Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về dân vận và sự vận dụng của đảng ta trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (481.92 KB, 80 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HOC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN LƢỢC

TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN VẬN
VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN LƢỢC

TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN VẬN
VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Chuyên ngành

:

Triết học

Mã số



:

8.22.90.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS.VŨ THỊ KIỀU PHƢƠNG

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của
riêng tôi, các số liệu ghi trong luận văn là trung thực.Những
kết luận khoa học của luận văn chưa từng cơng bố trong bất
kỳ cơng trình nào khác.
Hà Nội, ngày tháng 5 năm 2018
Tác giả

Nguyễn Văn Lược


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN VẬN ........................... 8
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về khái niệm, đối tượng và mục đích của dân vận ...... 8
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nội dung và phương pháp dân vận ................. 12

Chƣơng 2: SỰ VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN
VẬN CỦA ĐẢNG TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ....................... 29
2.1. Thành tựu và nguyên nhân thành tựu trong sự vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về dân vận của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay ........................... 29
2.2. Hạn chế và nguyên nhân hạn chế trong sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về dân vận của Đảng trong giai đoạn hiện nay ..................................... 40
2.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác dân vận của
Đảng ta trong giai đoạn hiện nay .................................................................... 52
KẾT LUẬN CHUNG .................................................................................... 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 72


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vận dụng tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh về cơng tác dân vận, Đảng và
Nhà nước ta luôn xác định công tác dân vận có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự
nghiệp cách mạng của nước nhà. Hơn thế, Đảng ta cịn coi cơng tác dân vận là
một trong những thước đo sự trưởng thành của Đảng trong vai trò lãnh đạo nhân
dân làm cách mạng. Do đó, Đảng ta ln chú trọng xây dựng hệ thống tổ chức,
bộ máy và đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận ngày một hoàn thiện, phát huy
mọi lực lượng và cả hệ thống chính trị làm cơng tác dân vận. Và trên thực tế,
Đảng ta đã dựa vào công tác dân vận để tập hợp, tuyên truyền, giáo dục, động
viên, phát huy sức mạnh của mọi tầng lớp nhân dân thành lực lượng cách mạng
hùng hậu, tạo nên sức mạnh to lớn của dân tộc, làm nên những thành quả vĩ đại
của cách mạng Việt Nam.
Trong giai đoạn hiện nay, bên cạnh những thuận lợi của quá trình phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế,
công tác dân vận của Đảng đang gặp khơng ít những khó khăn, thách thức trước
các âm mưu, hoạt động “diễn biến hồ bình”, “bạo loạn lật đổ" với những hành
vi kích động quần chúng, chia rẽ dân tộc, tơn giáo, hịng phá vỡ khối đại đồn

kết tồn dân tộc của các thế lực thù địch. Vì thế, công tác vận động quần chúng
của Đảng càng phải được coi trọng, tăng cường và nâng cao nhằm phát huy sức
mạnh đoàn kết của nhân dân tạo nên nội lực mạnh mẽ để thực hiện thắng lợi sự
nghiệp công nghiệp hố, hiện đại hố đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Tuy nhiên, như Đảng đã chỉ ra tại Đại hội XII, hiện nay, cơng tác dân vận
của Đảng vẫn cịn những hạn chế nhất định, như việc xây dựng, triển khai “thực
hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và công tác dân vận còn chưa kịp thời, kém
hiệu quả”, “chưa đánh giá và dự báo chính xác những diễn biến, thay đổi cơ cấu
xã hội, thành phần dân cư, tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân” [Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật,
2016, tr. 196]. Bên cạnh đó nhận thức của một số cấp uỷ đảng, chính quyền, cán

1


bộ, đảng viên về dân vận và công tác dân vận cịn chưa đúng nên dẫn đến tình
trạng xem nhẹ, thiếu trách nhiệm đối với dân, với công tác dân vận,... Từ thực
trạng trên, để nghiên cứu và thấm nhuần hơn nữa tư tưởng Hồ Chí Minh về dân
vận, cũng như góp phần nhỏ vào việc nâng cao hiệu quả công tác dân vận của
Đảng ta, tôi chọn vấn đề “Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận và sự vận dụng của
Đảng ta trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ triết
học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Cho đến nay, những nghiên cứu liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh về
dân vận là khá nhiều. Liên quan trực tiếp đến đề tài luận văn, về cơ bản, có thể
tạm chia những nghiên cứu đó thành hai nhóm sau:
2.1. Những nghiên cứu liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận
Trong những nghiên cứu liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận,
đáng chú ý là các tác phẩm sau: Tư tưởng dân vận Hồ Chí Minh của Ban Dân

vận Trung ương, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật 2011; Học tập tư tưởng dân vận
Hồ Chí Minh, Tạp chí Dân vận, số 5 - 2000; Hồ Chí Minh với quan điểm thực
tiễn và phương pháp khoa học về dân vận của phó giáo sư - tiến sĩ Hồng Chí
Bảo, Tạp chí Dân vận, số 10 - 2000; Tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh nhân
dân và công tác dân vận của ts. Phạm Văn Khánh, Tạp chí Dân vận, số 10 2003; Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận của tiến sĩ Đỗ Quang Tuấn, Nxb Chính
trị quốc gia, Sự thật, 2011; Phong cách dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh của
tiến sĩ Thanh Tuyền, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật 2011; Chủ tịch Hồ Chí
Minh với cơng tác dân vận của hệ thống chính trị của Đinh Hồng Vân, Nxb
Chính trị quốc gia, Sự thật 2011; Tư tưởng dân vận của Hồ Chí Minh với việc
xây dụng kỹ năng, nghiệp vụ cơng tác dân vận của Lương Ngọc, Nxb Chính trị
quốc gia, Sự thật 2011; Quyền hạn và lợi ích của dân trong bài báo dân vận của
Chủ tịch Hồ Chi Minh của Nguyễn Thị Cận, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật
2011; Chủ tịch Hồ Chí Minh với bài học vận động quần chúng trong Cách mạng
Tháng Mười của Phùng Đức Thắng, Tạp chí Dân vận, số 11- 2007; Hồ Chí Minh

