Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Hứng thú nghề nghiệp của sinh viên sư phạm trường đại học hùng vương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 94 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HÀ THANH HUỆ

HỨNG THÚ NGHỀ NGHIỆP CỦA SINH VIÊN SƯ PHẠM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

HÀ NỘI - 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HÀ THANH HUỆ

HỨNG THÚ NGHỀ NGHIỆP CỦA SINH VIÊN SƯ PHẠM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG
Chuyên ngành: Tâm lý học
Mã số: 8 31 04 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. Trần Thu Hương

HÀ NỘI - 2018




MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỨNG THÚ NGHỀ NGHIỆP CỦA
SINH VIÊN SƯ PHẠM ............................................................................. 15
1.1. Hứng thú ............................................................................................... 15
1.2. Hứng thú nghề nghiệp của sinh viên sư phạm ...................................... 25
1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến hứng thú nghề nghiệp của sinh viên sư
phạm ............................................................................................................ 33
Chương 2: TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................ 39
2.1. Đặc điểm khách thể và địa bàn nghiên cứu ........................................... 39
2.2. Tổ chức nghiên cứu .............................................................................. 41
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN VỀ HỨNG THÚ
NGHỀ NGHIỆP CỦA SINH VIÊN SƯ PHẠM TRƯỜNG ĐẠI HỌC
HÙNG VƯƠNG .......................................................................................... 47
3.1. Thực trạng hứng thú nghề nghiệp của sinh viên sư phạm trường Đại học
Hùng Vương ................................................................................................ 47
3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến hứng thú nghề nghiệp của sinh viên sư
phạm trường ĐHHV ................................................................................... 60
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................. 73
PHỤ LỤC…………………………………………………………………..76


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Đặc điểm khách thể nghiên cứu là sinh viên ............................. 39
Bảng 2.2. Đặc điểm khách thể nghiên cứu là giảng viên .......................... 40
Bảng 2.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến hứng thú nghề nghiệp của sinh viên sư
phạm trường ĐHHV ................................................................................. 44
Bảng 3.1: Hứng thú nghề nghiệp của sinh viên sư phạm trường ĐHHV ... 47

Bảng 3.2. Đánh giá của thầy cô giáo ĐHHV về hứng thú nghề nghiệp của
sinh viên ................................................................................................... 48
Bảng 3.3. Biểu hiện hứng thú nghề nghiệp của sinh viên sư phạm trường
ĐHHV qua nhận thức .............................................................................. 50
Bảng 3.4. Hứng thú nghề nghiệp của sinh viên sư phạm trường ĐHHV thể
hiện ở thái độ ........................................................................................... 52
Bảng 3.5. Hứng thú nghề nghiệp của sinh viên sư phạm trường ĐHHV thể
hiện ở mặt hành vi .................................................................................... 54
Bảng 3.6. Đánh giá trên giảng viên về hứng thú nghề nghiệp của sinh viên
sư phạm trường ĐHHV thể hiện ở mặt hành vi ........................................ 54
Bảng 3.7. Sự khác biệt giới tính về hứng thú nghề nghiệp........................ 56
Bảng 3.8. Kết quả kiểm định hậu Anova về sự khác nhau giữa các nhóm
sinh viên về hứng thú nghề nghiệp biểu hiện qua nhận thức ..................... 56
Bảng 3.9. Kết quả kiểm định hậu Anova về sự khác nhau giữa các nhóm
sinh viên về hứng thú nghề nghiệp thể hiện qua thái độ cảm xúc ............. 57
Bảng 3.10. Kết quả kiểm định hậu Anova về sự khác nhau giữa các nhóm
sinh viên về hứng thú nghề nghiệp biểu hiện qua hành vi......................... 58
Bảng 3.11. Hứng thú nghề nghiệp của sinh viên sư phạm trường ĐHHV
biểu hiện qua các hoạt động cụ thể ........................................................... 60
Bảng 3.12. Kết quả về sự khác biệt giới về các yếu tố ảnh hưởng tới hứng
thú nghề nghiệp của sinh viên sư phạm trường ĐHHV ............................. 62
Bảng 3.13. Sự khác biệt giữa các nhóm sinh viên về các yếu tố ảnh hưởng
tới hứng thú nghề nghiệp của sinh viên sư phạm trường ĐHHV .............. 64


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến hứng thú nghề nghiệp của sinh viên sư
phạm trường ĐHHV ........................................................................................ 61



PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Hứng thú là một thuộc tính tâm lý, đóng vai trị quan trọng trong bất cứ
hoạt động nào của con người. Hứng thú làm nảy sinh tính tích cực hoạt động,
thúc đẩy con người vươn tới, chiếm lĩnh đối tượng hoạt động, giúp con người
làm việc say sưa, không biết mệt mỏi. Khi đã có hứng thú với đối tượng nào
đó thì cá nhân sẽ hướng tồn bộ q trình nhận thức của mình vào đó, tư duy
tích cực và hành động một cách hiệu quả hơn.
Hứng thú có vai trị quan trọng trong mọi hoạt động nói chung và đặc biệt
là hoạt động nghề nghiệp nói riêng. Cha ơng ta đã tổng kết vai trò quan trọng của
nghề nghiệp, của sự rèn nghề nghiêm túc sẽ giúp con người khẳng định được giá
trị của bản thân: Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh. Có thể hiểu câu nói trên như
sau: Một nghề tinh thông, một đời vinh quang. Nghề nghiệp chiếm một vị trí
quan trọng trong suốt cuộc đời mỗi con người. Nó vừa thể hiện năng lực, sở
trường của bản thân mỗi người vừa giúp cá nhân tồn tại và phát triển, đồng thời
góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Ngày nay, vấn đề đào tạo nghề đang được xã hội chú trọng và quan
tâm. Chất lượng đào tạo nghề phụ thuộc vào nhiều nhân tố. Một trong những
nhân tố quan trọng là hứng thú nghề nghiệp. Hứng thú nghề nghiệp sẽ giúp
cá nhân có ý chí, có nghị lực, có quyết tâm học tập, rèn luyện và thực hành
nghề. Ngược lại khi cá nhân khơng có hứng thú nghề nghiệp sẽ ảnh hưởng
đến kết quả học tập và kết quả rèn nghề. Cá nhân khơng có hứng thú nghề
nghiệp dễ sinh ra chán nản, chống đối, không nỗ lực đến cùng để đạt được kết
quả cao nhất. Điều đó ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo nghề, gây lãng phí
cơng sức, thời gian và tiền bạc của mỗi cá nhân, gia đình và xã hội.

