Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả rèn kỹ năng dùng từ, đặt câu trong môn tiếng việt 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.75 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
Mục

Nội dung
1. Mở đầu

Trang
2

1

1.1. Lí do chọn đề tài

2

2

1.2. Mục đích nghiên cứu

2

3

1.3. Đối tượng nghiên cứu

3

4

1.4. Phương pháp nghiên cứu


3

2. Nội dung Sáng kiến kinh nghiệm.

3

5
6

2.1. Cơ sở lý luận của Sáng kiến kinh nghiệm.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng Sáng kiến kinh
nghiệm.

3
5

7

2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.

6

8

2.4. Hiệu quả của Sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt
động giáo dục.

15

3. Kết luận, kiến nghị.

9
10

16

3.1. Kết luận.

16

3.2. Kiến nghị.

17

1. Mở đầu
1


1.1. Lí do chọn đề tài:
Ở tiểu học, mơn Tiếng Việt có vai trị nền tảng cho học sinh rèn luyện,
trau dồi, phát huy vốn ngôn ngữ mẹ đẻ. Bồi dưỡng tình yêu tiếng Việt và hình
thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt, góp phần hình
thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa là một trong những mục
tiêu của môn Tiếng Việt. Chính vì vậy mà khi các em đã đọc viết tương đối
thông thạo ở các lớp 2- 3 thì việc hướng dẫn các em mở rộng vốn từ, sử dụng
vốn từ vào việc rèn luyện viết câu, giao tiếp, trao đổi… ở các lớp này và các lớp
4-5 giai đoạn tiếp theo là điều rất quan trọng.
Hiện nay việc cung cấp từ cho học sinh khơng cịn theo dạng bài học từ
ngữ như chương trình cũ mà mỗi bài học là những bài tập thực hành không
những giúp các em tiếp nhận vốn từ mới mà còn định hướng cho các em thơng
qua các bài thực hành đó để mở rộng, bổ sung một số vốn từ mới, các thành ngữ,

tục ngữ, ca dao… theo từng chủ đề mà các em đang học. Đây chính là cơ hội để
học sinh sáng tạo trong việc tìm tịi, học hỏi, tích lũy, hiểu rộng hơn vốn từ cho
mình.
Như chúng ta đã biết rằng từ là một đơn vị trung tâm của ngơn ngữ, vai
trị của từ trong hệ thống ngơn ngữ quy định tầm quan trọng trong việc dạy từ ở
tiểu học. Khơng có một vốn từ đầy đủ thì khơng thể nắm ngôn ngữ như một
công cụ giao tiếp. Vì vậy,việc bồi dưỡng kiến thức kĩ năng cho học sinh trong
mơn tiếng Việt nói chung và phân mơn luyện từ và câu nói riêng là rất quan
trọng. Điều mà làm cho học sinh lúng túng là học sinh làm các bài tập nhận biết
từ, câu. Vì đây là dạng kiến thức hay sử dụng nhất khi làm bài tập làm văn.
Việc hướng dẫn học sinh tiểu học đặt câu, xác định thành phần câu, chữa
câu sai trong quá trình dạy học tiếng Việt bậc tiểu học đã và đang đặt ra nhiều
suy nghĩ. Vì tiếng Việt là một ngôn ngữ có cấu trúc ngữ pháp phức tạp “Phong
ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt Nam”.
Đối với học sinh lớp 4 khi làm các dạng bài tập về từ và câu cịn rập
khn theo định nghĩa trong sách giáo khoa nên kết quả còn nhiều hạn chế.
Từ những vấn đề thực tế trong dạy học, tơi thấy rằng cần có những định
hướng, giải pháp giúp học sinh thực hiện tốt việc dùng từ, đặt câu đúng ngữ
pháp. Vì vậy tôi đã chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
rèn kĩ năng dùng từ, đặt câu trong môn Tiếng Việt ở lớp 4D, trường tiểu học
Thị Trấn Hà Trung”.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Để giúp học sinh có kỹ năng dùng từ, đặt câu tốt, nhằm bồi dưỡng tâm
hồn, cảm xúc, vốn từ ngữ phong phú và nâng cao vốn hiểu biết cho các em. Đề
tài “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả rèn kĩ năng dùng từ, đặt câu
trong môn Tiếng Việt ở lớp 4D, trường tiểu học Thị Trấn ”. Đưa ra nội dung và
giải pháp thực hiện nhằm khắc phục một số lỗi về dùng từ đặt câu cho học sinh,
giúp học sinh hứng thú hơn trong việc học mơn Tiếng Việt nói chung và Luyện
2



từ và câu nói riêng. Vì vậy tơi đã đưa ra một số cách giải quyết cũng như một số
biện pháp rèn kĩ năng dùng từ đặt câu trong môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 4.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài này được nghiên cứu, áp dụng dạy môn Tiếng Việt ở lớp 4D.
Trường tiểu học Thị trấn Hà Trung - Hà Trung - Thanh Hoá.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
1.4.1 Nghiên cứu lý luận.
1.4.2 Nghiên cứu thực tiễn.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế.
- Phương pháp đàm thoại.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Vai trò của Từ trong hệ thống ngôn ngữ quy định tầm quan trọng của việc
dạy Từ ngữ ở tiểu học. Khơng có một vốn từ đầy đủ thì không thể nắm ngôn ngữ
như một phương tiện giao tiếp. Việc học Từ ở tiểu học sẽ tạo cho học sinh năng
lực từ ngữ, giúp học sinh hiểu được tiếng mẹ đẻ, tạo điều kiện để học tập ở
những cấp học tiếp theo và phát triển toàn diện. Vốn từ của học sinh càng giàu
bao nhiêu thì khả năng lựa chọn từ càng lớn, càng chính xác, sự trình bày tư
tưởng, tình cảm càng rõ ràng, sâu sắc bấy nhiêu. Vì vậy số lượng từ, tính đa
dạng, tính năng động của từ được xem là điều kiện quan trọng hàng đầu để phát
triển ngôn ngữ. Cũng chính vì vậy, ở tiểu học, từ ngữ khơng chỉ được dạy trong
tất cả các phân môn Tiếng Việt mà nó cịn được dạy trong tất cả các tiết học của
các mơn khác như Tốn, Tự nhiên xã hội,… Ở đâu có dạy nghĩa từ, dạy sử dụng
từ, thì ở đó dạy Từ ngữ. [1]
Việc đổi mới phương pháp dạy học, thay sách giáo khoa của môn học Tiếng
Việt hiện nay là một bước tiến quan trọng của nền giáo dục nước nhà nhằm thực
hiện mục tiêu hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng

