Lời nói đầu:
Quá trình sản xuất là một quá trình thống nhất bao gồm hai mặt: mặt hao
phí sản xuất và mặt kết quả sản xuất. Hai khái niệm tơng ứng để đo lờng hai mặt
đó về giá trị là chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. Với ý nghĩa đó, chi phí sản
xuất và giá thành sản phẩm có một vị trí rất quan trọng trong hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Có thể nói, tổ chức hạch toán quá trình sản xuất
bao gồm hai giai đoạn kế tiếp nhau đó là hạch toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm.
Trong điều kiện nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trờng, các doanh
nghiệp buộc phải cạnh tranh, hạch toán kinh doanh thì việc hạch toán chi phí sản
xuất và tính giá thành sản phẩm càng cần thiết, tiết kiệm chi phí hạ giá thành là
tăng thu nhập vừa là vũ khí cạnh tranh cuả doanh nghiệp. Trong các chỉ tiêu về
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì giá thành chiếm một vị trí đặc
biệt. Gía thành là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh chất lợng toàn bộ hoạt
động sản xuất kinh doanh và quản lý kinh tế của doanh nghiệp, giá thành cao hay
thấp phản ánh mọi cố gắng cuả doanh nghiệp nh trình độ tổ chức, kỹ thuật và
trình độ tổ chức sản xuất... , tất cả mọi mặt hoạt động, các biện pháp chi tiêu,
biện pháp quản lý có đem lại hiệu quả hay không đều thể hiện qua chỉ tiêu giá
thành, về góc độ này giá thành thực hiện chức năng bù đắp chi phí, phản ánh mức
độ tích luỹ của doanh nghiệp. Mặt khác, giá thành còn có chức năng lập giá, lúc
này nó thể hiện là vũ khí cạnh tranh hiệu quả của doanh nghiệp. Nh vậy, giá
thành sản phẩm đợc đặt trong nhiều mối quan tâm của đối tợng sử dụng thông tin.
Do đó là tiết kiệm chi phí hạ giá thành đồng thời cung cấp thông tin chính xác về
chúng là yêu cầu đặt ra có tính cấp thiết.
Trên phơng diện quản lý, kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm là một
công cụ đáp ứng yêu cầu trên một cách hiệu quả.
Trong doanh nghiệp xây dựng nói riêng, với vị trí là ngành sản xuất vật
chất duy nhất có nhiệm vụ tái sản xuất tài sản cố định cho xã hội, luôn chiếm mức
vốn đầu t cao, đặc điểm kinh tế-kĩ thuật phức tạp và vừa đợc đặt trong môi trờng
cạnh tranh gay gắt của thị trờng vừa lại chịu sự quản lý chặt chẽ của nhà nớc thì
việc kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phxẩm càng trở nên cần thiết.
Đứng trớc vấn đề đó, trong thời gian nghiên cứu lý luận trong trờng học và
thời gian thực tập tại Công ty xây dựng số 34, đợc sự giúp đỡ của thầy giáo
Nguyễn Ngọc Quang và phòng tài chính-kế toán công ty, em đã chọn đề tài
Hoàn thiện công tác hạch toàn chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại
công ty xây dựng số 34 làm chuyên đề thực tập của mình. Bố cục đề tài ngoài lời
nói đầu và kết luận gồm có 3 chơng:
1
Chơng I: Lý luận chung về kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành sản
phẩm ở các doanh nghiệp xây dựng.
Chơng II: Thực trạng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
tại công ty xây dựng số 34.
Chơng III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và
tính giá thành sản phẩm tại công ty xây dựng số 34.
Trong bài viết của mình, em đã cố gắng tìm tòi để hoàn thành chuyên đề
song do kiến thức có hạn nên không tránh khỏi sai sót. Em kính mong đợc sự giúp
đỡ của các thầy cô giáo để đề tài của em đợc hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cám ơn các thầy giáo, cô giáo!
2
Nội dung:
Chơng I: Lý luận chung về kế toán
tập hợp chi phí và tính giá thành sản
phẩm ở doanh nghiệp xây dựng.
I-đặc điểm của ngành xây dựng và sản phẩm xây lắp-
yêu cầu công tác quản lý, kế toán chi phí sản xuất và
tính giá thành sản phẩm.
1/ Đặc điểm của ngành xây dựng và sản phẩm xây lắp.
Xây dựng cơ bản là một ngành sản xuất độc lập và duy nhất có chức năng
tạo ra và trang bị tài sản cố định cho tất cả các ngành kinh tế, tạo tiền đề cho sự
phát triển kinh tế của đất nớc. Vì vậy, nó có vai trò đặc biệt quan trọng trong xã
hội, sản phẩm của ngành xây dựng không chỉ có ý nghĩa trong phạm vi một doanh
nghiệp mà còn có ý nghĩa với toàn bộ nền kinh tế. Sau những năm thực hiện
chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế mới, cũng nh tất cả các ngành trong cả nớc,
ngành xây dựng cơ bản ngày một thích nghi và phát triển. Với mục tiêu công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, ngành xây dựng cơ bản lại càng khẳng định đợc vị trí
của mình, đợc Đảng và Nhà nớc quan tâm nhiều hơn. Vì vậy, phần lớn thu nhập
quốc dân nói chung và tích luỹ nói riêng cùng với vốn đầu t tài trợ từ nớc ngoài đ-
ợc sử dụng trong lĩnh vực xây dựng cơ bản. Hàng năm ngành xây dựng cơ bản
thu hút gần 30% tổng số vốn đầu t trong cả nớc. Vấn đề đặt ra là làm sao quản lý
vốn có hiệu quả, khắc phục tình trạng thất thoát vốn, lãng phí trong thi công, tiết
kiệm chi phí, hạ giá thành, tăng tính cạnh tranh cho các doanh nghiệp.
So với những ngành sản xuất khác, ngành xây dựng cơ bản có những đặc
điểm kinh tế- kĩ thuật đặc trng thể hiện rất rõ ở sản phẩm và quá trình sáng tạo ra
sản phẩm của ngành. Do vậy, công tác kế toán trong các doanh nghiệp xây dựng
cơ bản phải có nét đặc trng riêng phù hợp để thực hiện tốt nhất chức năng của kế
toán là thông tin và phản ánh, đồng thời cũng phải phù hợp với những chuẩn mực
kế toán chung đợc thừa nhận.
Thông thờng, sản phẩm xây dựng ở doanh nghiệp đợc thực hiện thông qua
hình thức nhận thầu hoặc theo đơn đặt hàng, sản phẩm xây lắp đợc tiêu thụ theo
giá dự toán hoặc giá thoả thuận với chủ đầu t (giá đấu thầu), sản phẩm sản xuất
xong không phải đem đi tiêu thụ và khách hàng đã đợc xác định trớc khi thực hiện
quá trình sản xuất sản phẩm. Vì vậy, các chi phí lu thông trong các doanh nghệp
này là không có. Chi phí phát sinh chủ yếu trong quá trình cung ứng và quá trình
sản xuất. Trong quá trình sản xuất, doanh nghiệp sẽ không phải tiến hành các
hoạt động xúc tiến tiêu thụ nhng mặt khác lại phải có quan hệ chặt chẽ với khách
3
hàng về việc bảo đảm quá trình sản xuất theo đúng tiến độ cũng nh chất lợng công
trình và đó chính là việc xúc tiến tiêu thụ trong tơng lai. Phù hợp với đặc điểm
này, kế toán chỉ tập trung theo dõi và tập hợp chi phí trong quá trình sản xuất.
Sản phẩm xây lắp là những công trình xây dựng, vật kiến trúc... - nó mang
tính tổng hợp về nhiều mặt kinh tế, văn hoá, chính trị, xã hội... có quy mô lớn,
kết cấu phức tạp có tính đơn chiếc, thời gian sản xuất lâu dài. Đặc điểm này đòi
hỏi việc tổ chức quản lý và hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành phải xác
định cho mình một phơng pháp và trình tự hạch toán thích hợp, linh hoạt, hiệu
quả đảm bảo phản ánh đợc đầy đủ và chính xác các chi phí phát sinh. Thông th-
ờng, trớc khi tiến hành xây lắp sản phẩm phải qua các khâu từ lập dự án rồi đến dự
toán công trình. Dự toán công trìnhlà tổng mức phí cần thiết cho việc xây lắp công
trình, đợc tính toán cụ thể ở giai đoạn thiết kế kĩ thuật. Tổng dự toán công trình
có liên quan đến khảo sát thiết kế, xây dựng, mua sắm thiết bị và các chi phí
khác bao gồm cả chi phí dự phòng và yếu tố trợt giá. Dự toán chi phí bao gồm dự
toán thiết kế và dự toán thi công đợc lập cho từng phần việc cụ thể, quá trình sản
xuất xây lắp phải so sánh với dự toán và lấy dự toán làm thớc đo cả về mặt giá trị
lẫn mặt kĩ thuật.
