không bảo hộ đ ợc mà "trong
vòng 5 năm đã bán nớc ta hai lần cho Nhật". Không những thế, khi bị phát xít Nhật đảo chính, chính đồn thể
u nớc, cách mạng của nhân dân Việt Nam ( Việt minh) đã cứu giúp nhiều ngời Pháp, bảo vệ cả tính mạng và
tài sản của họ.
Thứ ba, thực dân Pháp luôn tuyên bố Đơng Dơng là thuộc địa của Pháp, Pháp có quyền trở lại Đông Dơng.
Bác vạch rõ: "Sự thật là từ mùa thu 1940, nớc ta đã thành thuộc địa của Nhật chứ không phải là thuộc địa của
Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh, nhân dân cả nớc ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập nên nớc Việt Nam
Dân chủ Cộng hịa" là từ tay phát xít Nhật.
Tất cả cách đa dẫn chứng theo phép liệt kê trên đều lập luận kiểu “gậy ông đập lng ông”. Từng “gậy” rắn chắc,
mạnh mẽ, dứt khốt, khơng thể chối cãi, không chống đỡ đợc.
Chủ đích là, bác bỏ mọi sự dính líu của Pháp ở Việt Nam. Khẳng định Việt minh, tổ chức yêu nớc – cách
mạng của Việt Nam là một lực lợng của phe Đồng minh đánh đuổi phát xít Nhật để giải phóng dân tộc, giải
Mở đầu phần tuyên ngôn:Là 3 câu văn ngắn gọn vừa chuyển tiếp/liên kết (xét về mặt hình thức) phần 1 với
phần 2 vừa tổng kết, khẳng định với một ý nghĩa vô cùng sâu sắc. Câu 1 (Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại
thoái vị) xác nhận sự hết thời của thực dân, phát xít và phong kiến trên đất nớc ta. Một câu 3 mệnh đề, mỗi mệnh
đề là một kết cấu chủ vị gồm 1, 2 từ, chỉ có 9 chữ mà gói gọn một giai đoạn lịch sử đấu tranh vơ cùng quan
trọng của dân tộc ta từ cuối trung đại đến hiện đại. Đồng thời làm rõ tình thế hiện tại (Pháp đã bỏ chạy, dân Việt
Nam đánh cho Nhật phải hàng, lấy lại đất nớc từ tay phát xít Nhật và chính quyền phong kiến đã từ bỏ vơng
quyền của nó). Vì vậy, một nớc Việt Nam độc lập dân tộc, dân chủ nhân dân, theo chnh thể cộng hòa phải ra đời
là bớc đi tất yếu của lịch sử, không thể ngăn cản. Câu 2 (Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm
nay để gây dựng nên nớc Việt Nam độc lập) khẳng định nền độc lập dân tộc. Câu 3 (Dân ta lại đánh đổ chế độ
quân chủ mấy mơi thế kỉ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa) khẳng định chính thể mới.
<b> Ba câu văn ngắn gọn, cô đọng, hàm súc mang nhiều lớp nghĩa đã mở đầu cho lời tuyên bố về một nớc Việt</b>
Nam bớc vào kỉ nguyên mới.Từ sự thật lịch sử này, bản Tuyên ngôn đa ra Tuyên bố về sự ra đời của nớc Việt
Nam độc lập, tự do (Chúng tơi, lâm thời chính phủ của nớc Việt Nam mới, đại biểu của toàn dân Việt Nam, giữ
vững quyền tự do, độc lập ấy).
Phần tuyên bố ,Phần này gồm 2 tuyên bố (thoát li hẳn, xố bỏ hết,... và Nớc Việt Nam có quyền,...). Mỗi
tun bố lại có 2 lời (lời tuyên bố và lời biểu thị quyết tâm thực hiện lời tuyên bố ; khẳng định sự đúng đắn của
lời tuyên bố). Kết cấu nh thế, kết hợp với giọng văn (thể hiện qua đùng từ, viết câu, tạo nhịp) mạnh mẽ, dứt
khoát vừa làm nổi bật các nội dung tuyên bố vừa thể hiện tinh thần kiên định, khí phách hào hùng của một dân
tộc đã, đang đứng lên tự quyết định vận mệnh mình.
phải nhân dân Pháp. Hay luôn luôn viết “nớc” Việt Nam, nghĩa là nhấn mạnh tính thống nhất đất nớc. Mặc nhiên
phủ nhận sự chia cắt nớc ta thành 3 kì của thực dân Pháp.
Tuyên bố cuối cùng là tuyên bố về quyền tự do, độc lập và sự ra đời của nớc Việt Nam tự do độc lập.
Để dến tuyên bố này, tác giả đã dẫn giải ba sự thật không thể chối cãi và một nguyên tắc. Đó là sự thật, dân tộc
Về phơng diện diễn đạt, đều là câu khẳng định, thiên về các từ “nóng” (quyết, phải, khơng thể khơng, tồn
thể, tất cả,...), khi điệp từ ngữ (gan góc, dân tộc,...), khi song hành cú pháp (Một dân tộc đã,... dân tộc đó phải
đ-ợc,...), khi mạnh mẽ, khi mềm mại, uyển chuyển (Chúng tôi tin rằng,...) đã tạo nên âm hởng hào hùng, đanh
thép , trang trọng của một đoản khúc anh hùng ca nhng vẫn nồng nàn, tha thiết.
<i><b> Nghệ thuật chính luận trong Tun ngơn độc lập. Vấn đề trọng đại, nhiều nội dung lớn cần đề cập, làm</b></i>
sáng tỏ. Phạm vi tác động rộng, đối tợng tiếp nhận, tác động khác nhau, thậm chí trái ngợc nhau về địa vị. trình
độ, quan điểm, lập trờng, thái độ, tình cảm (nhân dân Việt Nam - một bộ phận trí thức, cịn lại 90% lao động
nghèo, thất học, mù chữ ; Chính phủ và nhân dân các nớc) phải viết nh thế nào để có sức thuyết phục tất cả ? Với
cơng vị thay mặt Chính phủ Lâm thời của nớc Việt Nam mới trong một bối cảnh xã hội phức tạp, thái độ, tình
cảm cần bộc lộ ra sao ? Lại phải trình bày ngắn gọn để mõi một ý tứ, câu chữ găm vào lịng ngời.
Đó quả là một bài tốn hắc búa. Nhng Tuyên ngôn Độc lập đã đáp ứng đợc một cách xuất sắc bằng một nghệ
thuật chính luận bậc thầy.Điểm nổi bật đầu tiên là, văn phong của bản Tuyên ngôn đanh thép, sắc sảo mà vô
cùng trong sáng, giản dị, súc tích, giàu nghệ thuật. Từ ngữ sử dụng chính xác, giản dị, dễ hiểu, gần gũi. Lời văn
trong sáng nhng khơng làm mất di tính hiện đại, sự sang trọng, vẻ uyển chuyển. Đó là trờng hợp khơng ngại sử
dụng những câu dài có cấu trúc phức tạp, các loại câu khẳng định liên tiếp (khẳng định, phủ định đối t ợng bằng
câu khẳng định, phủ định của phủ định), các câu liệt kê, câu song hành,... phối hợp với sự liên kết câu, đoạn chặt
chẽ, mang giai điệu phù hợp, đầy hình ảnh, khơng ngại các phép tu từ. Tất cả lại thật gãy gọn, khúc chiết. Hệ
thống lập luận của Tun ngơn có sự kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và bằng chứng ; giữa trí tuệ và cảm xúc ; giữa
cứng rắn và khôn khéo, mềm mỏng ; giữa cơng quyết và thiết tha ; giữa các phép lập luận : chứng minh, giải
thích, phân tích, bình luận, bác bẻ ; giữa tính chính trị, tuyên truyền và tính văn chơng nghệ thuật.