2


- tấm gương về tác phong quần chúng của Nguyễn Thanh Tuyền, Tạp chí Dân
vận, số 7 - 2007; Phương pháp làm dân vận của Bác Hồ của Huỳnh Chí Thiện,
Tạp chí Dân vận, số 10 - 2008; Quan điểm của Hồ Chí Minh về tư cách người
cán bộ của Ngơ Đăng Tri, Tạp chí Dân vận, số 5 - 2009; Chính quyền phụ trách
dân vận theo tư tưởng Hồ Chí Minh của Nguyễn Thạc Hân, Tạp chí Dân vận, số
6 - 2009; Thấm nhuần tư tưởng dân vận Hồ Chí Minh, xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh về tư tưởng chính trị, đạo đức và phong cách của TS. Thào
Xuân Sùng, Tạp chí Dân vận, số 10 - 2016; v.v..
Trong những nghiên cứu trên, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận, như thế
nào là dân vận, phương pháp làm dân vận là như thế nào,… được chỉ ra khá rõ
nét. Chẳng hạn, trong tác phẩm Phương pháp làm dân vận của Bác Hồ, tác giả
Huỳnh Chí Thiện đã chỉ rõ, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, “dân vận là vận động tất

cả lực lượng của mỗi một người dân khơng để sót một người dân nào, góp thành
lực lượng toàn dân”. Rằng, người cán bộ, đảng viên làm cơng tác dân vận phải
“óc nghĩ, mắt trơng, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”. Rằng, người cán bộ
khi tiến hành công tác tuyên truyền, vận động nhân dân trước hết cần phải “chịu
khó tìm đủ cách giải thích cho nhân dân hiểu những việc đó là vì lợi ích của họ
mà làm”. Những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận như
thế này cũng được đề cập, thậm chí là đề cập nhiều lần, trong những nghiên cứu
của các tác giả đã nêu ở trên. Theo các tác giả này, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân
vận và phương pháp dân vận Hồ Chí Minh là di sản quý báu, mang giá trị thời
đại đối với công tác dân vận và công tác xây dựng Đảng.
2.2. Những nghiên cứu liên quan đến sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về dân vận của Đảng ta
Trong những nghiên cứu liên quan trực tiếp đến sự vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về dân vận, đáng chú ý là những nghiên cứu sau: Tư tưởng dân vận Hồ
Chí Minh về một số vấn đề trong công tác vận động quần chúng của PGS.TS.
Nguyễn Tri Thư, Tạp chí Dân vận, số 1+2, 1999; Cơng tác dân vận là một bộ
phận quan trọng của công tác cách mạng của Phan Diễn, Tạp chí Dân vận, số 11

3


- 2000; Dân vận khéo thì việc gì cũng thành cơng của Phạm Thế Duyệt, Tạp chí
Dân vận, số 1 - 2002; Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận vào việc thực
hiện đại đoàn kết toàn dân tộc của PGS.TS. Bùi Đình Phong, Tạp chí Cộng sản,
số 9 - 2003; Tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh nhân dân và công tác dân vận
của TS. Phạm Văn Khánh, Tạp chí Dân vận số 10 - 2003; Tác phẩm Dân vận
của Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi mãi toả sáng, soi đường cho công tác dân vận
của Đảng trong thòi kỳ mới của ts. Nguyễn Văn Hùng, Nxb Chính trị quốc gia,
Sự thật 2011; Dân vận - vấn đề luôn luôn mới (qua nghiên cứu tác phẩm “Dân
vận” của Hồ Chí Minh) của GS.TS. Mạch Quang Thắng, Tạp chí Lý luận chính

trị, 8 - 2006; Thấm nhuần quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng mối
quan hệ giữa cán bộ với nhân dân của Nguyễn Thanh Tuyền, Tạp chí Dân vận,
số 2 - 2007; Giá trị vĩnh hằng của bài “Dân vận” của Đan Tâm, Tạp chí Dân
vận, số 10 - 2007; Tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân trong thời
kỳ mới, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật 2011; Nâng cao nhận thức, thực hiện
đúng quy trình dân vận theo chỉ dẫn của Bác trong tình hình hiện nay của Ngơ
Anh Tuấn, Tạp chí Dân vận, số 5 - 2016; Dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng
theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ mới của Trương Thị Mai, Tạp chí Dân
vận, số 10 - 2016; Góp bàn về tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân
trong tình hình mới của Nguyễn Thế Trung, Tạp chí Dân vận, số 12 - 2016; Làm
theo lời Bác để vun đắp mối quan hệ bền chặt giữa Đảng với Nhân dân của
Nguyễn Thế Trung, Tạp chí Dân vận, số 2 - 2018; v.v..
Trong những nghiên cứu trên, nhìn chung, các tác giả đều chỉ ra rằng công
tác dân vận tốt đã và đang góp phần rất quan trọng vào sự thành công của công
cuộc đổi mới đất nước. Và rằng, khi vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận
thì phải đặc biệt chú ý đến yếu tố “khéo”. Nói cách khác, đó là phải “dân vận
khéo”. Đảng làm dân vận cũng phải “khéo”, để dân luôn tin yêu và theo Đảng.
Đảng làm công tác dân vận tốt cũng chính là đang thực hiện tốt cơng tác xây
dựng Đảng. Chẳng hạn, như tác giả Phạm Văn Khánh, trong Tư tưởng Hồ Chí
Minh về sức mạnh của nhân dân về công tác dân vận, chỉ rõ, “khéo” ở đây là

4


“Đảng phải có đường lối, chính sách và phương thức lãnh đạo các tầng lớp xã
hội trong dân cư một cách phù hợp để đi vào được từng người, khơi dậy và phát
huy tính tích cực, sáng tạo của mỗi người để mỗi người có thể đem tài, đem sức,
đem của thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước”.
Nói chung, các cơng trình nghiên cứu trên đây là những tư liệu quý báu để
tác giả luận văn tham khảo, kế thừa trong quá trình thực hiện đề tài “Tư tưởng

