Phân tách nguyên âm: một quy luật biến đổi ngữ âm phổ
biến trong tiếng Việt
Nguyễn Đình Hiền
Khoa Ngơn ngữ và Văn hóa Trung Quốc, Trường Đại học Ngoại ngữ,
Đại học Quốc gia HàNội, Đường Phạm Văn Đồng, Cầu Giấy, HàNội, Việt Nam
Tóm tắt. Với tư cách là vỏ âm thanh của ngôn ngữ, ngữ âm luôn luôn vận động vàbiến đổi theo những
quy luật nhất định. Phân tách nguyên âm chí
nh làmột trong những quy luật đã được các học giả chứng
minh ở nhiều ngôn ngữ. Bài viết dựa trên cơ sở nghiên cứu một số mơ hì
nh biến đổi ngữ âm của các
nguyên âm a, i, u, êđể chứng minh phân tách nguyên âm cũng là một quy luật biến đổi ngữ âm phổ
biến trong tiếng Việt.
Từ khóa. Phân tách nguyên âm, biến đổi ngữ âm, tiếng Việt, âm Hán Việt, chữ Nôm, phương ngôn,
ngôn ngữ thân tộc.
1. Dẫn nhập
Là phương tiện giao tiếp của con người, ngôn ngữ khơng nằm ngồi quy luật vận động
vàphát triển. Sự biến đổi của ngôn ngữ bao gồm sự biến đổi của ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng
vàthậm chícả văn tự. Ngữ âm làvỏ âm thanh của ngơn ngữ, vìvậy nhắc đến sự biến đổi của
ngôn ngữ, người ta thường nghĩ ngay đến sự biến đổi của ngữ âm.
Ngữ âm biến đổi theo những quy luật nhất định chứ không phải diễn ra một cách ngẫu
nhiên. Sự biến đổi của ngữ âm không phải diễn ra ở một vài từ, một vài âm đơn lẻ mànóảnh
hưởng đến cả một loạt âm, thậm chíkéo theo sự biến đổi của cả hệ thống ngữ âm.
Phân tách nguyên âm là hiện tượng một nguyên âm bị phân tách, biến đổi thành hai
nguyên âm. Do sự khác nhau về điều kiện địa lý, xã hội, sự phát triển của kinh tế, giao
thông,… nên sự biến đổi ngữ âm của các ngôn ngữ hay phương ngôn ở những vùng khác
nhau diễn ra không cân bằng với nhau. Chính sự khơng cân bằng này giúp chúng ta cóthể tìm
ra diện mạo khác nhau của cùng một hình thức ngơn ngữ, từ đó tìm ra được quy luật đối ứng
và quy luật biến đổi ngữ âm. Bài viết sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của
ngôn ngữ học so sánh lịch sử, ngôn ngữ học địa lý, ngôn ngữ học xãhội, phương ngôn học,
Hán Nôm học, dựa trên một số mơ hình biến đổi ngữ âm của các nguyên âm a, i, u, ê để
chứng minh phân tách nguyên âm làmột quy luật biến đổi ngữ âm phổ biến trong tiếng Việt.
Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi sử dụng tổng hợp các tư liệu tiếng Việt, âm Hán
Việt (HV), chữ Nôm, phương ngôn, các ngôn ngữ thân tộc của tiếng Việt. Tư liệu tiếng Việt
bao gồm tiếng Việt hiện đại vàtiếng Việt cổ (tham khảo Từ điển Việt- Bồ- La, Phép giảng tám
ngày,…). Tư liệu phương ngôn của tiếng Việt chúng tôi tham khảo Từ điển phương ngữ tiếng
Việt do Phạm Văn Hảo chủ biên. Ngồi ra chúng tơi cũng tham khảo tư liệu của các học giả đi
trước như: Henri Maspéro, A.G.Haudricourt, Vương Lực, Nguyễn Tài Cẩn, …
Tư liệu âm HV chủ yếu được lấy từ Từ điển Việt Hán do HàThành chủ biên, chúng tôi
sử dụng phương pháp nghiên cứu của Âm vận học để xử lýngữ liệu. Tư liệu chữ Nôm dùng
để nghiên cứu làcác chữ Nôm trong hai tác phẩm Quốc âm thi tập (254 bài thơ, 12.466 chữ)
của Nguyễn Trãi vàTruyện Kiều (3.254 câu thơ, 22.778 chữ) của Nguyễn Du.
1
2. *i → ai, ay, ơi, ây
2.1 Tư liệu âm HV vàchữ Nơm
Ở địa hạt âm HV chúng tơi tìm được một số vídụ như bảng sau (bảng 1):
Chữ Hán
寄
时
移
骑
痢
围
迟
尸
纸
眉
痴
飞
Cách đọc 1
kí
thì
di
kị
lỵ
vi
trì
thi
chỉ
mi
si
phi
thời
dời
cưỡi
lợi
vây
chầy
thây
giấy
mày
say
bay
Cách đọc 2 gởi/gửi
Chúng ta nhận ra ngay rằng những chữ trên đây đều thuộc nhiếp chỉ. Âm HV của nhiếp
chỉ thông thường khai khẩu đọc là[i], hợp khẩu đọc là[ui]. Ngồi ra, chúng tơi tìm thấy “杞
绮起” của nhiếp chỉ đọc là “khởi”, “利蜊” đọc là“lợi”. Cóthể lấy vídụ để chứng minh một
số từ trong bảng trên đây là cùng nguồn gốc về mặt ýnghĩa như: lúa đang thì/ thời con gái;
bao vây, chu vi; trìhỗn, chẳng chóng thìchầy; thi thể, da ngựa bọc thây; si mê, say mê.
Ngồi ra một số từ cóthể kết hợp với nhau để tạo thành từ ghép như: di dời, kýgửi/gởi.
Về tư liệu chữ Nôm, trong Quốc âm thi tập vàTruyện Kiều có10 mơhình [ɑi] ([i]), 29
mơhình [ɑi] ([i]), 18 mơhình [ɤi] ([i]), 41 mơhình [ɤi] ([i]), vídụ xin xem bảng 2 dưới đây:
Xuất sứ
Quốc âm bài 20, chữ 9
bài 48, chữ 12
thi tập
Âm đọc
Chữ Nơm
掑
Âm HV
cài
kỳ
捤
vãi
vĩ
娓
vãi
vĩ
Truyện
dịng 2305
Kiều
dịng 2597
cãi
chi
Quốc âm
bài 138, chữ 4
ngay
nghi
thi tập
bài 213, chữ 46
nhảy
dĩ
Truyện
dịng 2953
xảy (nghe)
sỹ
Kiều
dịng 2058
chày
trì
hơi
hi
tơi
tư
nơi
ni
(vẽ) vời
vi
cậy
kỵ
Quốc âm
bài 10, chữ 13
thi tập
bài 10, chữ 25
Truyện
dòng 69
Kiều
dòng 204
仕
唏
尼
忌
Quốc âm
bài 23, chữ 17
thi tập
bài 1, chữ 21
gầy
kỳ
Truyện
dòng 471
dây
di
Kiều
dòng 1094
đẩy
dĩ
2.2 Tư liệu phương ngôn và ngôn ngữ thân tộc của tiếng Việt
Dựa trên những nghiên cứu về phương ngôn vàngôn ngữ thân tộc, các học giả Nguyễn
Tài Cẩn (1997), Nguyễn Ngọc San (2003) đều chỉ ra rằng có một bộ phận các âm [ɑi], [ɑi],
[ɤi], [ɤi] trong tiếng Việt hiện đại tương ứng với [i] của tiếng Mường hay phương ngôn Trung
bộ, bảng 3 dưới đây là một số vídụ:
2
Tiếng Việt
đấy
vây (cá)
chấy
Tiếng Việt
gầy
mày
này
mới
với
Tiếng Mường
tỉ
pì
chí
PN Trung bộ
ghì
mi
ni
mí
ví
Trong Từ điển phương ngữ tiếng Việt do Phạm Văn Hảo chủ biên, chúng tơi tìm thấy một
số vídụ cho thấy tiếng Việt tồn dân đọc là“ây, ay, ai”, trong khi đó phương ngơn Trung bộ
đọc là“i”, vídụ: Bao vây/ bao vi①; chấy/ chí
; dạ dầy/ dạ dì; dây lang/ di lang; gậy/ ghị; vây
cá/ vi cá; gãy/ ghị; hoa giấy/ hoa dí
; sai/ si; trai gái/ trai ghí.