Túm lại,Tuyên ngơn độc lập thể hiện một trí tuệ mẫn tiệp, một tầm văn hóa sâu rộng và trên hết là một
<b>Câu 16: Phân tích hình tượng con sông hương trong tác phẩm : “AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DỊNG</b>
<b>SƠNG”của HỒNG PHỦ NGỌC TƯỜNG</b>
<b>Mở bài:giới thiệu sơ lược về tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tng</b>
<b>Thõn bi: cn m bo cỏc ý sau</b>
<b>*Sông hơng vïng thỵng lu</b>
Sơng Hơng vùng thợng lu mang vẻ đẹp của một sức sống mãnh liệt, hoang dại, bí ẩn, sâu thẳm nhng cũng có
lúc dịu dàng, say đắm.
Sự mãnh liệt, hoang dại của con sông đợc thể hiện qua những so sánh : “Bản trờng ca của rừng già”, những
hình ảnh đầy ấn tợng : (“rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn”, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy nh cơn
lốc vào những đáy vực bí ẩn”)
Ngay từ đầu trang viết, ngời đọc đã cảm nhận đợc sự tài hoa của ngịi bút Hồng Phủ Ngọc Tờng : liên tởng
kì thú, xác đáng, ngơn từ gợi cảm,... Tất tạo sức cuốn hút, hấp dẫn về một con sông mang linh hồn, sự sống, kết
thúc đoạn văn, tác giả giới thiệu trọn vẹn con sông (tâm hồn sâu thẳm của nó) vừa dẫn dắt, gợi mở sang đoạn
tiếp theo sẽ miêu tả khuôn mặt kinh thành của dịng sơng.
<b>*Sơng Hơng đoạn chảy về đồng bằng và ngoại vi thành phố</b>
Lúc này, sơng Hơng đợc ví “nh ngời con gái đẹp nằm ngủ mơ màng” đợc “ngời tình mong đợi” đến đánh
Đoạn văn thể hiện năng lực quan sát tinh tế và sự phong phú về ngơn ngữ hình tợng giúp nhà văn viết đợc
những câu văn đầy màu sắc tạo hình và ấn tợng : “Sơng Hơng vẫn đi trong d vang của Trờng Sơn”, “ Sắc nớc trở
nên xanh thẳm”, “nó trơi đi giữa 2 dãy đồi sừng sững nh thành qch, dịng sơng mềm nh tấm lụa, với những
chiếc thuyền xuôi ngợc chỉ bé bằng con thoi ”. Rồi
“giữa đám quần sơn lô xô ấy là giấc ngủ nghìn thu của vua chúa đợc phong kín trong lịng những rừng thơng u
tịch và niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tầm đồ sộ toả lan khắp cả một vùng thợng lu”.
Vận dụng kiến thức về văn hoá, văn học, tác giả tạo cho ngời đọc ấn tợng về vẻ đẹp trầm mặc, nh triết lý,
nh cổ thi gắn với những thành quách, lăng tẩm của vua chúa thu trc.
Sông Hơng khi chảy vào thành phố
Nếu ở trên, ngời đọc cảm nhận phần nào tính chất vẻ đẹp man dại, dịu dàng, trầm mặc của con sơng thì giờ
đây con sông đợc khám phá, phát hiện ở sắc thái tâm trạng. Sông Hơng gặp thành phố nh đến với điểm hẹn tình
yêu, trở nên vui tơi và đặc biệt chậm rãi, êm dịu, mềm mại. Ngòi bút của tác giả đã thực sự thăng hoa khi vẽ nên
những hình ảnh đầy ấn tợng, những cảm nhận tinh tế, những liên tởng, so sánh đẹp đẽ đến bất ngờ, lý thú, thể
hiện tình u say đắm với con sơng. Đó là những nét bút thật “dịu dàng, tình tứ, đắm đuối” ; “chiếc cầu trắng
của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn nh một vầng trăng non”, sông Hơng “uốn một cánh cung rất nhẹ
sang cồn Hến”, đờng cong ấy làm cho dịng sơng mềm hẳn đi nh một tiếng “vâng” khơng nói ra của tình u”,
“nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh” làm dịng sơng thêm lộng lẫy, con sơng ngập ngừng nh có : “những vấn vơng
của một nỗi lịng” khơng nỡ rời xa thành phố. (liên hệ câu thơ Thu Bồn : con sông dùng dằng, con sơng khơng
chảy / Sơng chảy vào lịng nên Huế rất sâu)
Qua thành phố, sông Hơng trôi thật chậm, thực chậm, “cơ hồ chỉ còn là một hồ yên tĩnh” Tác giả so sánh
với dịng chảy tốc hành của sơng Nê-va để thấy quý hơn điệu chảy lặng lờ của sông Hơng khi ngang qua thành
phố nhìn nó nh là “vấn vơng của một nỗi lòng”
Liên hệ với thơ Hàn Mặc Tử, thơ Tố Hữu khi viết về sông Hơng êm đềm thơ mộng.
Gió theo lối gió, mây đờng mây
Dịng nớc buồn thiu hoa bắp lay
(Hàn Mặc Tử)
Hơng Giang ơi, dịng sơng êm
Qua tim ta vẫn ngày đêm tự tình
(Tố Hữu)
Sông Hơng mang vẻ đẹp lững lờ, êm đềm, trầm lắng, nó bình thản, chậm rãi nh tâm tính ngời Huế vậy.
Kiến thức âm nhạc đợc tác giả huy động với liên tởng kỳ thú “điệu chảy lặng tờ” của con sông khi ngang
qua thành phố : “Đấy là điệu Solow tình cảm của Huế”. Câu thơ trong truyện Kiều tả tiếng đàn (trong nh tiếng
hạc bay qua) cũng gợi nhớ đến làn điệu nhạc cung đình Huế “Tứ đại cảnh”
Phải rất hiểu sông Hơng, tác giả mới cảm nhận thấm thía vẻ đẹp con sơng lúc đêm sâu. Đó là lúc mà âm
nhạc cổ điển Huế đợc sinh thành. Khi đó, trong khơng khí chùng lại của dịng sơng nớc ấy, sơng Hơng đã trở
thành một ngời tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya.
Bài kí kết thúc bằng cách lý giải về cái tên của dịng sơng, nhấn mạnh bằng một huyền thoại mĩ lệ, mang đến
cho tác phẩm sắc màu lãng mạn. Đó là chuyện về c dân hai bên bờ sơng nấu nớc của trăm lồi hoa đổ xuống
dịng sơng cho làn nớc thơm tho mãi mãi. Huyền thoại về tên dịng sơng đã nói lên khát vọng của con ngời ở đây
muốn đem cái đẹp và tiếng thơm để xây đắp văn hoá, lịch sử, địa lý q hơng mình. Việc đặt tên cho bài kí
thống nhất với phần kết thúc chẳng những lu ý ngời đọc về vẻ đẹp của dịng sơng mà cịn gợi lên niềm biết ơn
đối với những ngời đã khai phá miền đất lại. Kết thúc bài kí đọc lại một niềm bng khng trong tâm hồn ng ời
đọc :
Dịng sơng ai ó t tờn
Để ngời đi nhớ Huế không quên ?
<b> *Nét đặc sắc của văn phong Hoàng Phủ Ngọc Tờng</b>
Bút kí : Ghi lại những con ngời thực và sự việc mà nhà văn đã tìm hiểu, nghiên cứu cùng với những cảm
nghĩ của mình nhằm thể hiện một t tởng nào đó. Sức hấp dẫn và thuyết phục của bút kí tuỳ thuộc vào tài năng,
trình độ quan sát, nghiên cứu, khám phá, diễn đạt của tác giả đối với các sự kiện đợc đề cập đến (Từ điển thuật
ngữ văn học, NXB Hà Nội 2004)
Tuỳ bút ghi lại một cách tơng đối tự do những cảm nghĩ của ngời viết, kết hợp với việc phản ánh thực tế khách
quan.
Điểm chung : Sự thành công của 2 thể loại đều tuỳ thuộc vào tài năng, trình độ quan sát, khám phá, diễn đạt
của ngời viết với đối tợng phản ánh, đều đòi hỏi sự thống nhất giữa chủ quan và khách quan, trí tuệ và cảm xúc.