Hồ Chí Minh về dân vận và sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay”,
nhằm làm rõ thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận của Đảng ta
trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở chỉ ra và phân tích những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí
Minh về dân vận, luận văn phân tích thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về dân vận của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay và đề xuất một số giải pháp để
nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác dân vận này.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn tập trung thực hiện một số nhiệm
vụ sau đây:
Thứ nhất, chỉ ra và phân tích những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ
Chí Minh về dân vận.
Thứ hai, phân tích thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận
của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay và đề xuất một số giải pháp để nâng cao
chất lượng và hiệu quả của công tác dân vận này.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận
và sự vận dụng những tư tưởng ấy của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

5


Luận văn nghiên cứu những vấn đề cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận
trong bộ sách Hồ Chí Minh tồn tập, gồm 15 tập, do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia
ấn hành năm 2011.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; Tư
tưởng Hồ Chí Minh; lịch sử tư tưởng Việt nam; tham khảo có chọn lọc các cơng
trình của các nhà nghiên cứu có liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp chung của luận văn là phương pháp duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin.
- Phương pháp cụ thể: luận văn sử dụng phương pháp lịch sử kết hợp với
phương pháp logíc, thống kê, so sánh, tổng hợp.
6. Đóng góp mới và ý nghĩa của luận văn
6.1. Đóng góp mới của luận văn
- Luận văn góp phần phân tích và làm rõ thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về dân vận của Đảng trong giai đoạn hiện nay.
- Luận văn đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả
công tác dân vận của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay và sắp tới.
6.2. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn góp phần khẳng định bản chất khoa học và cách mạng trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về dân vận. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận có tầm quan
trọng đặc biệt mang tính thời sự trong cơng cuộc đổi mới đất nước nhằm thực
hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng
dạy và các hoạt động thực tiễn khác liên quan đến cơng tác dân vận nói chung,
cơng tác dân vận của Đảng nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn

6


Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 2

chương, 6 tiết.
Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận
Chương 2: Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận của Đảng ta
trong giai đoạn hiện nay

7


Chƣơng 1
TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN VẬN
1.1. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về khái niệm, đối tƣợng và mục đích của
dân vận
1.1.1. Khái niệm dân vận trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Lịch sử của dân tộc Việt Nam là lịch sử của một dân tộc anh hùng, bền bỉ
và kiên cường đấu tranh chống kẻ thù xâm lược. Quá trình đấu tranh dựng nước
và giữ nước đầy gian khó, quyết liệt và hào hùng đã hun đúc nên truyền thống
yêu nước của dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc - sức mạnh của lòng dân,
sức mạnh của Tổ quốc bắt nguồn từ sức mạnh của nhân dân. Những bài học lịch
sử quý báu của dân tộc ta đó là: những triều đại thịnh trị của Việt Nam là những
triều đại lấy dân làm gốc, coi ý dân là ý trời, vua quan có trách nhiệm phải lo cái
lo của dân, vui cái vui của dân, cùng nhân dân bàn bạc, cùng nhân dân xây dựng
và chiến đấu, đó là sức mạnh bách chiến, bách thắng của dân tộc ta. Những bài
học lịch sử này đã được các bậc tiền bối luôn nhắc nhở. Nguyễn Trãi chỉ ra rằng,
“Phúc chu tín thuỷ, dân do thủy” (Lật thuyền rồi mới biết dân mạnh như nước)
và “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân” [Nguyễn Trãi (1976), toàn tập, tr.203.Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội]. Kế thừa và phát huy truyền thống đó của dân tộc, Hồ
Chí Minh nhận thức rất rõ vai trò sáng tạo ra lịch sử của quần chúng nhân dân
khi được giác ngộ, tổ chức và lãnh đạo. Người ln tin vào sức mạnh, trí tuệ của
nhân dân, có nhân dân là có tất cả. Vì thế, từ rất sớm, trong Đường cách mệnh,
Hồ Chí Minh đã viết: “Cách mệnh Nga dạy chúng ta rằng muốn cách mệnh

thành cơng thì phải dân chúng (cơng nơng) làm gốc” [Tập 2, tr.304]. Người cũng
thường nhắc nhở cán bộ, đảng viên rằng, “Dân chúng đồng lịng, việc gì cũng
làm được. Dân chúng khơng ủng hộ, việc gì làm cũng khơng nên” [Tập 5,
tr.333].
Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ rằng, quần chúng là những người rất thông
minh, sáng tạo. Họ có thể giải quyết được những vấn đề mà “những người tài

8


giỏi, những đồn thể to lớn, nghĩ mãi khơng ra” [Tập 5, tr.335]. Vì vậy, để cách
mạng giành được thắng lợi thì cần phải có lực lượng, mà lực lượng ấy chính là ở
nhân dân. Người cũng chỉ rõ rằng: “Ở trong xã hội, muốn thành cơng phải có ba
điều kiện là: thiên thời, địa lợi, nhân hoà. Ba điều kiện ấy đều quan trọng cả.
Nhưng thiên thời không quan trọng bằng địa lợi, mà địa lợi không quan trọng
bằng nhân hoà. Nhân hoà là thế nào? Nhân hoà là tất cả mọi người đều nhất trí.
Nhân hồ là quan trọng hơn hết” [Tập 5, tr.594]. Không chỉ yêu dân, tin dân,
Người còn cho rằng, cần phải nhận thức đúng vị trí, vai trị của dân, bởi dân là
lực lượng quyết định mọi thắng lợi của cách mạng. Cho nên, “Trong bầu trời
khơng gì q bằng nhân dân. Trong thế giới khơng gì mạnh bằng lực lượng đồn
kết của nhân dân” [Tập 10, tr.453]. Để phát huy hết năng lực, trí tuệ và sức mạnh
tiềm ẩn trong nhân dân thì phải tìm cách, biết cách khơi dậy những sức mạnh đó.
Nói một cách khác, đó là phải biết làm dân vận.
Trong Dân vận, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ rằng, dân vận có nghĩa là “vận
động tất cả lực lượng của mỗi một người dân khơng để sót một người dân nào,
góp thành lực lượng tồn dân, để thực hành những cơng việc nên làm, những
cơng việc Chính phủ và Đồn thể đã giao cho” [Tập 6. tr.232]. Theo đó, có thể
hiểu, dân vận là bao gồm tất cả các hoạt động từ việc giải thích cho dân hiểu về
một nhiệm vụ nào đó, đến những hoạt động tổ chức cho mỗi người dân cũng như
toàn thể dân chúng hành động nhằm khơi dậy, động viên, khích lệ, phát huy mọi

tiềm năng và lực lượng vốn có của dân chúng; dân vận là vận động toàn dân để tạo
thành lực lượng toàn dân, tạo sự thống nhất, đồng thuận của toàn dân; dân vận là
vận động lực lượng của toàn dân để thực hiện nhiệm vụ của Chính phủ và của các
đồn thể vì mục đích chung của quốc gia dân tộc, vì lợi ích của tồn dân tộc. Và
rằng, cơng tác dân vận là cơng việc của tồn bộ hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo
của Đảng tiến hành tập hợp, vận động, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, đưa
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, các chương
trình kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phịng, an ninh vào cuộc sống, góp phần xây
dựng sự đồng thuận xã hội, thực hiện thắng lợi đường lối cách mạng của Đảng.