Ngược lại, chúng tơi cũng tìm thấy một số từ tiếng Việt toàn dân đọc là “i”, trong khi đó
phương ngơn Trung bộ đọc là “ây, ay”, vídụ: Bao bì/ bao bầy; kỳ nhơng/ cầy nhơng; chứ lị/
chớ lậy; dìghẻ/ dầy ghẻ; đĩ/ đậy; mộc nhĩ/ mộc nhẩy; nghỉ/ ngẩy; thi/ thây; thì/ thầy; nì
/ này.
Từ “chị” của tiếng Việt tồn dân ở phương ngơn Thanh Hóa, Hải Phịng đọc là “chậy”. Trong
tiếng Việt từ “chí mé” có thể đọc là “chấy mé”.
Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn cho rằng một bộ phận các chữ đọc làai, ay, ây ở tiếng Việt hiện
đại ngày nay cónguồn gốc là*/i/. Bảng 4 dưới đây là một số vídụ chúng tơi trí
ch dẫn từ bảng
30, 31 và34 của Giáo sư (1997: 192- 195):
Tiếng Việt
tay
say
chày
Arem
ei
i
i
Sách
i
i
i
Rục
i
i
i
Mày
i
MãLiềng
i
Khạ Phọng
i
Maleng
i
chấy
sấy
gấy
nai
gái
trái
i
ɛ
ɛ
ɛ
ɛ
i
i
i
i
i
i
i
i
i
i
i
i
i
i
i
i
i
i
e
e, ɛ
əi
e
i
i
e
i
e
e
i
ɛ
i
ɛ
ɛ
e
2.3 Quátrình biến đổi ngữ âm
Dựa vào tư liệu âm HV, chữ Nôm, phương ngôn, ngôn ngữ thân tộc, chúng ta biết được
rằng [i] đối ứng với [ɑi], [ɑi], [ɤi], [ɤi]. [ɑi], [ɑi], [ɤi], [ɤi] làcác vận mẫu phức, [i] làvận mẫu
nguyên âm đơn, chúng có âm trị hồn tồn khác nhau. Sự đối ứng của chúng chỉ có thể giải
thí
ch từ góc độ biến đổi ngữ âm. Vậy quátrình biến đổi ngữ âm xảy ra thế nào? Chúng ta có
thể cho rằng [i] biến đổi thành [ɑi], [ɑi], [ɤi], [ɤi]; cũng có thể [ɑi], [ɑi], [ɤi], [ɤi] biến đổi
thành [i]; thậm chícả [i] và[ɑi], [ɑi], [ɤi], [ɤi] do âm đọc khác biến đổi thành; …
Sở dĩ chúng tôi cho rằng [i] biến đổi thành [ɑi], [ɑi], [ɤi], [ɤi] làvì: 1. [i] làmột nguyên
âm cao, dịng trước, khơng trịn mơi, theo giáo sư Chu Hiểu Nông (2008: 98-121), do [i] nằm
ở đỉnh biểu đồ vị trí lưỡi của ngun âm nên [i] có xu hướng vượt ra khỏi biểu đồ này (高顶
出位). Phân tách thành 2 nguyên âm chính làmột phương thức biến đổi để [i] cóthể vượt ra
khỏi biểu đồ đó. Như vậy, hiện tượng [i] phân tách thành hai nguyên âm làphù hợp với lý
thuyết của ngữ âm học thực nghiệm. Ngược lại, khơng có cơ sở khoa học để khẳng định các
ngun âm đơi [ɑi], [ɑi], [ɤi], [ɤi] cóthể biến đổi thành nguyên âm đơn [i];
2. Những chữ đọc là[i] ở bảng 1 đại đa số thuộc nhiếp chỉ (止摄), âm HV trung cổ của
①
Âm đọc trước dấu / làcủa tiếng Việt tồn dân, âm đọc sau dấu / làcủa phương ngơn Trung bộ.
3
nhiếp chỉ là[i] (khai khẩu) và [ui] (hợp khẩu), xét về nguồn gốc, ở tiếng Hán trung cổ và
tiếng Hán thượng cổ nhiếp chỉ đều khơng có cách đọc là[ɑi], [ɤi], [ɤi]. Do vậy, ở âm HV
trung cổ không thể nào xảy ra quátrình biến đổi ngữ âm [ɑi], [ɤi], [ɤi] thành [i];
3. Những chứng cứ từ ngôn ngữ thân tộc của tiếng Việt ủng hộ phương án [i] biến đổi
thành [ɑi], [ɑi], [ɤi], [ɤi]. Do ngữ âm tiếng Việt biến đổi nhanh hơn ngữ âm của các ngôn ngữ
thân tộc nên một số từ đọc là[ɑi], [ɑi], [ɤi], [ɤi] ở tiếng Việt vẫn được đọc là[i] ở các ngôn
ngữ thân tộc (xem bảng 4 ở trên). Cũng chính vì vậy một số âm đọc làai, ay, ây ở tiếng Việt
hiện đại ngày nay được giáo sư Nguyễn Tài Cẩn phục nguyên lại là*/i/ hay */e/ ở thời Proto
Việt Chứt. Giáo sư đưa ra một số vídụ như bảng 5 dưới đây:
Tiếng Việt
tay
say
chấy
Proto Việt Chứt
*si
*phri
*ciʔ
sấy
chày
*c(ə)ri *k(n)re
nai
đái
gái
trái
*kɗe
*ateʔ
*keʔ
*pleʔ
Đối với hiện tượng một số từ ở tiếng Việt toàn dân đọc là[ɑi], [ɑi], [ɤi], trong khi đó
phương ngơn Trung bộ đọc là[i] và ngược lại, cóthể giải thí
ch làqtrình [i] biến đổi thành
[ɑi], [ɑi], [ɤi] diễn ra ở cả tiếng Việt toàn dân và phương ngơn Trung bộ, song qtrình biến
đổi này diễn ra khơng đồng nhất ở các từ. Cótừ ở tiếng Việt tồn dân biến đổi trong khi đó ở
phương ngơn Trung bộ lại khơng biến đổi và ngược lại. Chính sự không đồng nhất trong biến
đổi đã giúp chúng ta tìm ra quy luật biến đổi ngữ âm.