Điểm riêng : Bút kí mang tính chặt chẽ hơn, tuỳ bút mang tính tự do hơn, nó mang đậm dấu ấn cá nhân của
ngời nghệ sĩ chân chính. Tùy bút mang đậm chất thơ
sống, nh tâm hồn con ngời.Sức liên tởng kì diệu, sự hiểu biết phong phú về kiến thức địa lý, lịch sử, văn hoá
nghệ thuật và những trải nghiệm của bản thân .Ngôn ngữ trong sáng, phong phú, uyển chuyển, giàu hình ảnh,
giàu chất thơ, sử dụng nhiều phép tu t nh : So sánh, nhân hoá, ẩn dụ,...Có sự kết hợp hài hồ cảm xúc, trí tuệ, chủ
quan và khách quan.Hoàng Phủ Ngọc Tờng xứng đáng là “một thi sĩ của thiên nhiên” (Lê Thị Hớng). Với những
trang viết mê đắm, tài hoa, súc tích, tác giả đã thực sự làm giàu thêm cho linh hồn bức tranh thiên nhiên xứ sở.
Sông Hơng thực sự trở thành “gấm vóc” của giang sơn tổ quốc. Bài kí góp phần bồi dỡng tình u, niềm tự hào
đối với dịng sơng và cũng là với q hơng, đất nớc .
<b>II.PHẦN THƠ</b>
<b>Câu 1: Nhận xét về Quang Dũng và bài thơ: “Tây Tiến”, tài liệu kiến thức văn tiếng việt 12 có viết:</b>
<b>“Một ngọn bút đầy tài hoa vừa khắc họa được cái dữ dội,hào hùng lại vừa diễn tả được cái tươi mát,</b>
<b>sâu lắng, đau thương mà không hề bi lụy”. Hãy phân tích bài thơ “Tây Tiến” để làm sáng tỏ ý kiến</b>
<b>trên.</b>
Quang Dũng là nhà thơ tài hoa về nhiều lĩnh vực nhưng thành công nhất là thơ ca. Thơ ông thể hiện
một tâm hồn nhạy cảm giàu chất lãng mạn, có khả năng cảm nhận vẻ đẹp tinh tế của thiên nhiên và tình
người, nghệ thuật diễn tả bình dị, chân thực. “Tây Tiến” là một trong những bài thơ đặc sắc của Quang
Dũng. Chính vì thế mà trong tài liệu kiến thức văn tiếng việt 12 có Nhận xét về Quang Dũng và bài thơ như
sau: “Một ngọn bút đầy tài hoa vừa khắc họa được cái dữ dội, hào hùng lại vừa diễn tả được cái tươi mát,
sâu lắng, đau thương mà khơng hề bi lụy”.
CUYỂN Ý
Đầu tiên chúng ta thấy nét dữ dội và hào hùng của cuộc kháng chiến toát lên từ những câu thơ tả
cảnh núi rừng Tây Bắc. Đoạn thơ với nhiều hình ảnh miêu tả trực tiếp với nhịp điệu như cắt câu thơ ra làm
đơi:
<b>“Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm</b>
<b>………</b>
<b>Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”</b>
<b>Và:</b>
<b>“Chiều chiều oai linh thác gầm thét</b>
<b>Đêm đêm mường Hịch cọp trêu người”</b>
Một vùng đất thật hoang sơ, bí ẩn, chất chứa đầy nguy hiểm, địa hình lại hiểm trở, kì vĩ với rừng sâu, núi
cao, vực thẳm, dốc đứng, cồn mây heo hút, thác gầm cùng thú dữ. Người lính “Tây Tiến” sống và hoạt
động chiến đấu trong một không gian thật hùng vĩ, dữ dội và hào hùng.
Bên cạnh những nét hùng vĩ, dữ dội, hoang sơ, núi rừng Tây Bắc cịn có những nét tươi mát và sâu
lắng, cảnh vật nên thơ, mĩ lệ, có hoa thơm “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”. Xuất hiện mái nhà dưới
làn mưa rừng thơ mộng: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Có dáng đẹp của chàng trai cơ gái trên thuyền
độc mộc. Lại có những con người rất mực tài hoa, xinh đẹp, múa giỏi,yêu quý bộ đội, thể hiện tình qn
dân cá nước trong khơng khí đêm liên hoan tưng bừng rộn rã. Có thể nói, bút pháp lãng mạn với cảm xúc
<b>“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa</b>
<b>………</b>
<b>Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”</b>
luôn đe dọa nhưng họ vẫn yêu đời vẫn lạc quan và vươn lên tất cả để chiến đấu và chiến thắng. Ở họ có
một sức mạnh phi thường, chói ngời vẻ đẹp lí tưởng: rất yêu đời nhưng không ngại hi sinh.
<b>“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”</b>
Nhà thơ khơng ngai nói đến cái khó khăn, nguy hiểm, cái chết trong thơ của mình. Đặc biệt nhà
thơ diễn tả cái chết bằng những từ ngữ, hình ảnh rất giản dị, những từ ngữ mang sắc thái cổ điển, trang
trong: về đất, hồn về, áo bào thay chiếu anh về đất,.. Đây cũng là lí do khiến âm hưởng chung của bài thơ
mang tính chất bi hùng chứ không bi lụy.
<b> Tóm lại, Qua bài thơ, tác giả xây dựng được nhiều hình ảnh sáng tạo thể hiện nỗi nhớ thiết tha về</b>
những dấu ấn khó quên của một thời đã qua. Đặc biệt, nghệ thuật thơ vừa phản ánh những nét bi hùng,
những tâm tình riêng của những thanh niên u nước trong thời kì kháng chiến chống Pháp.Chính vì thế mà
sức lâu bền của bài thơ trong lòng người đọc là mãi mãi.
Cõu2<b> : Phân tích đ oạn 1: Trong bài thơ Tõy Tiến của Quang Dũng ( Từ câu 1 đến câu 14) Thiên nhiên Tây</b>
<b>Bắc hùng vĩ - thơ mộng</b>
Quang Dũng là một nghệ sĩ tài hoa nhiều mặt: viết văn xuôi, làm thơ và cả hội họa. Thơ ơng viết ít nhng lu đợc
ấn tợng sâu trong lịng ngời đọc vì vẻ đẹp lãng mạn, tài hoa. Viết về đề tài ngời lính Quang Dũng khá thành cơng
ở bài thơ “Tây Tiến”.
“Tây Tiến” thể hiện lối cảm nghĩ riêng đó chính là tấm lịng Quang Dũng đối với một thời lịch sử đã qua. Cả bài
Mở đầu đoạn thơ Quang Dũng nhớ ngay đến dịng sơng Mã. Dịng sông ấy hiện lên trong bài thơ nh một nhân
vật, chứng kiến mọi gian khổ, nỗi buồn, niềm vui, mọi chiến cơng và mọi hy sinh của đồn binh Tây Tiến. Sông
Mã gắn liền với miền đất đã từng qua, những kỷ niệm từng trải của đoàn quân Tây Tiến. Nhắc tới sông Mã cũng
là nhắc tới núi rừng thiên nhiên Tây Bắc. Nhà thơ nhớ về những miền đất trong nỗi nhớ “chơi vơi”. “Chơi vơi” là
nỗi nhớ không có hình, khơng có lợng, khơng ai cân đong đo đếm đợc nó lửng lơ mà đầy ắp ám ảnh tâm trí con
ngời, khiến con ngời nh sống trong cõi mộng. Chữ “chơi vơi” hiệp vần với chữ “ơi” ở câu thơ trên khiến cho lời
thơ thêm vang vọng.
Trong nỗi nhớ “chơi vơi” ấy hiện lên cả một không gian xa xơi hiểm trở. Tính chất “xa xơi” thể hiện rõ ở một số
địa danh: Sài Khao, Mờng Lát, Pha Luông, Mờng Hịch, Mai Châu. Nghe tên đất đã lạ vì đó là những vùng sâu,
vùng xa của các dân tộc ít ngời từ Sơn La, Lai Châu, Hịa Bình. Những địa danh này đi vào nỗi nhớ của nhà thơ
bởi vậy nhớ về Tây Tiến thì cũng chính là nhớ về những vùng đất heo hút, hiểm trở đầu tiên. Điều này cũng dễ
hiểu. Bởi những ngời lính Tây Tiến vừa mới ra đi kháng chiến từ một mái trờng, một góc phố nào đó của thủ đơ
Hà Nội thì ấn tợng sâu đậm nhất về Tây Tiến trong họ lẽ đơng nhiên là những gian khổ, những địa danh nêu trên
càng trở nên xa hơn khi nó gắn liền với hình ảnh “sơng lấp”, “đồn qn mỏi” hiện về “trong đêm hơi”.