9


Dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách
mạng nước ta, là điều kiện quan trọng đảm bảo cho sự lãnh đạo tuyệt đối của
Đảng, cũng như đảm bảo cho mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với
nhân dân. Vì thế, Hồ Chí Minh ln xem cơng tác dân vận là nhiệm vụ cốt yếu
của Đảng và của cả hệ thống chính trị. Người cho rằng, muốn làm cách mạng
thành cơng thì trước tiên phải làm tốt cơng tác vận động quần chúng, bởi: “Cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng, chứ không phải là sự nghiệp của cá nhân anh
hùng nào” [Tập 12, tr.672]. Nếu không làm tốt công tác dân vận, thì khơng
những khơng phát huy được sức mạnh của tồn dân mà cịn bị kẻ thù chống phá,
xuyên tạc, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đến lúc ấy việc nhỏ đến mấy
cũng không thành công. Từ thực tiễn cách mạng, Người chỉ ra rằng, kinh nghiệm
trong nước và các nước “tỏ cho chúng ta biết: có lực lượng dân chúng việc to tát
mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Như vậy, có thể thấy, theo tư tưởng Hồ Chí
Minh, cơng tác vận động quần chúng giữ một vị trí, vai trị cực kỳ quan trọng
trong mọi cuộc cách mạng và trong mọi giai đoạn của cách mạng. Nói cách
khác, vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là đoàn kết, tập hợp được đông đảo
sự ủng hộ của nhân dân. Bởi Đảng dù vĩ đại đến mấy cũng chỉ là một bộ phận

trong nhân dân. Chỉ có huy động được sức mạnh của dân chúng thì mới có được
sức mạnh vơ địch để vượt qua mọi khó khăn, thử thách.
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối tượng và mục đích của dân vận
Từ trên, có thể thấy, những định nghĩa, vị trí vai trị trên, ta thấy: Đối
tượng cơng tác dân vận là nhân dân. Mục tiêu công tác dân vận là mục tiêu
chung của cách mạng; Nội dung cơ bản của công tác dân vận là tổ chức lực
lượng nhân dân, đoàn kết toàn dân để thực hiện các nhiệm vụ của cách mạng;
phương thức công tác dân vận là phải tiến hành, trước hết từ cơ sở, nắm chắc và
vận động nhân dân từ cơ sở. Đứng trên quan điểm, lập trường của chủ nghĩa Mác
- Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử và kế thừa truyền thống
trọng dân, lấy dân làm gốc của ông cha ta, chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên
những quan điểm, tư tưởng quan trọng về công tác dân vận. Theo Hồ Chí Minh,
nhân dân có vị trí, vai trò cực kỳ quan trọng trong mọi cuộc cách mạng cũng như

10


trong một giai đoạn của cách mạng. Để nhân dân nhận thức rõ vị trí, vai trị của
mình thì Đảng phải tiến hành công tác dân vận, tuyên truyền, vận động quần
chúng để quần chúng giác ngộ và tự nguyện làm tốt nghĩa vụ và trách nhiệm của
mình dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Hồ Chí Minh thường dùng thuật ngữ "Công tác quần chúng" và "Dân
vận” để chỉ một lĩnh vực công tác của Đảng. Khái niệm "Dân vận" được diễn đạt
bằng nhiều định nghĩa khác nhau và cho đến nay vẫn chưa có định nghĩa nào súc
tích, dễ hiểu như định nghĩa mà Chủ tịch Hồ Chí Minh diễn đạt trong bài “Dân
vận" đăng trên báo Sự thật số 120 ngày 15 tháng 10 năm l949:
"Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân khơng để sót
một người dân nào, góp thành lực lượng của tồn dân, để thực hành những cơng
việc nên làm, những cơng việc Chính phủ và đồn thể giao cho" [39, tr.698] .
Như vậy, công tác dân vận theo tư tưởng Hồ Chí Minh là phải vận động

tất cả mọi người dân, khơng để sót một người nào để họ hiểu được, hiểu đúng và
làm theo chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Phải làm
cho người dân thấy được những chủ trương chính sách đó khơng có một mục
đích nào khác là nhằm mang lại lợi ích cho nhân dân và những lợi ích thiết thân
của họ gắn với lợi ích của đất nước; điều cốt yếu trong cơng tác vận động nhân
dân là để chính bản thân nhân dân thực hiện những chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước.
Trong công tác dân vận, Hồ Chí Minh yêu cầu các cán bộ, đảng viên phải
đi sâu, đi sát với dân, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân; bàn bạc với
dân, với địa phương, với cơ sở về các chủ trương, chính sách để xây dựng kế
hoạch thực hiện cho cụ thế, cho phù hợp với đặc điểm của từng địa phương và
khả năng của nhân dân; người cán bộ phải hướng dẫn nhân dân thực hiện.
Cuối cùng trong quá trình thực hiện và khi cơng việc đã hồn thành phải
thường xun theo dõi đôn đốc kiêm tra, rút kinh nghiệm để chấn chỉnh những
hạn chế còn tồn tại; xem xét những điểm còn chưa phù hợp trong các chủ trương,
chính sách của Đảng khi thực hiện, đồng thời khen thưởng những tổ chức, cá