4. Sự biến đổi ngữ âm từ [i] thành [ɑi] làhiện tượng phổ biến, nó khơng chỉ diễn ra ở
tiếng Việt màcịn diễn ra ở cả tiếng Hán vàcác ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Ấn Âu. Điển hì
nh
nhất làở tiếng Anh, Jespersen (1949) trong cuốn sách Ngữ pháp tiếng Anh hiện đại (Modern
English Grammar) đưa ra một số vídụ như bảng 6 dưới đây:
Chữ viết
bite (danh từ)
mice
tide
wine
Tiếng Anh trung cổ
biːtə
miːs
tiːd
wiːn
Tiếng Anh hiện đại
bait
mais
taid
wain
Ở tiếng Hán, Giáo sư Chu Hiểu Nông (2008: 111) đưa ra các ví dụ như: 1. Các từ “死 tử,
四 tứ” ở tiếng Hán trung cổ đọc là*i, ở tiếng Quảng Châu ngoại thành đọc là [ij], trong khi đó
tiếng Quảng Châu nội thành đọc làei[ej], quátrình biến đổi ngữ âm này là*i→[ij]→[ej]/ [ɐj];
2. Theo Ơn Đoan Chính (1993: 158) khai khẩu nhiếp giải ở những chữ cóthanh mẫu tinh hệ
(精系) của tiếng Tấn (晋语) khu phía tây huyện Lâm cóhiện tượng phân tách này (vídụ 西洗
sei), nhiếp chỉ ở những chữ cóthanh mẫu hệ tri chương (知章系) cũng xảy ra qtrình biến
đổi này (vídụ 迟 tʂhei); 3. Những chữ vận tề có thanh mẫu tinh hệ vàni lai ở phương ngơn
Khách Gia, Cán cóqtrì
nh biến đổi ngữ âm i> ei> ɛi> ɐi/ ai. Ở Định Nam phân tách thành
ei, ở Phong Tân phát triển xuống thấp hơn thành ɛi, ở Thượng Cao biến đổi thành ai.②
[i] biến đổi thành [ɑi], [ɑi], [ɤi], [ɤi], song quátrình biến đổi ngữ âm đã xảy ra thế nào?
Chúng tôi cho rằng trước tiên nguyên âm cao [i] phân tách thành [ɑi], [i] lànguyên âm dài,
nguyên âm [ɑ] trong vận mẫu [ɑi] lànguyên âm ngắn, như vậy mặc dù[i] phân tách thành 2
nguyên âm nhưng độ dài của âm tiết vẫn được bảo đảm như cũ. Một số vận mẫu [ɑi] tiếp tục
②
Dẫn theo Chu Hiểu Nông (2008: 111).
4
biến đổi thành [ɑi]③, trong khi đó một số vận mẫu [ɑi] biến đổi thành [ɤi]. Trong tiếng Việt
hiện nay có một số từ có thể đọc là[ɑi], cũng có thể đọc là[ɤi], vídụ: gẫy/ gãy; gầy/ gày;
thầy/ thày; dầy/ dày; giầy/ giày… Trong Từ điển Việt- Bồ- La của Alexandre De Rhodes ở thế
kỷ thứ 17 có hiện tượng lẫn lộn giữa ă[ɑ] vàâ[ɤ], vídụ: dơ dáy (dơ dấy), gàgáy (gàgấy),
mày (mầy), sau gáy (sau gấy); Ở nhập thanh vận, từ “mặt trời” có hai cách viết là “mật blời”
(trang 250) và “mặt blời” (trang 147).
Nguyễn Đình Hiền (2014) chỉ ra rằng trong lịch sử phát triển của tiếng Việt đã xảy ra
quátrình biến đổi ngữ âm từ [ɑ] sang [ɤ], trong đó bao gồm [ɑi] biến đổi thành [ɤi]. Như vậy
qtrình biến đổi ngữ âm này cóthể khái quát như sau:
*[i]
*[ɑi]
*[ɑi]
[ɤi]
[ɤi]
3. *u →*ưu → âu
3.1. Tư liệu âm HV vàchữ Nôm
Các nhàHán ngữ học thường căn cứ vào vận thư của các thời kỳ để nghiên cứu lịch sử
ngữ âm tiếng Hán. Vận thư thực chất làmột loại sách công cụ được xếp theo vận (韵), phục
vụ cho việc tìm chữ hiệp vần trong sáng tác thơ ca. Các chữ cùng một vận cóâm chính vàâm
cuối hồn tồn giống nhau, chúng có thể khác nhau về âm đệm hoặc thanh mẫu (âm đầu).
Song, theo thống kêcủa chúng tôi âm đọc HV của vận vưu u (尤幽韵) tương đối phức tạp, có
tất cả 228 âm đọc, trong đó 85 chữ đọc là [ɯu], chiếm 37.28%; 83 chữ đọc là [u], chiếm
36.40%; 41 chữ đọc là[ɤu], chiếm 17.98%; ngoài ra cịn có19 chữ có cách đọc khác, chiếm
8.33%. Bảng 7 dưới đây là một số vídụ:
[ɤu]
缶 phẫu, 矛牟 mâu, 求球 cầu, 謬繆 mậu
[u]
富 phú, 授 thụ, 負 phụ, 宙 trụ, 仇 thù, 手 thủ, 朽 hủ, 幽 u
[ɯu] 抽 trừu, 丑 sửu, 就 tựu, 究 cứu, 九 cửu, 流 lưu, 謀 mưu, 休 hưu, 彪 bưu
Âm HV trung cổ của vận ngu (虞韵) thường đọc là[u], các chữ thuộc trang tổ đọc là[o],
một số ngoại lệ đọc là[ɤu], vídụ: 朱 chu, châu; 輸 thâu; 拘痀駒俱 câu; 珠 châu; 諏 trâu;
釜 phẫu. Ngồi ra, ở âm HV hiện nay cómột số chữ có hai cách đọc (bảng 8):
Chữ Hán
周
收
由
油
句
朱
舅
忧
Cách đọc 1
châu
thâu
dầu
dầu
câu
châu
cậu
âu
Cách đọc 2
chu
thu
dù
du
cú
chu
cữu
ưu
Một số vídụ cho thấy cósự liên quan về mặt ý nghĩa của các từ trên đây, vídụ: thu lượm,
thâu tóm; mặc dầu, mặc dù; âu lo, ưu phiền. “Câu” và “cú” ghép với nhau tạo thành từ ghép
“câu cú”.
Về tư liệu chữ Nôm, trong Quốc âm thi tập vàTruyện Kiều có9 mơhình [ɤu] ([u]), vídụ
xin xem bảng 9 dưới đây:
③
Quan hệ giữa [ ] và[ ] trong tiếng Việt xem Nguyễn Đình Hiền (2014).
5
Xuất sứ
bài 4, chữ 17
Âm đọc
Chữ Nôm
油
dầu
du
bài 99, chữ 34
鬚
râu
tu
bài 105, chữ 36
醜
xấu
xú
Truyện
dòng 1056
句
câu
cú
Kiều
dòng 1463
妯
dâu
du
Quốc âm
thi tập
Âm HV
3.2. Tư liệu phương ngôn và ngôn ngữ thân tộc của tiếng Việt
Dựa vào Từ điển phương ngữ tiếng Việt do Phạm Văn Hảo chủ biên, chúng tơi tì
m thấy
một số vídụ cho thấy tiếng Việt toàn dân đọc là “âu”, trong khi đó phương ngơn Trung bộ đọc
là “u”, ví dụ: Con trâu/ con tru; bầu đất/ bù đất; trầu không/ trùkhông; bâu/ bu; bầu bán/ bù
bán; bầu bạn/ bùbạn; cỏ gấu/ cỏ gú; chị em dâu/ chị em du; cây dâu/ cây du; dầu cá/ dùcá;
giấu/ giú; gầu/ gù; mẫu/ mũ; cậu/ cụ; râu/ ru; xấu/ xú; rầu rầu/ rù rù; sơn dầu/ sơn dù; sâu/ su;
củ nâu/ củ nu; vịt bầu/ vịt bù; chim sâu/ chim su;…
Ngược lại, chúng tôi cũng tìm thấy một số từ tiếng Việt tồn dân đọc là “u”, phương
ngơn Trung bộ đọc là“âu”, vídụ: Chu vi/ châu vi; chu đáo/ châu đáo; mũ/ mẫu; nụ hoa/ nậu
hoa; tù trốn trại/ tầu trốn trại; hội tụ/ hội tậu; mùa thu/ mùa thâu; trụ nhà/ trậu nhà. Ở tiếng
Việt có một số từ có hai cách đọc như: cu liêm/ câu liêm; bu/ bâu. Từ “tịch thu” ở phương
ngôn miền Nam đọc là “tịch thâu”.