Câu thơ “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm” với điệp từ “dốc” gối lên nhau cộng với tính từ “khúc khuỷu”,
“thăm thẳm” làm sống dậy con đờng hành quân hiểm trở, gập ghềnh, dài vô tận. Âm điệu câu thơ nh cũng khúc
khuỷu nh bị cắt đoạn nh đờng núi khúc khuỷu, có đoạn lên cao chót vót có đoạn xuống thăm thẳm. Con đờng mà
ngời lính Tây Tiến phải trải qua cao tới mức bóng ngời in trên những cồn mây, đến mức “súng ngửi trời”.
<i>“Heo hót cån m©y sóng ngưi trêi”.</i>
Đây là cách nói thậm xng thể hiện sự độc đáo của Quang Dũng. Nếu chỉ thấy súng chạm trời thì ta mới chỉ thấy
đợc cái thế cao của dốc cịn hình ảnh “Súng ngửi trời” hàm chứa một ý nghĩa khác. Đó là vẻ tinh nghịch, chất
ngời lên vẻ đẹp của ngời lính chân đứng trên dốc cao đầu gội trong ma lớn. Cứ một nét bút gân guốc lại xen vào
một nét bút mềm mại, trữ tình tạo cho bức tranh về thiên nhiên Tây Tiến cân đối hài hòa.
Nhắc lại những thử thách khắc nghiệt cũng là để nói đến sức chịu đựng bền bỉ của con ngời. Từ đây Quang Dũng
vụt nhớ đến hình ảnh những đồng đội, dù can trờng trong dãi dầu nhng có khi gian khổ đã vợt quá sức chịu đựng
khiến cho ngời lính đã gục ngã, nhng gục ngã trên t thế hành quân.
“Anh bạn dãi dầu không bớc nữa
Gục trên súng mũ bỏ quên đời”
Nói đến cái chết mà lời thơ cứ nhẹ nh khơng. Dờng nh ngời lính Tây Tiến chỉ bỏ quên đời một lát rồi lại bừng
tỉnh và bớc tiếp. Nói về cái chết mà lời thơ khơng bi lụy. Đó cũng là một nét trong phong cách biểu hiện của nhà
thơ Quang Dũng. Những ngày chiến đấu bảo vệ biên giới, để giúp bạn giữa núi rừng Tây Bắc thật lắm gian nan
khó nhọc. Những gian nan khó nhọc cịn hằn sâu trong trí nhớ. Quang Dũng khơng khoa trơng tính cách anh
hùng dũng cảm, cũng khơng nói đến cảnh bách chiến bách thắng. Nhng sống và chiến đấu trong một địa bàn
hiểm trở dữ dội, hoang dã đã là anh hùng rồi.
Vùng đất xa xôi hiểm trở với những nét dữ dội hoang dã:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mờng Hịch cọp trêu ngời”
C¶nh hiĨm trở cheo leo nhng đâu có tĩnh lặng thanh bình... Với những từ oai linh, gầm thét thác nớc nh một
sức mạnh thiêng liêng, đầy quyền uy, đầy đe dọa, và những con hổ đi lang thang hoành hành ngang dọc coi mình
là chúa tể của núi rừng làm cho cảnh rừng núi thêm rùng rợn ghê sợ.
ang núi n cái rùng rợn bí hiểm của rừng già nhà thơ bỗng nhớ lại một kỷ niệm ấm áp tình quân dân.
“Nhớ ơi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Ch©u mïa em thơm nếp xôi.
Trong gian kh thiu thn ngi ta cng nâng niu càng q trọng nghĩa tình. Hình ảnh những nồi cơm lên khói,
những mùa màng thơm nếp xơi và đặc biệt là “em” biểu tợng cho ngời dân Tây Bắc hiện về trong cảm xúc nhà
thơ vừa tự nhiên vừa tinh tế. Sự xuất hiện của những hình ảnh này khiến cho đoạn kết của khổ thơ có sức bay
bổng. Đoạn thơ ấm lại trong tình quân dân mặn nồng. Hai câu cuối gieo vào tâm hồn độc giả một cảm xúc ấm
nóng. Cái ấm nóng của tình ngời. Đây chính là chất lãng mạn bay bổng của đoạn thơ và nó nh một nét vẽ tơi
sáng của bức tranh.
Đoạn thơ là sự phối kết hợp hài hòa giữa hai bút pháp hiện thực và lãng mạn. Cả đoạn thơ nh một bức tranh thủy
mặc cổ điển đợc phác thảo theo lối tạo hình phơng đơng. Quang Dũng là một hoạ sĩ. Ơng có tài chấm phá trong
việc phác thảo cảnh vật. Quang Dũng đã xây một đài kỷ niệm trong thơ cho thiên nhiên Tây Bắc và ng i lớnh
Tõy Tin.
<b>Cõu 3: Con ng ời Tây Bắc duyên dáng và tài hoa th hin qua đoạn thơ: </b>
<b>“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa</b>
<b>...</b>
<b>Trơi dịng nước lũ hoa đong đưa”</b>
Cả đoạn thơ là bức tranh thiên nhiên diễm lệ có sức hòa hợp diệu kỳ giữa thiên nhiên và con ngời. Cảnh trí
miền Tây ở khổ thơ dờng nh đợc tạo hình theo thi pháp truyền thống: “Thi trung hữu hoạ, thi trung hữu nhạc”.
Từ“bừng lên” vừa đột ngột, bất ngờ vừa thú vị. Cả cảnh vật và lòng ng ời đều bừng sáng lên. Chất hào hoa
trong bút pháp thể hiện của Quang Dũng đã bộc lộ ngay từ câu thơ đầu. Hai cụm từ “bừng lên” “hội đuốc hoa”
thể hiện sự tinh tế trong việc sử dụng từ ngữ của Quang Dũng. Hai cụm từ này vừa có tính tả thực vừa đậm chất
lãng mạn. “Bừng lên” vừa có nghĩa bừng sáng lung linh vừa nh bừng tỉnh.
“Hội đuốc hoa” đây là cảnh thực. Đêm liên hoan văn nghệ diễn ra dới những cánh rừng, ngời đến dự đều cầm
trên tay ngọn đuốc, gió thổi làm những ngọn đuốc lung linh phát ra những tia lửa. Cảnh tợng này trong đêm quả
thật nhìn nh hoa đuốc. Cảm nhận của Quang Dũng vừa tinh tế vừa lãng mạn, câu thơ gợi sức liên tởng, tởng tợng
cho ngời đọc. Trên cái nền không gian ấy “em” xuất hiện.”Em” xuất hiện lập tức trở thành trung im ca mi
im nhỡn.
Kìa em xiêm áo tự bao giê”
“Kìa em” lời chào đón đầy ngạc nhiên sung sớng đến ngỡ ngàng. Lời chào đón mang tính phát hiện. Em lạ mà
quen, quen mà lạ. Quang Dũng phát hiện ra vẻ đẹp rực rỡ của cô gái bằng cả niềm yêu, niềm say đến cảm phục.
u say từ vóc dáng đến trang phục. Chính trang phục truyền thống đậm đà bản sắc văn hóa của các thiếu nữ
Tây Bắc càng tôn vinh lên vẻ đẹp của họ Quang Dũng không khỏi không thán phục đến ngạc nhiên tr ớc vẻ đẹp
ấy. Em trở thành hạt nhân của bức tranh với vẻ đẹp xứ lạ phơng xa. Câu thơ thứ ba xuất hiện lập tức khổ th nh
trn y õm nhc.