11


nhân thực hiện tốt công tác dân vận và phê bình những tổ chức và cá nhân làm
chưa tốt cơng tác này.
1.2. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về nội dung và phƣơng pháp dân vận
1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nội dung dân vận
1.2.1.1. Chăm lo lợi ích nhân dân là cốt lõi của công tác dân vận
Chăm lo lợi ích cho nhân dân là mục tiêu phấn đấu của Đảng và cũng là
mục tiêu phấn đấu không mệt mỏi trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của
Người. Người nói: "Ngồi lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng
ta khơng có lợi ích nào khác" [Tập 6, tr.291]. Ngay sau khi giành được chính
quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà Người đã khẳng định: “Nếu

nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có
nghĩa lý gì" [Tập 4, tr.64]. Hay Người cũng từng nói: "Chúng ta tranh được tự
do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét thì tự do, độc lập cũng khơng làm gì,
dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ"
[Tập 4, tr.175]. Do đó, người đặt vấn đề vận động quân chúng vì ấm no, hạnh
phúc của nhân dân lao động. Tháng 01 năm 1946, khi trả lời các nhà báo nước
ngồi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Tơi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột
bậc là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn tự do, đồng bào ta
ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành". Đó là mục tiêu, lý tưởng
phấn đấu suốt cuộc đời của Người.
Chính vì vậy, mọi chủ trương, chính sách của Đảng đưa ra nhằm một mục
đích đầu tiên và duy nhất là vì lợi ích của nhân dân. Cơng tác vận động quần
chúng đo đó phải xuất phát từ lợi ích của nhân dân, lợi ích trước mắt cũng như
lợi ích lâu dài; lợi ích của cá nhân, tập thể và xã hội. Có như thế, nhân dân mới
sẵn sàng hưởng ứng, đem hơi sức dân mà làm lợi cho dân; ngược lại nếu khơng
xuất phát từ lợi ích của dân sẽ không huy động được sức dân, không tạo thành
được phong trào quần chúng rộng rãi. “Muốn được dân yêu, muốn được lòng
dân, trước hết phải yêu dân, phải đặt quyền lợi của dân trên hết thảy, phải có một
tinh thần chí cơng vơ tư" [Tập 4, tr.52].

12


Đảng và Chính phủ phải quan tâm, đặt lợi ích của dân lên hàng đầu. Chăm
lo cho lợi ích của nhân dân đó là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước nhưng Chủ
tịch Hồ Chí Minh khơng nhấn mạnh một chiều về vai trò của Đảng, Nhà nước
mà Người cho rằng người cán bộ phụ trách dân vận một mặt phải giúp đỡ dân
nhưng mặt khác là phải phát huy được tinh thần tự lực cánh sinh của nhân dân.
1.2.1.2. Đoàn kết, tập hợp lực lượng là nhiệm vụ cơ bản của cơng tác dân vận.
Đồn kết khơng chỉ là nhiệm vụ cơ bản của cơng tác dân vận mà cịn là

nhiệm vụ cơ bản, chiến lược của cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh quan tâm
đặc biệt tới vấn đề đại đồn kết dân tộc. Rất nhiều bài nói và viết của Người liên
quan đến vấn đề này. Những vấn đề cơ bản trong tư tưởng đại đoàn kết toàn dân
của Hồ Chí Minh là:
Giữ vững vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, hạt nhân của
khối đại đồn kết tồn dân tộc. Hồ Chí Minh nói: Cách mạng muốn thành cơng,
trước hết phải có Đảng cách mệnh. Nhân dân cần có Đảng dẫn đường. Bởi vậy
đại đồn kết phải có lãnh đạo. Đảng phải được xây dựng xứng đáng với vai trò
vừa là người lãnh đạo, vừa là thành viên của Mặt trận. Đảng của giai cấp nhưng
Đảng cũng của dân tộc. Nhân dân công nhận Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng
của mình. Đây thật là một vinh dự. Đảng là thành viên bình đẳng trong Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam nhưng là thành viên lãnh đạo Mặt trận. Đảng lãnh đạo Mặt
trận bằng thuyết phục và nêu gương. Đảng phải tiêu biểu cho mọi sự đồn kết
nhất trí, bảo đảm dân chủ nội bộ, thống nhất tư tưởng, tự phê bình và phê bình.
Bốn nguyên tắc đại đoàn kết:
+ Đại đoàn kết toàn dân phải được xây dựng, củng cố trên nền tảng thống
nhất chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, trên lợi ích tối cao của
dân tộc với quyền lợi của giai cấp công nhân và người lao động. Cốt lõi của nó là
giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa giai cấp - dân tộc - nhân loại. Đoàn kết
dân tộc với đồn kết quốc tế, lợi ích tối cao của dân tộc là độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ,
văn minh. Đây cũng chính là điểm tương đồng để thực hiện đại đoàn kết.

13


+ Đoàn kết trên nền tảng vững chắc là liên minh cơng - nơng - trí; trong
một tổ chức rộng rãi nhất là Mặt trận Dân tộc thống nhất. Mặt trận phải thực sự
xây dựng trên nền tảng đại đoàn kết toàn dân.
+ Đoàn kết chân thành và triệt để, đồn kết thật lịng. Muốn vậy phải trên