Sản phẩm xây lắp cố định tại nơi sản xuất còn các điều kiện của sản xuất
(xe máy, thiết bị thi công, vật t, ngời lao động...) phải di chuyển theo địa điểm
của công trình. Mặt khác, hoạt động xây dựng cơ bản chủ yếu đợc tiến hành ở
ngoài trời, thờng chịu ảnh hởng của điều kiện thiên nhiên và môi trờng: ma,
nắng, gió, bão,... dễ dẫn đến mất mát h hỏng và không có tính ổn định. Vì vậy
công tác quản lý, sử dụng và hạch toán vật t tài sản gặp nhièu khó khăn và phức
tạp.
Thời gian sử dụng sản phẩm rất lâu dài, đòi hỏi việc tổ chức quản lý và hạch
toán sao cho chất lợng công trình đợc bảo đảm đúng dự toán thiết kế nghĩa là phải
bảo đảm phản ánh chính xác và đúng theo từng thời điểm phát sinh.
2/Yêu cầu của công tác quản lý và kế toán chi phí sản xuất, tính giá
thành sản phẩm xây lắp trong doanh nghiệp xây dựng.
Do vị trí quan trọng của ngành xây dựng cơ bản và đặc thù sản xuất của nó
mà việc quản lý về đầu t và xây dựng là một quá trình khó khăn và phức tạp. Để
quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu t, Nhà nớc đã ban
hành những quy chế quản lý phù hợp. Yêu cầu cơ bản của quản lý đầu t và xây
dựng là:
1. Bảo đảm đúng mục tiêu chiến lợc phát triển kinh tế- xã hội trong từng
thời kỳ theo định hớng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hớng công nghiệp háo-hiện đại hoá, đẩy nhanh tốc độ tăng trởng kinh tế,
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
4
2. Huy động và sử dụng có hiệu quả cao nhất các nguồn vốn đầu t trong nớc
cũng nh của nớc ngoài đầu t tại Việt Nam, khai thác tốt tài nguyên và tiềm năng
ngời lao động, đất đai và mọi tiềm lực khác, đồng thời bảo vệ môi trờng sinh thái,
chống hành vi tham ô, lãng phí trong hoạt động đầu t và xây dựng.
3. Xây dựng theo quy hoạch, kiến trúc và thiết kế kỹ thuật đợc duyệt, bảo
đảm bền vững, mỹ quan, thực hiện cạnh tranh trong xây dựngnhằm áp dụng công
nghệ xây dựng tiên tiến, bảo đảm chất lợng và thời hạn xây dựng với chi phí hợp
lý và thực hiện bảo hành công trình.
(Trích điều lệ quản lý đầu t và xây dựng ban hành kèm theo Nghị định số
42/CP ngày 16/7/1996 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung Nghị định 177/CP)
Trớc đây xây dựng cơ bản là một lỗ hỏng lớn làm thất thoát nguồn vốn đàu
tcủa Nhà nớc. Để hạn chế sự thất thoát này, Nhà nớc thực hiện quản lý giá xây
dựng thông qua các chế độ chính sách về giá, các nguyên tắc, phơng pháp lập dự
toán... để xác định tổng mức vốn đầu t, tổng dự toán công trình. Đặc biệt tiết
kiệm chi phí, hạ giá thành là là mối quan tâm hàng đầu, là nhiệm vụ hết sức quan
trọng.
Hiện nay, trong lĩnh vực xây dựng cơ bản chủ yếu áp dụng phơng pháp đấu
thầu, giao nhận thầu xây dựng, trong đó phơng pháp đấu thầu đợc Nhà nớc
khuyến khích áp dụng. Vì vậy để trúng thầu, đợc nhận thi công một công trình thì
doanh nghiệp phải có một giá đấu thầu hợp lý dựa trên cơ sở các định mức, các
đơn giá xây dựng cơ bản do Nhà nớc ban hành trên cơ sở giá cả thị trờng và khả
năng của bản thân doanh nghiệp, mặt khác, lại phải đảm bảo kinh doanh có lãi
tức là doanh nghiệp luôn luôn phấn đấu tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm.
Để thực hiện đợc các yêu cầu trên, đơn vị phải biết sử dụng nhiều biện pháp khác
nhau. Đứng trên góc độ quản lý thì cần phải biết nguồn gốc hay con đờng hình
thành nó để trên cơ sở đó, quản lý mới đề ra đợc biện pháp cần thiết hạn chế, loại
trừ ảnh hởng của các nhân tố tiêu cực, khuyến khích phát huy mức độ ảnh hởng
của các nhân tố tích cực, khai thác khả năng tiềm tàng trong quản lý sử dụng các
nguồn lực. Do đó, phải tăng cờng công tác quản lý kinh tế nói chung, quản lý chi
phí, giá thành nói riêng, trong đó trọng tâm là công tác kế toán chi phí sản xuất
và tính giá thành sản phẩm đảm bảo phát huy tối đa tác dụng của công cụ kế toán
đối với quản lý sản xuất.
Yêu cầu đặt ra cho công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm là:
Phải phản ánh kịp thời, đầy đủ, chính xác toàn bộ chi phí thực tế phát
sinh trong quá trình sản xuất, thi công.
Phân bổ hợp lý các chi phí sản xuất theo từng khoản mục vào các đối t-
ợng tập hợp chi phí. Căn cứ vào đặc điểm tổ chức sản xuất và quy trình công nghệ
mà áp dụng phơng pháp tính giá thành thích hợp.
5
Tính toán chính xác, phân bổ kịp thời giá thành xây lắp theo đối tợng
tính giá thành.
Kiểm tra tình hình thực hiện các định mức về các chi phí về vật t, nhân
công, sử dụng máy và các dự toán chi phí khác, phát hiện kịp thời các khoản khi
phí chênh lệch so với định mức, các khoản chi phí ngoài kho, các khoản thiệt hại
mất mát h hỏng... để đề ra các biện pháp ngăn chặn kịp thời.
Kiểm tra việc thực hiện giá thành của doanh nghiệp theo từng công trình,
hạng mục công trình, vạch ra các khả năng tiềm tàng và có biện pháp hạ giá thành
hợp lý và có hiệu quả.
Xác định đúng đắn và bàn giao tính toán kịp thời khối lợng công tác xây
lắp hoàn thành, định kỳ kiểm tra và đánh giá khối lợng thi công dở dang theo
nguyên tắc quy định.
Thông qua việc ghi chép, phản ánh tính toán để đánh giá đúng kết quả
hoạt động sản xuất kinh doanh của từng công trình, hạng mục công trình, từng bộ
phận, tổ đội thi công và toàn doanh nghiệp trong từng thời kỳ nhất định. Kịp thời
lập các báo cáo kế toán về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp. Cung
cấp chính xác, đầy đủ thông tin về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm phục vụ
cho quản lýcủa lãnh đạo doanh nghiệp, đồng thời kiểm tra dợc việc thực hiện kế
hoạch hạ giá thành và nhiệm vụ hạ giá thành, vạch ra đợc những nguyên nhân làm
cho hoàn thành hoặc cha hoàn thành kế hoạch, khai thác những khả năng tiềm
tàng và đề ra những phơng hớng phấn đấu để không ngừng hạ gía thành sản phẩm
thực tế.
Để thực hiện đợc các yêu cầu trên, nhiệm vụ đặt ra cho công tác hạch toán
chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là:
Xác định đúng đối tợng tập hợp chi phí sản xuất, chọn phơng pháp tập
hợp và phân bổ chi phí thích hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh.
Xác định đúng đối tợng tính giá thành và lựa chọn phơng pháp tính giá
thành thích hợp. Tổ chức tốt việc tính giá thành sản phẩm.
Xây dựng quy tắc tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm của doanh
nghiệp, quy định trình tự công việc phân bổ chi phí cho từng đối tợng, từng chi
tiết sản phẩm.
II-bản chất và nội dung kinh tế của chi phí sản xuất và giá
thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây dựng.
1/ Khái niệm và phân loại chi phí sản xuất
6
1. 1. Khái niệm:
Sự phát sinhvà phát triển của xã hội loài ngời gắn liền vơí quá trình sản
xuất. Nền sản xuất xã hội của bất kỳ phơng thức sản xuất nào cũng gắn liền với sự
vận động và tiêu hao các yếu tố cơ bản. Nói cách khác, thực chất của hoạt động
sản xuất kinh doanh các yếu tố sản xuất bỏ ra và sự biến đổi chúng có mục đích
thành sản phẩm cuối cùng. Một doanh nghiệp để tiến hành hoạt động sản xuất
kinh doanh bình thờng thì không có gì thay thế là phải kết hợp hài hoà ba yếu tố
cơ bản:
-T liệu lao động: Nh nhà xởng, máy móc thiết bị và những tài sản cố định
khác.
-Đối tợng lao động:Nh nguyên vật liệu, nhiên liệu,. . .
-Lao động của con ngời
Qúa trình sử dụng các yếu tố cơ bản trong quá trình sản xuất đồng thời cũng
là qúa trình doanh nghiệp phải chi ra những chi phí tơng ứng. Tơng ứng với việc sử
dụng tài sản cố định là chi phí về khấu hao tài sản cố định, với việc sử dụng
nguyên vật liệu, nhiên liệu... là chi phí nguyên vật liệu, với việc sử dụng là tiền
công, tiền trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế... Vì thế, sự hình thành nên chi
phí sản xuất để tạo ra giá trị sản phẩm là tất yếu khách quan không phụ thuộc vào
ý chí chủ quan của ngời sản xuất. Trong điều kiện nền kinh tế thị trờng, mọi chi
phí trên đều biểu hiện bằng tiền, chi phí về tiền công là biểu hiện bằng tiền của
hao phí về lao động sống và chi phí về khấu hao tài sản cố định, chi phí về nguyên
vật liệu... là biểu hiện bằng tiền của hao phí về lao động vật hoá.
Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phát sinh thờng xuyên trong
suốt quá trình tồn tại và hoạt động của doanh nghiệp nhng để phục vụ cho quản lý
và hạch toán kinh doanh, chi phí sản xuất phải đợc tính toán tập hợp theo từng
thời kỳ: hàng tháng, hàng quý, hàng năm phù hợp với kỳ báo cáo.
Cần chú ý phân biệt giữa chi phí và chi tiêu. Chi phí là biểu hiện bằng tiền
của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá cần thiết cho quá trình
hoạt động sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp phải chi ra trong một kỳ kinh
doanh. Nh vậy chỉ đợc tính chi phí của kỳ hạch toán những hao phí về tài sản và
lao động có liên quan đến khối lợng sản phẩm sản xuất ra trong kỳ chứ không
pghải mọi khoản chi ra trong kỳ hạch toán. Ngợc lại chi tiêu là sự giảm đi đơn
thuần các loại vật t, tài sản tiền vốn của doanh nghiệp, bất kể nó đợc dùng vào
mục đích gì. Tổng số chi tiêu trong kỳ của doanh nghiệp bao gồm chi tiêu cho
quá trình cung cấp(chi mua sắm vật t hàng hoá), chi tiêu cho quá trình sản xuất
kinh doanh (chi cho quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm, công tác quản lý...) và
chi cho quá trình tiêu thụ (chi vận chuyển, bốc dỡ, quảng cáo... )
7
Chi phí và chi tiêu là hai khái niệm khác nhau nhng có quan hệ mật thiết với
nhau. Chi tiêu là cơ sở phát sinh của chi phí, không có chi tiêu thì không có chi
phí. Tổng số chi phí trong kỳ của doanh nghiệp bao gồm toàn bộ giá trị tài sản
hao phí hoặc tiêu dùng hết cho quă trình sản xuất kinh doanh tính vào kỳ này. Chi
phí và chi tiêu không những khác nhau về lợmg mà còn khác nhau về thời gian.
Có những khoản chi tiêu kỳ nàynhng cha đợc tính vào chi phí(chi mua nguyên vật
liệu về nhập kho nhng cha sử dụng) và cũng có những khoản tính vào chi phí kỳ
này nhng thực tế cha chi tiêu(chi phí trích trớc). Sở dĩ có sự khác biệt giữa chi phí
và chi tiêu trong các doanh nghiệp là do đặc điểm tính chất vận động và phơng
thức chuyển dịch giá trị của từng loại tài sản vào quả trình sản xuất và yêu cầu
hạch toán chúng.
Có thể kết kuận rằng: Chi phí sản xuất kinh doanh là biểu hiện bằng tiền
của toàn bộ hao phí mà doanh nghiệp phải tiêu dùng trong một kỳ để thực hiện
quá trình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Thực chất, chi phí là sự chuyển dịch vốn,
chuyển dịch giá trị của các yếu tố sản xuất vào các đối tợng tính giá(sản phẩm,
lao vụ, dịch vụ... )
Chi phí phát sinh để phục vụ nhiều chức năng trong doanh nghiệp, bao gồm
chức năng sản xuất, chức năng tiêu thụ, chức năbg quản lý doanh nghiệp. Chi
phí sản xuất là chi phí thực hiện chức năe\ng sản xuất, nó đợc tập hợp từ các
khoản chi phí phát sinh trong quá trình chế biến sản phẩm, khoản chi phí này đợc
tính vào giá thành sản xuất sản phẩm.
Nh vậy, chi phí sản xuất trong ngành xây dựng cơ bản là biểu hiện bằng
tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống, lao động vật hoá và các khoản hao
phí cần thiết khác mà doanh nghiệp bỏ ra để tiến hành hoạt động sản xuất thi
công trong một thời kỳ nhất định.
1. 2. Phân loại chi phí sản xuất.
Trong doanh nghiệp, chi phí sản xuất bao gồm nhiều loại, nhiều khoản
khác nhau cả về tính chất, nội dung, công dụng, vai trò, vị trí... Để thuận lợi
cho công tác quản lý và hạch toán, cần thiết phải tiến hành phân loại chi phí sản
xuất. Xuất phát từ các mục đích và yêu cầu khác nhau của quản lý, chi phí sản
xuất cũng đợc phân loại theo những tiêu thức khác nhau. Phân loại chi phí sản
xuất là việc sắp xếp chi phí vào từng loại, từng nhóm khác nhau sản xuất theo
những đặc trng nhất định.
Xét về mặt lý luận cũng nh trên thực tế, có rất nhiều cách phân loại chi phí
khác nhau nh phân loại theo nội dung kinh tế, theo công dụng, theo vị trí, theo
quan hệ của chi phí với quá trình sản xuất, v. v... Mỗi cách phân loại đều đáp ứng
ít nhiều cho mục đích quản lý, hạch toán, kiểm tra, kiểm soát chi phí phát sinh...
ở các góc độ khác nhau. Vì thế, các cách phân loại đều tồn tại, bổ sung cho nhau
và giữ vai trò nhất định trong quản lý chi phí và tính giá thành sản phẩm. Xuất
phát từ đặc điểm của ngành xây lắp và yêu cầu quản lý của ngành xây dựng cơ
8
bản, việc phân loại chi phí sản xuất có những nét không giống với các ngành sản
xuất khác. Thông thờng, chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp đợc phân
loại theo các phơng pháp sau:
Xét trên góc độ kế toán tài chính: Có một số cách phân loại chủ yếu đợc
sử dụng phổ biến trong hạch toán chi phí và tính giá thành sản phẩm dới đây:
a/Phân loại theo lĩnh vực hoạt động:
Căn cứ vào việc tham gia của chi phí vào hoạt động kinh doanh, toàn bộ chi
phí đợc chia làm 3 loại:
Chi phí sản xuất kinh doanh: Bao gồm những chi phí liên quan đến hoạt
động sản xuất sản phẩm.
Chi phí hoạt động tài chính: Bao gồm những chi phí liên quan đến những
hoạt động về vốn và đầu t tài chính phục vụ cho việc sản xuất, chế tạo sản phẩm.
Chi phí hoạt động bất thờng: Bao gồm những chi phí ngoài dự kiến, có
thể do chủ quan hay khách quan mang lại có liên quan đến hoạt động sản xuất,
chế tạo sản phẩm.
Cách phân loại này giúp cho việc phân định chi phí đợc chính xác, phục vụ
cho việc tính giá thành cũng nh phân tích các nhân tố có ảnh hởng đến chi phí, từ
đó có biện pháp giải quyết thích hợp. Ngoài ra, nó còn giúp xác định chi pghí và
kết quả của từng hoạt động kinh doanh đúng đắn cũng nh lập báo cáo tài chính kịp
thời.
b/Phân loại theo yếu tố chi phí:
Để phục vụ cho việc tập hợp, quản lý chi phí theo nội dung kinh tế ban đầu
đồng nhất của nó mà không kể đến công dụng cụ thể, địa điểm phát sinh thì chi
phí đợc phân loại theo yếu tố. Về thực chất, chỉ có hai yếu tố chi phí là chi phí về
lao động vật hoá và chi phí về lao động sống. Tuy nhiên, để cung cấp thông tin
về chi phí một cách cụ thể hơn nhằm phục vụ cho việc xây dựng và phân tích định
mức vốn lu động, việc lập, kiểm tra và phân tích dự toán, các yếu tố chi phí trên
có thể đợc chi tiết hoá theo nội dung cụ thể của chúng. Tuỳ theo yêu cầu và trình
độ quản lý ở mỗi nớc, mỗi thời kỳ mà mức độ chi tiết của các yếu tố có thể khác
nhau. Theo quy định hiện hành ở Việt Nam, toàn bộ chi phí đợc chia làm 7 yếu
tố sau:
Yếu tố nguyên vật liệu: Bao gồm toàn bộ giá trị nguyên, vật liệu chính,
phụ, phụ tùng thay thế, công cụ, dụng cụ... sử dụng vào sản xuất (loại trừ giá trị
nguyên vật liệu dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi ).
Yếu tố nhiên liệu, động lực đợc sử dụng vào quá trình sản xuất sản phẩm
trong kỳ (trừ số sử dụng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi ).
9
Yếu tố tiền lơng và các khoản phụ cấp lơng: Phản ánh tổng số tiền lơng
và phụ cấp mang tính chất lơng phải trả cho công nhân, nhân viên quản lý tổ đội
thi công.
Yếu tố khấu hao tài sản cố định: Phản ánh tổng số khấu hao tìa sản cố
định phải trích trong kỳ của tất cả các tiài sản cố định dùng cho sản xuất thi công
trong kỳ.