<i><b>Khèn lên man điệu nàng e Êp.”</b></i>
Tây Tiến gốc Hà Nội hào hoa. Từ “man điệu” mà Quang Dũng sử dụng ở đây cũng rất tài hoa. Ngời đọc nh đợc
chứng kiến những vũ khúc hoang sơ của văn hóa Âu Lạc. Vũ khúc ấy hòa với vũ điệu Em duyên dáng, e ấp, tình
tứ. Ta chú ý tác giả sử dụng từ : Ban đầu là “em” tiếp đến là “nàng” rồi sau lại là “em”.
Từ cách sử dụng ấy ta cảm nhận đợc em nh một nàng tiên kiều diễm và ta nh lạc vào cõi thần tiên với khơng
khí mê say đến ngây ngất. Chính trong khơng khí của âm nhạc, vũ điệu ấy đã chắp cánh cho tâm hồn những ngời
lính Tây Tiến thực sự ngất ngây trớc ngời và cảnh.
SÏ rÊt thiÕu sãt nÕu nh chóng ta dõng lại ở đây. Bởi lẽ bốn câu sau của đoạn thơ mới thực sự thi vị. Cả bốn câu
là cảnh sắc Tây Bắc gợi cảm giác mênh mang, huyền ảo:
Ngi đi Châu Mộc chiều sơng ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng ngời trên độc mộc
Trơi dịng nớc lũ hoa đong đa.”
Một khơng gian bảng lảng khói sơng nh trong cõi mộng cứ thế hiện ra. Cái thực của khí trời Tây Bắc, cái
mộng của khơng khí bảng lảng sơng khói hiện lên nh một miền cổ tích. Ta nhớ rằng Quang Dũng là một họa sĩ
bởi vậy đoạn thơ đậm màu sắc hội họa. Nét bút phác thảo của Quang Dũng thật là tài hoa. Chỉ một vài nét chấm
phá vậy mà cái hồn của cảnh vật và con ngời hiện lên thật sinh động đầy sức cuốn hút.
Khơng gian dịng sơng buổi chiều giăng mắc một màu sơng, sông nớc bến bờ hoang dại nh một bờ tiền sử.
“Hồn lau” những cây lau không cịn vơ tri vơ giác mà có linh hồn. Phải là một hồn thơ nhạy cảm, tinh tế, tài hoa
và lãng mạn mới cảm nhận đợc hồn lau đang dăng mắc dọc nẻo bến bờ. Không gian nên thơ ấy làm nền cho ngời
thơ xuất hiện:
“Có nhớ dáng ngời trên độc mộc”
Câu thơ không tả mà gợi, gợi cái dáng mềm mại uyển chuyển của cô gái trên chiếc thuyền độc mộc. Cảnh rất
thơ và ngời cũng rất tình. Bởi vậy tác giả nh ngây ngất đắm say trớc cảnh và ngời. ở đây cảnh nh lm duyờn vi
ngi.
Trôi dòng nớc lũ hoa đong đa
Duyên dáng đến độ và tình tứ cũng hết lời: Bông hoa rừng cũng đong đa làm duyên với ngời. Cảnh và ngời
hòa quyện đồng điệu, tình tứ đến mê say trong cái nhìn lãng mạn của Quang Dũng. Ta có cảm nhận đây là thế
giới của cõi mộng, cõi mơ, cõi thơ và cõi nhạc. Thơ và nhạc là hai yếu tố tạo nên bức tranh Tây Bắc nên thơ, mĩ
lệ. Ai nói rằng Tây Bắc là xứ rừng thiêng nớc độc xin hãy một lần để cho tâm hồn mình lắng lại để chất thơ Tây
Bắc ngấm vào hồn.
Đoạn thơ bộc lộ chất tài hoa, chất lãng mạn của Quang Dũng đến tuyệt vời. Cảm ơn nhà thơ đã cho ta một
chuyến hành trình về với Tây Bắc thơ mộng để khám phá Tây Bắc và yêu Tây Bắc.
<b>Câu 4 : Ng ời lính Tây Tiến hào hùng vµ hµo hoa qua đoạn thơ:</b>
<b>“Tấy Tiến đồn qn khơng mọc tóc</b>
<b>...</b>
<b>Sơng Mã gầm lên khúc độc hành”</b>
Quang Dũng đã dựng bức tợng đài về ngời lính vơ danh trong khổ thơ thứ ba của bài thơ Tây Tiến. Ta có thể
xem khổ thơ thứ ba này là những nét bút cuối cùng hoàn thiện bức tợng đài về chân dung ngời lính Tây Tiến hào
hùng, hào hoa. Chân dung ngời lính hiện lên ở khổ thơ thứ 3 có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa vẻ đẹp tâm hồn, lý
tởng chiến đấu và phẩm chất hy sinh anh dũng. Có thể nói cả bài thơ là một tợng đài đầy màu sắc bi tráng về một
đoàn quân trên một nền cảnh khác thờng.
Chân dung đoàn binh Tây Tiến đợc chạm khắc bằng nét bút vừa hiện thực vừa lãng mạn. Các chi tiết nh lấy từ
đời sống hiện thực và khúc xạ qua tâm hồn thơ Quang Dũng để rồi sau đó hiện lên trên trang thơ đầy sức hấp
dẫn. Dọc theo hành trình, vẻ đẹp hào hùng kiêu dũng cứ lấp lánh dần lên, đến khi ngời lính Tây Tiến đối mặt với
dịch bệnh, đối mặt với cái chết thì nó thật chói ngời, nét nào cũng sc so l lựng v y lóng mn:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Chữ dùng của Quang Dũng ở đây thật lạ. Nếu mở đầu đoạn thơ tác giả dùng từ “Đồn qn” thì ở đây tác
Các chi tiết “khơng mọc tóc, qn xanh màu lá” diễn tả cái gian khổ khác thờng của cuộc đời ngời lính trên
một địa bàn hoạt động đặc biệt. Di chứng của những trận sốt rét rừng triền miên là “tóc khơng mọc” da xanh tái.
Nhng đối lập với ngoại hình tiều tụy ấy là sức mạnh phi thờng tự bên trong phát ra từ t thế “dữ oai hùm”. Với
nghệ thuật tơng phản chỉ 2 dòng thơ Quang Dũng làm nổi bật vẻ khác thờng của đoàn quân Tây Tiến. Họ hiện
lên nh hình ảnh tráng sĩ trợng phu một thuở qua hai câu tiếp:
“Mắt trừng” biểu thị sự dồn nén căm uất đến cao độ nh có khả năng thiêu đốt qn thù qua ánh sáng của đơi
mắt. Hình ảnh thơ làm nổi bật ý chí của đồn binh Tây Tiến. Ở đây ngời lính Tây Tiến đợc đề cập đến với tất cả
thực trạng mệt mỏi, vất vả qua các từ “khơng mọc tóc”, “qn xanh màu lá”. Chính từ thực trạng này mà chân
dung ngời lính sinh động chân thực. Thế nhng vợt lên trên khó khăn thiếu thốn, tâm hồn ngời lính vẫn cất cánh
“Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Câu thơ ánh lên vẻ đẹp tâm hồn của ngời lính Tây Tiến. Ban ngày “Mắt
trừng gửi mộng” giấc mộng chinh phu hớng về phía trận mạc nhng khi bom đạn yên rồi giấc mộng ấy lại hớng
về phía sau cũng là hớng về phía trớc, phía tơng lai hẹn ớc. Một ngày về trong chiến thắng để nối lại giấc mơ xa.
ý chí thì mãnh liệt, tình cảm thì say đắm. Hai nét đẹp hài hịa trong tính cách của những chàng trai Tây Tiến.
Quang Dũng đã dùng hình ảnh đối lập: một bên là nấm mồ, một bên là ý chí của những ngời chiến binh:
“Rải rác biên cơng mồ viễn xứ
Chiến trờng đi chẳng tiếc đời xanh
áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gần lên khúc độc hành.”