1



Nghề sư phạm là một trong những nghề mà xã hội tôn vinh và đánh giá
rất cao: “Nghề cao quý nhất trong những nghề cao quý, sáng tạo nhất trong
những nghề sáng tạo”. Đó là một nghề địi hỏi nhiều phẩm chất đặc thù, đòi
hỏi sự cẩn trọng và tỉ mỉ, say mê và hứng thú với nghề: “càng yêu người bao
nhiêu, càng yêu nghề bấy nhiêu”. Hứng thú đối với nghề nghiệp của người
giáo viên là một thành phần quan trọng trong cấu trúc nhân cách của họ, là
nhân tố quyết định sự thành công trong hoạt động dạy học và giáo dục của
mỗi giáo viên. Nghề sư phạm cũng là một nghề có ảnh hưởng to lớn đến sự
phát triển của một đất nước: Giáo dục một người thầy được cả xã hội.
Thực tế dạy và học hiện nay ở các trường sư phạm cho thấy có nhiều
nhân tố tác động, ảnh hưởng tiêu cực đến hứng thú nghề nghiệp của sinh
viên, và một trong những dẫn chứng cụ thể đó là: tỷ lệ học sinh đăng ký dự thi
vào các trường Đại học và Cao đẳng sư phạm ngày càng thấp, tỷ lệ sinh viên ra
trường có cơ hội việc làm không cao, thu nhập không thỏa đáng, đãi ngộ xã hội
dành cho giáo viên vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu thực sự của họ...
Trường ĐHHV là “trường đại học công lập, đa cấp, đa ngành đầu tiên trên
quê hương đất tổ” [27, tr.7]. Trường được thành lập trên cơ sở tiền thân là trường
cao đẳng sư phạm Phú Thọ nên có bề dày truyền thống đào tạo ngành sư
phạm.Tuy nhiên trong những năm gần đây có sự thay đổi số lượng sinh viên lựa
chọn học các ngành sư phạm. Đó là giảm tỉ lệ sinh viên lựa chọn thi và học một
số ngành trước đây được coi là trọng điểm (ngành sư phạm sử, địa, tốn, lí,
hóa...), tăng tỉ lệ sinh viên lựa chọn thi và học một số ngành như sư phạm tiểu
học, sư phạm mầm non.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, chúng tơi tiến hành nghiên cứu nhằm
tìm hiểu thực trạng hứng thú nghề nghiệp của sinh viên sư phạm trường
ĐHHV hiện nay như thế nào? Những nhân tố nào tác động tích cực và tiêu cực
đến hứng thú nghề nghiệp của sinh viên sư phạm ĐHHV? Hứng thú ảnh hưởng
như thế nào đến kết quả học tập và rèn nghề của sinh viên? Chúng tôi hy vọng
2



kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần tạo và duy trì hứng thú, nâng cao chất
lượng hoạt động dạy và học ở trường ĐHHV, tạo động lực cho sinh viên sư phạm
nỗ lực cải thiện thành tích học tập cũng như tích lũy kiến thức nghề nghiệp để
vững tin với sự lựa chọn nghề sư phạm của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
2.1. Các nghiên cứu về hứng thú ở nước ngồi
Ở nước ngồi, các cơng trình nghiên cứu về hứng thú đã xuất hiện từ
rất sớm và cho đến nay vẫn được tiếp tục nghiên cứu. Những công trình
nghiên cứu lý luận về hứng thú đã đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau của
hứng thú.
Xu hướng nghiên cứu lý luận tổng quát về hứng thú được thể hiện qua
các nghiên cứu sau: Trong cuốn chuyên khảo “Hứng thú” công bố năm 1914,
X.A. Ananhin đã nghiên cứu kĩ những quan điểm khác nhau về vấn đề hứng
thú và kết luận rằng: “Khơng có hứng thú với tư cách là một hiện tượng độc
lập trong đời sống tâm lí của cá nhân” [dẫn theo 3, tr 225] .Tác giả đã quy
hứng thú về nhu cầu (hứng thú chính là nhu cầu đã được nhận thức).
Nhà TLH người Đức A.Kossakowski cũng nhấn mạnh tính tích cực của
hứng thú. Ơng cho rằng “Hứng thú hướng tính tích cực tâm lí vào những đối
tượng nhất định với mục đích nhận thức chúng, tiếp thu những tri thức và
nắm vững những hành động thích hợp. Hứng thú biểu hiện mối quan hệ có
tính lựa chọn đối với mơi trường và kích thích con người quan tâm tới những
đối tượng, những tình huống quan trọng có ý nghĩa đối với mình”. Năm 1938,
Ch. Buhler với cơng trình “Phát triển hứng thú ở trẻ em” đã tìm hiểu khái
niệm về hứng thú song ơng chưa đề cập đến vai trò của giáo dục đối với việc
phát triển hứng thú [Dẫn theo 25, tr.10].
Từ những năm 20 của thế kỷ XX L.X. Rubinstêin trong các công trình
nghiên cứu của mình về TLH đại cương đã đưa ra các khái niệm hứng thú,

3



con đường hình thành hứng thú, vai trị của hứng thú và ông cho rằng hứng
thú là biểu hiện của ý chí, tình cảm.
Ngồi ra cịn một số tác giả khác có những nghiên cứu, những nhận định
khác nhau về hứng thú như: B.M.Chieplôv coi hứng thú là xu hướng ưu tiên chú
ý vào một khách thể nào đó; V.A.Miaxisep lại gắn hứng thú với cảm xúc, thái độ;
A.G.Côvaliôv và G.T. Sukina lại gắn Hứng thú với định hướng cá nhân [ Dẫn
theo 11, tr.51]
Năm 1975, L.X. Xôlôvâytrich nhà TLH người Nga khi nghiên cứu về mối
quan hệ giữa hứng thú với việc phát triển các thuộc tính tâm lí của nhân cách đã
viết: “Hứng thú- đó là chiếc dù nhỏ mở ra trước tiên, tạo điều kiện bật tung
vòm dù bao bọc các năng khiếu. Năng khiếu nảy sinh trước hết từ hoạt động nào
gây ra hứng thú cao độ và bao trùm tồn bộ cá tính. Hứng thú càng sâu sắc
bao nhiêu, càng tác động tới nhiều phạm vi cá tính bấy nhiêu, hoạt động càng
hiệu quả bấy nhiêu” [29, tr.71]
Trong Tâm lý học, hứng thú được nghiên cứu trên hai góc độ : hứng
thú cá nhân trong vai trò là thiên hướng và hứng thú cá nhân trong vai trị là
tình trạng được hiện thực hóa. Hứng thú thiên hướng là các đặc tính tương đối
lâu dài hay là các định hướng chung cho hành động. Hứng thú được hiện thực
hóa như vậy được tin là xuất hiện từ tác động qua lại giữa các điều kiện bên
trong và bên ngồi. Theo Hidi và Baird (1986,1988), có hai nguồn liên quan là:
con người với các đặc điểm, thái độ và định hướng tổng quát của họ và hồn
cảnh, bao gồm các tác nhân kích thích đặc biệt và các hoàn cảnh để ràng buộc
hứng thú. Tuy nhiên, cũng nên chú ý rằng các nguồn đặc trưng hoàn cảnh có thể
gợi ra hứng thú bao gồm khơng chỉ các đặc tính của khách thể hứng thú. Sự
phân biệt các hứng thú cá nhân với các khái niệm tâm lí khác như động cơ bên
trong, sự chú ý, sự khuấy động, trí tị mị và sự khám phá.