Yếu tố chi phí dịch vụ mua ngoài: Phản ánh toàn bộ chi phí dịch vụ mua
ngoài dùng vào hoạt động sản xuất, thi công trong kỳ.
Yếu tố chi phí khác bằng tiền: Phản ánh toàn bộ chi phí khác bằng tiền
cha phản ánh vào các yếu tố chi phí trên dùng vào hoạt động sản xuất, thi công
trong kỳ.
c/Phân loại theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm:
Căn cứ vào ý nghĩa của chi phí trong giá thành sản phẩm và để thuận tiện
việc tính giá thành toàn bộ, chi phí đợc phân chia theo khoản mục. Cách phân
loại này dựa vào công dụng của chi phí và mức phân bổ chi phí cho từng đối tợng.
Cũng nh cách phân loại theo yếu tố, số lợng các khoản mục tchi phí trong giá
thành sản phẩm tuỳ thuộc vào trình độ nhận thức, trình độ quản lý và hạch toán ở
mỗi nớc, mỗi thời kỳ khác nhau.
Theo quy định hiện hành, chi phí sản xuất ở Việt Nam bao gồm 3 khoản
mục chi phí:
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Phản ánh toàn bộ chi phí về nguyên vật
liệuchính, phụ, nhiên liệu... tham gia trực tiếp vào sản xuất, thi công.
Chi phí nhân công trực tiếp: Gồm tiền lơng, phụ cấp lơng của công nhân,
nhân viên quản lý xí nghiệp, đội thi công.
Chi phí sử dụng máy thi công: Là những chi phí liên quan đến việc việc
sử dụng xe máy thi công phục vụ trực tiếp cho hoạt động xây lắp công trình theo
phơng thức thi công hỗn hợp vừa thủ công vừa kết hợp bằng máy.
Chi phí sản xuất chung: Là những chi phí phát sinh trong phạm vi xí
nghiệp, đội xây dựng, trừ chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công
trực tiếp.
Ngoài ra, khi tính chỉ tiêu giá thành toàn bộ ( giá thành đầy đủ) thì chỉ tiêu
giá thành còn bao gồm cả khoản mục chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh
nghiệp.
Ta thấy điều khác biệt cách phân loại theo khoản mục chi phí ở doanh
nghiệp xây dựng so với các ngành sản xuất khác là ở chỗ: Trong doanh nghệp xây
10
dựng, khoản mục chi phí nhân công trực tiếp không bao gồm yếu tố bảo hiểm xã
hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn nhng ở các doanh nghiệp khác thì có.
d/Phân loại chi phí theo mối quan hệ với khối l ợng sản phẩm, công
việc, lao vụ sản xuất trong kỳ:
Theo cách phân loại này, chi phí sản xuất đợc chia làm 2 loại:
Chi phí khả biến ( biến phí ): Là loại chi phí có thay đổi về lợng tơng
quan tỷ lệ thuận với sự thay đổi của khối lợng sản phâmr sản xuất trong kỳ.
Thuộc loại chi phí này là: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công
trực tiếp.
Chi phí cố định ( định phí ): Là chi phí không thay đổi về tổng số khi có
sự thay đổi trong mức độ hoạt động của sản xuất hoặc khối lợng công việc, lao vụ
sản xuất trong kỳ.
Phân loại chi phí thành chi phí khả biến và chi phí cố định có tác dụng quản
lý định mức và những khoản chi phí mà Nhả nớc quản lý chặt chẽ. Đặc biệt nó có
vai trò rất quan trọng đối với quản trị kinh doanh, phân tích điểm hoà vốn phục vụ
cho việc ra quyết định quản lý, tận dụng tiềm năng phát triển sản xuất kinh
doanh.
Trên góc độ kế toán quản trị: Những cách phân loại chi phí nêu trên đều
có tác dụng đối với việc ra quyết định của doanh nghiệp, tuy nhiên, để phục vụ
tốt hơn cho quá trình quản trị doanh nghiệp thì trong kế toán quản trị còn có
những cách phân loại sau:
a/Phân loại chi phí theo chức năng của chi phí:
Theo cách phân loại này, chi phí đợc chia làm 2 loại:
Chi phí ban đầu: Là những khoản chi phí đầu tiên chủ yêú của sản phẩm,
gồm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp.
Chi phí chuyển đổi: Phản ánh mức chi phí cần thiết để chuyển đổi nguyên
vật liệu từ dạng thô sang dạng thành phẩm, nó bao gồm 2 khoản là chi phí nhân
công trực tiếp và chi phí sản xuất chung.
Cách phân loại này giúp doanh nghiệp xác định đợc cơ cấu chi phí của mình
và so sánh với mức chung của ngành, từ đó có sự phân tích, đánh giá để đa ra
quyết định phù hợp.
b/Phân loại chi phí theo cách ứng xử của chi phí:
Cách ứng xử của chi phí có nghĩa là chi phí này thay đổi nh thế nào đói với
các mức độ thay đổi của hoạt động sản xuất. Với cách phân loại này cho phép ng-
11
ời quản lý thấy trớc đợc sự thay đổi của chi phí khi hoạt động sản xuất thay đổi,
do đó đáp ứng cho yêu cầu lập kế hoạch, kiểm soát và chủ động điều tiết chi phí.
Thật ra cách phân loại này chính là cách phân loại chi phí theo mối quan hệ với
khối lợng sản phẩm, công việc, lao vụ sản xuất trong kỳ. Tuy nhiên, để phục vụ
cho mục đích quản trị, nó có một số nét khác biệt, cụ thể, theo cách phân loại
này, chi phí đợc chia làm 3 loại:
Biến phí ( chi phí khả biến ): Là những khoản chi phí có quan hệ tỷ lệ
thuận với biến động của mức độ hoạt động sản xuất, nó thờng gồm những khoản
sau:
+Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp,
+Chi phí nhân công trực tiếp,
+Một bộ phận chi phí sản xút chung bao gồm chi phí nguyên vật liệu gián
tiếp, chi phí nhân công gián tiếp, chi phí động lực, công cụ, dụng cụ, nhiên
liệu...
Định phí (chi phí cố định ): Là những khoản chi phí không thay đổi khi
mức độ hoạt động sản xuất thay đổi, tuy nhiên, đinh phí chỉ giữ nguyên trong
phạm vi phù hợp của mức độ hoạt động giữa mức độ hoạt động tối thiểu và mức
độ hoạt động tối đa mà doanh nghiệp dự định sản xuất.
Chi phí hỗn hợp: Bao gồm cả yếu tố biến phí và định phí ở mức độ hoạt
động căn bản, chi phí hỗn hợp thể hiện đặc điểm của định phí. Qúa mức độ đó,
nó lại thể hiện đặc điểm cuả chi phí biến đổi. Chi phí hỗn hợp thờng bao gồm các
khoản điện nớc, điện thoại, sửa chữa, bảo dỡng máy móc thiết bị... Do đó, chỉ
có chi phí sản xuất chung mới có đặc điểm của chi phí hỗn hợp.
Ngoài ra có các cách phân loại sau đây nhằm mục đích cho việc ra quyết
định kinh doanh:
-Chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp.
-Chi phí kiểm soát đợc và chi phí không kiểm soát đợc. : Llà những khoản
mục chi phí phản ánh phamj vi quyền hạn của ngời quản lý các cấp đối với những
loại chi phí đó. Ngời quản lý cấp cao có phạm vi quyền hạn rộng đối với chi phí
hơn là những ngời quản lý cấp dơí, nghĩa là họ có nhiều quyền kiểm soát và quyết
định chi phí hơn.
-Chi phi chênh lệch: là những loại chi phí có ở phơng án này mà không có
hoặc chỉ có một phần ở phơng án. Ngời ta xét chi phí này khi khi chọn phơng án
hành động.
-Chi phí chìm: Là loại chi phí mà doanh nghiệp phải chịu và sẽ phải chịu dù
doanh nghiệp chọn phơng án hành động nào. Chi phí chìm khômg bao giờ thích
12
hợp với việc ra quyết địnhvì chúng không có tính chênh lệch. Do đó, tất cả chi
phí đã đầu t vào tài sản cố định dù theo giá trị ban đầu hay giá trị còn lại đều là chi
phí chìm.
2/Khái niệm giá thành và phân loại giá thành trong doanh nghiệp xây
dựng.
2. 1/Khái niệm:
Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao phí
về lao động sống và lao động vật hoá liên quan đến khối lợng công tác, sản
phẩm, lao vụ đã hoàn thành.
Trong doanh nghiệp xây dựng, khối lợng công tác, sản phẩm, lao vụ đã
hoàn thành là các công trình, hạng mục công trình, khối lợng xây lắp đã hoàn
thành.
Nh ta đã biết, quá trình sản xuất là một quá trình thống nhất bao gồm hai
mặt: Mặt hao phí sản xuất và mặt kết quả sản xuất và hai thớc đo giá trị tơng ứng
của chúng là chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. Tất cả những khoản chi phí
phát sinh (phát sinh trong kỳ, kỳ trớc chuyển sang) và tất cả các khoản chi phí
trích trớc có liên quan đến khối lợng sản phẩm, lao vụ, dịch vụ đã hoàn thành
trong kỳ sẽ tạo nên chỉ tiêu giá thành sản phẩm.