“Mồ viễn xứ” là những nấm mồ ở những nơi xa vắng hoang lạnh. Những nấm mồ rải rác trên đ ờng hành
quân, nhng không thể cản đợc ý chí quyết ra đi của ngời lính. Câu thơ sau chính là câu trả lời dứt khốt của
những con ngời đứng cao hơn cái chết:
<i>“Chiến trờng đi chẳng tiếc đời xanh.”</i>
Chính tình u q hơng đất nớc sâu nặng đã giúp ngời lính coi cái chết nhẹ tựa lơng hồng. Khi cần họ sẵn
sàng hy sinh cho nghĩa lớn một cách thanh thản bình yên nh giấc ngủ quên. Câu thơ vang lên nh một lời thề
đúng là cái chết của bậc trợng phu.
“áo bào thay chiếu anh về đất”
Nếu nh ngời tráng sĩ phong kiến thuở trớc coi da ngựa bọc thây là lí tởng thì anh bộ đội cụ Hồ ngày nay
chiến đấu hi sinh vì Tổ quốc một cách tự nhiên thầm lặng. Hình ảnh “áo bào” làm tăng khơng khí cổ kính trang
trọng cho cái chết của ngời lính. Hai chữ “áo bào” lấy từ văn học cổ tái tạo vẻ đẹp của một tráng sĩ và nó làm mờ
đi thực tại thiếu thốn gian khổ ở chiến trờng. Nó cũng gợi đợc hào khí của chí trai “thời loạn sẵn sàng chết giữa
sa trờng lấy da ngựa bọc thây. Chữ “về” nói đợc thái độ nhẹ nhõm, ngạo nghễ của ngời tráng sĩ đi vào cái chết
“Anh về đất” là hình ảnh đầy sức mạnh ngợi ca. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ thiêng liêng, ngời lính Tây Tiến trở
về trong niềm chở che của đất mẹ quê hơng, của đồng đội. Trở về với nơi đã sinh dỡng ra mình. Trớc những cái
chết cao cả ở địa bàn xa xôi hẻo lánh sông Mã là nhân vật chứng kiến và tiễn đa.
Mở đầu bài thơ ta gặp ngay hình ảnh sông MÃ, con sông ấy gắn liền với lịch sử đoàn quân Tây Tiến. Sông
MÃ chứng kiến mọi gian khổ, mọi chiến công và giờ đây lại chứng kiến sự hy sinh của ngời lính. Đoạn thơ kết
thúc bằng khúc ca bi tráng của sông M·.
“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Dịng sơng Mã là chứng nhân của một thời kỳ hào hùng, chứng kiến cái chết của ngời tráng sĩ, nó gầm lên
khúc độc hành bi phẫn, làm rung động cả một chốn hoang sơ. Câu thơ có cái khơng khí chiến trận của bản anh
hùng ca thời cổ. Câu thơ đề cập đến mất mát đau thơng mà vẫn hùng tráng.
Bốn câu thơ kết thúc đợc viết nh những dịng chữ ghi vào mộ chí. Những dịng sơng ấy cũng chính là lời
thề của các chiến sĩ v quc quõn.
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
“Mùa xuân” có thể đợc dùng nhiều nghĩa: thời điểm thành lập đoàn quân Tây Tiến (mùa xuân 1947), mùa
xuân của đất nớc, mùa xuân (tuổi thanh xuân) của đời các chiến sĩ.
Hình ảnh “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xi”, “chẳng về xi” bỏ mình trên đờng hành quân “Hồn về Sầm
Nứa”: chí nguyện của các chiến sĩ là sang nớc bạn hợp đồng tác chiến với quân tình nguyện Lào chống thực dân
Pháp, thực hiện lý tởng đến cùng. Bởi vậy dù đã ngã xuống trên đờng hành quân hồn (tinh thần của các anh) vẫn
đi cùng với đồng đội, vẫn sống trong lòng đồng đội: Vang vọng âm hửơng văn tế của Nguyễn Đình Chiểu: “Sống
đánh giặc, thác cũng đánh giặc”.
<b>Câu 5: Ph©n tích bốn câu thơ sau đây trong bài Tây Tiến của Quang </b>
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thớc lên cao, ngàn thớc xuống
Nhà ai Pha Luông ma xa khơi
Hai câu thơ đầu: Diễn tả đợc sự hiểm trở, trùng điệp và độ cao ngất trời của núi đèo Tây Bắc (các từ
đầy giá trị tạo hình: khúc khuỷu, thăm thẳm, cồn mây, súng ngửi trời). Câu thứ nhất nghe nh có hơi thở nặng
nhọc của ngời lính. Cách dùng từ “ngửi trời” của câu thơ thứ hai táo bạo, đồng thời có chất tinh nghịch của ngời
lính.
Hai câu thơ sau: Câu thứ ba nh bẻ đôi, diễn tả dốc vút lên, đổ xuống gần nh thẳng đứng. Đọc câu thứ t, có
thể hình dung đồn qn tạm dừng chân bên một dốc núi, phóng tầm mắt ra xa thấy nhà ai thấp thống qua một
khơng gian mịt mùng sơng rừng ma núi.
Hai câu 3 và 4 phối hợp với nhau tạo ra một âm hởng đặc biệt (câu thứ 4 toàn thanh bằng).
<b>Câu 6. Phân tích và phát biểu cảm nghĩ của mình về đoạn sau:</b>
u cú mt phần đất nớc
…..……...
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên đất nớc muôn đời”
Trong phần đầu của đoạn thơ, tác giả đã cảm nhận về đất nớc một cách trọn vẹn, tổng hợp từ nhiều bình diện:
thời gian lịch sử và không gian địa lý, huyền thoại, truyền thuyết và đời sống sinh hoạt hàng ngày của mỗi gia
đình. Đất nớc đợc cảm nhận vừa thiêng liêng, sâu xa lại vừa gần gũi thân thiết. Những dòng thơ ở cuối phần là
một sự cảm nhận sâu sắc và phát hiện mới mẻ của tác giả về đất nớc trong sự sống, tình yêu, trong vận mệnh và
trách nhiệm của mỗi cá nhân.
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất nớc.
§Êt níc không chỉ là núi sông, rừng, biển, không chỉ là lÞch sư dùng
nớc và giữ nớc mà Đất nớc còn đợc kết tinh và tồn tại trong sự sống của mỗi cá nhân, mỗi chúng ta hôm nay.
Quả vậy, sự sinh thành của mỗi cá nhân đều có cội nguồn sâu xa từ dân tộc và được thừa hởng thành quả vật chất
và tinh thần do bao thế hệ tạo dựng lên. Nhng sự sống của mỗi cá nhân chỉ có thể tồn tại và có ý nghĩa trong sự
hài hịa với những cá nhân khác và tồn thể cộng đồng: Khi hai đứa cầm tay ….. Đất nớc vẹn toàn to lớn.
<i> Đất nớc đợc trờng tồn qua sự tiếp nối của các thế hệ và các thế hệ mai sau sẽ đ a đất nớc tới sự phát triển</i>
<i><b>xa hơn, đến “Những tháng ngày mơ mộng”.</b></i>
Những câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm đã phát hiện một chân lí giản dị mà sâu sắc về đất n ớc. Đất nớc không
chỉ là một khách thể ở ngoài mỗi chúng ta mà tồn tại ngay trong cơ thể, trong sự sống mỗi ngời. Đất nớc trở nên
hết sức thiêng liêng mà gần gũi với mỗi ngời. Chân lí ấy một lần nữa đợc tác giả nhắc lại nh lời nhắn nhủ tha
thiết “Em ơi em, đất nớc là máu xơng của mình”. Từ đó dẫn đến lời nhắc nhở về trách nhiệm thiêng liêng của
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phi bit húa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên đất nớc mn đời”.
HS TỰ NÊU KẾT LUẬN
<b>Cõu 7. Vì sao có thể nói t t ởng “ Đất n ớc của nhân dân ” đã qui tụ mọi cách nhìn và đ a đến những phát</b>
<b>hiện độc đáo của tác giả về đất n ớc ?</b>
T tởng “Đất nớc của nhân dân” đã đợc tác giả phát biểu trực tiếp trong phần hai của đoạn thơ “Đất nớc”
nhng đó cũng chính là t tởng bao trùm, là điểm xuất phát và nơi quy tụ mọi cảm xúc và phát hiện của tác giả về
đất nớc trong đoạn thơ.