Theo bảng Việt- Mường 47 B của giáo sư Nguyễn Tài Cẩn (1997: 190), ngoài một vài
âm đọc khác ở Giáp Lai, Nật Sơn, các từ “trâu, trầu, sâu, gấu” của tiếng Việt đều đọc là “u” ở
các thổ ngữ Mường. Từ “nấu” của tiếng Việt đều đọc là “ô” ở các thổ ngữ Mường, từ “chấu”
của tiếng Việt đại đa số đọc là “ô” ở các thổ ngữ Mường.
Theo bảng Pọng Chứt 34 của Giáo sư (1997: 145), các từ “trâu, trầu, sâu, gấu” của tiếng
Việt đa số đọc là “u” ở các ngôn ngữ thân tộc, cụ thể xem trong bảng 10 dưới đây:
Tiếng
Mã Khạ
Arem Sách Rục Mày
Việt
Liềng Phọng
trâu
u
u
u
ow
trầu
aw
u
u
ow
sâu
u
u
u
u
gấu
u
u
u
u
ow
u
Maleng
Thà
Khong
Ahơ Pọng Hung
Vựng
Kheng
u
u
u
u
u
u
u
u
u
u
u
u
u
u
u
u
u
3.3 Quátrình biến đổi ngữ âm
Theo giáo sư Nguyễn Tài Cẩn (1997: 178), âm “â” trong các từ thuần Việt có 5 nguồn
gốc khác nhau: 1. Nguồn gốc là*ə trong các từ như “sấp, gấp, cây, mây, cấy, dấy”; 2. Nguồn
gốc là* trong các từ như “sấm, dậy, mật”; 3. Nguồn gốc là trong các từ như “rận, chân”; 4.
Nguồn gốc là*u trong các từ cóvần “âu” như “trâu, trầu, sâu, gấu”; 5. Nguồn gốc là*i trong
một bộ phận các từ có vần “ây” như “chấy, sấy”. Như vậy, Giáo sư đã chỉ ra các từ có vần
“âu” trong tiếng Việt cónguồn gốc từ u, hay nói cách khác “âu” do u biến đổi thành.
Chúng tôi đồng ývới quan điểm của Giáo sư bởi [u] làvận mẫu nguyên âm đơn còn [ɤu]
6
làvận mẫu phức, chúng hoàn toàn khác nhau về âm trị, mối quan hệ tương ứng giữa [u] và
[ɤu] ở các tư liệu trên đây chỉ cóthể giải thí
ch bằng sự biến đổi ngữ âm. Cũng giống như [i],
do [u] lànguyên âm cao, nằm ở đỉnh biểu đồ vị trí lưỡi của nguyên âm nên [u] có xu hướng
phân tách thành hai nguyên âm để vượt ra khỏi biểu đồ này. Bước đầu tiên [u] sản sinh ra một
giới âm [ɯ] có cùng vị tríphát âm (chỉ khác về tính chất trịn mơi), [u] biến đổi thành [ɯu]
(chí
nh vìvậy vận vưu u cómột số âm đọc là[ɯu]). Do [ɯ] và[u] phát âm khágiống nhau,
chỉ khác nhau về tính chất trịn mơi, nên dưới tác động của quy luật dị hóa, [ɯu] phát triển về
phía trước biến đổi thành [ieu] (廖绺liêu, 柳绺liễu, 蝥miêu), hoặc [iu] (về hưu/ về hiu; cứu/
kíu; mưu mẹo/ miu mẹo; …). Song, đại đa số các âm [ɯu] do ảnh hưởng của nguyên âm dòng
sau [u] nên phát triển xuống phía dưới biến đổi thành [ɤu] vàcuối cùng thành [ɤu]. Quátrình
biến đổi này được diễn ra như sau:
*[u]
*[ɯu]
*[ɤu]
[ɤu]
Âm HV trung cổ của nhiếp lưu tam đẳng (流摄三等) vốn đọc là[u] nhưng hiện nay có3
cách đọc là[u], [ɤu] và[ɯu] (xem bảng 7), điều này góp phần chứng minh cho những suy
luận của chúng tôi trên đây. Những chứng cứ từ ngôn ngữ thân tộc của tiếng Việt cũng ủng hộ
phương án [u] biến đổi thành [ɤu]. Do ngữ âm tiếng Việt biến đổi nhanh hơn ngữ âm của các
ngôn ngữ thân tộc nên một số từ đọc là[ɤu] ở tiếng Việt vẫn được đọc là[u] ở các ngôn ngữ
thân tộc (xem bảng 10).
Đối với hiện tượng một số từ ở tiếng Việt toàn dân đọc là[ɤu], trong khi đó phương ngơn
Trung bộ đọc là[u] và ngược lại, có thể được giải thích làqtrình [u] biến đổi thành [ɤu]
diễn ra ở cả tiếng Việt tồn dân và phương ngơn Trung bộ, song qtrình biến đổi này diễn ra
khơng đồng nhất ở các từ. Có từ ở tiếng Việt tồn dân biến đổi trong khi đó ở phương ngơn
Trung bộ lại không biến đổi và ngược lại.
Hiện tượng nguyên âm cao [u] phân tách thành hai nguyên âm không chỉ xảy ra ở tiếng
Việt mà ở cả những ngôn ngữ khác. Trong cuốn Ngữ pháp tiếng Anh hiện đại (Modern
English Grammar) của Jespersen (1949) cómột số vídụ về tiếng Anh như bảng 11 dưới đây:
Chữ viết
Tiếng Anh trung cổ
Tiếng Anh hiện đại
mouse
muːs
maʊs
house
huːs
haʊs
Ngồi ra, ở tiếng Hán và các phương ngơn Hán cũng có hiện tượng [u] phân tách thành
hai nguyên âm. Chu Hiểu Nông (2008: 111) phát hiện ra rằng do ngôn ngữ ở nội thành của
Quảng Châu phát triển nhanh hơn ngoại thành vìvậy mà[ou] ở nội thành hiện nay vẫn cịn
được đọc là[u] ở thơn Hồng, ngoại ơ thành phố Quảng Châu. Cũng theo Chu Hiểu Nông
(2008: 99) ở tiếng Ngơ (吴语) cũng có hiện tượng [u] → [əu]/ [ou]. Ở Đơn Dương, các chữ
thuộc vận ngư ngu (鱼虞韵) đã biến đổi từ [u] sang [əu]. LýVinh (1956: 146) chỉ ra sự biến
đổi ngữ âm ở vận vưu hầu: “Trong tài liệu dịch cũ, các chữ vận bộ vưu hầu dùng để đối âm u,
Tây vực kýthay bằng các chữ vận bộ ngu mô, đồng thời trong chú thích nói đó là dịch sai. Sở
7
dĩ như vậy làvì[o] thời nhà Tùy đến thời nhà Đường đã biến thành [u], [u] thời nhà Tùy đến
thời nhà Đường biến thành [əu]”.