4



Các khái niệm hứng thú dựa vào các nguyên lý hành động ngày càng trở
nên phổ biến hơn. Có nghĩa là các hành động hướng tới hứng thú của một người
là kết quả từ một quá trình nhiều cung bậc của sự điều chỉnh hành động (Fin,
1991). Từ cách nhìn này, hứng thú thể hiện các đặc trưng định hướng nhân
cách, các đánh giá quy chiếu, hay một nhận thức về các khả năng hành động.
Hứng thú còn được nghiên cứu gắn liền với sự phát triển của các giai
đoạn lứa tuổi, bởi vì để hình thành một hứng thú nào đó phải có một mức độ
phát triển tâm lí cũng như một mức độ tri thức và kinh nghiệm sống nhất
định. Năm 1931 nhà TLH người Mỹ là E.K.Strong đã tìm hiểu về “sự biến
đổi tâm lý theo lứa tuổi” và ông cho rằng sự phát triển của hứng thú thường
gắn liền với sự phát triển của lứa tuổi; Trong cuốn TLH cá nhân (T1),
A.G.Côvaliôv đã đề cập đến sự hình thành và phát triển của hứng thú trong
đó đề cập đến lứa tuổi trong sự phát triển: Sự phát triển của hứng thú thường
gắn liền với sự phát triển của lứa tuổi.
Nhà TLH nổi tiếng người Thụy Sỹ J.Piaget (1896-1980) đã có rất nhiều
cơng trình nghiên cứu về trí tuệ trẻ em và giáo dục. Ơng rất chú trọng đến
Hứng thú của học sinh và nhấn mạnh: “Cũng giống như người lớn, trẻ em là
một thực thể mà hoạt động cũng bị chi phối bởi quy luật hứng thú hoặc của
nhu cầu. Nó sẽ khơng đem lại hiệu quả đầy đủ nếu người ta không khơi gợi
những động cơ nội tại của hoạt động đó”[ 16, tr.180].
Ngồi ra phải kể đến một số cơng trình tiêu biểu theo hướng nghiên
cứu này, có thể kể đến các tác giả: D.P.Xalơnhisưva nghiên cứu “Sự phát
triển hứng thú nhận thức của trẻ mẫu giáo”; A.A Nherxki “Bàn về vấn đề
hứng thú cho học sinh cấp 1 và trung học”; V.G.Ivannôv đã phân tích sự
phát triển và giáo dục của học sinh lớp trên trong trường trung học” năm
1956; I.U.Sêrôv nghiên cứu “Hứng thú của học sinh ngoài trường”; GI.Sukina
đã nghiên cứu hứng thú riêng lẻ ở từng trẻ ở các lứa tuổi”; M.G.Marôzôva với
5



nghiên cứu về “sự hình thành hứng thú trẻ em trong điều kiện bình thường và
trong điều kiện khơng bình thường năm 1957. Những cơng trình nghiên cứu
này đã phân tích đặc điểm hứng thú của từng lứa tuổi, những điều kiện và khả
năng giáo dục hứng thú trong các giai đoạn phát triển hứng thú của trẻ. Đây
cũng là cơ sở quan trọng về mặt khoa học cho việc nghiên cứu về hứng thú
trên nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau.
Đối với các nghiên cứu hứng thú dưới khía cạnh nhận thức, các nhà TLH
nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau, cụ thể: A.A Liublinxkaia khẳng định: Hứng
thú là thái độ nhận thức, thái độ khát khao đi sâu vào một khía cạnh nhất định của
sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan. “Hứng thú là thái độ nhận thức của
con người đối với xung quanh, đối với một mặt nào đó của chính nó, đối với một
lĩnh vực nhất định mà trong đó con người muốn đi sâu hơn”[ 9,tr.28];
A.V.Pêtơrôpxki và M.G.Iarôsepki đã khẳng định: “Hứng thú là hình thức biểu
hiện của nhu cầu nhận thức bảo đảm cho xu hướng nhân cách, hướng vào ý thức
rõ mục đích của hoạt động do đó tạo điều kiện cho sự định hướng, làm quen với
các yếu tố mới, phản ánh đầy đủ hơn và sâu sắc hơn với hiện thực” [Dẫn theo
25, tr.15]
V.G. Ivanôv cho rằng: Hứng thú là thái độ nhận thức tích cực của cá
nhân với hiện thực. Theo ơng, khi có hứng thú với sự vật và hiện tượng trong
thế giới khách quan, chủ thể thường đi sâu tìm hiểu, khám phá bản chất của
sự vật và hiện tượng đó; Năm 1976, N.G. Marơzơva với nghiên cứu: “Tác
dụng của việc giảng dạy nêu vấn đề với hứng thú nhận thức của học sinh” Tác
giả đưa ra cấu trúc tâm lí của hứng thú, đồng thời phân tích những điều kiện
và khả năng giáo dục hứng thú trong quá trình học tập và lao động của học
sinh cũng như tác dụng của việc giảng dạy nêu vấn đề đối với hứng thú nhận
thức của học sinh [11, tr.51]; Trong cơng trình nghiên cứu “Vấn đề hứng thú
nhận thức trong khoa học giáo dục” tác giả G.I. Sukina đã đưa ra không chỉ
6