Việt (nghe, đọc, nói, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt
động của lứa tuổi. Thơng qua dạy và học Tiếng Việt cịn góp phần rèn luyện cho
các em các thao tác của tư duy, cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản
về Tiếng Việt, về xã hội, tự nhiên và con người, về văn hố, văn học của Việt
Nam và nước ngồi. Qua đó cịn bồi dưỡng tình u Tiếng Việt cho các em và
hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần
hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Từ những mục đích giáo dục trên, việc dạy học phân mơn “Luyện từ và
câu” trong mơn Tiếng Việt đóng vai trị hết sức quan trọng trong hệ thống ngôn
ngữ. Đây là sự kết hợp của hai phân mơn riêng biệt đó là Từ ngữ, Ngữ pháp
3


trong chương trình tiểu học trước đây. Nó phù hợp với yêu cầu giáo dục trong
giai đoạn mới, thể hiện được quan điểm dạy học mới là gắn liền những kiến thức
về lý thuyết ngôn ngữ với việc đưa chúng vào hiện thực sử dụng gắn lý thuyết
với thực hành.
Rèn kỹ năng dùng từ, đặt câu trong môn Tiếng Việt có vai trị đặc biệt quan
trọng. Việc giúp học sinh biết cách dùng từ, đặt câu từ là giúp cho các em nắm
ngôn ngữ làm phương tiện giao tiếp. Để học sinh rèn được kỹ năng dùng từ, đặt
câu thì trước hết phải dạy cho các em nắm được từ ngữ, tạo cho các em kĩ năng
sử dụng từ ngữ, giúp các em hiểu được tiếng mẹ đẻ, nắm được các từ ngữ thông
dụng tối thiểu về thế giới xung quanh công việc của học sinh ở trường, ở nhà,
tình cảm gia đình và vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước con người… những từ ngữ đó
gắn với việc giáo dục học sinh tình yêu gia đình, nhà trường, yêu tổ quốc, yêu
nhân dân, yêu lao động…chúng làm giàu nhận thức, mở rộng tầm mắt của học
sinh, giúp các em nhận thấy vẻ đẹp của quê hương đất nước, con người, dạy các
em biết yêu và ghét. Việc dạy từ ngữ và nâng cao vốn từ được tiến hành trên
những mẫu mực tiếng Việt hiện đại. Vốn từ của học sinh được làm giàu dựa trên
những ngữ liệu chủ yếu là những bài tập đọc, những câu chuyện kể, các bài tập

làm văn. Từ lớp 2 tất cả các nội dung có liên quan đến từ ngữ đều được sắp xếp
theo chủ đề. Nói cách khác cung cấp từ theo chủ đề là cơ sở của tính tuần tự
trong việc rèn kỹ năng dùng từ, đặt câu ở tiểu học.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Thực trạng
2.1.1. Giáo viên:
Chúng ta đã và đang thực hiện đổi mới nội dung theo chuẩn kiến thức và
phương pháp dạy học giáo viên là người hướng dẫn, chỉ đạo cho học sinh hoạt
động. Sự thay đổi về nội dung và hình thức ở mỗi tiết dạy đã mang lại những
hiêụ quả rõ nét trong dạy và học. Tuy nhiên, vẫn cịn có những giờ từ ngữ đơn
điệu, đơi lúc giáo viên cịn lệ thuộc một cách máy móc vào sách hướng dẫn, tính
sáng tạo chưa cao, tiết học chưa sinh động, chưa cuốn hút được học sinh,
nặng nề và áp đặt học sinh trong khi giảng bài khô khan, chưa gây được sự hứng
thú học tập của các em.
Một số giáo viên chỉ coi trọng phân môn Tập làm văn xem nhẹ phân môn
Luyện từ và câu nên chỉ dạy theo câu mẫu, ít chú trọng rèn kĩ năng nói, kĩ năng
viết câu, mở rộng câu, sử dụng biện pháp tu từ trong viết câu cho học sinh.
2.1.2. Học sinh:
Học sinh Tiểu học đa số còn hạn chế về ngôn ngữ, các em giao tiếp với
bạn bè, thầy cơ có thể tương đối tốt nhưng để diễn đạt, trình bày một vấn đề đòi
hỏi sử dụng những từ ngữ, hình ảnh có tính biểu cảm một chút các em sẽ lúng
túng ngay.

4


Vốn từ ngữ của học sinh còn hạn chế là một trong những nguyên nhân
dẫn đến hạn chế trong khả năng cảm thụ, nắm bắt nội dung văn bản của học
sinh.
Một bộ phận học sinh còn kém về ngữ pháp. Các em chưa thành thạo

trong sử dụng dấu câu, trong sử dụng các biện pháp tu từ và cả trong việc phân
tích cấu trúc câu.
Học sinh chưa biết phân tích đề và làm bài theo từng thể loại.
Học sinh trình bày một đoạn văn cịn lúng túng khơng diễn đạt được, khi
viết văn hoặc đặt câu thì câu còn rườm rà, chưa đúng ngữ pháp…
2.1.3. Phụ huynh:
Một bộ phận phụ huynh chưa có nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của
bộ mơn Tiếng Việt nên cịn xem nhẹ việc hướng dẫn, bồi dưỡng và hỗ trợ con
em học tập ở nhà.
2.2. Kết quả thực trạng trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Mặc dù giáo viên đã áp dụng nội dung phương pháp dạy học đổi mới,
song qua dự giờ tôi nhận thấy học sinh tham gia học tập chưa sơi nổi, trong các
tiết Luyện từ và câu cịn nhiều em chưa biết dùng từ để đặt câu, hoặc đặt câu
chưa đúng ngữ pháp, chưa biết sử dụng đúng dấu câu, đặt câu chưa hay và chưa
mạnh dạn trình bày ý kiến của mình trước lớp.
Giáo viên đã truyền thụ đúng, đủ kiến thức tới học sinh song chưa nổi bật
trọng tâm của từng bài học. Chủ yếu học sinh học tốt nắm bắt và đặt câu tốt một
số học sinh tiếp thu bài chậm còn chưa biết dùng từ để đặt câu cho đúng.
Thông qua việc dự giờ, khảo sát chất lượng. Đặc biệt điều tra qua vở bài tập của
học sinh lớp 4D vào đầu tháng 10 năm học 2019 - 2020 kết quả khảo sát như
sau:

Số
TT

Nội dung

HS

HS chưa biết

thực hiện đúng
yêu cầu để đặt
câu

HS đã biết thực
hiện đúng yêu cầu
để đặt câu đúng
và hay

SL

%

SL

%

1

Sử dụng các vốn từ theo chủ
điểm đã học để đặt câu.