Theo đúng ý nghĩa đó, giá thành sản phẩm là một phạm trù của sản xuất
hạng hoá, phản ánh lợng giá trị của những lao động sống và lao động vật hoá đã
thực sự chi ra cho sản xuất sản phẩm. Trong giá thành sản phẩm chỉ bao gồm
những chi phí tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất cần phải đợc
bồi hoàn để tái sản xuất ở doanh nghiệp mà không bao gồm toàn bộ những chi phí
phát sinh trong kỳ kinh doanh của doanh nghiệp. Những chi phí đa vào giá thành
phải phản ánh đợc giá trị thực của các t liệu sản xuất tiêu dụng cho sản xuất sản
phẩm, lao vụ, dịch vụ và các khoản chi tiêu khác có liên quan tới việc bù đắp
giản đơn hao phí lao động sống tiêu hao cho quá trình sản xuất. Mọi cách tính
toán một cách chú quan, không phản ánh đúng các yếu tố giá trị trong giá thành
đều có thể dẫn đến việc phá vỡ các quan hệ hàng hoá- tiền tệ, không xác định đợc
hiệu quả kinh doanh và không thực hiện đợc tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất
mở rộng.
Tuy nhiên, giá thành là đại lợng tính toán - là một chỉ tiêu biến tớng ý định
nên ở phơng diện này, nó cũng có phần nào mang tính chủ quan (biểu hiện mặt
hạn chế của giá thành ). Đặc điểm chủ quan của giá thành đợc thể hiện ở hai khía
cạnh:
-Tính vào giá thành một số khoản mục chi phí mà thực chất là thu nhập
thuần tuý của xã hội nh các khoản trích nộp thuế, nộp cấp trên...
13
-Một số khoản mục chi phí gián tiếp đợc phân bổ vào giá thành của từng
loại sản phẩm hay từng sản phẩm theo các tiêu thức phù hợp.
Nh vậy, chỉ tiêu giá thành trong một chừng mực nào đó vừa mang tính
khách quan vừa mang tính chủ quan, vì vậy nó cần đợc xem xét trên nhiều mặt
khác nhau nhằm có thể sử dụng chỉ tiêu này một cách có hiệu quả nhất.
2. 2/Phân loại giá thành:
Để đáp ứng các yêu cầu của quản lý, hạch toán và kế hoạch hoá giá thành
cũng nh yêu cầu xây dựng giá cả hàng hoá, giá thành đợc xem xét dới nhiều góc
độ khác nhau:
Trên góc độ kinh tế chính trị: Có hai khái niệm giá thành là giá thành xã
hội và giá thành cá biệt.
Giáthành xã hội là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ lợng hao phí lao động
cần thiết để sản xuất ra sản phẩm trong điều kiện trung bình của nền sản xuất xã
hội.
Gía thành cá biệt là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ lợng hoa phí lao động
cần thiết để sản xuất ra sản phẩm trong một điều kiện cụ thể của một cơ sở sản
xuất nào đó.
Cách phân loại này có tác dụng trong việc quản lý vĩ mô, nó cho phép đánh
giá việc sử dụng tài nguyên của một quốc gia, một xã hội có hiệu quả nh thế nào,
năng suất sản xuất đến đâu.
Trên góc độ kế toán tài chính: Trong doanh nghiệp xây dựng có các cách
phân loại chủ yếu sau:
a/Phân loại giá thành theo thời điểm tính và nguồn số liệu để tính giá
thành:
Theo cách phân loại này, giá thành đợc chia thành giá thành dự toán, giá
thành kế hoạch và giá thành thực tế.
Giá thành dự toán: Là tổng số chi phí dự toán để hoàn thành khối lợng
xây lắp công trình, đợc xác định theo định mức và khung giá quy định áp dụng
cho từng vùng lãnh thổ. Giá thành dự toán nhỏ hơn giá trị dự toán ở phần lợi
nhuận định mức.
14
Giá trị dự toán - giá thành dự toán = lãi định mức
Giá thành dự toán của công trình, hạng mục công trình là chi phí cho công
tác xây dựng, lắp đặt các cấu kiện, các máy móc thiết bị bao gồm các chi phí trực
tiếp, chi phí chung và lợi nhuận định mức.
Lãi định mức là chỉ tiêu Nhà nớc quy định để tích luỹ cho xã hội giá trị do
ngành xây dựng cơ bản sáng tạo ra.
Giá thành kế hoạch: Là loại giá thành đợc xác định trớc khi bớc vào sản
xuất đợc xây dựng từ những điều kiện cụ thể về biện pháp thi công, các định mức
đơn giá áp dụng trong đơn vị. Việc tính toán giá thành kế hoạch do bộ phận kế
hoạch của doanh nghiệp thực hiện và đợc tiến hành trớc khi bắt đàu quá trình sản
xuất, chế tạo sản phẩm. Gía thành kế hoạch là mục tiêu phấn đấu của doanh
nghiệp, là căn cứ để so sánh, phân tích, đánh giá tình hình thực hiện hạ giá thành
ở doanh nghiệp.
Khi tính giá thành kế hoạch, việc quan trọng nhất là xác định đúng số tiết
kiệm so với giá thành dự toán nhờ thực hiện các biện pháp kỹ thuật. Bằng cách
tính toán có căn cứ các biện pháp kỹ thuật, có thể tổng hợp các hiệu quả kinh tế
do các biện pháp mang lại.
Giá thành thực tế: Là chỉ tiêu đợc xác định sau khi kết thúc quá trình sản
xuất sản phẩm dựa trên cơ sở các chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất sản
phẩm.
Giá thành thực tế mang tính chất xã hội, nhờ việc so sánh giá thành thực tế
với giá thành dự toán cho phép ta đánh giá trình độ quản lý của doanh nghiệp xây
lắp đó trong mối quan hệ với doanh nghiệp khác. Việc so sánh giá thành thực tế
với giá thành kế hoạch cho phép đánh giá sự tiến bộ hay yếu kém của doanh
nghiệp xây lắp trong điều kiện cụ thể về cơ sở vật chất, trình độ tổ chức quản lý
của bản thân nó.
Đối với các đơn vị không có giá thành dự toán thì theo cách phân loại này,
ngời ta có thêm loại giá thành định mức (giống nh các doanh nghiệp sản xuất công
nghiệp).
Giá thành định mức: Cũng nh giá thành dự toán hay giá thành kế hoạch,
nóđợc xác định trớc khi bắt đầu sản xuất sản phẩm dựa trên những định mức tiên
tiến và không biến đổi trong suốt cả kỳ kế hoạch, giá thành lại đợc xây dựng trên
cơ sở các định mức chi phí hiện hành tại từng thời điểm nhất định trong kỳ kế
hoạch ( thờng là ngày đầu tháng ) nên giá thành định mức luôn phù hợp với sự
thay đổi của các định mức chi phí đạt đợc trong quá trình sản xuất sản phẩm.
b/Phân loại giá thành theo phạm vi phát sinh:
15
Giá thành kế hoạch - giá thành dự toán = mức hạ giá thành dự toán
Theo cách phân loại này, giá thành đợc chia thành 2 loại:
Gía thành sản xuất (còn gọi là giá thành công xởng): Là chỉ tiêu phản ánh
tất cả những chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm trong
phạm vi phân xởng sản xuất (chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công
trực tiếp và chi phí sản xuất chung). Bởi vậy giá thành sản xuất còn có tên gọi là
giá thành phân xởng.
Giá thành tiêu thụ (giá thành toàn bộ): Là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ các
khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm(chi phí sản
xuất, chi phí bán hàng và chi phí quản lý). Do vậy, giá thành tiêu thụ còn đợc
gọi là giá thành toàn bộ hay giá thành đầy đủ.
c/Phân loại giá thành theo theo phạm vị tính giá thành:
Do quá trình thi công và sản xuất sản phẩm xây lắp kéo dài, khối lợng xây
lắp lớn nên để tiện theo dõi những chi phí phát sinh, ngời ta phân chia giá thành
sản phẩm xây lắp thành gái thành hoàn chỉnh và giá thành không hoàn chỉnh.
Giá thành hoàn chỉnh: Phản ánh toàn bộ chi phí liên quan công trình,
hạng mục công trình hoàn thành hay chính là chi phí chi ra để tiến hành thi công
một công trình, hạng mục công trình kể từ khi khởi công đến khi kết thúc hoàn
thành bàn giao cho bên A (bên chủ đầu t).
Giá thành không hoàn chỉnh (giá thành công tác xây lắp thực tế): Phản
ánh giá thành một khối lợng công tác xây lắp đạt tới một điểm dừng kỹ thuật nhất
định, nó cho phép kiểm kê kịp thời chi phí phát sinh để kịp thời điều chỉnh cho
thích hợp ở những giai đoạn sau, phát hiện những nguyên nhân làm thay đổi chi
phí.
d/ Ngoài ra, trong xây dựng cơ bản còn sử dụng hai chỉ tiêu giá thành
sau:
Giá thành đấu thầu xây lắp: là một loại giá thành dự toán xây lắp do chủ
đầu t đa ra để các doanh nghiệp căn cứ vào đó mà tính giá thành của mình (còn
gọi là giá thành dự thầu công tác xây lắp). Nếu thấy giá thành của mình thấp hơn
giá thành đấu thầu thì sẽ tăng giá đấu thầu công tác xây lắp công trình.