Như vậy, hiện tượng [u] phân tách, biến đổi thành [ɤu] (hay [əu]/ [ou]) làquy luật phổ
biến, khơng chỉ xảy ra ở tiếng Việt màcịn xảy ra ở cả tiếng Anh vàtiếng Hán. Ngoài ra, một
số tư liệu cho thấy trong tiếng Việt dường như “ô” cũng biến đổi thành “âu”, ví dụ: 模 cóâm
HV là “mô” và “mẫu”; trong tiếng Việt “đỗ/ đậu”, “vổ/ vẩu” có liên quan về mặt ngữ nghĩa.
Chúng tơi chưa rõ “ô” trực tiếp biến đổi thành “âu”, hay “ô” biến đổi thành “u”, rồi “u” mới
biến đổi thành “âu”, vấn đề này cần được tiếp tục nghiên cứu.
4. *a- →*ươ- → iê4.1. Tư liệu âm HV vàchữ Nôm
Âm HV trung cổ của vận dương khai khẩu có cách đọc là[ɯɤ-], song cónhiều ngoại lệ
đọc là[ɑ-], vídụ: 庄妝装trang, 创sáng, 床sàng, 爽sảng, 状trạng, 恙炀漾樣dạng, 奘tráng.
Một số chữ có hai cách đọc [ɑŋ] và[ɯɤŋ]: 伥trành, xương; 苌trành, trường; 长trường, tràng;
抢sang, thảng, thương; 枪sang, thương. Hợp khẩu của vận dương thường đọc là[uo-], song
có một số chữ thuộc dụ tam vàthần âm có âm đọc là[ɑŋ] hoặc [ɯɤŋ], vídụ: 往vãng, 旺
vượng, 王vương, 鋩硭mang; 舫phảng, 鋩硭mang, 方肪phương, 坊phường.
Âm HV trung cổ của vận đường (唐韵) chủ yếu đọc là[ɑŋ], song có nhiều chữ đọc là
[ɯɤŋ], vídụ: 岡剛鋼綱cương, 唐塘糖堂螳đường, 當鐺đương, 倉蒼滄鶬thương.
Vận ngư của tiếng Hán trung cổ vốn thuộc vận bộ ngư (鱼部) của tiếng Hán thượng cổ.
Các nhàHán ngữ học cho rằng những chữ thuộc vận bộ ngư vốn đọc là[ɑ] (hoặc [a]), tiếng
Hán thượng cổ truyền vào Việt Nam hình thành nên âm HV thượng cổ, hiện nay vận ngư của
âm HV thượng cổ córất nhiều âm đọc là[ɯɤ], vídụ xem bảng 12 dưới đây:
御
许
驴
序
贮
初
疏
所
锯
距
除
ngừa
hứa
lừa
tựa
chứa
xưa
thưa
thửa
cưa
cựa
chừa
Các chữ của vận nguyên vốn có cách đọc là[ɑ-] (khai khẩu), [uɑ-] (hợp khẩu) ở tiếng
Hán thượng cổ, thìhiện nay ở âm HV trung cổ lại đọc là[ie-] ở khai khẩu (建kiến, 健kiện,
獻hiến, 偃堰yển, 歇yết) và [uie-] ở hợp khẩu (勸圈khuyên, 暄huyên, 元原nguyên, 願
nguyện, 阮nguyễn, 月nguyệt). Âm môi của vận ngun ngồi cách đọc là[ie-] ra, có nhiều
chữ đọc là [ɑ-], vídụ: 返反phản; 販phán; 髮發phát; 飯phạn; 伐phạt; 萬vạn. “冤眢oan,
怨ốn, 券khoán” là những chữ hợp khẩu của vận nguyên đọc là [uɑn]. Ở địa hạt âm HV
trung cổ, những chữ thanh mẫu vân của vận nguyên thường có cách đọc là [uien], [uiet]
nhưng ở địa hạt âm HV thượng cổ chúng lại có cách đọc là[ɯɤn], [ɯɤt], vídụ “猿viên- vượn,
园viên- vườn, 越việt- vượt”.
Vận nghiêm của tiếng Hán trung cổ vốn thuộc vận bộ đàm (谈部) của tiếng Hán thượng
cổ, có âm đọc là[ɑm] (hoặc [am]), nhưng các chữ “剑, 劫, 腌” có âm HV thượng cổ lần lượt
là “gươm, cướp, ướp”. Âm HV trung cổ của vận nghiêm hiện nay có âm đọc là[iem], [iep], ví
dụ: 業nghiệp, 嚴nghiêm, 剑kiếm, 怯khiếp.
8
Cách đọc âm HV của các vận nhất nhị đẳng của nhiếp hiệu, nhiếp sơn, nhiếp hàm hợp
nhất với nhau và đọc là[ɑ-], song cómột số ngoại lệ đọc là[ie-] hoặc có hai cách đọc [ɑ-] và
[ie-], vídụ: (nhiếp hiệu) 悼điệu; 号hiệu; 昊hạo, hiệu; 好hảo, hiếu; 匏bào, biều; 校效hiệu;
猫miêu; 梢蛸颵tiêu; 硗nghiêu; 孝hiếu; 虓kiêu; (nhiếp sơn) 顸hiên; 鞍安an, yên; 湍
suyền; 蜿盌惋uyển; 腕uyễn; 垸viện; 番phiên; 拚biền; 捋liệt, lốt; 阔khốt, khuếch; 洹
hồn, viên; 办biện; 绽điện; 苋hiện; 黠hiệp, hiệt; 揠kiền, loát; 晏yên; 赝yến; 孪loan,
luyến; (nhiếp hàm) 碱kiềm; 洽狭峡hiệp; 狎hạp, hiệp.
Cóthể thấy rõ hơn về tư liệu âm HV qua các chữ cóhai cách đọc ở bảng 13 dưới đây:
Chữ Hán
当
Cách đọc 1 đang
娘
长
nàng
tràng
堂
园
猿
越
剑
劫
好 安
全
丸
đàng viên viên việt kiếm kiếp hiếu yên tuyền viên
Cách đọc 2 đương nương trường đường vườn vượn vượt gươm cướp háo an tồn hồn
Về tư liệu chữ Nơm, trong Quốc âm thi tập vàTruyện Kiều có15 mơhình [ɯɤ] ([ɑ]), 14
mơ hình [ɯɤi] ([ɑi]), 7 mơ hình [ɯɤn] ([ɑn]), 19 mơ hình [ɯɤŋ] ([ɑŋ]), 7 mơ hình [ɯɤm]
([ɑm]) và17 mơhình [ɑŋ] ([ɯɤŋ]), vídụ ở bảng 14 dưới đây:
Xuất sứ
Quốc âm
bài 10, chữ 37
thi tập
bài 95, chữ 46
Truyện
dịng 382
Kiều
dịng 2733
Âm đọc
Chữ Nơm
馬
焒
特
Âm HV
mựa
mã
đứa
đa
lửa
lã
trưa
tra
được
đặc
Quốc âm
bài 4, chữ 49
thi tập
bài 22, chữ 7
mươi
mại
Truyện
dòng 53
bước
bắc
Kiều
dòng 1
người
ngại
bài 4, chữ 6
tháng
thượng
Quốc âm
thi tập
bài 147, chữ 6
揚
dang
dương
Truyện
dòng 62
娘
nàng
nương
Kiều
dòng 285
gang
cương
Trong Quốc âm thi tập vàTruyện Kiều có12 mơhình [ɯɤn] ([ien]) và8 mơhình [ɯɤm]
([iem]), vídụ xem trong bảng 15 dưới đây:
Xuất sứ
Quốc âm bài 41, chữ 44
bài 124, chữ 37
thi tập
Truyện
Kiều
Chữ Nơm
厭
Âm đọc
Âm HV
ướm
yếm
trượt
cự liệt
dịng 38
bướm
biếm
dịng 2668
lượt
liệt
Ngồi các mơhình [ɯɤ-] ([ɑ-]), [ɯɤ-] ([ie-]) ra, ở tư liệu chữ Nơm cịn cómơhình [ɑ-]
([ie-]). Cụ thể làtrong Quốc âm thi tập vàTruyện Kiều có4 mơhình [ɑu] ([ieu]), 9 mơhình
[ɑn] ([ien]), hãy xem vídụ trong bảng 16 dưới đây:
9
Xuất sứ
bài 9, chữ 49
Quốc âm thi tập
Truyện Kiều
Chữ Nôm
朝
Âm đọc
Âm HV
trào
triều
bài 149, chữ 11
cháo
triệu
bài 6, chữ 34
cạn
kiện
dòng 1725
gạn
kiện
dòng 357
quạt
quyết
dòng 591
van
viên
4.2. Tư liệu phương ngôn và ngôn ngữ thân tộc của tiếng Việt
Trên cơ sở so sánh với các phương ngôn và ngôn ngữ thân tộc, giáo sư Nguyễn Tài Cẩn
(1997: 180- 183) phát hiện ra rằng [ɯɤ] trong tiếng Việt hiện đại tương ứng với [ɯɤ] và[a]
(chúng tôi viết là[ɑ]) của tiếng Mường và phương ngơn Trung bộ, vídụ tiếng Việt hiện đại và
phương ngôn Trung bộ: lửa/ lả; ngứa/ ngá; nướng/ náng; nước/ nác; lưỡi/ lại… Nếu đẩy lên
giai đoạn Proto Việt Chứt thìâm [ɯɤ] vẫn chưa xuất hiện, bởi [ɯɤ-] của tiếng Việt hiện đại
chỉ tương ứng với [a] của Pọng Chứt.