cơ sở tin dân, dựa vào dân thật lòng, chống “bệnh độc hành” hẹp hịi.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: Bệnh hẹp hịi rất nguy hiểm, mà nhiều cán bộ, đảng
viên còn mắc phải. Trong thì bệnh này ngăn trở Đảng thống nhất và đồn kết.
Ngồi thì nó phá hoại sự đồn kết tồn dân. Nhiều thứ bệnh như chủ nghĩa địa
phương, chủ nghĩa bản vị, chủ nghĩa cá nhân, khuynh hướng tham danh vọng,
tham địa vị, dìm người giỏi,... đều do bệnh hẹp hịi mà ra.
Trong sửa đổi lối làm việc, Hồ Chí Minh viết: “Cũng vì bệnh hẹp hịi mà
khơng biết dùng nhân tài, việc gì cũng ơm lấy hết. Ơm lấy hết thì cố nhiên làm
khơng nổi,.. địch bên trong đáng sợ hơn vì nó phá hoại từ trong phá ra” [Tập 5,
tr.278]. Hẹp hòi phá hoại đất nước chẳng kém gì tham nhũng, đặc biệt đối với
hai quốc sách: Đồn kết toàn dân, trọng dụng nhân tài.
+ Đoàn kết phải gắn với đấu tranh, khơng đồn kết xi chiều, gắn với tự
phê bình và phê bình để cùng nhau tiến bộ, đoàn kết là để tiến bộ, phát triển.
Trong tiến trình cách mạng Việt Nam, đại đồn kết dân tộc được xem là
vấn đề có ý nghĩa chiến lược quyết định thành cơng của cách mạng. Mặt khác,
đại đồn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, của dân tộc. Nói
về ý nghĩa vơ cùng quan trọng của đại đồn kết. Tạp chí dân vận số 9 năm 2006,
trang 15 trích dẫn bài viết của Người: "Bây giờ còn một điểm rất quan trọng,
cũng là điểm mẹ. Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt: Đó là
đồn kết".
Để thực hiện được đồn kết các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tơn giáo… vào
khối đoàn kết toàn dân tộc nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu của cách mạng
thì phải vận động, giáo dục, thuyết phục, tổ chức dân chúng tin theo, đi theo và
làm theo cương lĩnh, đường lối chủ trương, chính sách của Đảng tức là phải làm
cơng tác vận động quần chúng.

14


Toàn dân tộc chỉ trở thành lực lượng to lớn, có sức mạnh vơ địch trong

đấu tranh bảo vệ và xây dựng Tổ quốc khi được tập họp, tổ chức lại thành một
khối vững chắc, được giác ngộ về mục tiêu chiến đấu chung và hoạt động theo
một đường lối chính trị đúng đắn. Hồ Chí Minh rất chú ý đưa quần chúng nhân
dân vào những tổ chức yêu nước phù họp với từng giai cấp, từng ngành nghề,
từng giới, từng lứa tuổi, từng tôn giáo phù hợp với từng giai đoạn của cách
mạng. Đó có thể là các hội ái hữu hay tương trợ, công hội hay nông hội, đoàn
thanh niên hay hội phụ nữ đội thiếu niên nhi đồng hay hội phụ lão, hội Phật giáo
cứu quốc, Công giáo yêu nước…Trong đó bao trùm nhất là Mặt trận dân tộc
thống nhất. Người viết:
"Đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh, nhân dân ta đã làm Cách mạng
Tháng Tám thành cơng, lập nên Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hồ. Đoàn kết
trong Mặt trận Liên Việt, nhân dân ta đã kháng chiến thắng lợi, lập lại hồ bình ở
Đơng Dương, hồn tồn giải phóng miền Bắc. Đồn kết trong Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, nhân dân ta đã giành được thắng lợi trong công cuộc khôi phục kinh
tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc" [Tập 13, tr.452].
Những thắng lợi vẻ vang của cách mạng Việt Nam trong hơn 80 năm qua
đã chứng minh một chân lý: khi quần chúng nhân dân được thức tỉnh, được tổ
chức, đoàn kết, tự giác tham gia cách mạng thì sẽ trở thành một lực lượng vơ
địch. Trong bài nói chuyện tại buổi bế mạc Đại hội thành lập Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, ngay 19 - 5 - 1955, Hồ Chí Minh tổng kết: "Lịch sử trong những năm
qua đã tỏ rõ lực lượng đồn kết của nhân dân ta là vơ địch" [Tập 10, tr.131].
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc và xây dựng Mặt trận Dân tộc thống nhất
rộng rãi là một tư tưởng và một thành công lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong
cơng tác dân vận. Người đã tập hợp được những tổ chức cách mạng chân chính
về một mối, quy tụ sức mạnh của tồn dân tộc, tranh thủ sự ủng hộ của mọi tầng
lớp nhân dân. Hồ Chí Minh coi sức mạnh của nhân dân được tổ chức lại một

15



cách khoa học chính là sức mạnh vơ địch; vì vậy công tác dân vận phải hướng
tới mục tiêu xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng.
1.2.1.3. Thực hành dân chủ là phương thức cơ bản của cơng tác dân vận
Hồ Chí Minh quan niệm dân chủ có nghĩa là “dân là chủ”. Quan niệm về
dân chủ của Hồ Chí Minh cịn được biểu đạt qua hai mệnh đề ngắn gọn: "Dân là
chủ” và "Dân làm chủ”. Khi biểu đạt như thế, chúng ta có thể hiểu rằng dân là
chủ, nghĩa là đề cập vị thế của dân; còn dân làm chủ, nghĩa là đề cập năng lực và
trách nhiệm của dân. Cả hai vế này luôn luôn đi đôi với nhau, thể hiện vị trí, vai
trị, quyền và trách nhiệm của dân. Đây là quan niệm được Hồ Chí Minh diễn đạt
ngắn gọn rõ ràng, đi thẳng vào bản chất của khái niệm trong cấu tạo quyền lực
của xã hội. Mở rộng theo ý đó, Hồ Chí Minh cịn cho rằng: "Nước ta là nước dân
chủ, nghĩa là nhà nước do nhân dân làm chủ” [Tập 6, tr.232].
Dân là gốc thì dân phải là chủ “Nhân dân có quyền lợi làm chủ, thì phải
có nghĩa vụ làm trịn bổn phận cơng dân” [Tập 9, tr.258].
Theo Người, để phát huy được vai trò và tập họp được sức mạnh đoàn kết
của nhân dân thì phải phát huy dân chủ, tức là phát huy vai trò làm chủ của nhân
dân trên tất cả các lĩnh vực, bởi vì, Người cho răng: "Chế độ ta là chế độ dân
chủ. Tức là nhân dân làm chủ” [Tập 9, tr.282]. Dân vận và dân chủ là hai phạm
trù khác nhau nhưng ln gắn bó hữu cơ mới nhau, tác động biện chứng lẫn
nhau. Dân vận gắn bó với dân chủ và thực hành dân chủ; có dân chủ và thực
hành dân chủ thật tốt mới dân vận được; ngược lại dân vận không thành công
nếu không thực hành dân chủ; dân vận phải đạt tới dân chủ và thực hiện dân chủ
là kết quả của dân vận, Hồ Chí Minh cho rằng: làm sao cho nhân dân biết hưởng
quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm. Mặt khác,
dân vận phải được đặt trên cơ sở một chế độ dân chủ thực sự, mục tiêu dân vận
là vì dân, do dân, ngồi ra khơng có mục tiêu nào khác. Vấn đề là vì lợi ích,
quyền hạn, trách nhiệm của nhân dân và phải do nhân dân làm lấy. Người viết:
“Nhân dân có quyền lợi làm chủ, thì phải có nghĩa vụ làm trịn bổn phận cơng
dân” [Tập 9, tr.258].


