Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (378.95 KB, 18 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
• Việt Nam là đất nước có lịch sử hào hùng và là cái nôi văn hóa
nghệ thuật của khu vực Đông Nam Á. Trải qua nhiều biến động về
chính trị, xã hội, các thế hệ tổ tiên chúng ta với bản lĩnh kiên cường
vẫn quyết tâm gìn giữ những nét văn hóa riêng của dân tộc mình.
Tuy nhiên, giới trẻ ngày nay không những bị ảnh hưởng quá nhiều
của các l̀ng văn hóa nước ngồi, mà còn thiếu hiểu biết và xem
thường dẫn đến nguy cơ biến mất của những loại hình văn hóa ông
cha để lại.
May thay, việc Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên
hiệp quốc UNESCO đứng ra công nhận và bảo tồn các di sản văn
hóa thế giới đã mở ra cơ hội giúp chúng ta có thể bảo tồn và khôi
phục lại các loại hình văn hóa nghệ thuật này. Trong khuôn khổ bài
viết này, chúng tôi sẽ giới thiệu một số loại hình văn hóa phi vật thế
nhân loại của Việt Nam đã và sắp được UNESCO công nhận, giúp
bạn thêm hiểu biết và yêu quý các giá trị văn hóa trùn thớng của
dân tợc.
• Đặc điểm của các di sản văn hóa phi vật thể nhân loại
Mỗi di sản văn hóa phi vật thể muốn có tên trong danh sách "Kiệt tác truyền
khẩu và phi vật thể nhân loại" phải được một hoặc nhiều quốc gia đề cử tới
UNESCO trước khi được đưa ra xem xét bởi một ủy ban chuyên biệt.
Những di sản được công nhận phải có những đặc điểm và giá trị sau:
• Kiệt tác có giá trị đặc biệt do nhân loại sáng tạo nên.
• Có sức ảnh hưởng lan tỏa trong cộng đồng và sự độc đáo của bản sắc
văn hóa.
• Tính ứng dụng, các chất lượng kỹ thuật và các khả năng mang lại hiệu
quả.
• Nhã nhạc là sự hòa hợp tới đa của nhạc, hát và múa. Các quy định
về quy mô dàn nhạc, cách thức diễn xướng, nội dung bài bản... của
Nhã nhạc đều rất chặt chẽ, phản ánh tính quy củ qua các định chế
thẩm mỹ rất cao. Hệ thống bài hát rất phong phú, với hàng trăm
nhạc chương, lời ca bằng chữ Hán do Bộ Lễ biên soạn. Nội dung
Khi các nhạc chương được hát lên, có các đội ngũ Bát dật múa phụ
họa với hơn 100 người, ăn mặc lộng lẫy tạo nên một khung cảnh uy
nghi tráng lệ. Kèm theo đó là bản hòa tấu của nhiều nhạc cụ với quy
mơ hồnh tráng như Đại nhạc với 42 nhạc sinh, Huyền nhạc với 26
nhạc sinh... Trong đó các nhạc cụ gõ như chuông, khánh, trớng,
• Văn hóa cờng chiêng là hình thức sinh hoạt cộng đồng có từ lâu đời, gắn bó
mật thiết với cuộc sống của các dân tộc Tây Nguyên. Theo nhiều nghiên
cứu, văn hóa cồng chiêng bắt nguồn cồng đá, chiêng đá…. Không gian văn
hóa cồng chiêng trải rộng suốt 5 tỉnh Tây Nguyên và chủ nhân của nó là các
dân tộc Bana, Xê-đăng, M nông, Cơho, Ê đê, Giarai… Mỗi buôn làng có một
đội cồng chiêng riêng phục vụ đồng bào trong những dịp sinh hoạt cộng
đồng, lễ hội. Mỗi dân tộc lại sáng tạo ra những bản nhạc cồng chiêng khác
nhau, mang đặc trưng của dân tộc mình.
Người Tây Nguyên với đôi tay tài hoa và tâm hồn yêu âm nhạc đã biến cồng
chiêng - sản phẩm hàng hóa bình thường thành loại nhạc cụ tuyệt vời.
Người chơi thể hiện tài năng trong việc đánh chiêng cũng như chế tác
chiêng. Từ việc chỉnh chiêng đến tự diễn thành một dàn nhạc, cách chơi,
cách trình diễn…đều điêu luyện dù không qua trường lớp nào. Mỗi chiếc
cồng (có núm), chiêng (không có núm) là một nốt nhạc. Cồng chiêng có thể
được dùng đơn lẻ hoặc dùng theo bộ từ 2 đến 12 chiếc, có khi 18 đến 20
chiếc. Dàn nhạc cồng chiêng gồm nhiều người, mỗi người chỉ đánh một
chiếc cồng hoặc chiêng nhưng phối hợp rất nhịp nhàng, có thể diễn tấu
những bản nhạc đa âm với nhiều hòa điệu và âm thanh vang xa.
• Cờng chiêng là tiếng nói tâm linh, tinh thần, diễn tả những niềm vui,
nỗi buồn trong cuộc sống của người Tây Nguyêṇ. Họ coi mỗi chiếc
cồng chiêng ẩn chứa một vị thần, cồng chiêng càng cổ thì vị thần
càng quyền lực. Cồng chiêng là phương tiện tín ngưỡng dùng để
giao tiếp với các đấng siêu nhiên, là thứ tài sản quý giá, biểu tượng
• Quan họ Bắc Ninh là loại dân ca nhiều làn điệu (chữ dùng của
người Quan họ xưa là “nhiều giọng”). Mỗi một giọng (giai điệu âm
nhạc) đều có lời ca riêng phù hợp. Giữa nhạc và lời gắn bó hữu cơ
với nhau, lời chính là nhạc. Với việc sử dụng 4 kỹ thuật hát: vang,
rền, nền, nảy, dân ca Quan họ Bắc Ninh đã đạt đến độ nhuần
nhuyễn theo những quy chuẩn nhất định.
Người sáng tạo, người trình diễn hát dân ca Quan họ Bắc Ninh là
những nông dân, nhưng khi trình diễn, thay bộ quần áo giản dị
thường ngày, khoác lên mình bộ trang phục của người Quan họ.
Trang phục của liền chị gồm có: nón, khăn vấn tóc, khăn mỏ quạ,
yếm, áo tứ thân, váy, thắt lưng, đôi dép và xà tích; trang phục của
Liền anh gồm: khăn xếp, ô lục soạn, áo, quần, dép. Các liền anh,
liền chị đã tạo dựng cho mình những nét riêng của trang phục, phù
hợp với quan điểm thẩm mỹ của người Quan họ.
• Là lễ hợi lớn và đặc sắc tưởng nhớ Thánh Gióng, trong “Tứ Thánh
bất tử” của tín ngưỡng dân gian Việt Nam, Hội Gióng cũng là lễ hội
độc nhất vô nhị của người Việt ở châu thổ Bắc bộ. Lễ hội độc đáo
này được cộng đồng bảo tồn, truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác,
thể hiện khát vọng về một cuộc sống thịnh vượng cho mỗi gia đình,
về một nền hòa bình cho quốc gia và thế giới. Hàng năm, Hội Gióng
được tổ chức ở nhiều địa điểm thuộc địa bàn Hà Nội và khu vực lân