khái niệm về hứng thú nhận thức cùng với những biểu hiện của nó, mà cịn cả
nguồn gốc cơ bản của hứng thú nhận thức là nội dung và hoạt động học tập.
[20]
P.A Ruđích coi hứng thú là sự biểu hiện của xu hướng riêng của cá
nhân nhằm nhận thức những hiện tượng nhất định của cuộc sống xung quanh,
đồng thời biểu hiện thiên hướng tương đối ổn định của con người với các loại
hoạt động nhất định [18, tr. 159]. A.N. Leonchiep một trong những đại biểu
của trường phái TLH hoạt động, khi nghiên cứu về hứng thú đã nhấn mạnh
đến đặc thù của hiện tượng tâm lí này. Ông cho rằng: “Hứng thú là thái độ
nhận thức đặc thù của chủ thể đối với những đối tượng trong hiện thực khách
quan [Dẫn theo 25, tr.16] . X.L. Rubinstêin cũng đưa ra quan niệm về hứng
thú khá tương đồng với quan điểm của A.N. Leonchiep. Theo ông “Hứng thú
là thái độ nhận thức của cá nhân đối với hiện thực, nhằm nhận thức những
hiện tượng nhất định của cuộc sống xung quanh, đồng thời biểu hiện thiên
hướng tương đối ổn định của con người với các loại hoạt động nhất định. [17]
Ngồi cách tiếp cận này cịn có một số tác giả có những nghiên cứu
thực tiễn về hứng thú như : V.N.Lepskhin với nghiên cứu “ Sự hình thành
hứng thú nhận thức của học sinh trong công tác nghiên cứu địa phương”;
I.U.Lipkơv với nghiên cứu “Sự hình thành hứng thú nhận thức cho thiếu niên
trong q trình cơng tác giáo dục của giáo viên chủ nhiệm lớp” Đây là các
cơng trình đi sâu nghiên cứu hứng thú trong lĩnh vực giáo dục, đặc biệt là
hứng thú nhận thức. Các cơng trình này chỉ ra rằng hứng thú nhận thức là
một trong những động cơ học tập có ý nghĩa nhất.
Có thể thấy, các nhà TLH trên thế giới đã rất quan tâm nghiên cứu về
hứng thú. Các công trình nghiên cứu lí luận về hứng thú đã đưa ra nhiều quan
điểm xung quanh vấn đề hứng thú: khái niệm về hứng thú, phân loại hứng thú
và sự hình thành hứng thú. Đây cũng là những vấn đề lý luận cốt lõi, đặt cơ sở
7



cho việc nghiên cứu hứng thú ở mức độ sâu hơn trong các lĩnh vực hoạt động,
đặc biệt việc áp dụng những kết quả nghiên cứu đó vào thực tiễn giảng dạy và
học tập trong nhà trường để phát triển hứng thú của người học.
2.2. Các nghiên cứu về hứng thú ở Việt Nam
Các nhà Tâm lý học Việt Nam cũng có nhiều cơng trình nghiên cứu về
hứng thú và thường tập trung nghiên cứu trên các phương diện sau:
Thứ nhất, nghiên cứu các vấn đề lí luận mang tính đại cương của hứng
thú, thể hiện trong các giáo trình TLH đại cương. Đại diện theo hướng này có
nghiên cứu của các tác giả sau: Năm 1960, các tác giả Đức Minh, Phạm Cốc,
Đỗ Thị Xuân trong cuốn TLH giảng dạy ở Đại học Sư phạm Hà Nội đã đề cập
đến những vấn đề chung về hứng thú; Sau đó, các tác giả Phạm Minh
Hạc,Trần Trọng Thủy, Nguyễn Quang Uẩn trong các tác phẩm của mình cũng
đã trình bày về hứng thú; vai trò của hứng thú với học tập và các hoạt động
khác; Tác giả Nguyễn Khắc Viện cho rằng hứng thú là biểu hiện của nhu cầu,
làm cho chủ thể tìm cách thỏa mãn, tạo ra khối cảm thích thú. Nói đến hứng
thú tức là nói đến mục tiêu, huy động sinh lực (thể chất và tâm lí) để cố gắng
thực hiện. Có những hứng thú địi hỏi thỏa mãn trước mắt, như muốn ăn một
món gì; có những hứng thú phải gián tiếp thông qua hoạt động khác, thường
khơng thú vị mới thỏa mãn như học tốn, ngoại ngữ để thi đỗ trong các kì thi.
Như vậy, với quan điểm này ông xem hứng thú gắn với nhu cầu.
Thứ hai, hướng nghiên cứu hứng thú học các mơn học: Năm 1969, Lê
Ngọc Lan “Tìm hiểu hứng thú học tập mơn tốn của học sinh trên cơ sở đó
tác động một số biện pháp nhằm nâng cao hứng thú học tập cho các em
thông qua các hoạt động ngoại khóa.; Năm 1970, Phan Huy Thụ tìm hiểu
“Hiện trạng hứng thú học tập các môn học của học sinh cấp II”. Trong đề tài
này, ơng tìm hiểu hứng thú học tập đối với học sinh cấp II và phân tích những
nguyên nhân ảnh hưởng đến hứng thú học tập của các em. Từ đó đề xuất các
8