25

7

28,0

18


71,1

2

Sử dụng các từ loại: Danh từ,
động từ, tính từ để đặt câu.

25

6

24,0

19

76,0

3

Đặt câu đúng thành phần ngữ
pháp.

25

5

20,0

20


80,0

4

Viết hoa chữ các đầu mỗi câu
và sử dụng dấu câu hợp lý ở
cuối câu.

25

5

20,0

20

80,0
5


Từ kết quả khảo sát trên, bản thân là một giáo viên tiểu học được trực tiếp
dạy môn Tiếng Việt lớp 4 trong nhiều năm qua. Qua thực tế dạy học, tôi thấy
rằng cần phải chú trọng hơn nữa việc rèn kĩ năng dùng từ, đặt câu cho học sinh
bởi đó là cơ sở giúp các em học tốt mơn Tiếng Việt cho hiện nay và cả mai sau.
Với khả năng vốn có và những kinh nghiệm thực tế của bản thân tôi đã mạnh
dạn chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả rèn kĩ năng dùng
từ, đặt câu trong môn Tiếng Việt ở lớp 4D, trường tiểu học Thị Trấn Hà
Trung ” với hi vọng được góp phần nhỏ bé vào việc nâng cao hiệu quả dạy học
Tiếng Việt trong nhà trường.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề

2.3.1. Hệ thống lại chuẩn kiến thức và các dạng lỗi về câu mà học sinh
thường mắc phải.
Trước hết, muốn rèn kĩ năng dùng từ, đặt câu cho học sinh được tốt thì
cần phải giúp học sinh hiểu được ý nghĩa của câu, cấu trúc câu.
Câu là đơn vị của lời nói. Câu do từ cấu tạo nên để biểu đạt một ý trọn
vẹn. Khi nói, câu có một ngữ điệu nhất định phù hợp với nội dung kể, hỏi, cảm
xúc hoặc cầu khiến. Trong văn viết, chữ đầu câu phải viết hoa và cuối câu có
dấu để biểu thị ngữ điệu. Hội đủ các điều kiện trên thì tạo thành câu hoàn chỉnh.
Một số lỗi viết câu của học sinh Tiểu học:
Qua thực tế giảng dạy nhiều năm, tình trạng viết câu sai của học sinh lớp
4 thường rơi vào các lỗi phổ biến như sau:
Lỗi về cấu tạo ngữ pháp của câu: là những lỗi thuộc về cấu trúc câu như
thiếu hoặc thừa thành phần câu, phân định các thành phần câu chưa rõ ràng hoặc
sắp xếp các thành phần câu chưa phù hợp.
Câu không đủ thành phần:
- Câu thiếu thành phần chủ ngữ.
- Câu thiếu thành phần vị ngữ.
- Câu thiếu cả thành phần chủ ngữ và vị ngữ.
Câu thừa thành phần: là câu có thành phần câu lặp lại thành phần câu
một cách không cần thiết.
Câu không định rõ thành phần câu (cịn gọi là câu có kết cấu rối):
Đây là những câu mà xét về cấu tạo khó xác định các bộ phận câu kết
hợp với nhau theo quan hệ ngữ pháp nào. Xét về ý nghĩa thì mối quan hệ giữa
các bộ phận câu không rõ ràng, chính xác, khơng lơgíc, khơng diễn đạt được một
nội dung cụ thể.
Câu không đủ thành phần:
Câu thiếu thành phần chủ ngữ:

6



Câu thiếu chủ ngữ thường xuất hiện khi học sinh nhầm đối tượng hoặc đối
tượng chỉ mới xuất hiện trong ở trong tư duy chưa được thực hiện hóa ở lời
(câu) với chủ ngữ. Trong tư duy của học sinh, đối tượng cần nói đến đã hiện rất
rõ, các em chỉ quan tâm đến việc diễn tả những hoạt động, tính chất, trạng thái
của đối tượng. Do vậy, các em viết câu khơng có thành phần chủ ngữ và n trí
rằng câu đã trọn nghĩa. Câu thiếu chủ ngữ cũng có thể do học sinh lầm tưởng
trạng ngữ là chủ ngữ.
Ví dụ:
Hơm qua, đi xem phim.
Qua cảnh đồng lúa chín vàng, càng thấy yêu quê hương.
Câu thiếu thành phần vị ngữ:
Ví dụ:
Chiếc cặp sách mà bố tặng em.
Những ngày nắng nóng, tơi và các bạn tơi cùng lứa tuổi trong xóm nhỏ.
Câu thiếu cả thành phần chủ ngữ và vị ngữ :
Ví dụ:
Khi những hạt mưa xuân nhè nhẹ rơi trên lá non.
Để chi đội 4A trở nên vững mạnh, dẫn đầu toàn liên đội.
Câu thừa thành phần:
VD: Truyện “Hươu và Rùa” người xưa cho chúng em thấy tình bạn giữa
Hươu và Rùa rất đẹp.
Câu không phân định rõ thành phần (Câu có kết cấu rối)
Câu có một bộ phận cùng giữ hai chức năng ngữ pháp trong câu.
Lỗi về diễn đạt trong câu:
Do năng lực tư duy còn yếu nên các em khơng diễn đạt được một cách
chính xác ý định của mình, diễn đạt sai nội dung, ngữ nghĩa của câu thiếu logic,
thiếu chặt chẽ.
Ví dụ: Chiếc cặp của em có hình chữ nhật, đựng đồ dùng học tập cũng
bằng hình chữ nhật, cặp có in hình siêu nhân, ngăn nhỏ đựng sách, cặp có quai

xách.
Tuổi thơ của mình gắn bó với dịng sơng, mình như một dịng sơng, khơng
phải ai cũng có một dịng sơng.
Hướng dẫn học sinh sửa một số lỗi khi viết câu:
Muốn cho học sinh nhận diện đúng về câu, sắp xếp thành câu đúng, trước
tiên giáo viên cần củng cố, khắc sâu kiến thức về câu cho học sinh với hai dấu
hiệu chính đó là:
Về bản chất: Câu phải diễn đạt một ý trọn vẹn.
7


Về hình thức: Câu ứng với một kiểu cấu tạo nhất định. Trên chữ viết được
mở đầu bằng một chữ cái viết hoa, kết thúc bằng một dấu chấm câu.
Từ đó tơi đã tìm ra phương pháp hướng dẫn sửa các lỗi dùng từ đặt câu
sai cho học sinh:
Câu thiếu thành phần chủ ngữ:
Ví dụ:

Hơm qua, đi xem phim.
Qua cảnh đồng lúa chín vàng, càng thấy u q hương.