Giá đấu thầu công tác xây lắp do chủ đầu t đa ra, về nguyên tắc chỉ bằng
hoặc nhỏ hơn giá thành dự toán, có nh vậy chủ đầu t mới tiết kiệm đợc vốn đầu t,
tăng hiệu quả sử dụng đồng vốn.
16
Z toàn bộ của Z sản xuất chi phí quản chi phí tiêu
sp tiêu thụ
=
sản phẩm
+
lý DN
+
thụ sp
Giá hợp đồng công tác xây lắp: Là loại giá thành dự toán xây lắp ghi
trong hợp đồng đợc ký kết giữa chủ đầu t và đơn vị xây lắp sau khi đã thoả thuận
giao nhận thầu. Đó cũng chính là giá thành giá thành của doanh nghiệp thắng
cuộc trong đấu thầu và đợc chủ đầu t thoả thuận ký hợp đồng giao thầu. Về
nguyên tắc, giá thành hợp đồng chỉ đợc nhỏ hơn hoặc bằng giá đấu thầu công tác
xây lắp.
Việc áp dụng hai loại giá thành xây lắp trên là yếu tố quan trọng của việc
hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế trong xây dựng. Nó sử dụng đợc quan hệ tiền -
hàng, tạo ra sự mềm dẻo nhất định trong quan hệ giữa chủ đầu t và doanh nghiệp
xây lắp, tạo quyền chủ động trong việc định giá sản phẩm của mình cũng nh
trong hoạt động kinh doanh, thích hợp với cơ chế thị trờng.
Ngoài ra trên góc độ kế toán quản trị, ngời ta còn phân loại giá thành ra
làm 2 loại là giá thành đầy đủ và giá thành cần thiết.
Giá thành đầy đủ:
Gía thành cần thiết:
3. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai khái niệm có quan hệ mật
thiết với nhau cả về mặt chất cũng nh mặt lợng. Về mặt chất, chúng đều phản ánh
chi phí lao động trên hai mặt của một quá trình thống nhất: quá trình sản xuất.
Về mặt lợng, giá thành là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản chi phí mà
doanh nghiệp bỏ ra bất kể ở kỳ nào nhng có liên quan đến khối lợng công việc,
sản phẩm, dịch vụ, lao vụ đã hoàn thành trong kỳ.
Có thể phản ánh mối quan hệ về lợng đó nh sau:
17
Qua sơ đồ ta thấy: AC
CDBDAB
+=
tức là:
Tổng giá thành sản chi phí sxdd chi phí sxps chi phí sxdd
phẩm hoàn thành
=
đầu kỳ
+
trong kỳ
-
cuối kỳ
Khi giá trị sản phẩm dở dang (chi phí sản xuất dở dang) đầu kỳ và cuối kỳ
bằng nhau hoặc khi không có sản phẩm dở dang thì tổng giá thành sản phẩm bằng
tổng chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ.
Nh vậy ta thấy, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau, điều đó làm cho công tác hạch toán chúng cũng có mối quan hệ
chặt chẽ. Xuất phát từ mối quan hệ về chất của hai khái niệm chi phí sản xuất và
giá thành sản phẩm mà giữa hai quá trình hạch toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm có mội quan hệ là hai quá trình hạch toán kế tiếp nhau của quá
trình hạch toán sản xuất. Trớc hết là chúng có mối quan hệ chặt chẽ giữa đối tợng
tập hợp chi phí và đối tợng tính giá thành, chúng đều phụ thuộc vào loại hình sản
phẩm, quy trình công nghệ... Thứ hai là việc tính đúng, tính đủ chi phí sản xuất
có vai trò quan trọng trong việc tính đúng giá thành sản phẩm. Tuy nhiên, việc
hạch toán chi phí sản xuất cha phải là mục tiêu của phơng pháp tính giá thành sản
phẩm mà nó chỉ mới là cơ sở, là phơng tiện của giá thành. Hạch toán chi phí sản
xuất dù đầy đủ và chi tiết đến đâu cũng chỉ phản ánh đợc một phần của quan hệ
này, mặt chi ra của sản xuất, vì vậy, ngoài hạch toán chi phí sản xuất, tính gía
thành sản phẩm còn vận dụng các biện pháp kỹ thuật nhằm nêu ra chính xác nhất
quan hệ giữa chi phí và kết quả sản xuất của từng hoạt động sản xuất kinh doanh
cụ thể.
18
Chi phí sản xuất dở chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ
dang đầu kỳ
b
d
a Tổng giá thành sản phẩm c Chi phí sản xuất
dịch vụ hoàn thành dở dang cuối kỳ
4/Đối t ợng và ph ơng pháp hạch toán chi phí sản xuất, tính giá thành
sản phẩm.
4. 1. Đối t ợng hạch toán chi phí sản xuất và đối t ợng tính giá thành sản
phẩm.
Để hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm đợc chính xác,
kịp thời đòi hỏi công việc đầu tiên mà nhà quản lý phải làm là xác định đối tợng
hạch toán chi phí sản xuất và đối tợng tính giá thành sản phẩm. Vấn đề này có
tầm quan trọng đặc biệt cả trong lý luận cũng nh thực tiễn và là nội dung cơ bản
nhất của hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
Tổ chức hạch toán quá trình sản xuất bao gồm hai giai đoạn kế tiếp nhau và
có quan hệ mật thiết với nhau. Đó là giai đoạn hạch toán chi tiết chi phí sản xuất
phát sinh theo từng sản phẩm, nhóm sản phẩm, đơn đặt hàng, giai đoạn công
nghệ, phân xởng... và giai đoạn tính giá thành sản phẩm, chi tiết sản phẩm, sản
phẩm theo đơn đặt hàng đã hoàn thành theo đơn vị tính giá thành quy định. Việc
phân chia này xuất phát từ yêu cầu quản lý kiểm tra và phân tích chi phí, yêu cầu
hạch toán kinh doanh nội bộ, theo đặc điểm quy trình công nghệ của từng doanh
nghiệp và yêu cầu tính giá thành sản phẩm theo đơn vị tính giá thành quy định.
Có thể nói, việc phân chia quá trình hạch toán thành hai giai đoạn là do sự khác
nhau cơ bản về giới hạn tập hợp chi phí trong hạch toán chi phí sản xuất - tức là
đối tợng hạch toán chi phí sản xuất - và sản phẩm hoàn thành cần phải tính giá
thành một đơn vị - tức là đối tợng tính giá thành.
Nh vậy, xác định đối tợng hạch toán chi phí sản xuất chính là việc xác định
giới hạn tập hợp chi phí mà thực chất là xác định nơi phát sinh chi phí và nơi chịu
chi phí. Còn xác định đối tợng tính giá thành chính là việc xác định sản phẩm,
bán thành phẩm, công việc, lao vụ nhất định đòi hỏi phải tính giá thành một đơn
vị. Đối tợng đó có thể là sản phẩm cuối cùng của quá trình sản xuất hay đang trên
dây chuyền sản xuất tuỳ theo yêu cầu của hạch toán kinh tế nội bộ và tiêu thụ sản
phẩm.
Để phân biệt đợc đối tợng hạch toán chi phí sản xuất và đối tợng tính giá
thành sản phẩm ngay cả khi chúng đồng nhất là một cần dựa vào các cơ sở sau
đây:
a/Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất: Sản xuất giản đơn hay phức
tạp.
Với sản xuất giản đơn, (doanh nghiệp chỉ sản xuất một số ít mặt hàng với
khối lợng lớn, chu kỳ sản xuất ngắn khép kín, liên tục, không có điểm dừng, sản
phẩm dở dang không có hoặc chỉ có không đáng kể) thì đối tợng hạch toán chi phí
sản xuất có thể là sản phẩm hay toàn bộ quá trình sản xuất (nếu sản xuất một loại
sản phẩm) hoặc có thể là nhóm sản phẩm (nếu sản xuất nhiều thứ sản phẩm cùng
19
tiến hành trong cùng một quá trình lao động). Đối tợng tính giá thành ở đây là sản
phẩm cuối cùng.
Với sản xuất phức tạp (quy trình sản xuất qua nhiều bớc khác nhau, có
điểm dừng kỹ thuật, chu kỳ sản xuất kéo dài) thì đối tợng hạch toán chi phí sản
xuất có thể là bộ phận, chi tiết sản phẩm, các giai đoạn chế biến, phân xởng sản
xuất hoặc nhóm chi tiết, bộ phận sản phẩm... Còn đối tợng tính giá thành là thành
phẩm ở bớc chế tạo cuối cùng hoặc bán thành phẩm ở từng bớc chế tạo.
b/Loại hình sản xuất: Đơn chiếc, sản xuất hàng loạt nhỏ hay sản xuất
hàng loạt với khối lợng lớn.
Đối với sản xuất đơn chiếc (sản phẩm có quy mô và giá trị lớn, các
sản phẩm không hoàn toàn giống nhau) và sản xuất hàng loạt nhỏ thì đối tợng
hạch toán chi phí là các đơn đặt hàng riêng biệt, còn đối tợng tính giá thành là sản
phẩm của từng đơn.