phương pháp nhằm nâng cao hứng thú học tập cho học sinh; Năm 1977, Phan
Ngọc Huỳnh tìm hiểu “Hứng thú với môn văn của học sinh cấp II”. Trong đề
tài, tác giả tìm hiểu về thực trạng hứng thú học mơn văn của học sinh, cụ thể
hơn tác giả tìm hiểu nguyên nhân nào tạo cho học sinh hứng thú và không
hứng thú đối với môn văn. Trên cơ sở đó, đề ra các biện pháp nâng cao hứng
thú học tập môn văn cho học sinh; Năm 1980, Nguyễn Thanh Bình nghiên
cứu đề tài “Bước đầu tìm hiểu nguyên nhân gây hứng thú học tập môn TLH
của sinh viên khoa tự nhiên trường Đại học sư phạm Hà Nội I”. Tác giả đi sâu
vào phân tích nguyên nhân chủ quan và khách quan gây nên hứng thú học tập
môn TLH của sinh viên khoa tự nhiên Trường Đại học sư phạm Hà Nội. Trên cơ
sở đó đề xuất một số biện pháp nâng cao hứng thú học tập của sinh viên như: Giáo
dục động cơ học tập đúng đắn, giảng dạy gắn liền với thực tiễn, đảm bảo về giáo
trình, bồi dưỡng năng lực giảng dạy cho giáo viên.
Năm 1981, Nguyễn Thị Tuyết đã tìm hiểu về hứng thú với đề tài
“Bước đầu tìm hiều hứng thú học văn của học sinh lớp 10 và lớp 11 ở một số
trường phổ thơng cấp III thành phố Hồ Chí Minh”. Từ kết quả nghiên cứu của
mình tác giả đề xuất một số biện pháp giúp học sinh có được hứng thú học
văn từ phía giáo viên như: phải có lịng u nghề, khơng ngừng nâng cao
chun mơn, có phương pháp giảng dạy tối ưu nhất và khuyến khích học sinh
tích cực tham gia các hoạt động văn hóa nghệ thuật.
Năm 1987, Nguyễn Khắc Mai nghiên cứu “Bước đầu tìm hiểu thực
trạng hứng thú đối với hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên
tại trường của sinh viên khoa Tâm lý giáo dục”. Trong đề tài, tác giả cho biết
nguyên nhân gây ra hứng thú là do ý nghĩa của mơn học, trình độ của sinh
viên, phương pháp giảng dạy của giáo viên. Năm 2002, tác giả Đặng Quốc
Thành nghiên cứu “Hứng thú học môn tâm lý học quân sự của sinh viên các
trường cao đẳng, đại học quân sự”. Từ kết quả nghiên cứu của mình tác giả đã
9



đưa ra một số biện pháp nâng cao hứng thú học tập cho sinh viên như: nâng
cao chuyên môn, cải tiến phương pháp dạy học, đảm bảo về cơ sở vật chất.
Ngồi ra, cịn có một số nghiên cứu khác như: Năm 1993, Nguyễn Cơng
Vinh nghiên cứu đề tài “Tìm hiểu hứng thú học tập và nguyên nhân hứng thú
với môn Tâm lý của sinh viên ba trường Đại học Sư phạm, Trung học Sư
phạm, Trung học Sư phạm mầm non thành phố Hồ Chí Minh”; Năm 1996,
Đào Thị Oanh và nhóm nghiên cứu đã tìm hiểu mối quan hệ giữa “Hứng thú
học tập và sự thích nghi với cuộc sống nhà trường của học sinh tiểu học; Năm
2001, Phan Hạnh Dung với đề tài “Hứng thú học môn tin học của sinh viên
trường Cao đẳng sư phạm Hà Nội”. Năm 2013, tác giả Nguyễn Xuân Long
với luận án tiến sĩ: “Hứng thú học tiếng Anh của học sinh trung học cơ
sở”[10] Luận án đã nghiên cứu thực trạng hứng thú học tiếng Anh của học
sinh trung học cơ sở hiện nay trên ba khía cạnh: Nhận thức, thái độ, hành vi.
Kết quả nghiên cứu thu được như sau: học sinh có hứng thú học tiếng Anh ở
mặt nhận thức là cao nhất, kém hứng thú nhất ở khía cạnh cảm xúc. Đồng thời
luận án cũng chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến hứng thú học tiếng Anh ở học
sinh, đó là các yếu tố chủ quan như: (nhu cầu học tiếng Anh, khả năng bắt
chước phát âm tiếng Anh, khả năng ghi nhớ từ…) và các yếu tố khách quan
(điều kiện, phương tiện học tiếng Anh trong gia đình, phương pháp học tiếng
Anh, phương pháp giảng dạy của giáo viên...)
Thứ ba, nghiên cứu hứng thú nghề nghiệp, hứng thú học nghề phổ
thông: Năm 1973, tác giả Phạm Tất Dong nghiên cứu “Một số đặc điểm hứng
thú nghề nghiệp của học sinh lớn và nhiệm vụ hướng nghiệp”[4]. Kết quả
nghiên cứu của đề tài đã khẳng định sự khác biệt về hứng thú nghề nghiệp
giữa học sinh nam và học sinh nữ, hứng thú nghề nghiệp không thống nhất
với xu hướng phát triển nghề nghiệp của xã hội. Đề tài cũng khẳng định trong

10



trường phổ thông công tác hướng nghiệp không được thực hiện sẽ dẫn đến
học sinh phải chịu nhiều thiệt thòi.
Năm 1981, Phùng Minh Nguyệt nguyên cứu “Bước đầu tìm hiểu thực
trạng Hứng thú đối với nghề sư phạm của giáo sinh Trường Cao đẳng Sư
phạm Nghĩa Bình”. Theo tác giả, hứng thú chỉ có thể được phát triển trên cơ
sở con người bắt tay vào hoạt động. Vì vậy, muốn nâng cao hứng thú nghề
nghiệp cho giáo sinh phải tổ chức các đợt thực tập để thâm nhập vào thực
tiễn, thực hành cơng việc của mình. [ 13]
Năm 2008, Nguyễn Hoàng Sơn nghiên cứu “Thực trạng và giải pháp
phát triển hứng thú học nghề phổ thông cho học sinh tại trung tâm KTTH HN”. Kết quả nghiên cứu thực trạng cho thấy rằng đa số học sinh không hứng
thú học nghề phổ thơng. Do đó, việc tổ chức các biện pháp nâng cao hứng thú
cho các em là việc hết sức cần thiết. Tác giả đề xuất 2 biện pháp nhằm nâng cao
hứng thú học nghề phổ thông điện dân dụng cho học sinh là: tổ chức hoạt động
ngoại khóa và thiết kế các bài dạy theo quan điểm tích hợp. [19]
Năm 2013, Vương Huy Thọ nghiên cứu “Dạy học nghề phổ thông tại
trung tâm kỹ thuật tổng hợp – hướng nghiệp theo hướng phát triển hứng thú
học tập cho học sinh”. Kết quả nghiên cứu cho thấy học sinh khơng có hứng
thú học nghề phổ thơng, do một số ngun nhân như: nội dung học tập khơng
có ý nghĩa với cuộc sống của các em, cơ sở vật chất cịn nhiều hạn chế, học
sinh ít có điều kiện thực hành. Trên cơ sở này, tác giả đã đề ra một số biện
pháp nâng cao hứng thú học nghề phổ thơng cho học sinh, đó là tác động vào
nội dung dạy học, phương pháp dạy học, cơ sở vật chất phục vụ dạy học [22].
Năm 2015, tác giả Vũ Vương Trưởng nghiên cứu “Hứng thú rèn luyện
nghiệp vụ sư phạm của sinh viên cao đẳng sư phạm”. Kết quả nghiên cứu cho
thấy, đa số sinh viên cao đẳng sư phạm có hứng thú với hoạt động rèn luyện
nghiệp vụ sư phạm ở mức độ trung bình ở cả 3 mặt biểu hiện nhận thức, cảm xúc
và hành vi. Tác giả đã nghiên cứu 6 yếu tố tác động đến hứng thú rèn luyện
11



