Tải bản đầy đủ (.docx) (49 trang)

Su dung so do tu duy trong day hoc lich su otruong THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.03 MB, 49 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>LỜI CÁM ƠN</b>


<i> Xin chân thành cám ơn Phòng Giáo dục Trung học –Thường</i>
<i>xuyên, Tổ nghiệp vụ bộ môn Lịch sử Sở GD&ĐT Bình Dương, Ban giám</i>
<i>hiệu, Ban chấp hành Cơng đồn Trường THPT Dĩ An, Tổ Sử - Địa - Giáo</i>
<i>dục công dân, đã trực tiếp giúp đỡ, hướng dẫn và đóng góp những ý kiến</i>
<i>chủ đạo cho nội dung đề tài sáng kiến kinh nghiệm nầy.</i>


<i> Những nội dung đã học tập và kinh nghiệm tích lũy được từ đề tài</i>
<i><b>“Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học lịch sử ở trường THPT”</b> nầy sẽ là</i>
<i>hành trang vô cùng quý báu cho quá trình đổi mới phương pháp dạy học</i>
<i>lịch sử của bản thân chúng tôi trong thời gian sắp tới.</i>


<i><b>Dĩ An, ngày 09 tháng 3 năm 2012</b></i>
<i><b>Người thực hiện,</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>“SỬ DỤNG SƠ ĐỒ TƯ DUY </b>



<b>TRONG DẠY HỌC LỊCH S Ở TRƯỜNG THPT”</b>


<b>MỤC LỤC</b>


<b>ĐẶT VẤN ĐỀ ...3</b>


1. Lí do chọn đề tài ...3


2. Mức độ nghiên cứu đề tài ...8


3. Đối tượng, khách thể, phạm vị nghiên cứu ...8


4. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài ...9



5. Kết cấu của đề tài ... 12


<b>NỘI DUNG ... 13</b>


<b>Phần I . Nêu thực trạng của vấn đề ...13</b>


1. Thuận lợi ... 13


2. Khó khăn ... 14


<b>Phần II . Mô tả và giới thiệu các nội dung, biện pháp chính... 15 </b>


<b>1. Thực trạng và giải pháp... 15</b>


<i>1.1 Giảng dạy sơ đồ tư duy nhằm tăng tính tích cực trong HS... 15</i>


<i>1.2 GV trở thành người hướng dẫn hỗ trợ... 16</i>


<i>1.3 Những lưu ý HS khi sử dụng sơ đồ tư duy... 19</i>


<b>2. Giảng dạy và học tập với công cụ sơ đồ tư duy... 20</b>


<i>2.1 Giới thiệu đôi nét về sơ đồ tư duy... 20</i>


<i>2.2 Nguyên lý và ứng dụng sơ đồ tư duy trong dạy học... 20</i>


<i>2.3 Giới thiệu một số phần mềm để tạo sơ đồ tư duy... 22</i>


<b>3 Tiến trình một tiết dạy theo sơ đồ tư duy... 24</b>



<b>Phần III. Kết quả và bài học kinh nghiệm và kiến nghị ... 37</b>


1. Kết qua... 37


2. Bài học kinh nghiệm... 38


3. Kiến nghị... 42


<b>KẾT LUẬN ...44</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<b>ĐẶT VẤN ĐỀ</b>
<b>1. Lý do chọn đề tài, thuận lợi và khó khăn </b>


Từ lâu, dạy học theo kiểu “đọc – chép” được coi là một phương pháp
dạy học để truyền tai kiến thức cho học sinh và được sử dụng phổ biến ở nhiều
trường trong ca nước. Ngành Giáo dục và Đào tạo cũng đã có nhiều cuộc hội
thao và cũng đã đưa ra nhiều phương pháp dạy học tích cực hơn… nhưng hiện
tại khơng ít giáo viên vẫn sử dụng cách dạy học theo kiểu “đọc – chép”


Phai nói rằng trong một tiết dạy, cũng có lúc giáo viên cần phai đọc
cho học sinh chép như mơn chính ta...ở bậc Tiểu học, đọc hoặc ghi lên bang
các cơng thức tốn học, bang cửu chương, một sự kiện lịch sử, một số yếu tố
địa lý, đoạn thơ, các khái niệm...ở bậc Trung học, điều này khơng có nghĩa là
giáo viên đã sử dụng phương pháp “đọc – chép”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

trương chống việc dạy học “chủ yếu qua đọc chép – nhìn chép” nghĩa là chống
việc chỉ đọc chép, truyền thụ kiến thức một chiều trong ca một tiết lên lớp.