Đất nớc đợc cảm nhận trong chiều rộng của không gian, trong vẻ đẹp và sự phong phú của núi sông với
những thắng cảnh kì thú. Nhng điều quan trọng là tác giả đã phát hiện ra sự gắn bó sâu xa, mật thiết của thiên
nhiên đất nớc với cuộc sống và số phận của nhân dân, của vơ vàn những con ngời bình dị:
<i><b>“Những ngời vợ nhớ chồng góp cho đất nớc những núi Vọng phu</b></i>
<i><b>Cặp vợ chồng u nhau góp nên hịn Trống mái...</b></i>
<i><b>Ngời học trị nghèo góp cho đất nớc mình núi Bút non Nghiên.”</b></i>
Nhìn vào thiên nhiên đất nớc, nhà thơ đã “đọc” đợc tâm hồn, những ớc vọng và sự gửi gắm của bao thế hệ
con ngời. Từ đó tác giả cảm nhận đợc một chân lí hiển nhiên và sâu xa:
“Ơi đất nớc, sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy,
Những cuộc đời đã hóa núi sơng ta”
Khi nói về lịch sử bốn nghìn năm dựng nớc và giữ nớc của dân tộc tác giả không nêu các triều đại, các
anh hùng nổi tiếng mà mọi ngời đều nhớ, mà trớc hết nhắc đến vơ vàn những con ngời bình thờng, vơ danh,
những ngời “không ai nhớ mặt đặt tên, họ đã sống và chết, giản dị, bình tâm. Nhng chính họ đã làm ra đất nớc”.
Đất nớc còn đợc cảm nhận trong chiều sâu của văn hóa, lối sống, phong tục, của tâm hồn và tính cách dân
tộc. Để nói về những phơng diện đó, Nguyễn Khoa Điềm cũng lại tìm về với nguồn phong phú của văn hóa dân
gian. Nhân dân khơng chỉ là ngời sáng tạo lịch sử, tạo dựng nên các giá trị vật chất mà còn là ngời sáng tạo và lu
truyền các giá trị văn hóa, tinh thần của dân tộc. Họ đã “truyền lửa qua mỗi ngôi nhà, truyền giọng điệu mình
cho con tập nói”. Cịn vẻ đẹp tâm hồn dân tộc đã đợc kết đọng trong kho tàng phong phú, mĩ lệ của ca dao, dân
ca, tục ngữ, truyền thuyết và cổ tích. Bởi vậy Nguyễn Khoa Điềm đã rất có lí khi nêu một định nghĩa “Đất nớc
của ca dao thần thoại” tiếp liền sau mệnh đề “Đất nớc của nhân dân”.
<b>Câu 8: “ BỨC TRANH VIỆT BẮC RA QUÂN LÀ MỘT BỨC TRANH HÙNG TRÁNG, TRÀN ĐẦY</b>
<b>KHÍ THẾ CHIẾN THẮNG CỦA QUÂN DÂN TA”.EM HÃY PHÂN TÍCH ĐOẠN THƠ SAU TRONG</b>
<b>BÀI “VIỆT BẮC” CỦA TỐ HỮU ĐỂ LÀM SÁNG TỎ Ý KIẾN TRÊN:</b>
<b>“ Những đường Việt Bắc của ta</b>
<b>………..</b>
<b>Đèn pha bật sáng như ngày mai lên”</b>
Việt Bắc khơng chỉ là khúc ca ân tình mà cịn là bản tổng kết bằng thơ mười lăm năm cách mạng.Bên
cạnh những dịng thơ trữ tình ngọt ngào,ta lại gặp những khúc ca anh hùng đầy khí thế chiến thắng của quân dân
ta,mà tiêu biểu là đoạn thơ trên
(HS ghi lại lời dẫn và trích đoạn thơ vào)
CHUYỂN Ý
Bức tranh Việt Bắc ra quân được tác giả miêu tả thật hoành tráng,với hào khí ngất trời của những con
người mới xuất quân mà như đã cầm chắc chiến thắng trong tay
“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung”
Người đọc tưởng như mặt đất đang chuyển động dưới bàn chân những người chiến sĩ trong cuộc ra quân vĩ đại
từ khắp các ngã đường của căn cứ địa cách mạng.
Đến hai câu 3 và 4,hình ảnh quân đi rất đẹp. Đẹp trong đội ngũ điệp điệp trùng trùng như một sức mạnh vô
biên. Đẹp trong ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan,gợi ta nhớ hình ảnh “đầu súng trăng treo” của Chính Hữu.
Cái ánh sao ở đây vừa như gần gũi thân thuộc với mũ nan của người chiến sĩ,l ại như rực sáng lí tưởng trên đầu
mũi súng người lính. Một hình ảnh thơ vừa hiện thực vừa lãng mạn, gợi nhiều liên tưởng đẹp về anh bộ đội cụ
Hồ.
Đến hai câu 5 và 6, tác giả miêu tả hình ảnh đồn dân cơng phục vụ tiền tuyến
“Dân cơng đỏ đuốc từng đồn
Bước chân nát đá mn tàn lửa bay”
Trong kháng chiến chống pháp, ban ngày là của địch còn ban đêm là thời gian của ta. Hình ảnh những đồn dân
cơng đỏ đuốc đi trong đêm là đúng với hiện thực, nhưng với hình ảnh đuốc đỏ rực ấy cùng với mn tàn lửa bay
thì lại lãng mạng biết bao. Hình ảnh bước chân nát đá rất thậm xưng, gợi lên hình ảnh con người đạp bằng mọi
chơng gai, khó khăn để vươn tới.
Đến hai câu cuối: “Màn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên”
Hai câu cuối là hình ảnh của những đoàn xe ra trận mà đèn pha bật sáng quét sạch mọi màn sương đêm dày
thăm thẳm của núi rừng Việt Bắc.Rất hiện thực và cũng rất lãng mạn. Đằng sau cái nghĩa thực,câu thơ còn mang
Tóm lại, chỉ tám câu thơ, Tố Hữu đã dựng lên bức tranh Việt Bắc ra quân thật đẹp. Bức tranh không chỉ
làm sống dậy những ngày tháng hào hùng của quân dân ta trên căn cứ địa cách mạng, mà còn đem đến cho ta
niềm tin yêu quê hương cách mạng anh hùng.
<b>Câu 9: Phân tích đoạn thơ sau trong bài thơ:”Việt Bắc”của Tố Hữu</b>
<b>“Ta về mình có nhớ ta</b>
<b>………</b>
Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu được sáng tác vào tháng 10/1954, sau thắng lợi của cuộc kháng chiến
chín năm chống Pháp. Đây là một trong những bài thơ có giá trị của thơ ca hiện đại.
Bao trùm bài thơ là nỗi nhớ tha thiết và tình cảm gắn bó đằm thắm sắt son của nhân dân Việt Bắc với Bác
với đảng, với cách mạng và sự quyến luyến chân thành giữa cán bộ, chiến sĩ ta với Việt Bắc. Đoạn thơ sau
đây thể hiện nghĩa tình sâu nặng giữa người ra đi và người ở lại.
<b>“Ta về mình có nhớ ta</b>
<b>………</b>
<b>Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”</b>
Mở đầu đoạn thơ là câu hỏi “Ta về mình có nhớ ta” gợi người đọc nhớ đến cách giải bày tình cảm
tha thiết và ý nhị trong ca dao xưa “Mình về có nhớ ta chăng
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười”. Dưới ngịi bút của Tố Hữu, những yếu tố truyền thống của văn học dân
gian được vận dụng để thể hiện tình cảm gắn bó thủy chung giữa nhân dân với cán bộ cách mạng. Từ cách
Mảnh đất Việt Bắc, con người Việt Bắc đã để lại bao kỉ niệm khó phai trong lịng người ra đi. Người
từ giã chiến khu về xi nhớ Việt Bắc qua những hình ảnh thật đẹp đẽ trong sáng:
<b>“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi</b>
<b>Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”</b>
Nhớ cảnh, nhớ người cứ đan quyện vào nhau. Quên sao được những rừng mơ nở trắng ngày xuân. Hình
ảnh thân thương của những con người đan nón chuốt từng sợi dang, gởi gắm những tấm lịng trong chiếc nón
gửi tặng người chiến sĩ. Thiên nhiên Việt Bắc mùa nào cũng có riêng một vẻ đẹp diệu kì. Mùa hè có tiếng
ve ran như nhịp phách ròn rã của rừng. Trên cái nền chung ấy, thấp thống hình bóng con người hái măng.