nghiệp vụ sư phạm, trong 6 yếu tố đó thì yếu tố sở thích đối với nghề là yếu tố tác
động mạnh nhất. Đây là yếu tố thuộc về chủ quan sinh viên. Yếu tố khách quan
tác động mạnh nhất là môi trường hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm [25].
Như vậy, có thể khẳng định vấn đề hứng thú thu hút sự quan tâm chú ý
của rất nhiều nhà TLH Việt Nam, đặc biệt là hứng thú học tập, các tác giả cũng
đã chỉ ra thực trạng cũng như nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh, sinh viên
khơng có hứng thú cao trong học tập, từ đó đề xuất biện pháp nhằm nâng cao
hứng thú học tập cho các em.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu: Dựa trên kết quả nghiên cứu về lí luận và
thực trạng hứng thú nghề nghiệp đề xuất một số kiến nghị nhằm củng cố và
nâng cao hứng thú nghề nghiệp cho sinh viên khối ngành sư phạm của trường
ĐHHV.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.2.1. Hệ thống hóa cơ sở lí luận về hứng thú nghề nghiệp của sinh
viên sư phạm.
3.2.2. Khảo sát và chỉ ra thực trạng hứng thú nghề nghiệp của sinh
viên sư phạm trường ĐHHV.
3.2.3. Đề xuất, kiến nghị nhằm củng cố và nâng cao hứng thú nghề
nghiệp cho sinh viên sư phạm trường ĐHHV.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Biểu hiện và mức độ hứng thú nghề
nghiệp của sinh viên sư phạm trường ĐHHV.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
4.2.1. Về nội dung:
Thực trạng hứng thú nghề nghiệp của sinh viên sư phạm ĐHHV thể
hiện qua 3 khía cạnh: nhận thức, thái độ và hành vi trong hoạt động học tập,
hoạt động rèn nghề và hoạt động nghiên cứu khoa học; Các yếu tố tác động

12


đến hứng thú rất đa dạng, vì vậy chúng tơi chỉ lựa chọn một số yếu tố cơ
bản thuộc về bản thân sinh viên: động cơ chọn nghề sư phạm; động cơ học
tập; định hướng giá trị nghề; niềm tin đối với nghề và những nhân tố khách
quan như: Nhu cầu xã hội với nghề; điều kiện học tập và rèn nghề.
4.2.2. Về khách thể nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên 400 sinh viên ngành sư phạm của 3
khoa: Khoa Tiểu học – Mầm non; Khoa khoa học xã hội và nhân văn; Khoa toán
- tin và 50 giảng viên đang giảng dạy tại 3 khoa này của trường ĐHHV.
4.2.3 Về địa bàn nghiên cứu: Nghiên cứu tại trường ĐHHV Tỉnh Phú
Thọ
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên nguyên tắc hệ thống. Nguyên tắc hệ
thống được hiểu là nghiên cứu vấn đề hứng thú nghề nghiệp trên cả ba mặt
nhận thức, thái độ, hành vi trong mối quan hệ tương tác với nhau.
Nguyên tắc hoạt động đó là nghiên cứu hứng thú nghề nghiệp của
sinh viên thông qua các hoạt động cụ thể. Trong đề tài này chúng tôi tiến
hành nghiên cứu hứng thú nghề nghiệp của sinh viên sư phạm trường
ĐHHV trên ba hoạt động cụ thể đó là: hoạt động học tập, hoạt động thực
hành rèn luyện nghiệp vụ sư phạm, hoạt động nghiên cứu khoa học.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu văn bản tài liệu
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Phương pháp phỏng vấn sâu
Phương pháp quan sát
Phương pháp thống kê toán học


13


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần hệ thống hóa những vấn đề về
hứng thú nghề nghiệp và củng cố vấn đề lí luận về hứng thú nghề nghiệp.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn: Đề tài có ý nghĩa đối với cơng tác đào tạo, có
thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho giảng viên và sinh viên ngành sư
phạm của trường ĐHHV.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về hứng thú nghề nghiệp của sinh viên sư
phạm.
Chương 2: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu.
Chương 3: Kết quả nghiên cứu thực tiễn về hứng thú nghề nghiệp của
sinh viên sư phạm trường ĐHHV.

14


Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỨNG THÚ NGHỀ NGHIỆP
CỦA SINH VIÊN SƯ PHẠM
1.1. Hứng thú
1.1.1. Một số quan niệm về hứng thú
1.1.1.1.Một số quan niệm về hứng thú của các nhà tâm lí học phương
Tây
Một số nhà tâm lí học phương Tây cho rằng hứng thú là thuộc tính có
sẵn của con người, q trình lớn lên của con người cũng là quá trình bộc lộ

thiên hướng của họ. I.Phrebac coi hứng thú là thuộc tính bẩm sinh vốn có của
con người. Một số nhà tâm lí khác như: U.Giêmxơ, S.Klaparet cũng cho rằng
hứng thú là dấu hiệu của nhu cầu, bản năng, khát vọng cần được thỏa mãn.
S.Klaparet đã tiến hành thực nghiệm để khẳng định điều đó.
Theo Harlette Buhler, hứng thú khơng những chỉ tồn bộ những hành động
khác nhau mà còn thể hiện cấu trúc bao gồm các nhu cầu, là dấu hiệu của nhu
cầu bản năng cần được thỏa mãn. Theo Fransiska, Baumagsten xem hứng thú là
trường hợp riêng của thiên hướng. Còn E. K. Strong cho rằng: Hứng thú được
biểu hiện trong xu thế của con người muốn học được một số đối tượng nhất
định, yêu thích một vài hoạt động và định hướng tích cực nhất định vào những
hoạt động đó.
Nhà TLH người Đức: J.F.Herbart khi đề cập tới vấn đề hứng thú đã cho
rằng: “Hứng thú là thuộc tính bẩm sinh vốn có của con người, được biểu hiện
thơng qua thái độ, tình cảm của con người vào một đối tượng nào đó trong thế
giới khách quan” [Dẫn theo 25, tr.28]. Ở đây ông đã chỉ ra được mặt biểu hiện
cơ bản của hứng thú đó là tình cảm của chủ thể trong mối quan hệ với đối tượng
tạo ra hứng thú.