Đối với sản xuất hàng loạt với khối lợng lớn, phụ thuộc vào quy trình công
nghệ sản xuất (đơn giản hay phức tạp) mà đối tợng hạch toán chi phí sản xuất có
thể là sản phẩm, nhóm sản phẩm, chi tiết, nhóm chi tiết, giai đoạn công nghệ...
Còn đối tợng tính giá thành có thể là sản phẩm cuối cùng hay bán thành phẩm nh
đã nêu trên.
c/Yêu cầu và trình độ quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh: Dựa trên
cơ sở trình độ, yêu cầu và tổ chức quản lý để xác định đối tợng hạch toán chi phí
sản xuất và đối tợng tính giá thành. Với trình độ cao, có thể chi tiết đối tợng hạch
toán chi phí sản xuát và tính giá thành sản phẩm ở các góc độ khác nhau: ngợc lại,
nếu trình độ thấp thì đối tợng đó có thể bị hạn chế và thu hẹp lại.
Đối với doanh nghiệp xây dựng, đặc điểm quy trình công nghệ là phức tạp
có khi là phức tạp kiểu song song, có khi là phức tạp kiểu liên tục và đối với sản
xuất phụ (sản xuất bê tông tơi, bê tông cốt thép, cột trụ,. . . ), sản phẩm mang
tính đơn chiếc, cũng có khi là hàng loạt nhỏ (sản xuất phụ) do đó đối tợng tập hợp
chi phí và đối tợng tính gía thành rất đa dạng, phức tạp, có khi, đối tợng tập hợp
chi phí là các công trình, các hạng mục công trình, các phân xởng, các tổ đội;
còn đối tợng tính giá thành là các công trình, hạng mục công trình, sản phẩm,
nhóm sản phẩm.
Việc xác định rõ mối quan hệ và sự khác nhau giữa đối tợng hạch toán chi
phí sản xuất và đối tợng tính giá thành là vấn đề có ý nghĩa lớn, mang tính định h-
ớng cho cho tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Đồng
thời thể hiện đợc mục đích và phạm vi tiến hành hai giai đoạn của công tác kế toán
nêu trên.
4. 2. Ph ơng pháp hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
20
Do có sự khác nhau cơ bản giữa đối tợng hạch toán chi phí sản xuất và đối
tợng tính giá thành mà có sự phân biệt giữa hơng pháp hạch toán chi phí sản xuất
và phơng pháp tính giá thành sản phẩm. Phơng pháp hạch toán chi phí sản xuất.
a/Ph ơng pháp hạch toán chi phí sản xuất: Là một hệ thống các phơng
pháp đợc sử dụng để tập hợp và phân loại các chi phí sản xuất trong phạm vi giới
hạn của đối tợng hạch toán chi phí. Mỗi phơng pháp hạch toán chi phí tơng ứng
cới một loại đối tợng hạch toán chi phí nên tên gọi của phơng pháp biểu hiện đối t-
ợng mà nó cần tập hợp và phân loại chi phí. Trong doanh nghiệp xây dựng, có
những phơng pháp tập hợp chi phí phổ biến sau:
Phơng pháp tập hợp chi phí sản xuất theo công trình hay hạng mục
công trình (theo nhóm sản phẩm):Nếu là hạng mục công trình hay nhóm hạng
mục công trình thì hàng tháng chi phí sản xuất phát sinh liên quan đến hạng mục
cong trình nào hay nhóm hạng mục công trình nào thì tập hợp cho hạng mục công
trình đó. Các khoản chi phí dợc phân chia theo khoản mục giá thành. Giá thành
thực tế của đối tợng đó chính là tổng số chi phí đợc tập hợp cho từng đối tợng, kể
từ khi khởi công đến khi hoàn thành.
Phơng pháp tập hợp chi phí sản xuất theo đơn đặt hàng (theo sản
phẩm): Chi phí sản xuất phát sinh sẽ đợc tập hợp và phân loại theo các đơn đặt
hàng riêng biệt. Khi đơn đặt hàng hoàn thành thì tổng số chi phí phát sinh kể từ
khi khởi công đến khi hoàn thành chính là giá thành thực tế của đơn đặt hàng đó.
Phơng pháp tập hợp chi phí sản xuất theo đơn vị thi công (theo nhóm
hoặc khu vực thi công): Chi phí phát sinh đợc tập hợp theo từng đơn vị thi công.
Trong từng đơn vị đó, chi phí lại dợc tập hợp theo từng đối tợng chịu phí nh công
trình, hạng mục công trình,. . . Cuối tháng, tổng hợp chi phí sản xuất phát sinh ở
từng đơn vị thi công đợc so sánh với dự toán cấp phát để xác định hạch toán kế
toán nội bộ. Khi công trình, hạng mục công trình hoàn thành thì phải tính giá
riêng bằng các phơng pháp tính giá thành thích hợp.
b/Ph ơng pháp tính giá thành sản phẩm: Là một phơng pháp hoặc hệ thống
các phơng pháp đợc sử dụng để tính giá thành của đơn vị sản phẩm, nó mang tính
thuần tuý kỹ thuật tính toán chi phí cho từng đối tợng tính giá thành. Về cơ bản,
phơng pháp tính giá thành bao gồm phơng pháp trực tiếp, phơng pháp tổng cộng
chi phí, phơng pháp tỷ lệ, v. v... Việc tính gái thành sản phẩm trong từng doanh
nghiệp, cụ thể tuỳ thuộc vào đối tợng hạch toán chi phí sản xuất và đối tợng tính
giá thành mà có thể áp dụng một trong các biện pháp nói trên hoặc áp dụng kết
hợp một số các biện pháp với nhau:
Phơng pháp trực tiếp (còn gọi là phơng pháp giản đơn): Phơng pháp này
đợc áp dụng trong các doanh nghiệp thuộc loại hình sản xuất giản đơn. Giá thành
sản phẩm theo phơng pháp này đợc tính bằng cách trực tiếp lấy tổng số chi phí sản
xuất cộng (+) hoặc trừ (--) số chênh lệch giữa giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ so
với đầu kỳ chia (:) cho số lợng sản phẩm hoàn thành.
21
Phơng pháp tổng cộng chi phí: áp dụng đối với các doanh nghiệp mà
quá trình sản xuất sản phẩm đợc thực hiện ở nhiều bộ phận sản xuất, nhiều giai
đoạn công nghệ, đối tợng tập hợp chi phí sản xuất là các bộ phận, chi tiết sản
phẩm hoặc giai đoạn công nghệ hay bộ phận sản xuất. Giá thành sản phẩm đợc
xác định bằng cách cộng chi phí sản xuất của các bộ phận, chi tiết sản phẩm hay
tổng chi phí sản xuất của các giai đoạn, bộ phận sản phẩm tạo nên thành phẩm.
Gía thành thành phẩm = Z1 + Z2 +. . . + Zn
Phơng pháp tổng cộng chi phí đợc sử dụng phổ biến trong các doanh
nghiệp khai thác, dệt, nhuộm, cơ khí chế tạo,. . .
Phơng pháp hệ số: Phơng pháp hệ số đợc sử dụng trong các doanh
nghiệp mà trong cùng một quá trình sản xuất cùng sử dụng một thứ nguyên liệu và
một lợng lao động nhng thu đợc đồng thời nhiều sản phẩm khác nhau và chi phí
không tập hợp riêng cho từng loại sản phẩm đợc mà phải tập hợp chung cho cỏ
quá trình sản xuất. Theo phơng pháp này, trớc hết, kế toán căn cứ vào hệ số quy
đổi dể quy các loại sản phẩm về sản phẩm gốc, từ đó, dựa vào tổng chi phí liên
quan đến giá thành các loại sản phẩm đã tập hợp để tính ra giá thành sản phẩm
gốc và giá thành từng loại sản phẩm.
Gía thành Tổng giá thành sản xuất của các loại sản phẩm
đơn vị =
sản phẩm gốc tổng số sản phẩm gốc quy đổi
giá thành đơn vị giá thành đơn vị Hệ số quy đổi
sản phẩm từng loại
=
sản phẩm gốc
X
sản phẩm từng loại
Trong đó:
Sản lợng sản số lợng sản hệ số quy đổi
phẩm quy đổi
=
phẩm loại i
X
sản phẩm loại i
Tổng giá thành giá trị SP tổng chi phí giá trị SP
sản xuất của các
=
dở dang + sản xuất phát - dở dang
loại sản phẩm đầu kỳ sinh trong kỳ cuối kỳ
22
Phơng pháp tỷ lệ: Trong các doanh nghiệp sản xuất nhiều loại sản phẩm
có quy cách, phẩm chất khác nhau nh may mặc, dệt kim, đóng giày, cơ khí chế
tạo (dụng cụ, phụ tùng), v. v... để giảm bớt khối lợng hạch toán, kế toàn thờng
tiến hành tập hợp chi phí sản xuất theo nhóm sản phẩm cùng loại. Căn cứ vào tỷ
lệ chi phí giữa chi phí sản xuất thực tế với chi phí chi phí sản xuất kế hoach (hoặc
định mức), kế toán sẽ tính ra giá thành đơn vị và tổng giá thành sản phẩm từng
loại.