Tơi giúp học sinh hiểu ra các câu trên thiếu thành phần chủ ngữ và hướng
dẫn học sinh thêm chủ ngữ cho câu.
Sửa lại:

Hôm qua, tôi //đi xem phim.
TN

CN


VN

Qua cảnh đồng lúa chín vàng, em //càng thấy yêu quê hương.
TN

CN

VN

Câu thiếu thành phần vị ngữ:
Ví dụ: Chiếc cặp sách mà bố tặng em.
Những ngày nắng nóng, tơi và các bạn tơi cùng lứa tuổi trong xóm nhỏ.
Tìm ra nguyên nhân các câu trên chưa thành câu vì còn thiếu thành phần
vị ngữ, từ đó hướng dẫn cho học sinh thêm thành phần vị ngữ cho câu.
Sửa lại:
Chiếc cặp sách mà bố tặng em // rất đẹp.
CN

VN

Những ngày nắng nóng, tơi và các bạn tơi cùng lứa tuổi trong xóm nhỏ
TN

CN

thường ra sơng tắm.
VN
Câu thiếu cả thành phần chủ ngữ và vị ngữ:
Ví dụ : Để chi đội 4A trở nên vững mạnh, dẫn đầu tồn liên đội.
Có thể giúp học sinh phân tích để chỉ ra các câu trên xét về cấu trúc câu

thì thiếu cả (thành phần chủ ngữ và vị ngữ) chỉ có thể làm trạng ngữ của câu, và
chỉ ra các cách sửa như sau:
Cách 1: Bớt từ ngữ: bỏ bớt từ “để” và viết lại:
Chi đội 4A trở nên vững mạnh, dẫn đầu toàn liên đội.
Cách 2: Thêm từ ngữ: Thêm CN, VN để thành câu.
Để chi đội 4A trở nên vững mạnh, dẫn đầu toàn liên đội, mỗi đội viên phải
cố gắng đạt nhiều thành tích tốt.
8


Ví dụ: Khi những hạt mưa xuân nhè nhẹ rơi trên lá non.
Cách 1: Bớt từ ngữ: bỏ bớt từ “khi” và viết lại:
Những hạt mưa xuân nhè nhẹ rơi trên lá non.
Cách 2: Thêm từ ngữ: Thêm CN, VN để thành câu.
Khi những hạt mưa xuân nhè nhẹ rơi trên lá non, cây cối trong
vườn lại thêm sức sống mới.
Câu thừa thành phần:
Ví dụ: Truyện “Hươu và Rùa” người xưa cho chúng em thấy tình bạn giữa
Hươu và Rùa rất đẹp.
Yêu cầu học sinh đọc, tìm ra chỗ sai của từng câu (có thành phần bị thừa)
Hướng dẫn chữa lỗi sai: Tìm ra bộ phận thừa và lược bỏ chúng đi.
Cụ thể, ở ví dụ này, bỏ từ “người xưa’ hoặc thêm quan hệ từ “qua” vào
đầu câu để "Truyện Hươu và Rùa” thành trạng ngữ).
2.3.2. Giúp học sinh mở rộng vốn từ, luyện kĩ năng viết câu cho học sinh:
Giúp học sinh mở rộng vốn từ:
Để học sinh có một kiến thức phong phú về ngơn ngữ tiếng Việt, việc đầu
tiên là rèn cho các em kĩ năng nghe, nói, hiểu và viết đúng chính tả Tiếng Việt.
Trên cơ sở đó, các em sẽ dễ dàng tiếp thu kiến thức về vốn từ, nghĩa của từ.
Từ việc hệ thống được các dạng lỗi khi đặt câu học sinh thường mắc phải
Trong phần tìm hiểu nghĩa của từ, để học sinh tiếp thu và vận dụng tốt

kiến thức chúng ta cần phối hợp nhiều cách tổ chức cho học sinh thảo luận, sưu
tầm, luyện tập vào văn cảnh cụ thể để nắm được nghĩa của nhóm từ đó.
Như đã nói ở trên việc mở rộng vốn từ cho học sinh tương đối khó bởi vì
khả năng ngơn ngữ của các em còn hạn chế. Tuy nhiên, những hình thức tổ chức
hoạt động học tập phù hợp cũng sẽ giải quyết được vấn đề này. Một số chủ đề có
phần khó hiểu đối với các em, giáo viên định hướng về mặt ngữ nghĩa của chủ
đề học sinh dễ tiếp thu và mở rộng vốn từ theo từng bài tập đã xây dựng.
Đa số các chủ đề mở rộng vốn từ trong chương trình có vốn từ Hán Việt
khá nhiều làm cho học sinh gặp khó khăn, tuy vậy giáo viên nên chọn giải pháp
thực hành từ các tình huống giao tiếp thực tế sẽ giúp các em dễ dàng hơn trong
việc hiểu nghĩa của từ.
Ví dụ: Chủ đề “ Trung thực – Tự trọng” ( TV 4 tập 1 trang 48), [2] giáo
viên tổ chức cho học sinh tìm hiểu nghĩa của từ trung thực trong một tình huống
như trong giờ kiểm tra, Lan không làm bài được, bạn bên cạnh đã làm xong và
đưa cho Lan chép nhưng Lan nhất định không chép. Sau khi học sinh đã nắm
được nghĩa của từ, giáo viên cho học sinh tìm thêm các từ đồng nghĩa với từ
trung thực. Với cách dạy như vậy, giáo viên giúp các em không những khắc sâu
kiến thức mà còn giúp nâng cao khả năng mở rộng vốn từ của các em.
9


Trong một bài học về mở rộng vốn từ thường có bài tập về viết một đoạn
văn ngắn nói về nội dung của vốn từ được mở rộng, đây là dạng bài tập tổng hợp
vừa củng cố, vừa vận dụng vốn từ và thực hành viết câu làm văn cho nên giáo
viên có sự chuẩn bị trong việc uốn nắn các em về cách dùng từ, viết câu và diễn
đạt nội dung
Rèn kĩ năng viết câu:
Trong thực tế, yêu cầu với học sinh lớp 4 là phải biết nói, viết diễn đạt
thành câu và viết được đoạn văn. Tuy nhiên, như đã nói ở trên, những lỗi viết
câu ở nhiều dạng khác nhau vẫn cịn xuất hiện nhiều. Và đó là nguyên nhân dẫn

