Tải bản đầy đủ (.ppt) (18 trang)

Di san van hoa phi vat the

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (378.95 KB, 18 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

CAÙC DI SẢN VĂN HÓA



</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

• Việt Nam là đất nước có lịch sử hào hùng và là cái nôi văn hóa
nghệ thuật của khu vực Đông Nam Á. Trải qua nhiều biến động về
chính trị, xã hội, các thế hệ tổ tiên chúng ta với bản lĩnh kiên cường
vẫn quyết tâm gìn giữ những nét văn hóa riêng của dân tộc mình.
Tuy nhiên, giới trẻ ngày nay không những bị ảnh hưởng quá nhiều
của các l̀ng văn hóa nước ngồi, mà còn thiếu hiểu biết và xem
thường dẫn đến nguy cơ biến mất của những loại hình văn hóa ông
cha để lại.


May thay, việc Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên
hiệp quốc UNESCO đứng ra công nhận và bảo tồn các di sản văn
hóa thế giới đã mở ra cơ hội giúp chúng ta có thể bảo tồn và khôi
phục lại các loại hình văn hóa nghệ thuật này. Trong khuôn khổ bài
viết này, chúng tôi sẽ giới thiệu một số loại hình văn hóa phi vật thế
nhân loại của Việt Nam đã và sắp được UNESCO công nhận, giúp
bạn thêm hiểu biết và yêu quý các giá trị văn hóa trùn thớng của
dân tợc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

• Đặc điểm của các di sản văn hóa phi vật thể nhân loại


Mỗi di sản văn hóa phi vật thể muốn có tên trong danh sách "Kiệt tác truyền
khẩu và phi vật thể nhân loại" phải được một hoặc nhiều quốc gia đề cử tới
UNESCO trước khi được đưa ra xem xét bởi một ủy ban chuyên biệt.


Những di sản được công nhận phải có những đặc điểm và giá trị sau:
• Kiệt tác có giá trị đặc biệt do nhân loại sáng tạo nên.


• Có sức ảnh hưởng lan tỏa trong cộng đồng và sự độc đáo của bản sắc
văn hóa.



• Tính ứng dụng, các chất lượng kỹ thuật và các khả năng mang lại hiệu
quả.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<b>Các di sản văn hóa </b>



<b>phi vật thể của Việt Nam</b>



• Tính đến nay, VN đã có 4 di sản văn hóa


phi vật thể đại diện nhân loại là Nhã nhạc


Cung đình Huế, Không gian văn hóa cồng


chiêng Tây Nguyên, Dân ca quan họ Bắc


Ninh, Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền


Sóc trong tổng số 213 di sản đã được



UNESCO công nhận.



</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<b>1/ Nhã nhạc Cung đình H</b>



• Ngày 7/11/2003, lần đầu tiên mợt di sản phi


vật thể của Việt Nam đã được công nhận là


di sản nhân loại với mục “Kiệt tác phi vật



thể và truyền khẩu của nhân loại”. Đó là



</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6></div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7></div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

• Nhã nhạc là sự hòa hợp tới đa của nhạc, hát và múa. Các quy định
về quy mô dàn nhạc, cách thức diễn xướng, nội dung bài bản... của
Nhã nhạc đều rất chặt chẽ, phản ánh tính quy củ qua các định chế
thẩm mỹ rất cao. Hệ thống bài hát rất phong phú, với hàng trăm
nhạc chương, lời ca bằng chữ Hán do Bộ Lễ biên soạn. Nội dung


thể hiện tư tưởng, quan niệm triết lý của chế độ quân chủ, hướng
về việc suy tôn công đức, cầu sự thái bình thịnh trị…


Khi các nhạc chương được hát lên, có các đội ngũ Bát dật múa phụ
họa với hơn 100 người, ăn mặc lộng lẫy tạo nên một khung cảnh uy
nghi tráng lệ. Kèm theo đó là bản hòa tấu của nhiều nhạc cụ với quy
mơ hồnh tráng như Đại nhạc với 42 nhạc sinh, Huyền nhạc với 26
nhạc sinh... Trong đó các nhạc cụ gõ như chuông, khánh, trớng,


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

• Nhã nhạc được coi là quốc nhạc của âm nhạc


Việt Nam, có sức lan tỏa và ảnh hưởng lớn qua


nhiều triều đại phong kiến ở Việt Nam. Nhã nhạc


ra đời từ thời Lý (1010-1025), có hoạt động quy


củ từ thời Lê (1427- 1788) và phát triển rực rỡ


vào thời Nguyễn, đặc biệt dưới thời vua Minh


Mạng (1820-1840). Nó được các triều đại quân


chủ Việt Nam hết sức coi trọng, coi là một biểu


tượng cho vương quyền về sự trường tồn và


hưng thịnh của quốc gia. Nhã nhạc với các thể


loại như Giao nhạc, Đại Yến, Miếu nhạc… trong


các lễ tế đại triều, thường triều, mừng thọ, lễ



</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

<b>2/ Cồng chiêng Tây Ngun</b>



• Ngày 25-11-2005, văn hóa Cờng chiêng


Tây Ngun của Việt Nam, di sản thứ hai


sau Nhã Nhạc Huế, được UNESCO công


nhận là "Kiệt tác truyền khẩu và di sản phi


vật thể của nhân loại". Đây là loại hình văn


hóa âm nhạc đặc sắc, gắn bó mật thiết với



cuộc sống của cộng đồng các dân tộc Tây


Nguyên



</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11></div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