16


Để đưa sự nghiệp cách mạng đến thắng lợi hoàn tồn theo Hồ Chí Minh
phải phát huy dân chủ để động viên trí tuệ, sức sáng tạo của cán bộ và nhân dân.
Người viết: "Có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực
lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên" [Tập 12, tr.376]; “Có dân chủ mới
làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến" [Tập 5, tr.284]; thực hành dân
chủ là chìa khố vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn.
Theo cách diễn đạt trên Hồ Chí Minh, bản chất dân chủ của Nhà nước ta
không chỉ thể hiện ở việc nhân dân tổ chức nên bộ máy nhà nước (Chính quyền
từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã
do dân tổ chức nên), mà còn thể hiện đậm nét, đa dạng ở việc huy động được và
trách nhiệm tham gia của nhân dân vào quản lý các công việc của Nhà nước
(Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến,
kiến quốc là cơng việc của dân).
Xét dưới góc độ dân vận, việc đảm bảo cho nhân dân tham gia quản lý các
công việc nhà nước là một hình thức thể hiện dân chủ, thể hiện bản chất tiến bộ
của nhà nước. Theo Hồ Chí Minh, nói dân chủ thì phải làm dân chủ phải lắng
nghe ý kiến của nhân dân. Đó là tiêu chuẩn quan trọng trong cơng tác dân vận.
"Tích cực thực hiện dân chủ với nhân dân hơn nữa… phải để cho nhân
dân bàn bạc kỹ và tự mình quyết định một cách thật sự dân chủ" [Tập 15, tr.595].
Chính Hồ Chí Minh đã nêu một tấm gương sáng ngời về phong cách lãnh
đạo dân chủ, tập thể, đi đúng đường lối quần chúng, đi tận nơi, xem tận chốn
"làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của
mình, dám nói, dám làm" [Tập 15, tr.293].
1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phương pháp cơng tác dân vận
Hồ Chí Minh nêu ra phương pháp cơ bản của công tác dân vận là “Dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.

Trên cơ sở nhận thức sâu sắc dân là chủ, phương thức cơ bản của công tác
dân vận là phương pháp dân chủ chứ không phải là những thủ thuật chính trị. Hồ
Chí Minh, lúc sinh thời khơng nói “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”

17


nhưng trong cách nói của Người trong bài báo Dân vận (15 tháng 10 năm 1949)
cũng chính là như vậy.
“Dân vận khơng thể chỉ dùng báo chương, sách vở, mít tinh, khẩu hiệu,
truyền đơn, chỉ thị mà đủ. Trước hết phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi một
người dân hiểu rằng: Việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải hăng
hái làm cho kỳ được.
Điểm thứ hai là bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh
nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa
phương, rồi động viên và tổ chức toàn dân thi hành. Trong thi hành phải theo dõi,
giúp đỡ, đơn đốc, khuyến khích dân. Khi thi hành xong phải cùng với dân kiểm
thảo lại công việc, rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng” [ Tập 6, tr.233].
Bên cạnh phương thức cơ bản này, Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh 3 điểm:
Một là, cán bộ đảng viên phải tự mình làm gương cho quần chúng. Với
đặc điểm, tâm lý của người phương Đông, người Việt Nam, việc nêu gương có
một tác dụng to lớn. Cán bộ đảng viên phải tự mình làm gương cũng chính là
u cầu đầu tiên của phong cách Lêninnít: Lời nói đi đơi với việc làm. Năm
1953, Hồ Chí Minh đã từng phê phán: Cán bộ khu, tỉnh, huyện, xã xui dân xung
phong mà mình khơng xung phong. Người phân tích: Tính xấu của một người
thì hại cho người đó; tính xấu của đảng viên thì có hại cho cả Đảng, có hại cho
dân. Trong thực tế, chính Người đã nêu lên một tấm gương lớn cho dân tộc về
đạo đức, tác phong cách mạng.
Hai là, phải gần gũi quần chúng kiên trì giải thích cho quần chúng hiểu rõ
đường lối, chủ trương, chính sách. Muốn thực sự gần gũi quần chúng thì phải

cùng ăn, cùng ở, cùng làm, mới biết sinh hoạt của quần chúng như thế nào, mới
biết khó khăn, biết chí khí của quần chúng như thế nào, mới biết nguyện vọng
của quần chúng thế nào.
1.2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tầm quan trọng của Đảng làm công tác
dân vận

18


Ngay từ buổi đầu của cách mạng, Đảng ta đã khẳng định công tác vận
động quần chúng là một nhiệm vụ chiến lược, có ý nghĩa quyết định cho sự
thành bại của cách mạng nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn chúng ta:
"Nước lấy dân làm gốc. Trong cơng cuộc kháng chiến kiến quốc, lực lượng
chính là ở dân" [Tập 5, tr.501]. Trong những năm kháng chiến và xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc,
Đảng ta đã tổ chức, rèn luyện và hình thành một đội ngũ cán bộ làm cơng tác dân
vận gắn bó máu thịt với nhân dân ở khắp mọi miền của đất nước. Nhiều cán bộ
đã chịu đựng hy sinh, gian khổ, kiên cường bám dân để thực hiện xuất sắc nhiệm
vụ Đảng giao cho. Nhân dân tin tưởng và che chở cho cán bộ khi bị địch truy
lùng, chăm sóc chạy chữa khi đau yếu, móc lối khi mất liên lạc và đùm bọc chia
ngọt sẻ bùi như con em trong gia đình. Trong những năm tháng đó, theo tiếng
gọi thiêng liêng của Tổ quốc, các phong trào thi đua trong thập kỷ 60 như: "Ba
sẵn sàng" của Trường đại học sư phạm Hà Nội, "Ba đảm đang" của Liên Hiệp
phụ nữ Việt Nam, "Năm xung phong" của thanh niên miền Nam… đã phát triển
rộng khắp và mạnh mẽ; tạo nên bầu nhiệt huyết cách mạng sôi động trong nhân
dân cả nước, tất cả vì sự nghiệp độc lập, tự do và thống nhất Tổ quốc. Cơng tác
dân vận đã góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Bác Hồ với
tấm lòng son sắt và thủy chung khơng gì nay chuyển được.
Khi cách mạng chuyển giai đoạn mới, từ tổng kết thực tiễn, với sự đóng
góp trí tuệ của các tầng lớp nhân dân, Đảng ta đã khởi xướng sự nghiệp đổi mới