đến hạn chế trong việc xây dựng đoạn, hạn chế trong kĩ năng viết văn của học
sinh về lâu dài nếu không được chấn chỉnh kịp thời. Khi rèn kĩ năng viết câu,
giáo viên chú ý hướng dẫn cho học sinh thực hiện được những yêu cầu cơ bản
sau:
*Hướng dẫn học sinh viết câu đúng cấu tạo ngữ pháp:
Để học sinh viết câu đúng cấu tạo ngữ pháp, trước hết phải dạy cho học
sinh nắm vững các kiến thức cơ bản về ngữ pháp trong câu. Nhận biết được
thành phần nòng cốt câu. Cho học sinh nhận xét, phát hiện các thành phần còn
thiếu trong câu. Từ đó, hướng dẫn học sinh đặt câu có đầy đủ các thành phần
chính.
Ví dụ: Hằng năm, cứ vào ngày 2 tháng 9, thường tổ chức hội thi đua
thuyền trên sông.
Cho học sinh nhận xét, xác định thành phần câu để học sinh tự phát hiện
đây là câu thiếu thành phần chủ ngữ và cho học sinh tự chữa lại câu trên.
Hằng năm, cứ vào ngày 2 tháng 9, thường tổ chức hội thi đua thuyền trên
TN

VN

sông.
Sửa lại:
Hằng năm, cứ vào ngày 2 tháng 9, quê em / thường tổ chức hội thi đua
TN

CN

VN

thuyền trên sông.
Về mặt ngữ pháp, đa số học sinh biết viết câu theo yêu cầu bài tập.

Thường thì các em hay mắc lỗi về dấu câu như: quên ghi dấu, sử dụng dấu chấm
câu không theo mục đích nói của câu…Với những lỗi như vậy giáo viên sửa sai
tại chỗ cho học sinh. Giáo viên nêu câu hỏi, gợi ý để học sinh tự phát hiện lỗi và
hướng dẫn các em tự chữa lỗi để các em nhớ và rút kinh nghiệm. Giáo viên có
thể ghi lại lưu ý đối với học sinh dưới bài tập sai đó để học sinh lưu ý.
Trong hoạt động giao tiếp, giáo viên cần gợi mở cho học sinh tìm tòi, suy
nghĩ…để có sáng tạo hơn, thơng qua hoạt động nhóm học tập, hoạt động giao
tiếp trong và ngoài lớp…tạo cho các em các thói quen quan sát, đánh giá, nhìn
10


nhận một sự việc, một vấn đề nào đó và diễn đạt điều đó bằng vốn từ ngữ, ngơn
ngữ của mình. Tránh và hạn chế tối đa việc sử dụng từ khơng đúng lúc, khơng
đúng chỗ, nói năng khơng trọn câu. Điều chỉnh kịp thời về những lỗi dùng từ,
đặt câu cho học sinh.
Trong câu các từ phải được sắp xếp theo những quy tắc nhất định đã được
sử dụng rộng rãi, được công nhận trong văn viết và văn nói. Những quy tắc ngữ
pháp, ngữ nghĩa về trật tự các từ chiếm một vị trí quan trọng trong quá trình đặt
câu. Như chủ ngữ thường đứng ở đầu câu, vị ngữ thường đứng sau chủ ngữ. Chủ
ngữ, vị ngữ gắn kết với nhau bằng quan hệ chủ vị. Trong mối quan hệ này, chủ
ngữ nêu đối tượng thông báo, cịn vị ngữ chứa đựng nội dung thơng báo về đối
tượng ấy. Chủ ngữ trả lời cho câu hỏi “Ai”, “Cái gì”, “Con gì” ?... còn vị ngữ trả
lời cho câu hỏi “ Làm gì”, “Như thế nào”, “Là gì”?…
Biết tuân thủ, vận dụng quy tắc ngữ pháp, ngữ nghĩa thích hợp, sáng tạo,
biết cách vận dụng các biện pháp tu từ nghệ thuật trong câu, ta sẽ viết câu đúng
và hay.
Ví dụ: Nói: “Bạn học rất khá.” Chứ khơng nói “Bạn rất học khá” hay “
Anh bao giờ đi? ” và “ Anh đi bao giờ?” là 2 trường hợp câu hỏi hoàn toàn khác
nhau, bao giờ đi chỉ quá khứ, hành động đã xảy ra rồi. Như vậy , khi đặt câu cần
phải sắp xếp trật tự từ một cách thích hợp, có dụng ý nghệ thuật, sáng nghĩa

mới lôi cuốn được người đọc, người nghe.
Hướng dẫn học sinh diễn đạt lôgic và trọn ý khi viết câu:
Giáo viên cần phải hướng dẫn học sinh nói và viết sao cho mỗi câu đều
hợp với quy luật suy nghĩ thông thường, làm sao ý trong mỗi câu ăn khớp với
nhau về nghĩa.
Ví dụ: Viết thư cho người thân ( TV4 tập 1, trang 52), [2] một học sinh đã
viết:
Cháu sẽ viết thư này định gửi thăm bà nhưng bà nhận được khơng.
Câu sai về lơgic vì nói “sẽ” viết thư nhưng thực ra là "đang" viết thư, sự
việc đang diễn ra ở hiện tại nhưng "bà nhận được không" lại là sự việc được hỏi
ở quá khứ.
Hướng dẫn học sinh cách sử dụng từ ngữ gợi cảm, gợi tả và cách sử
dụng các biện pháp tu từ khi viết câu:
Câu do từ cấu tạo thành. Vì thế, khi nói hoặc viết một câu ta phải dùng từ
cho chính xác. Tức là cách dùng từ có chọn lựa, để tìm ra từ đúng nhất, có giá trị
nghệ thuật nhất phù hợp với ý cần diễn đạt.
Ví dụ 1: Viết một đoạn văn ngắn nói về một người có ý chí nghị lực nên
đã vượt qua nhiều thử thách, đạt được thành công. (TV4 tập 1, trang 127), [2]
học sinh đã viết:
Các bạn tận tụy chăm sóc, giúp đỡ Kí viết ngày càng tiến bộ hơn.
Chữa lại là:
11