Giá thành giá thành kế hoạch tỷ lệ giữa chi phí thực
thực tế đơn vị = hoặc định mức đơn vị x tế so với chi phí kế
SP từng loại thực tế sản phẩm từng loại hoạch hoặc định mức
Phơng pháp loại trừ giá trị sản phẩm phụ: Đối với các doanh
nghiệp mà trong cùng một quá trình sản xuất, bên cạnh các sản phẩm chính thu đ-
ợc còn có sản phẩm phụ (các doanh nghiệp chế biến đờng rợu, bia, mỳ ăn
liền... ), để tính giá thành sản phẩm, kế toán phải loại trừ giá trị sản phẩm phụ
khỏi tổng chi phí sản xuất sản phẩm. Gía trị sản phẩm phụ có thể đợc xác định
theo nhiều phơng pháp khác nhau nh giá có thể sử dụng, giá trị ớc tính, gí kế
hoạch, giá nguyên liệu ban đầu...
tổng giá trị tổng chi phí giá trị giá trị
giá thành = SP chính = sản xuất PS - SP phụ - SP chính
SP chính DD đầu kỳ trong kỳ thu hồi DD cuối kỳ
Phơng pháp tính giá thành theo định mức: Là phơng pháp dựa
trên cơ sở hệ thống định mức tiêu hao lao động, vật t hiện hành và dự toán về chi
phí sản xuất chung, kế toán sẽ xác định giá thành định mức của từng loại sản
phẩm. Đồng thời hạch toán riêng các thay đổi, các chênh lệch so với định mức
phát sinh trong quá trình sản xuất sản phẩm và phân tích toàn bộ chi phí phát sinh
thành ba loại: theo định mức, chênh lệch do thay đổi định mức và chênh lệch so
với định mức. Từ đó tiến hành xác định giá thành thực tế của sản phẩm bằng
cách:
giá thành giá thành chênh lệch chênh lệch
23
thực tế = định mức
do thay đổi
so với
sản phẩm sản phẩm định mức định mức
Việc tính toán giá thành định mức đợc tiến hành trên cơ sở các định mức
tiên tiến hiện hành ngày đầu kỳ (thờng là ngày đầu tháng). Tuỳ theo tính chất quy
trình công nghệ sản xuất sản phẩm và đặc điểm sản phẩm mà áp dụng phơng pháp
tính giá thành sản phẩm khác nhau (theo sản phẩm hoàn thành, theo chi tiết, bộ
phận sản phẩm rồi tổng hợp lại... ). Việc thay đổi định mức là việc tăng hay giảm
các định mức chi phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm do kết quả của việc áp
dụng các định mức mới kinh tế và tiết kiệm hơn để thay thế các định mức cũ đã lỗi
thời. Việc thay đổi định mức đợc tiến hành vào ngày đầu tháng để tiện lợi cho
việc thực hiện các định mức cũng nh kiểm tra việc thi hành các định mức. Trờng
hợp việc thay đổi định mức diễn ra vào ngày giữa tháng thì đầu tháng sau mới phát
sinh ngoài phạm vi định mức và dự toán quy định đợc gọi là chênh lệch so với
định mức hay thát ly định mức đợc hạch toán trên cơ sở các chứng từ báo động
mang tính hiệu riêng hoặc theo phơng pháp kiểm kê hay phơng pháp pha cắt vật
liệu.
Chứng tử báo động là các chứng từ phản ánh xuất bổ sung vật liệu hay thay
thế vật liệu dẫn đến chênh lệch so với định mức. Còn phơng pháp pha cắt vật liệu
là phơng pháp so sánh giữa số vật liệu thực tế chi ra với số chi phí vật liệu định
mức. Theo phơng pháp kiểm kê, số chênh lệch vật liệu đợc xác định giống nh ph-
ơng pháp pha cắt nhng chỉ áp dụng đối với những vật liệu quý hiếm, đắt tiền. Đối
với chi phí tiền công, khoản chênh lệch cũng đợc xác định giống nh chi phí vật
liệu. Đối với các chi phí sản xuất chung, do bao hàm nhiều nội dung nên để đơn
giản, cuối tháng chi cần so sánh tổng số chi phí thực tế so với định mức, trờng
hợp cần thiết mới đi vào từng nội dung cụ thể.
Phơng pháp tính giá thành theo định mức đảm bảo việc tính giá thành dợc
nhanh chóng, kịp thời, chính xác và giúp phát hiện những nguyên nhân làm tăng
giá thành từ đó có biện pháp khắc phục kịp thời. Tuy nhiên, khi áp dụng phơng
pháp này, đòi hỏi doanh nghiệp có hệ thống về định mức chi phí đồng thời công
tác tổ chức hạch toán chi phí xác định đợc số phát sinh phù hợp so với định mức,
số thoát ly định mức.
Phơng pháp liên hợp: Là phơng pháp áp dụng cho những doanh nghiệp
có tổ chức sản xuất, tính chất quy trình công nghệ và tính chất sản phẩm làm ra
đòi hỏi việc tính giá thành phải kết hợp nhiều phơng pháp khác nhau nh các doanh
nghiệp sản xuất, dệt kim, đóng giầy, may mặc, xây dựng,. . . Trên thực tế, kế
toán có thể kết hợp phơng pháp trực tiếp với tổng công chi phí, tổng cộng chi phí
với tỷ lệ, hệ số với loại trừ giá trị sản phẩm phụ, v. v...
Doanh nghiệp xây dựng là doanh nghiệp sản xuất mà đặc điểm của nó có
khi là sản xuất giản đơn (công trình quy mô nhỏ, đơn giản, không phân chia
thành các hạng mục công trình) thì phơng pháp tính giá thành là phơng pháp trực
24
tiếp, có khi sản phẩm mang tính phức tạp, quy mô lớn, nhiều hạng mục công
trình thì lúc này phơng pháp tính giá thành là phơng pháp tổng cộng chi phí, còn
khi công trình bao gồm nhiều công trình nhỏ thì áp dụng phơng pháp tính giá
thành kết hợp giữa hai phơng pháp trên và phơng pháp hệ số hoặc tỷ lệ...
c/Kỳ tính giá thành:
Cùng với việc xác định đối tợng tính gía thành, chúng ta cũng phải xác
định kỳ tính giá thành sản phẩm. Xác định kỳ tính giá thành thích hợp sẽ giúp cho
việc tổ chức công tác tính giá thành sản phẩm đợc hợp lý, khoa học, đảm bảo
cung cấp số liệu về giá thành thực tế của sản phẩm kịp thời, phát huy đợc đầy đủ
chức năng giám đốc tình hình thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm của kế toán.
Kỳ tính giá thành là thời kỳ bộ phận kế toán giá thành phải tập hợp số
liệu để tính giá thành thực tế cho các đối tợng tính giá.
Để xác định kỳ tính giá thành cho thích hợp, kế toán phải căn cứ vào đặc
điểm tổ chức sản xuất sản phẩm và chu kỳ sản xuất sản phẩm. Trờng hợp sản xuất
với khối lợng lớn, chu kỳ sản xuất ngắn và sản xuất liên tục, kỳ tính giá thành
thích hợp là theo kỳ báo cáo. Trờng hợp sản xuất sản phẩm mang tính đơn chiếc
hoặc hàng loạt theo đơn đặt hàng, chu kỳ sản xuất dài, sản phẩm hoặc hàng loạt
sản phẩm chỉ hoàn thành khi kết thúc chu kỳ sản xuất thì kỳ tính giá thanhf thích
hợp là kỳ sản xuât, có nghĩa là tính giá thành sản phẩm khi sản phẩm hoặc đơn
đặt hàng đã hoàn thành.
Căn cứ vào đặc điểm riêng của ngành xây dựng cơ bản thì kỳ tính giá thành
thờng là:
Đối với những sản phẩm đợc sản xuất liên tục, cung cấp cho những đối t-
ợng khác nhau, chu kỳ sản xuất ngắn và sản xuất liên tục nh sản xuất gạch, ngói,.
. . thì kỳ tính giá thành là kỳ báo cáo hoặc hàng tháng.
Đối với những sản phẩm sản xuất theo đơn đặt hàng có thời gian sản xuất
thi công dài, công việc đợc coi là hoàn thành khi khi kết thúc mọi công việc trong
đơn đặt hàng, thì khi hoàn thành toàn bộ mới tính giá thành thực tế đơn đặt hàng
đó.
Với những công trình, hạng mục công trình thì kỳ tính giá thành là thời
gian mà sản phẩm xây lắp đợc coi là hoàn thành và đợc nghiệm thu bàn giao,
thanh toán chi bên A.
Với những công trình lớn hơn, thời gian thi công dài hơn, chỉ khi nào có
một bộ phận công trình hoàn thành, có giá trị sử dụng đợc nghiệm thu bàn giao
thì lúc đó doanh nghiệp tính giá thành của bộ phận đó.
Đối với những công trình xây dựng, lắp đặt máy móc thiết bị có thời gian
thi công nhiều năm mà không tách ra đợc từng bộ phận, công trình nhỏ đa vào sử
25