đất nước. Đường lối đổi mới đã thể hiện rõ ý Đảng hợp với lòng dân, được nhân
dân đồng tình hưởng ứng và sáng tạo thực hiện trong cuộc sống. Hội nghị lần
thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI đã có nghị quyết quan trọng
về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, củng cố và tăng cường mối quan hệ
giữa Đảng và nhân dân. Đây là định hướng quan trọng trong sự lãnh đạo của
Đảng ở thời kỳ mới. Hệ thống tổ chức công tác dân vận từ Trung ương đến cơ sở
với một đội ngũ cán bộ, đảng viên, chiến sĩ các lực lượng vũ trang nhân dân đầy
tâm huyết, giàu kinh nghiệm, đã sáng tạo nhiều hình thức và biện pháp để

19


chuyển tải kịp thời đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của
Nhà nước đến với các tầng lớp của nhân dân. Nhiều phong trào thi đua yêu nước
đã nhanh chóng lan tỏa khắp nơi, đến được với từng gia đình, thơn, xóm, bản,
làng. Nổi bật là: phong trào thi đua sản xuất, giúp nhau xóa đói, giảm nghèo,
phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, phong trào xây dựng
và thực hiện dân chủ ở cơ sở,…Khi tinh thần làm chủ được phát huy, nhân dân
ta với ý thức trách nhiệm và lòng tin yêu Đảng đã phát hiện kịp thời, kiên quyết
đấu tranh ngăn chặn các hiện tượng quan liêu, tham nhũng, tiêu cực trong một bộ
phận cán bộ, đảng viên; góp phần đấu tranh ngăn chặn âm mưu "diễn biến hịa
bình" của các thế lực thù địch. Trong quá trình triển khai thực hiện chủ trương
của Đảng, chính sách của Nhà nước, nhiều điển hình tiên tiến, nhiều nhân tố mới
xuất hiện và thông qua kết quả các phong trào cách mạng, quần chúng đã giúp
cho Đảng ta có cơ sở tiến hành tổng kết, đúc rút kinh nghiệm để kịp thời có
những quyết sách đúng đắn phù hợp với tình hình mới của đất nước.
Nhờ đó, chúng ta đã vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, đưa cơng cuộc đổi
mới đất nước đạt được những thành tựu như hôm nay, tạo nên thế và lực mới cho
đất nước. Thành quả mà Đảng và nhân dân ta đạt được có nhiều nguyên nhân,
nhưng một nguyên nhân vô cùng quan trọng là sự gắn bó chặt chẽ với dân, quan

hệ mật thiết giữa Đảng với dân, biết phát huy và khai thác sức mạnh to lớn của
nhân dân.
Để mãi mãi xứng đáng với niềm tin yêu của nhân dân đối với Đảng, Đảng
ta cần tiếp tục đổi mới, nâng cao tầm trí tuệ và năng lực cầm quyền, dựa vào dân
để đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng; đổi mới phương thức
lãnh đạo; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, phát hiện, bồi dưỡng
và trọng dụng nhân tài. Đảng phải khơng ngừng gắn bó máu thịt với nhân dân,
làm tất cả vì dân, khơi dậy tinh thần yêu nước và sức mạnh đoàn kết toàn dân
tộc; đẩy mạnh đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí…
1.2.4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đặc thù trong công tác dân vận của Đảng
Trước khi thành lập Đảng, trong tác phẩm Đường cách mệnh, lãnh tụ

20


Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã xác định rõ mục tiêu: "Cách mệnh rồi thì
quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới
khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc" [Tạp 2, tr.292]. Cách
mạng xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của nhân dân, do chính quyền nhân dân thực
hiện để đáp ứng lợi ích của nhân Người gửi gắm một niềm tin bất diệt. Người
luôn căn dặn cán bộ đảng viên phải tin tưởng nhân dân, phải biết dựa vào nhân
dân vì "Dễ trăm lần khơng dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong".
Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã lãnh đạo tồn dân kháng chiến và kiến quốc. Mục tiêu cao cả của
cách mạng trở thành tuyên ngôn của Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa:
Độc lập, Tự do, Hạnh phúc. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Nếu nước độc
lập mà dân khơng hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì"
[Tập 4, tr.64].
Tất cả cán bộ Đảng, chính quyền và tổ chức quần chúng đều phải thực
hành công tác dân vận. Những người phụ trách dân vận cần phải có óc nghĩ, mắt

trơng, tai nghe, chân đi miệng nói, tay làm; chứ khơng chỉ nói sng, chỉ ngồi
viết mệnh lệnh; Lực lượng của dân rất to, việc dân vận rất quan trọng; dân vận
kém thì việc gì cũng kém, dân vận khéo thì việc gì cũng thành cơng.
Là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, Hồ Chí Minh khơng chỉ quan tâm
đến mối liên hệ giữa Đảng và nhân dân, Người còn quan tâm đến vai trò lãnh
đạo của Đảng với mặt trận và các đồn thể. Lãnh đạo nhưng khơng phải là áp
đặt, trong mọi hoàn cảnh, Đảng phải tự tỏ ra xứng đáng với vai trị của mình và
chỉ "Khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh
đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo"[Tập 3, tr.168].
Quán triệt những tư tưởng, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về vai trị của quần chúng nhân dân trong lịch sử, tổng kết
thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng ta khẳng định: "Sự nghiệp cách mạng là
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên
những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và

21


×