15


I.Ph Shecbac- nhà tâm lí học người Đức nghiên cứu về nguồn gốc của
hứng thú cho rằng hứng thú là thuộc tính tâm lí vốn có, được biểu hiện thơng
qua thái độ, tình cảm của con người vào một đối tượng nào đó trong thế giới
khách quan.
D.E Super lại cho rằng: “Hứng thú không phải là thiên hướng, không phải
là nét tính cách của cá nhân, nó là một cái gì đó khác, riêng rẽ với thiên hướng,
riêng rẽ với tính cách của cá nhân”[Dẫn theo 25, tr.28]. Như vậy, có thể thấy các
nhà tâm lí học phương Tây coi hứng thú là một thuộc tính có sẵn, bẩm sinh của
con người khơng tách khỏi việc hạ thấp vai trị của giáo dục cũng như hoạt động

có ý thức trong việc hình thành phát triển hứng thú của con người.
1.1.1.2.Một số quan niệm về hứng thú của các nhà tâm lí học Macxit
Đứng trên quan điểm duy vật biện chứng, các nhà tâm lí học Macxit có
quan niệm khác so với các nhà tâm lí học Phương Tây về hứng thú. Họ coi
hứng thú khơng phải là một cái gì đó trừu tượng, hứng thú cũng khơng phải
những thuộc tính có sẵn trong nội tại con người mà là kết quả của sự hình
thành nhân cách con người, nó phản ánh một cách khách quan thái độ đang
tồn tại ở cá nhân. Thái độ đó xuất hiện do kết quả của sự ảnh hưởng qua lại
giữa điều kiện sống và hoạt động của con người. Chính vì vậy, ngun nhân
của hứng thú rất đa dạng, khiến cho các tác giả khác nhau, có những cách
giải thích khác nhau về hứng thú: B.M.Chieplov coi hứng thú là xu hướng,
là chú ý hay là xu hướng lựa chọn khách thể nào mà con người cho là đáng
quan tâm nhất; V.A.Kruchetxki quan niệm hứng thú là khuynh hướng nhận
thức tích cực của con người đối với những đối tượng xác định và có mối quan
hệ với cảm xúc dương tính; Theo V.N Miasixep, V.G.Ivanơp, A.G.Ackipop,
hứng thú là thái độ nhận thức tích cực của cá nhân với đối tượng trong hiện
thực khách quan; Theo A.A Liublinxcaia cho rằng hứng thú là thái độ nhận
thức, thái độ khao khát đi sâu vào thế giới xung quanh.Theo P.A Ruđich
16


“Hứng thú là biểu hiện xu hướng đặc biệt của cá nhân nhằm nhận thức những
hiện tượng nhất định của cuộc sống xung quanh, đồng thời biểu hiện thiên
hướng tương đối cố định của con người với các loại hoạt động nhất định” [18,
tr.335]
Theo A.N.Leonchiep xem “Hứng thú là một thái độ nhận thức đặc biệt
đối với đối tượng hoặc hiện tượng của thực tế khách quan”[12, tr. 285].
“Hứng thú biểu hiện ở sự tập trung chú ý cao độ, ở sự say mê hấp dẫn bởi nội
dung hoạt động, ở bề rộng và chiều sâu của hứng thú” [28, tr.173]. Hứng thú
được nảy sinh chủ yếu do sự hấp dẫn về mặt cảm xúc trong nội dung hoạt

động. Hứng thú làm nảy sinh mong muốn hành động, tăng sức làm việc, đặc
biệt là tăng tính tích cực, tăng tính tự giác trong hoạt động và vì vậy hứng thú
làm tăng hiệu quả q trình hoạt động; Theo A.G. Cơvaliốp, đưa ra ý kiến
trên cơ sở phân tích xác đáng mối quan hệ giữa hứng thú với các quá trình
tâm lí khác. Theo ơng “Hồn tồn khơng thể đồng nhất nhu cầu với hứng thú”
[3, tr.227] mặc dù đó là cơ sở để hình thành hứng thú và ngược lại. Ông đã
đưa ra định nghĩa “Hứng thú là một thái độ đặc thù của cá nhân đối với đối
tượng nào đó, do ý nghĩa của nó trong cuộc sống và do sự hấp dẫn về mặt
tình cảm của nó” [3, tr.228]. Nhìn chung, các nhà tâm lí học Nga đã chỉ ra
tính chất phức tạp của hứng thú, xem xét hứng thú trong mối tương quan với
các thuộc tính khác của nhân cách (nhu cầu, cảm xúc, ý chí, trí tuệ…)
1.1.1.3.Một số quan niệm về hứng thú ở Việt Nam.
Theo Từ điển tâm lý của tác giả Vũ Dũng: “Hứng thú thể hiện nhu cầu
nhận thức nhằm đảm bảo cho nhân cách ý thức được mục đích hoạt động và
tạo điều kiện cho việc định hướng, làm quen với những sự việc mới, cho việc
phản ứng hiện thực một cách đầy đủ và sâu sắc hơn. Về mặt chủ quan, hứng
thú được thể hiện thông qua xúc cảm gắn với quá trình nhận thức, qua sự chú
ý của chủ thể đến đối tượng hứng thú. Việc thỏa mãn hứng thú không dập tắt
17


hứng thú mà tạo ra những hứng thú mới đáp ứng mức độ cao hơn của hoạt
động nhận thức. Trong q trình phát triển, hứng thú có thể biến thành năng
khiếu như là sự thể hiện nhu cầu thực hiện hoạt động đã gây ra hứng thú.
Người ta phân biệt hứng thú trực tiếp – hứng thú do tính chất lôi cuốn của
đối tượng tạo nên và hứng thú gián tiếp đối với đối tượng là công cụ để đạt
được mục đích hoạt động. Tính bền vững của hứng thú được biểu hiện ở độ
dài thời gian duy trì hứng thú ở cường độ của hứng thú. Việc cá nhân khắc
phục những khó khăn khi thực hiện những hoạt động khơng hứng thú, nhưng
việc thực hiện hoạt động đó là điều kiện để cá nhân thực hiện hoạt động hứng