Với cách dạy này, người thầy đã máy móc, rập khn trong dạy học,
dễ có tư tưởng phó mặc, khơng hứng thú trong cập nhật kiến thức, khơng sáng


tạo trong việc tìm kiếm các phương án thiết kế bài dạy phù hợp với mọi đối
tượng học sinh trong lớp mình phụ trách để kết qua giang dạy đạt mức tối ưu.
Người học theo cách này sẽ trở nên thụ động, chỉ biết thu nhận kiến thức một
chiều, không động não suy nghĩ, khơng biết tự mình chiếm lĩnh tri thức, trở
nên thui chột về tư duy, khó vận dụng kiến thức vào cuộc sống.


Hơn nữa, đã dạy theo kiểu “đọc – chép” thì đề thi phai ra theo kiểu học
thuộc. Học sinh khi học, chép được điều gì thì lúc thi, lại chép những điều ấy
vào bài làm, khơng có kha năng sáng tạo, học sinh hiểu bài một cách máy móc
khơng sáng tạo, khơng thể hiện được “cái riêng” của mình hoặc khơng dám thể
hiện “cái riêng” của mình. Bài dạy học đọc – chép tất yếu phai được tổ chức
theo phương thức diễn dịch, do đó tiết dạy “đọc – chép” sẽ nhàm chán và
mang tính áp đặt.


<i><b> Việc giáo viên sử dụng cách dạy học theo kiểu đọc – chép, có thể kể</b></i>
<i>ra một số nguyên nhân sau: </i>


<i>Do một số bài học của chương trình có lượng kiến thức nhiều, trong</i>
một tiết học chỉ có 45 phút, mà đã mất 10 đến 15 phút ổn định tổ chức, kiểm
tra bài cũ, dặn dò học, làm bài tập ở nhà…Như vậy, chỉ còn khoang 30 phút
để giang bài mới nên giáo viên chọn cách “đọc – chép”.


<i>Học sinh hiện nay khả năng tự ghi bài là rất chậm, rất hạn chế, thụ</i>
<i>động trong học tập nên cũng có thầy cơ chọn cách đọc bài, học trị chép bài.</i>
Học sinh về nhà chỉ cần học thuộc nội dung đã được ghi, khi kiểm tra bài chỉ
cần đọc đúng, ghi đúng là được điểm cao…


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

lại ghi vài chữ lên bang. Như thế, vừa không sợ sai kiến thức cơ ban, lại vừa
không tốn sức.



<i>Trang thiết bị và các phịng học chức năng khơng đủ hoặc khơng có</i>
<i>để đáp ứng nhu cầu dạy học theo hướng đổi mới, hiện đại hóa, học sinh khơng</i>
có nhiều điều kiện để thực hành hoặc học theo phương pháp trực quan sinh
động.


Khắc phục tình trạng đọc – chép là một yêu cầu cần thiết để nâng cao
chất lượng dạy học đối với tất ca các mơn học. Đó là một nhiệm vụ vơ cùng
khó khăn phức tạp trong điều kiện hiện nay của nhiều trường. Thực hiện tốt
việc chống dạy học theo kiểu “đọc – chép” là ca một quá trình lâu dài với sự
cố gắng của nhiều đối tượng khác nhau trong đó sự tận tâm của thầy cơ giáo là
điều hết sức quan trọng mới có thể có kết qua.


Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Chỉ thị bắt đầu từ năm
học này (2011 – 2012) chấm dứt việc dạy học chủ yếu qua đọc chép và nhìn
chép ở bậc trung học phổ thơng.


<i>Đây là chủ trương phù hợp với tiến trình đổi mới và nâng cao chất</i>
<i>lượng giáo dục, đáp ứng sự mong đợi bấy lâu nay của nhiều giáo viên tâm</i>
<i>huyết với giáo dục, giúp học sinh chủ động học tập và sáng tạo. </i>


Có thể nói, nhiều năm qua việc giáo viên đọc cho học sinh chép bài đã
trở thành thói quen của phần lớn thầy – trị bậc phổ thơng, kể ca đại học. Nhiều
nhà nghiên cứu giáo dục và dư luận lên tiếng khơng đồng tình, thậm chí phan
đối gay gắt và đề nghị chấm dứt việc dạy học theo kiểu đọc chép, nhưng có lẽ
do cịn nhiều việc phai giai quyết, nên mãi đến năm học này, Bộ Giáo dục và
Đào tạo mới có ý kiến chính thức bằng văn ban.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Đã có những bài thi ngây ngơ đến mức khó tin, bởi thiếu phương pháp
tư duy, rập khn máy móc do việc học lệ thuộc hồn tồn vào thầy, cịn thầy
thì lệ thuộc sách giáo khoa. Cách dạy và học này còn tiếp tay cho nạn quay


cóp, gian lận trong thi cử, tạo ra sự thiếu công bằng giữa những người học
nghiêm túc và những người thầy thực sự muốn đổi mới cách dạy học.