Được các bạn tận tình giúp đỡ, với sự nỗ lực cố gắng của bản thân, chữ
viết của Kí đã ngày càng tiến bộ hơn.
Ví dụ 2: Đặt câu thuộc chủ đề : “Nhân hậu- Đoàn kết”(VBT TV4 tập 1,
trang 17) [3]
HS đã viết:
Cậu bé với tấm lòng nhân hậu, hành động cụ thể, bày tỏ của mình đã xót

thương cho thân phận của ông lão ăn xin.
Chữa lại là:
Với tấm lòng nhân hậu, cậu bé đã bày tỏ sự xót thương và niềm cảm
thơng cho thân phận của ơng lão ăn xin bằng hành động cụ thể của mình.
Ngơn ngữ tiếng Việt có số lượng từ rất phong phú, đa dạng về ngữ nghĩa.
Khi hướng dẫn học sinh đặt câu giáo viên cần chú ý các hiện tượng: từ đồng
nghĩa (như mênh mông, bao la, thênh thang…), từ trái nghĩa (như: trung thực –
giả dối, lạc quan – bi quan…). Ngồi ra có từ đồng âm khác nghĩa, từ gần nghĩa,
từ do vay mượn tiếng nước ngoài như từ gốc Hán (nghị lực, nỗ lực…)
* Một số lưu ý khi hướng dẫn học sinh viết câu:
Tiếng Việt rất phong phú về ngữ âm, ngữ nghĩa và ngữ pháp. Khi viết câu
nếu biết khéo léo chọn lựa kiểu câu phù hợp với nội dung cần diễn đạt, sử dụng
các từ ngữ được chọn lọc, có hình ảnh, vận dụng sáng tạo các biện pháp tu từ
nghệ thuật thì câu văn sẽ tăng tính biểu cảm và đạt hiệu quả diễn đạt cao. Để đạt
được điều đó, trước hết, học sinh phải thành thạo những kĩ năng cơ bản. Trong
quá trình hướng dẫn, cần lưu ý học sinh những điểm sau:
Sử dụng dấu câu phù hợp với mục đích nói.
Sử dụng dấu câu đúng với chức năng ngữ pháp của các bộ phận trong câu.
Biết cách sử dụng những trợ từ, hư từ, những từ ngừ gợi cảm, gợi tả làm cho câu
văn thêm sinh động.
Dùng từ, thường là hư từ để bổ sung ý nghĩa cho câu.
Có thể dùng nghĩa ngữ pháp ( là, hay, bởi, tại, cùng, và,…) hay nghĩa tình
thái ( ồ, à, ạ, ơi,…) để bổ sung ý nghĩa cho câu thêm sinh động.
Ví dụ: Tuy bạn Thảo học giỏi nên bạn không bao giờ kiêu ngạo.
Sửa lại: Tuy bạn Thảo học giỏi nhưng bạn không bao giờ kiêu ngạo.
Nói chung, khi trật tự từ chưa làm sáng tỏ được các quan hệ ý nghĩa thì hư
từ có tác dụng hỗ trợ. Cịn khi quan hệ ý nghĩa đã rõ ràng, thì có thể khơng dùng
hư từ.
Ví dụ: Ơng ấy là người Đà Nẵng.
Có thể viết: Ơng ấy người Đà Nẵng.

Sắp xếp trật tự từ, cụm từ sao cho thích hợp với ý muốn nói.
12


Trong câu, từ và cụm từ cần được sắp xếp theo một trật tự phục vụ cho
việc biểu hiện các ý nghĩa, các chức năng ngữ pháp, các quan hệ ngữ pháp nhất
định. Nếu thay đổi trật tự sắp xếp thì phương diện này có thể thay đổi, hoặc làm
cho tổ hợp từ trở nên vô nghĩa, không thể chấp nhận được.
Ví dụ: Mình tặng cậu một quyển sách.
Cậu tặng mình một quyển sách.
Cậu thì mình tặng một quyển sách.
Mình một quyển sách tặng cậu. ( Tổ hợp từ vô nghĩa)
Trong các ngơn ngữ mà từ có biến đổi hình thái, thì trật tự từ trong câu có
tính tự do và linh hoạt hơn. Cịn trong Tiếng Việt có sự linh hoạt trong trật tự sắp
xếp từ, chỉ có thể có những hồn cảnh giao tiếp nhất định và với những điều
kiện nhất định mà thôi.
* Câu chặt chẽ, mạch lạc:
Là cách viết câu chặt chẽ về cấu trúc ngữ pháp, từ đó câu mạch lạc về ý
nghĩa, logic câu.
Khơng để chủ ngữ xuất hiện ở vế phụ, nếu chủ ngữ ấy đã xuất hiện ở vế
chính.
Ví dụ 1: Chiếc cặp được em giữ gìn cẩn thận, chiếc cặp vẫn còn mới.
Sửa lại: Được em giữ gìn cẩn thận, chiếc cặp vẫn cịn mới.
Ví dụ 2: Búp bê có mái tóc màu vàng, đơi mắt của búp bê màu xanh.
Sửa lại: Búp bê có mái tóc vàng, đơi mắt màu xanh.
Không dùng từ nối “ và” để nối cụm chủ vị diễn đạt ý phụ với cụm chủ vị
diễn đạt ý chính.
Ví dụ: Lan chăm chỉ học hành và Lan học giỏi.
Sửa lại: Lan chăm chỉ học hành nên Lan học giỏi.
Giáo viên tổ chức thực hành các bài tập cho học sinh trong phần luyện tập,

giúp các em hiểu biết đầy đủ và chính xác các khái niệm về câu, các thành phần
chính, phụ của câu, các loại câu. Từ đó, biết sử dụng trong hoạt động nói và viết
một cách thành thạo.
* Một số dạng bài tập minh họa để rèn kĩ năng dùng từ, viết câu:
Bước đầu tôi ra bài tập những bài tập nhỏ, dễ làm, dần dần tôi nâng cao
lên vừa sức với các em. Rèn cho các em những bài tập có liên quan đến nhược
điểm mà các em thường mắc phải từ đơn giản đến phức tạp.
Ví dụ 1: Trong những dịng sau đây, dòng nào đã thành câu:
Trời mùa thu
Bác rất vui khi thấy các cháu đều ngoan
Học sinh lớp 4A.
13


Tất cả học sinh trường em
Trong cặp có 4 quyển vở.
Giáo viên nêu câu hỏi : Đề yêu cầu ta làm gì? (chỉ ra những dòng đã thành
câu).
Học sinh sẽ tìm được những dòng đã thành câu.
Vì sao những dòng đó đã thành câu? (vì đã diễn đạt được một ý trọn vẹn,
người nghe hiểu được)
Đồng thời cũng yêu cầu học sinh nêu các dòng nào chưa thành câu? Vì
sao?
( Khuyết đi bộ phận nào? )
Từ đó khắc sâu cho các em khái niệm về câu và cách tìm.
Ví dụ 2 : Chỉ ra các bộ phận chính trong các câu sau :
Nam viết thư cho bố.
Mặt trăng tròn toả sáng rực rỡ.
Cây phượng đã thay lá.
Trong đêm tối, con mèo nhà em đang rình chuột.