Theo bảng Mường: 48 của giáo sư Nguyễn Tài Cẩn (1997: 191), các từ “lưỡi, rượu, ngửa,
nước, nướng, sườn” của tiếng Việt có cách đọc với nguyên âm chính là a ở các thổ ngữ
Mường (Mường Thải, Tân Phong, Yên Mao…).
Theo bảng Pọng Chứt: bảng 35 của giáo sư Nguyễn Tài Cẩn (1997: 195), một số từ đọc
là ưa của tiếng Việt (mưa, rựa, mửa, ngửa, lưỡi, mượn, xương, nước, trước, sườn, rướm)
tương ứng với cách đọc cóngun âm chính làa của một số ngơn ngữ Pọng Chứt.
Ngoài ra, một số từ ở tiếng Việt hiện nay viết là ương, trong Từ điển Việt- Bồ- La của
Alexandre De Rhodes ở thế kỷ thứ 17 viết làang, vídụ: đường cát (đàng cát), dưỡng (dảng),
yêu đương (yêu đang), kỷ cương (kỉ cang), trường (tlàng). Từ “tàng” được chú thích là “tốt
hơn, tường”, chứng tỏ rằng từ này có hai cách đọc “tàng, tường”, trong đó cách đọc “tường”
phổ biến hơn “tàng”, trong tiếng Việt hiện nay chỉ có cách đọc “tường”. Ở nhập thanh vận,
chúng tơi tìm thấy từ “nác”, từ này được chú thích là “Nước, cùng một nghĩa”.
4.3 Quátrình biến đổi ngữ âm
[ɯɤ] làvận mẫu phức, cịn [ɑ] làvận mẫu đơn, chúng hồn tồn khác nhau về âm trị, vì
vậy chúng tơi cho rằng sự tương ứng giữa [ɯɤ] và[ɑ] qua các tư liệu ở trên đây phản ánh sự
biến đổi ngữ âm. Vậy [ɯɤ] biến đổi thành [ɑ] hay [ɑ] biến đổi thành [ɯɤ]? Nguyên âm [ɑ]
nằm ở đỉnh biểu đồ vị trí lưỡi của nguyên âm nên nó có xu hướng phân tách thành hai nguyên
âm để vượt ra khỏi biểu đồ này, [ɑ] phân tách thành [ɯɤ] làphùhợp với lýthuyết ngữ âm học,
nguyên âm đơi [ɯɤ] rất khócóthể biến đổi thành [ɑ].
Hơn nữa, thành quả nghiên cứu về âm HV cũng cung cấp những chứng cứ ủng hộ quan
điểm [ɑ] biến đổi thành [ɯɤ]. Vận dương ở tiếng Hán thượng cổ vốn thuộc vận bộ dương (阳
部), các nhàâm vận học Trung Quốc phục nguyên nguyên âm chính của vận bộ dương là [ɑ]
hoặc [a]. Những âm đọc [ɑ-] ở vận dương của âm HV trung cổ màchúng tôi chỉ ra trên đây là
những âm đọc còn giữ được cách đọc của tiếng Hán cổ. Ngồi một số âm cịn đọc là[ɑ-] ra,
10
đại đa số các chữ của vận dương đã biến đổi từ [ɑ-] sang [ɯɤ-]. Những âm đọc [ɯɤŋ] của vận
đường làdo [ɑŋ] biến đổi thành, bởi tất cả các chữ thuộc vận đường nhất đẳng vốn có cách
đọc giống nhau (cũng chính vì vậy màtrong vận thư chúng được xếp vào cùng một vận) là
[ɑ-]. Hiện nay trong âm HV trung cổ, đại đa số các chữ thuộc vận đường vẫn giữ được cách
đọc này, chỉ cómột số chữ đọc thành [ɯɤ-].
Các vận nguyên, nghiêm vốn có cách đọc là[ɑ-] ở tiếng Hán thượng cổ, hiện nay cómột
số chữ vẫn đọc là[ɑ-] chính làsự bảo lưu cách đọc cổ, một số chữ đã biến đổi thành [ɯɤ-] ở
cách đọc âm HV thượng cổ vàtiếp tục biến đổi thành [ie-] ở âm HV.
Sở dĩ chúng tôi cho rằng [ɯɤ-] biến đổi thành [ie-] làvìmặc dù chúng đều làcác vận
mẫu phức, song [ɯɤ-] do hai nguyên âm dòng sau cấu tạo thành còn [ie-] do hai nguyên âm
dòng trước cấu tạo thành. [ɯɤ-] và[ie-] khác xa nhau về mặt âm trị. Các mơhình [ɯɤ-] ([ie-])
của chữ Nơm phản ánh sự biến đổi ngữ âm [ɯɤ-] biến đổi thành [ie-], bởi: 1) Cùng một chữ
nhưng âm HV trung cổ của chúng là[ie-] còn âm HV thượng cổ của chúng lại là[ɯɤ-] (vận
nguyên, vận nghiêm); 2) Trên đây chúng tôi đã chỉ ra [ɯɤ] do [ɑ] biến đổi thành, [ɯɤ] rất khó
có thể lại do [ie-] biến đổi thành; 3) Theo như nghiên cứu của các học giả Trung Quốc, giới
âm [i] của các vận khai khẩu tam đẳng làdo giới âm [ɯ] biến đổi thành; 4) Trong tiếng Việt
hiện nay đang xảy ra quátrì
nh biến đổi từ giới âm [ɯ] sang giới âm [i], vídụ (bảng 17):
Âm chuẩn
bắt chước
ưu tiên
con hươu
rượu
về hưu
cứu người
âm mưu
Âm sai
bắt chiếc
yêu tiên
con hiêu
riệu
về hiu
kíu người
âm miu
Khi giao tiếp, người miền Bắc thường phát âm thành những âm có giới âm [i] (âm ở
dịng 2), nếu có người nhắc họ rằng: “Anh nói sai rồi”, ngay lập tức họ ýthức được rằng mình
đã phát âm sai và miễn cưỡng bắt buộc mình phát âm thành âm cógiới âm [ɯ] (âm ở dòng 1).