• Văn hóa cờng chiêng là hình thức sinh hoạt cộng đồng có từ lâu đời, gắn bó
mật thiết với cuộc sống của các dân tộc Tây Nguyên. Theo nhiều nghiên
cứu, văn hóa cồng chiêng bắt nguồn cồng đá, chiêng đá…. Không gian văn
hóa cồng chiêng trải rộng suốt 5 tỉnh Tây Nguyên và chủ nhân của nó là các
dân tộc Bana, Xê-đăng, M nông, Cơho, Ê đê, Giarai… Mỗi buôn làng có một
đội cồng chiêng riêng phục vụ đồng bào trong những dịp sinh hoạt cộng


đồng, lễ hội. Mỗi dân tộc lại sáng tạo ra những bản nhạc cồng chiêng khác
nhau, mang đặc trưng của dân tộc mình.


Người Tây Nguyên với đôi tay tài hoa và tâm hồn yêu âm nhạc đã biến cồng
chiêng - sản phẩm hàng hóa bình thường thành loại nhạc cụ tuyệt vời.


Người chơi thể hiện tài năng trong việc đánh chiêng cũng như chế tác
chiêng. Từ việc chỉnh chiêng đến tự diễn thành một dàn nhạc, cách chơi,
cách trình diễn…đều điêu luyện dù không qua trường lớp nào. Mỗi chiếc
cồng (có núm), chiêng (không có núm) là một nốt nhạc. Cồng chiêng có thể
được dùng đơn lẻ hoặc dùng theo bộ từ 2 đến 12 chiếc, có khi 18 đến 20
chiếc. Dàn nhạc cồng chiêng gồm nhiều người, mỗi người chỉ đánh một
chiếc cồng hoặc chiêng nhưng phối hợp rất nhịp nhàng, có thể diễn tấu
những bản nhạc đa âm với nhiều hòa điệu và âm thanh vang xa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

• Cờng chiêng là tiếng nói tâm linh, tinh thần, diễn tả những niềm vui,
nỗi buồn trong cuộc sống của người Tây Nguyêṇ. Họ coi mỗi chiếc
cồng chiêng ẩn chứa một vị thần, cồng chiêng càng cổ thì vị thần
càng quyền lực. Cồng chiêng là phương tiện tín ngưỡng dùng để
giao tiếp với các đấng siêu nhiên, là thứ tài sản quý giá, biểu tượng


của quyền lực và sự giàu có.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

<b>3/ Dân ca Quan họ Bắc Ninh</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

• Quan họ Bắc Ninh là loại dân ca nhiều làn điệu (chữ dùng của
người Quan họ xưa là “nhiều giọng”). Mỗi một giọng (giai điệu âm
nhạc) đều có lời ca riêng phù hợp. Giữa nhạc và lời gắn bó hữu cơ
với nhau, lời chính là nhạc. Với việc sử dụng 4 kỹ thuật hát: vang,
rền, nền, nảy, dân ca Quan họ Bắc Ninh đã đạt đến độ nhuần


nhuyễn theo những quy chuẩn nhất định.


Người sáng tạo, người trình diễn hát dân ca Quan họ Bắc Ninh là
những nông dân, nhưng khi trình diễn, thay bộ quần áo giản dị
thường ngày, khoác lên mình bộ trang phục của người Quan họ.
Trang phục của liền chị gồm có: nón, khăn vấn tóc, khăn mỏ quạ,
yếm, áo tứ thân, váy, thắt lưng, đôi dép và xà tích; trang phục của
Liền anh gồm: khăn xếp, ô lục soạn, áo, quần, dép. Các liền anh,
liền chị đã tạo dựng cho mình những nét riêng của trang phục, phù
hợp với quan điểm thẩm mỹ của người Quan họ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16></div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

<b>4/</b>

<b>Hội Gióng</b>



• Là lễ hợi lớn và đặc sắc tưởng nhớ Thánh Gióng, trong “Tứ Thánh
bất tử” của tín ngưỡng dân gian Việt Nam, Hội Gióng cũng là lễ hội
độc nhất vô nhị của người Việt ở châu thổ Bắc bộ. Lễ hội độc đáo
này được cộng đồng bảo tồn, truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác,
thể hiện khát vọng về một cuộc sống thịnh vượng cho mỗi gia đình,
về một nền hòa bình cho quốc gia và thế giới. Hàng năm, Hội Gióng
được tổ chức ở nhiều địa điểm thuộc địa bàn Hà Nội và khu vực lân


cận, trong đó tâm điểm là Hội Gióng đền Sóc (nơi Thánh Gióng bay
về trời) diễn ra từ ngày 6-8 tháng giêng âm lịch, với các nghi lễ:


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18></div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×