Rồi đêm thu trăng đẹp nơi chiến khu, rộn ràng tiếng hát ân tình thủy chung, thể hiện tình quân dân cá nước.
Tám câu thơ tràn ngập ánh sáng và đường nét, màu sắc tươi sáng. Mỗi câu như một bức tranh tuyệt
đẹp về phong cảnh từng mùa. Và con người với những hoạt động quen thuộc là một bộ phận không thể
thiếu trong khung cảnh ấy. Con người hòa với thiên nhiên làm một
Nhịp điệu thơ chậm rãi, êm đềm, lắng sâu vào tâm hồn, gợi về những kỉ niệm thiêng liêng trong đời
sống tâm linh của con người.
<b>Câu 10: Em hãy phân tích hình tượng sóng trong bài thơ cùng tên của Xuân Quỳnh. Em cảm nhận</b>
<b>được gì về tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu trong bài thơ này ?</b>
Sóng là bài thơ tình đặc sắc của Xuân Quỳnh. Sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ cũng như
những sáng tạo nghệ thuật trong bài thơ đều gắn liền với hình tượng trung tâm-hình tượng sóng. Cả bài thơ
là những con sóng tâm tình của tác giả được khơi dậy khi đứng trước biển cả. Sóng là hình tượng ẩn dụ, nó
là sự hố thân của cái tơi trữ tình của nhà thơ, lúc thì hồ nhập, lúc lại là sự phân thân của “em”. Người phụ
Đi vào những biểu hiện cụ thề của hình tượng sóng, lại thấy rõ mỗi trạng thái tâm hồn lại tìm thấy
một sự tương hợp với một đặc tính của con sóng:
Những trạng thái thật là đối cực, trái ngược trong lịng của con sóng. Với khát vọng lớn lao như thế,sóng
khơng chịu dừng lại ở sơng mà lại tìm ra tận bể:
“Sông không hiểu nỗi mình
Sóng tìm ra tận bể”
Hành trình ra bể rộng từ bỏ giới hạn chật chội, tìm đến tận chân trời bao la của tâm hồn. Ra đến bể rộng
con sóng mới thực sự tìm thấy mình, nhận thức được sức mạnh và mọi khát khao của nó.
Sóng là vĩnh hằng với thời gian, cũng như nỗi khát vọng tình u của lồi người nó lúc nào cũng bồi
hồi trong lịng ngực của tuổi trẻ:
“ƠI con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”
Sóng nhận thức về cái qui luật khơng thể cắt nghĩa được của tình u:
“Sóng bắt đầu từ gió
Gío bắt đầu từ đâu
Em cũng khơng biết nữa
Sóng thể hiện nỗi nhớ da diết, giày vị, nó chốn đầy cả khơng gian, cả tầng sâu và bề rộng, trải dài trong
mọi thời gian và cả trong tiềm thức-trong mơ:
“Con sóng dưới lịng sâu
Con sóng trên mặt nước
ƠI con sóng nhớ bờ
Ngày đêm khơng ngủ được”
Cũng như nỗi nhớ trong lòng người phụ nữ:
“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
Nếu như ở trên con sóng thể hiện sự vộ biên và những bí ẩn của tình u thì ở đoạn thơ này, những khao
khát của sóng lại thật là rõ ràng và giản dị: con sóng khao khát tới bờ như em mong và nhớ anh. Tình yêu
của người phụ nữ thật mãnh liệt nhưng cũng thật trong sáng, thuỷ chung.
Cuối cùng sóng cũng nói giúp cho nhà thơ nỗi khát vọng được sống trọn vẹn, hết mình trong tình u
và mong muốn được hồ nhập với cái vĩnh hằng bằng chính tình u của mình:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình u
Để ngàn năm cịn vỗ”
Tóm lại, qua hình tượng sóng và cả bài thơ,chúng ta cảm nhận được sức sống và vẻ đẹp của tâm hồn
người phụ nữ trong tình yêu. Người phụ nũ ấy mạnh bạo, chủ động bày tỏ những khát khao và rung động
“vì tình u mn thuở
Có bao giờ đứng yên”
<b>Câu 11: Nêu cảm nhận của em về bốn câu thơ sau trong bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm ?</b>
“Em ơi em Đất nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hố thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất nước muôn đời...”
Đoạn thơ như một lời nhắn nhủ thiết tha. Mở đầu bằng tiếng gọi tha thiết: Em ơi em... khiến tính chính luận
khơng mang màu sắc giáo huấn mà như một lời tự nhủ tự dặn chân thành: sự sống của mỗi cá nhân không phải
là chỉ riêng của cá nhân mà còn là của đất nước, bởi mỗi cuộc đời đều được thừa hưởng những di sản văn hóa
tinh thần vật chất của dân tộc, mỗi cá nhân phải có trách nhiệm gìn giữ, phát triển nó, truyền lại cho các thế hệ
tiếp theo.
Trách nhiệm của mỗi cá nhân không chỉ là bổn phận bảo vệ biên cương địa giới, tiếp nối truyền thống lịch sử,
mà cịn ở việc bảo lưu văn hóa phong tục, giữ gìn nét đẹp tâm hồn tính cách dân tộc. Q khứ ln có mặt trong
hiện tại, lịch sử luôn hiện diện với hôm nay, trong miếng trầu của bà, búi tóc của mẹ là cả truyền thống 4000
năm tuổi. Hạt gạo một nắng hai sương hôm nay cũng là những hạt gạo nuôi dưỡng dân tộc Việt 4000 năm qua.
Trách nhiệm của mỗi người đối với đất nước trong hiện tại là sự trân trọng đối với quá khứ là xây dựng nền tảng
cho tương lai, làm nên huyết mạch ni dưỡng có thể đất đai, tạo sức sống trường cửu của dân tộc.
Có lẽ trong thơ ca chưa có ai nói một cách chân thành, xúc động và thấm thía đến thế về trách nhiệm của mỗi cá
nhân đối với dân tộc đất nước Nguyễn Khoa Điềm trong trích đoạn “Đất nước” này: Đất nớc khơng chỉ là một
khách thể ở ngồi mỗi chúng ta mà tồn tại ngay trong cơ thể, sự sống của mỗi con ng ười. Sự sống của mỗi cá
nhân chỉ có ý nghĩa trong sự trường tồn của đất nước.
<b>Câu 12: Nêu cảm nhận của em về bốn câu thơ sau đây trong bài Tây Tiến của Quang Dũng:</b>
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Hai câu thơ đầu: Diễn tả được sự hiểm trở, trùng điệp và độ cao ngất trời của núi đèo Tây Bắc (chú ý các từ đầy
giá trị tạo hình: khúc khuỷu, thăm thẳm, cồn mây, súng ngửi trời). Câu thứ nhất nghe như có hơi thở nặng nhọc
của người lính. Cách dùng từ “ngửi trời” của câu thơ thứ hai táo bạo, đồng thời có chất tinh nghịch của người
lính.
Hai câu thơ sau: Câu thứ ba như bẻ đôi, diễn tả dốc vút lên, đổ xuống gần như thẳng đứng. Đọc câu thứ tư, có
thể hình dung đồn qn tạm dừng chân bên một dốc núi, phóng tầm mắt ra xa thấy nhà ai thấp thống qua một
khơng gian mịt mùng- sương rừng mưa núi.
Hai câu 3 và 4 phối hợp với nhau tạo ra một âm hưởng đặc biệt (câu thứ 4 tồn thanh bằng).
Có thể liên hệ đến âm hưởng của hai câu thơ của Tản Đà trong bài Thăm mả cũ bên đường: “Tài cao phận thấp
chí khí uất - Giang hồ mê chơi qn q hương” (Tản Đà tả tình, cịn Quang Dũng tả cảnh).