Để chỉ ra các bộ phận chính chủ ngữ và vị ngữ trong các câu đó thì bắt
buộc học sinh phải nhớ lại :
Cách tìm chủ ngữ bằng cách đặt câu hỏi : Ai?, Cái gì?, Con gì?
Tìm vị ngữ bằng cách đặt câu hỏi : Làm gì?, Như thế nào?, Là gì?
Từ đó các em dễ dàng xác định bộ phận chính chủ ngữ, vị ngữ trong câu.
Khi làm dạng bài tập này, tôi lưu ý thêm về vị trí chủ ngữ và vị ngữ trong câu
(chủ ngữ đứng trước, vị ngữ đứng sau) nhưng đôi lúc ta cũng gặp vị ngữ đứng
trước, chủ ngữ đứng sau.
Ví dụ:
Bạc phơ / mái tóc người cha.
VN

CN

Dưới bóng tre ngàn xưa, thấp thống mái chùa cổ kính.
TN

VN

CN

Ví dụ trên giáo viên hướng dẫn cho học sinh hiểu đó cịn lại là câu đảo
ngữ (sử dụng biện pháp tu từ đảo ngữ) có tác dụng nhấn mạnh tính chất, đặc
điểm, hoạt động của bộ phận chủ ngữ.
Ví dụ 3: Ghép các từ ngữ ở cột A với các từ ngữ ở cột B để tạo thành câu
kể: Ai làm gì ?

14



A

B

Đàn cị trắng

kể chuyện cổ tích

Bà em

giúp dân gặt lúa

Bộ đội

bay lượn trên cánh đồng
( VBT TV4 tập 1, trang 172 ) [3]

Với dạng bài tập này rèn luyện kỹ năng viết câu đúng ngữ nghĩa. Khi
hướng dẫn học sinh làm bài tập này cũng như khi chấm bài tôi tránh chê bai làm
học sinh chán nản dẫn đến sợ học môn Tiếng Việt. Vì vậy tôi động viên, khen
ngợi tạo cho các em sự hứng thú, ham học. Em nào làm sai tơi cho em đọc câu
đó và hỏi xem câu đó có logic chưa? Nghĩa câu có phù hợp khơng? sau đó
hướng dẫn cho em làm lại và tun dương em đó.
Ví dụ 4: Đặt một vài câu kể:
Kể các việc em làm hằng ngày sau khi đi học về.
Tả chiếc bút em đang dùng.
Trình bày ý kiến của em về tình bạn.
Nói lên niềm vui của em khi nhận điểm tốt.
( TV4 tập 1, trang 161) [2]
Dạng bài tập này giúp các em dùng từ ngữ phù hợp, chính xác rèn luyện

kỹ năng nói, viết thành câu.
Tất cả các dạng bài tập trên các em đều đã học ở trên lớp, như tôi đã nêu ở
phần trên, đối với học sinh giỏi thì quá dễ dàng nhưng đối với học sinh trung
bình, yếu thì cực kỳ khó khăn. Vì vậy với thời gian ở trên lớp các em làm bài
vào vở nháp, đọc lên cả lớp và tơi nhận xét, bổ sung. Sau đó, về nhà viết lại vào
vở nháp một lần nữa. Tôi phân công đôi bạn học tập (1 giỏi - 1 yếu), em giỏi có
nhiệm vụ đọc và hướng dẫn em yếu khi đã làm lại nhiều lần, đến khi nào khơng
cịn sai lỗi chính tả, sai lỗi dùng từ, câu đầy đủ hai bộ phận chính thì cho bạn ghi
vào vở. Đến tiết học sau mang lên cho giáo viên kiểm tra lại một lần nữa.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Trong năm học 2019 - 2020, từ những nghiên cứu, tìm tòi đưa ra những
phương pháp tối ưu cho bản thân, tơi nhận thấy học sinh lớp tơi có được kết quả
tốt. Nhờ vận dụng các biện pháp trên mà chất lượng học tập của học sinh yếu đã
có những tiến bộ rõ rệt. Thể hiện rõ nhất là ở phân môn Tập làm văn, các em học
sinh yếu đã dần dần viết được những câu văn đủ nghĩa, biết dùng đúng dấu câu
khi viết hết mỗi ý. Đặc biệt các em ít viết sai chính tả và đọc đúng giọng phổ
thơng khơng cịn dùng tiếng địa phương. Chất lượng mơn Luyện từ câu của lớp
tơi đã có những kết quả rõ rệt.
Học sinh biết phân tích để tìm ra từng thể loại bài tập.

15


Học sinh biết dùng từ đặt câu, diễn đạt được đoạn văn của mình một cách
trôi chảy, viết câu đúng ngữ pháp, biết sửa chữa bổ sung cho đoạn văn, câu văn
của mình hay hơn. Cụ thể như sau:
Số
TT

Nội dung


HS

HS chưa biết
thực hiện đúng
yêu cầu để đặt
câu

HS đã biết thực
hiện đúng yêu cầu
để đặt câu đúng
và hay

SL

%

SL

%

1

Sử dụng các vốn từ theo chủ
điểm đã học để đặt câu.

25

1


4,0

24

96,0

2

Sử dụng các từ loại: Danh từ,
động từ, tính từ để đặt câu.

25

1

4,0

24

96,0

3

Đặt câu đúng thành phần ngữ
pháp.

25

2


8,0

23

92,0

4

Viết hoa chữ các đầu mỗi câu
và sử dụng dấu câu hợp lý ở
cuối câu.

25

0

0,0

25

100

Muốn học trò tốt hơn, hãy dành thời gian quan tâm học trò nhiều hơn.
Đừng tìm những con đường dễ dàng nhất trong việc giảng dạy. Như thế
học trò sẽ lười suy nghĩ, cần làm cho học trò thấy việc học là lao động thực sự.
Điều quan trọng nhất là giáo viên phải ln khích lệ, ln ở bên chúng khi khó
khăn.
Kiểm tra chất lượng học sinh thường xuyên để có kế hoạch phụ đạo.
Cần phối hợp nhiều phương pháp dạy học nhằm giúp các em học tập tốt
hơn.