Điều này chứng tỏ rằng giới âm [ɯ] đang chuyển thành giới âm [i], song quy luật này mới
đang diễn ra nên người ta vẫn ýthức được rằng phát âm thế nào làchuẩn vàthế nào làkhông
chuẩn.
“Yếm (cái yếm), miếu” của tiếng Việt toàn dân vẫn được nói là “ướm, mưởu” ở phương
ngơn Trung bộ, “gườm (hai người gườm nhau)” ở tiếng Việt tồn dân được nói là “ghiềm” ở
phương ngôn Nam bộ (Phạm Văn Hảo 2009).
Đến đây các mơ hình [ɑ-] ([ie-]) của chữ Nơm cũng đã được làm sáng tỏ, bởi [ɑ-] biến
đổi thành [ɯɤ-], rồi [ɯɤ-] tiếp tục biến đổi thành [ie-]. Quy luật biến đổi ngữ âm này cũng
giải thí
ch được hiện tượng một số chữ Hán cónhiều âm đọc HV, vídụ: 安 an/ ươn/ yên; 劍
găm/ gươm/ kiếm; 好 háo/ hiếu (háo danh, háo nước); 全 toàn/ tuyền; 劫 cắp/ cướp/ kiếp;
丸 hoàn/ viên; 年 năm/ niên; 得 đắc/ được. Quy luật này cũng giải thích được một số từ có
nhiều cách đọc khác nhau ở các phương ngữ của tiếng Việt: Từ “bảo” ở phương ngôn miền
Nam đọc là “biểu”; từ “duyên” ở phương ngôn Trung bộ là “doan”; “bặt tăm” có cách nói
khác là “biệt tăm”; “điều” được giải thích là “đào lộn hột” (Phạm Văn Hảo 2009: 169); Từ
“dào” ở phương ngơn Trung bộ có nghĩa là “nhiều”; Từ “hoạt, nguyên, triều” ở phương ngôn
miền Nam đọc là “hượt, ngươn, trào” (Phan Kế Bính 2008: 304-305).
11
5. Mơhình biến đổi của ngun âm ê
5.1 *ê → ay, ây
Trong Quốc âm thi tập vàTruyện Kiều có9 mơhình [ɑi] ([e]), 7 mơhình [ɑi] ([e]), 7 mơ
hình [ɤi] ([e]), 29 mơhình [ɤi] ([e]), bảng 18 dưới đây là một số vídụ:
Xuất sứ
Quốc âm
Âm đọc
Chữ Nơm
bài 6, chữ 40
齊
Âm HV
dài
duệ
tày
tề
thi tập
bài 172, chữ 41
Truyện
dòng 724
lạy
lễ
Kiều
dòng 313
rày
lệ
tới
tế
trời
ma lệ
bấy
bế
thấy
thể
đây
để
mây
mê
細
Quốc âm
bài 13, chữ 4
thi tập
bài 96, chữ 1
Quốc âm
bài 33, chữ 5
thi tập
bài 23, chữ 48
Truyện
dịng 329
Kiều
dịng 249
閉
抵
Những chữ có âm HV là[e] hay [ue] ở bảng trên đây đại đa số thuộc vận tề (齐韵) và
vận tế (祭韵) của nhiếp giải. Vận tề (齐韵) vàvận tế (祭韵) của âm HV trung cổ thường đọc
là[e] ở khai khẩu và[ue] ở hợp khẩu, song chúng tơi tìm thấy một số ngoại lệ có cách đọc
khác, vídụ: 西粞 tây, 洗 tẩy, 縊 ải, 启 khải. Mặt khác, một số chữ của nhiếp giải cóâm HV
trung cổ là[e] nhưng âm HV thượng cổ của chúng lại là[ɑi], vídụ: 礼 lễ/ lạy; 底 đế/ đáy; 替
thế/ thay; 齐 tề/ tày.
Theo bảng Mường 47 của giáo sư Nguyễn Tài Cẩn (1997: 190) từ “lấy” của tiếng Việt ở
các phương ngữ Mường đều đọc với nguyên âm chính là “ê”; theo bảng Pọng Chứt 30, 31, 34
của giáo sư Nguyễn Tài Cẩn (1997: 192- 195), một số từ đọc là “ai, ay, ây” của tiếng Việt
tương ứng với [e], [ɛ] ở các ngôn ngữ Pọng Chứt. Từ “chày” của tiếng Việt, ở Mã Liềng,
Pọng đọc với nguyên âm chính là[e], ở Maleng đọc với nguyên âm chính là[e] hay [ɛ]. Từ
“bay” của tiếng Việt, ở Khong Kheng đọc với nguyên âm chính là[e]. Từ “gấy” của tiếng Việt,
ở MãLiềng, Khạ Phọng đều đọc với nguyên âm chính là[e], ở Arem, Maleng đọc với nguyên
âm chính là[ɛ]. Các từ “trái, gái, rái, nai” của tiếng Việt được đọc với nguyên âm chí
nh là[e]
hay [ɛ] ở một số ngơn ngữ, cụ thể như bảng 19 dưới đây:
Arem Sách Rục
Trái
ɛ
i
i
Gái
ɛ
i
i
Rái
ɛ
e
e
Nai
ɛ
i
i
MãLiềng
e
i
Khạ Phọng Maleng
Pọng
Hung
Khong Kheng
e
e
e
e
e
e
e
e
e
ɛ
e
e
ɛ
e
i
i
12
[ɑi] làvận mẫu phức còn [e] làvận mẫu đơn, nếu nhì
n vào ngun âm chính thì[ɑ] là
ngun âm ngắn, thấp, dòng sau còn [e] là nguyên âm dài, bán cao, dòng trước. [ɑi] và[e]
khác xa nhau về âm trị, sự tương ứng giữa chúng phản ánh biến đổi ngữ âm. Dựa trên tư liệu
âm HV vàngôn ngữ thân tộc của tiếng Việt, chúng tôi cho rằng [e] biến đổi thành [ɑi]. [e] là
nguyên âm bán cao nên dễ dàng biến đổi thành [ɑi] theo lýthuyết ngữ âm học thực nghiệm.