thú cho thấy tính bền vững của hứng thú. Đánh giá độ rộng hay hẹp của hứng
thú được xác định bởi nội dung và giá trị của hứng thú đối với nhân cách.”
[6, tr.358-359].
Các tác giả Phạm Minh Hạc – Lê Khanh – Trần Trọng Thủy cho rằng:
“Khi ta có hứng thú về một cái gì đó, thì cái đó bao giờ cũng được ta ý thức, ta
hiểu ý nghĩa của nó đối với cuộc sống của ta. Hơn nữa ở ta xuất hiện một tình
cảm đặc biệt đối với nó, do đó hứng thú lơi cuốn hấp dẫn chúng ta về phía đối
tượng của nó, tạo ra tâm lý khát khao tiếp cận, đi sâu vào nó”. [12, tr. 250].
Tác giả Nguyễn Quang Uẩn quan niệm “Hứng thú là thái độ đặc biệt
của cá nhân với đối tượng nào đó, vừa có ý nghĩa với cuộc sống, vừa có khả
năng đem lại khối cảm cho cá nhân trong q trình hoạt động”[28, tr.173].
Rõ ràng, định nghĩa này nhấn mạnh tới các điểm sau: Quan hệ giữa chủ thể
và đối tượng. Đối tượng phải có ý nghĩa và hấp dẫn mới có thể tạo nên Hứng
thú với chủ thể. Mặt khác chủ thể tiến hành hoạt động để chiếm lĩnh đối
tượng, phát hiện ý nghĩa, giá trị của đối tượng mới thấy hấp dẫn, hứng thú.
Thái độ đặc biệt nói lên hứng thú có sự lựa chọn mang tính cá nhân, gắn với
khuynh hướng riêng; đặc biệt cịn ở chỗ nói lên thái độ tích cực như: chú ý,

18


tìm tịi, sáng tạo, chiếm lĩnh những cái có ý nghĩa, giá trị. Trái với hứng thú là
thái độ thờ ơ, vô cảm hoặc những ham muốn đam mê tiêu cực, phản giá trị …
Từ các quan điểm trên về hứng thú của các tác giả trong và ngoài nước,
trong đề tài này chúng tôi tiếp cận khái niệm hứng thú theo tác giả A.G.
Côvaliốp: “Hứng thú là thái độ tích cực của chủ thể hướng tới đối tượng với
một cảm xúc đặc biệt (sự say mê và sự thích thú) do nhận thức được ý nghĩa
của nó trong đời sống, thể hiện mong muốn tìm hiểu, khám phá đối tượng và
hành động đạt kết quả cao.
1.1.2. Biểu hiện của hứng thú

Theo G.I.Sukina, hứng thú biểu hiện ở những khía cạnh sau:[20]
Khuynh hướng lựa chọn các quá trình tâm lý của con người nhằm vào đối
tượng và hiện tượng của chủ thể xung quanh; Nguyện vọng, nhu cầu của cá
nhân muốn tìm hiểu một lĩnh vực, hiện tượng cụ thể, một hoạt động xác định
mang lại sự thỏa mãn cho cá nhân; Nguồn kích thích mạnh mẽ, tích cực cho
cá nhân; do ảnh hưởng của nguồn kích thích này, mà tất cả các q trình diễn
ra khẩn trương, cịn hoạt động trở nên say mê và đem lại hiệu quả cao; Thái
độ đặc biệt (không thờ ơ, bàng quan mà tràn đầy những ý định tích cực, một
cảm xúc trong sáng, một ý chí tập trung đối với các đối tượng, hiện tượng,
quá trình…)
Theo tác giả Phạm Tất Dong, hứng thú biểu hiện ở những khía cạnh
sau: Biểu hiện trong khuynh hướng của con người đối với hoạt động có liên
quan tới đối tượng của hứng thú đó; Biểu hiện trong trải nghiệm thường
xuyên về đối tượng này, về việc có liên quan tới chúng; Biểu hiện trong sự tập
trung chú ý của con người vào đối tượng hứng thú; Biểu hiện trong sự ghi
nhớ nhanh và lâu những điều có quan hệ gần gũi với đối tượng này, trong
hoạt động tưởng tượng phong phú, trong tư duy căng thẳng những vấn đề có
liên quan đến đối tượng của hứng thú đó. Dựa vào các biểu hiện của hứng
19


thú, chúng tôi cho rằng biểu hiện của hứng thú là khả năng tập trung chú ý,
say mê vào đối tượng mà quên đi cảm giác mệt mỏi. Luôn dành nhiều thời
gian cho đối tượng mình hứng thú, và cố gắng hết mình để vượt qua khó
khăn dù từng thất bại [5]
1.1.3. Phân loại hứng thú
Hứng thú của con người rất đa dạng và phong phú, căn cứ vào các nội
dung khác nhau có thể phân chia thành các loại hứng thú khác nhau.Trong đề
tài này chúng tôi dựa vào các cách phân loại hứng thú theo các tác giả Lê Thị
Bừng, Nguyễn Thị Huệ, Nguyễn Đức Sơn trong cuốn những thuộc tính tâm lí

điển hình của nhân cách [2]
“Căn cứ vào nội dung và chiều hướng của hứng thú ta có:
Hứng thú vật chất. Hứng thú vật chất có thể biểu hiện thành nguyện
vọng, như muốn có chỗ ở, có đủ tiện nghi, hứng thú ăn, mặc...
Hứng thú nhận thức, theo nghĩa rộng của từ này, thể hiện dưới hình
thức hứng thú học tập, hứng thú khoa học có tính chất chun mơn như hứng
thú tốn học, vật lí, hóa học, tâm lí học...
Hứng thú nghề nghiệp: hứng thú vào một nghề nào đó: hứng thú sư
phạm, hứng thú kĩ thuật- công nghiệp, hứng thú với công tác hành chính.
Hứng thú xã hội - chính trị: là hứng thú đối với những hình thức nhất
định của cơng tác xã hội và đặc biệt là hoạt động tổ chức, lãnh đạo với các
vấn đề chính trị xã hội.
Hứng thú thẩm mĩ hoặc hứng thú với văn học, phim ảnh, sân khấu, âm
nhạc, hội họa...
Căn cứ vào tính trực tiếp hay gián tiếp, có các loại hứng thú
Hứng thú trực tiếp là loại hứng thú đối với bản thân quá trình hoạt động
như quá trình nhận thức và hẹp hơn nữa là quá trình nắm vững kiến thức, quá
trình lao động, sáng tạo.
20


×