3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận:
Sau khi áp dụng một số kinh nghiệm trên vào giảng dạy tại lớp 4D, trường
Tiểu học Thị Trấn năm học 2019 - 2020 tôi nhận thấy:
Học sinh rất hứng thú tham gia học tập. Các em tích cực tham gia các
hoạt động, nắm được cách dùng từ, đặt câu để viết được đoạn văn một cách
thành thạo. Các em khơng cịn thấy lúng túng khi đặt câu như trước kia nữa.
Đa số học sinh biết tham gia dùng từ, đặt câu, viết hoàn chỉnh đoạn văn
theo yêu cầu và mạnh dạn trình bày trước lớp.
Từ việc tiến bộ rõ rệt trong cách dùng từ, đặt câu các em đã biết viết một
bài văn hay hơn, câu từ đỡ rườm rà hơn.
Các em được tham gia học tập với các hình thức dạy học phong phú:
Làm việc cá nhân, đồng loạt, nhóm... “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả rèn kĩ năng dùng từ, đặt câu trong môn Tiếng Việt ở lớp 4D, trường tiểu
16


học Thị Trấn Hà Trung ” là một việc làm rất cần thiết, đáp ứng được yêu cầu của
chương trình môn Luyện từ và câu, tạo điều kiện cho các em học tốt môn Tập
làm văn và các môn học khác. Nó cịn phù hợp với việc đổi mới phương pháp
dạy học, nâng cao hiệu quả chất lượng dạy học cho học sinh.
Thế giới ngơn từ khơng có điểm tận cùng, việc học luyện từ và câu để ứng
xử, giao tiếp trong xã hội bằng tiếng Việt phải học suốt đời. Mong rằng, với
những điều tôi đã nêu, sẽ là kinh nghiệm bổ ích cho đồng nghiệp tham khảo
trong quá trình dạy môn luyện từ và câu ở bậc tiểu học. Để tiếng Việt ngày càng
trong sáng hơn, giàu đẹp hơn.
Đó là cố gắng, nỗ lực nghiên cứu tìm tịi của tôi trong năm học qua, và cũng là
kinh nghiệm bổ ích cho cơng tác giảng dạy của bản thân. Rất mong các cấp lãnh đạo,
đồng nghiệp góp ý để kinh nghiệm của tơi hồn thành xuất sắc hơn.
3.2. Kiến nghị:

Để nâng cao hiệu quả trong việc rèn kỹ năng dùng từ, đặt câu trong môn
Tiếng Việt đối với học sinh lớp 4, tơi có một số đề xuất, kiến nghị sau:
* Đối với giáo viên.
- Hiểu và nắm chắc nội dung dạy học; các kiến thức và kĩ năng luyện từ
và câu cần trang bị cho học sinh. Thấy được ý đồ của tác giả sách giáo khoa;
thấy được ưu, nhược của chương trình và các tài liệu dạy học khác.
- Nắm vững phương pháp dạy học, sử dụng linh hoạt, sáng tạo các hình
thức dạy học khi dạy phân môn luyện từ và câu ở Tiểu học. Nắm vững đặc điểm
tâm sinh lí, nhận thức của học sinh lứa tuổi Tiểu học để đảm bảo luôn thống nhất
giữa nội dung và hình thức ngữ pháp, luôn gắn các ý nghĩa ngữ pháp với các dấu
hiệu hình thức để nhận diện câu, đặt câu, viết đoạn văn…
- Trong quá trình dạy học, cần thống kê chính xác những lỗi phổ biến
nhất mà học sinh thường sai, từ đó rút ra được phương pháp, hình thức dạy học
thích hợp. Xây dựng được bài tập cụ thể, tối ưu để phòng ngừa, khắc phục dần
các lỗi sai thường gặp ở học sinh.
* Đối với nhà trường.
- Đầu tư hợp lí cho việc mua sắm đồ dùng dạy học về công nghệ thông tin
và các tài liệu chuyên môn phục vụ cho dạy và học, thường xuyên tổ chức các
chuyên đề tập trung vào việc đổi mới phương pháp dạy học.
* Đối với Phòng Giáo dục và Đào tạo.
- Mỗi năm cần tổ chức các đợt tập huấn về chuyên môn để trao đổi, học hỏi
kinh nghiệm với các đồng nghiệp của các trường bạn trong địa bàn huyện, cũng
như được tiếp thu, học tập các kinh nghiệm, phương pháp dạy học mới nhất của
huyện về rèn kỹ năng dùng từ, đặt câu cho học sinh để đúc rút kinh nghiệm
trong quá trình giảng dạy.

17


Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của bản thân rút ra trong quá trình dạy

học. Hy vọng ít nhiều góp phần nâng cao hiệu quả trong việc rèn kỹ năng dùng
từ, đặt câu trong môn Tiếng Việt đối với học sinh lớp 4.
Do năng lực có hạn, chắc chắn sẽ khơng tránh khỏi thiếu sót. Tơi rất mong
được sự đóng góp ý kiến của bạn bè, đồng nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn !
Thị Trấn, ngày 15 tháng 3 năm 2021
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

CAM KẾT KHÔNG COPY
Người viết

Lê Thị Lan

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Lê Phương Nga và Đặng Kim Nga. Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở
Tiểu học. NXB Đại học Sư phạm.
[2]. Sách giáo khoa Tiếng Việt 4; Chủ biên Nguyễn Minh Thuyết; Nhà xuất bản
Giáo dục Việt Nam – 2014.
[3]. Vở bài tập Tiếng Việt 4; Chủ biên Nguyễn Minh Thuyết; Nhà xuất bản Giáo
dục Việt Nam – 2017.

19


DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC

CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN

Họ và tên tác giả: Lê Thị Lan
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường Tiểu học Thị Trấn

TT
1.
1

2.
2

Tên đề tài SKKN
Một số kinh nghiệm dạy văn
miêu tả cho học sinh lớp 3C
trường tiểu học Thị Trấn Hà
Trung
Một số kinh nghiệm giúp học
sinh lớp 4 rèn kĩ năng giải
dạng toán “Tìm hai số khi
biết tổng và tỉ số của hai số
đó”.

Cấp đánh giá
xếp loại

Kết quả
đánh giá
xếp loại


(Ngành GD cấp
huyện/tỉnh; Tỉnh...)

(A, B, hoặc C)

Tỉnh

C

Tỉnh

B

Năm học
đánh giá
xếp loại

2015-2016

2018-2019

20



×