5.2 *ê- → iêKhác với vận mẫu nguyên âm đơn “ê” biến đổi thành “ay” như trên đây đã trình bày, các
vận mẫu có âm chính là“ê-” vàâm cuối -m/-p; -n/ -t; -u lại biến đổi thành “iê-”. Hãy xem
một số vídụ về âm HV ở bảng 20 dưới đây:
Chữ
边
殿
叫
添
点
结
节
贴
Cách đọc 1
biên
điện
khiếu
thiêm
điểm
kiết
tiết
thiếp
Cách đọc 2
bên
đền
kêu
thêm
đếm
kết
tết
thếp
Trong Quốc âm thi tập và Truyện Kiều có 15 mơ hình [eu] ([ieu]), 12 mơ hình [em]
([iem]), 45 mơhình [en] ([ien]), hãy xem vídụ trong bảng 21 dưới đây:
Xuất sứ
Quốc âm
thi tập
Truyện
Kiều
Âm đọc
Chữ Nôm
Âm HV
bài 1, chữ 4
lều
liễu
bài 70, chữ 45
bện
biện
bài 40, chữ 12
trên
liên
dòng 369
đêm
điếm
dòng 1422
nhện
diện
dòng 148
tên
tiên
Các chữ ở bảng trên đây đều thuộc các vận tứ đẳng. Vương Lực (1982: 789) cho rằng
những vận tứ đẳng vốn có giới âm [i], những âm “bên, đền, tết” là do giới âm [i] đã bị rụng
mất. Ngược lại, Phan Ngộ Vân (1987) lại cho rằng những vận tứ đẳng vốn khơng cógiới âm
[i], giới âm [i] sau này mới có. Chúng tơi ủng hộ quan điểm của Phan Ngộ Vân, bởi không chỉ
tư liệu âm HV mànhững tư liệu khác của tiếng Hán cũng chứng minh cho quátrình biến đổi
từ [e-] sang [ie-]. Trong Cổ âm thuyết lược, Lục Trí Vĩ căn cứ vào việc những chữ phiên thiết
thượng của các vận tứ đẳng giống với vận nhất đẳng vànhị đẳng màkhông giống với các vận
tam đẳng, trong khi đó vận tam đẳng cógiới âm [i], vận nhất đẳng vàvận nhị đẳng khơng có
giới âm [i], nên ơng cho rằng vận tứ đẳng cũng khơng có giới âm [i]. Giáo sư Lý Vinh (1956:
112) căn cứ vào sự kết hợp giữa thanh mẫu vàvận mẫu, các vận tứ đẳng giống với các vận
nhất, nhị đẳng vàhoàn toàn khác với các vận tam đẳng nên phục nguyên cách đọc của các vận
tứ đẳng khơng có giới âm [i]. Giáo sư Lý Vinh (1956: 114-115) dựa vào nghiên cứu đối âm
giữa tiếng Phạn vàtiếng Hán cho rằng các vận tứ đẳng có ngun âm chính là[e]. Từ việc
nghiên cứu đối âm trong kinh Đà La Ni của phái Mật tông, giáo sư Thiệu Vinh Phần (2009:
13
145- 149) cũng đi đến kết luận: “Các chữ tứ đẳng thường chỉ dùng để đối dịch e, màkhông
đối dịch i, vìvậy rất rõràng: 1. Chữ tứ đẳng khơng có giới âm [i]; 2. Nguyên âm chính của
các chữ tứ đẳng giống hoặc gần giống với e của tiếng Phạn.”
Nguyễn Tài Cẩn (1997: 158) chỉ ra rằng [ie-] của tiếng Việt hiện đại tương ứng với [ie-]
và[ɛ-] của tiếng Mường. Điều này chứng tỏ cómột bộ phận [ie-] của tiếng Việt cónguồn gốc
từ [ɛ-]. [ɛ-] cólẽ biến đổi thành [e-] trước khi phân tách thành [ie-], điều này cóthể thấy được
thông qua tư liệu âm HV vàchữ Nôm dưới đây:
Chữ
猫
腰
燕
狹
簾
番
蓮
炼
茧
HV thượng cổ
mèo
eo
én
hẹp
rèm
phen
sen
rèn
kén
HV trung cổ
miêu
yêu
yến
hiệp
liêm
phiên
liên
luyện
kiển
Trong Quốc âm thi tập và Truyện Kiều có 21 mơ hì
nh [ɛm] ([iem]), 56 mơ hì
nh [ɛn]
([ien]), 34 mơhình [ɛu] ([ieu]), hãy xem vídụ trong bảng dưới đây:
Xuất sứ
bài 120, chữ 39
Quốc âm
thi tập
Kiều
Âm đọc
Âm HV
héo
hiếu
bài 131, chữ 37
nghèo
nghiêu
bài 180, chữ 37
em
m
ghen
kiên
dịng 520
thẹn
thiện
dịng 619
hèn
hiền
dịng 26
Truyện
Chữ Nơm
孝
悭
6. Kết luận
Làvỏ âm thanh của ngôn ngữ, ngữ âm không nằm ngồi quy luật vận động vàphát triển.
Ngữ âm ln biến đổi theo những quy luật nhất định chứ không phải diễn ra một cách ngẫu
nhiên, phân tách nguyên âm chính làmột trong những quy luật như thế.
Bài viết sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của ngôn ngữ học so sánh lịch sử,
ngôn ngữ học địa lý, ngôn ngữ học xãhội, phương ngôn học, Hán Nôm học, dựa vào các tư
liệu âm HV, chữ Nôm, tiếng Việt, phương ngôn và ngôn ngữ thân tộc của tiếng Việt để chứng
minh trong tiếng Việt để xẩy ra các quátrình biến đổi ngữ âm: i → ay, ai, ây, ơi; u → âu;
*a- → ươ-→iê-; ê → ay, *ê- → iê-. Từ đó đi đến kết luận phân tách nguyên âm làmột quy
luật biến đổi ngữ âm phổ biến của tiếng Việt.
Tài liệu tham khảo
[1] Alexandre de Rhodes, Từ điển Annam- Lusitan- Latinh, Nxb Khoa học Xã hội, 1991 (nguyên
tác 1651).
[2] Mai Quốc Liên, Kiều Thu Hoạch, Vương Lộc, Nguyễn Kh phiên âm và chú thích, Nguyễn
Trãi tồn tập tân biên, Nxb Văn học, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, 2001.
[3] Nguyễn Đình Hiền, Nghiên cứu những mơ hình biến đổi ngữ âm ở vần có âm chính là a, i, u của
tiếng Việt, Đề tài cấp cơ sở Trường ĐHNN, ĐHQGHN, 2014.
14
[4] Nguyễn Du, Nguyễn Quảng Tuân phiên âm khảo dị và chú giải, Truyện Kiều (bản Nôm 1866),
Nxb Văn học, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, 2004.
[5] Nguyễn Ngọc San, Lý thuyết chữ Nôm văn Nôm, Nxb Đại học Sư phạm, 2003.
[6] Nguyễn Tài Cẩn, Giáo trì
nh lịch sử ngữ âm tiếng Việt, Nxb giáo dục, 1997.
[7] Nguyễn Tài Cẩn, Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt, Nxb KHXH, 1979.
[8] Phạm Văn Hảo chủ biên, Từ điển phương ngữ tiếng Việt, Nxb KHXH, 2009.
[9] Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, Nxb Văn học, 2008.
[10] Otto Jespersen, A modern English grammar: on historical principles, Copenhagen, E.
Munksgaard, 1949.
[11] 何成等, 越汉辞典, 商务印书馆,1997.
[12] 李 荣, 切韵音系, 科学出版社,1956.
[13] 陆志韦, 古音说略, 燕京学报专号之二十. 哈佛燕京学社,1947. 载陆志韦语言学著作集,
中华书局,1985.
[14] 潘悟云, 汉语历史音韵学, 上海教育出版社,2000.
[15] 潘悟云, 越南语中的上古汉语借词层, 温州师范学院学报(社科版),1987(3):38-47.
[16] 阮廷贤, 汉越语音系与喃字研究, 河内国家大学出版社,2014.
[17] 邵荣芬, 切韵研究, 中国社会科学出版社,1982.
[18] 王 力, 龙虫并雕斋文集, 第二册, 中华书局,1982.
[19] 朱晓农, 音韵研究, 商务印书馆,2008.
Separated vowels: a phonetic changing common rule in Vietnamese
Abstract: As the sound shell of language, phonetic always moves and changes
according to certain rules. Vowel separation is one of the rules proven by scholars in many
languages. The article bases on research on some models of phonetic change in such vowels
as a, i, u, ê to demonstrate separation vowel also a phonetic changing common rule in
Vietnamese.
Key words: Separated vowels, phonetic change, Vietnamese, Sino Vietnamese, Nơm
scripts, dialects, kinship language.
Nguyễn Đình Hiền: Tiến sỹ, giảng viên Khoa Ngơn ngữ và Văn hóa Trung Quốc,
ĐHNN, ĐHQGHN
Mail: Mobile: 0904 244 708
15