Thầy đọc, trò chép trên lớp, cộng với việc học quá tai liên miên khiến
các em không đủ thời gian suy ngẫm và tự học, thì lấy đâu ra việc tìm tịi, suy
luận để có kiến thức thực sự? Nhưng vấn đề đặt ra, thế nào là thầy khơng đọc,
trị khơng chép? Khơng đọc kiến thức đã có sẵn trong sách giáo khoa, thì thầy
sẽ nói gì để các em ghi lại và phát triển tư duy?


Chỉ thị không đọc – chép trên lớp sẽ thực hiện từ năm học này. Nếu
không chuẩn bị kỹ lưỡng với một tinh thần hưởng ứng nhiệt tình, có thể xay ra
tình trạng, giáo viên photo bài giang và bộ câu hỏi rồi phát cho học sinh tự
đọc, tự tra lời để tránh tiếng “thầy đọc, trị chép”. Và cũng khơng loại trừ xay
ra chụn, thầy cứ giang, trị muốn ghi gì cũng được mà khơng biết đâu là nội
dung chính để tập trung học hỏi. Rồi khi thi kiểm tra chất lượng, thầy có chấp
nhận nội dung bài thi khác với ý của mình hay khơng.


Đội ngũ giáo viên hiện nay phần lớn cũng được đào tạo bằng phương
pháp “đọc – chép” nên để thay đổi cách giang dạy cũng khó có thể đạt kết qua
một sớm một chiều. Trong khi đó, bộ sách giáo khoa bậc phổ thông đang tiếp
tục được thay đổi và nội dung còn khá nặng nề cũng là một lực can trong q
trình nói khơng với “đọc – chép”.


Thực tế những năm qua có nhiều giáo viên (kể ca bậc đại học) đã áp
dụng phương pháp giang dạy không đọc chép cho học sinh, sinh viên và đem
lại hiệu qua rõ nét. Nhưng vì khơng có động lực, thiếu sự khuyến khích, động
viên và tiêu chí rõ ràng, nên cách làm này chỉ có tính tự phát ở một số ít
người.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Trong giai đoạn hiện nay, xu hướng dạy học hiện đại với sự kết hợp


những thành tựu công nghệ thông tin đã và đang diễn ra một cách khá phổ biến
ở các ngành học, cấp học. Công nghệ thông tin với tư cách là một phương tiện
hỗ trợ cho việc dạy học đang chứng tỏ những ưu thế và hiệu qua trong q
trình dạy học nói chung và đối với bộ mơn lịch sử nói riêng.


Trong năm học 2007 – 2008 Sở GD&ĐT Bình Dương đã triển khai
cho các Trường THCS trong tỉnh thực hiện dạy học theo “Sơ đồ tư duy” và
mỗi trường THPT cử một giáo viên dự lớp tập huận đổi mới phương pháp dạy
học theo phương pháp mới do Microsoft tài trợ, nhưng hiện nay chưa triển
khai đến giáo viên các trường THPT.


Đầu năm học 2011 – 2012 Hiệu trưởng Trường THPT Dĩ An Vương
Văn Thanh triển khai chỉ thị năm học mới của Bộ GD&ĐT trong đó có nêu lên
chỉ thị “chấp dứt hồn hồn việc đọc – chép hoặc nhìn – chép ở trường THPT”
và thầy Hiệu trưởng có giới thiệu một phương pháp giang dạy mà từ lâu các
nước tiên tiến trên thế giới đã áp dụng trong dạy học đó là sử dụng sơ đồ tư
duy và đã cho giáo viên xem một số hình anh minh họa các “sơ đồ tư duy” mà
học sinh các trường đã thực hiện.


Sự việc nầy đã làm tơi liên tưởng đến lớp học của chương trình đổi
mới phương pháp dạy học do chương trình Microsoft tài trợ và huấn luyện mà
tôi đã tham dự, tôi hỏi thăm một số thầy cô đã được cử đi tập huấn ở Singapor
và được biết các trường học ở Singapor cũng đã thực hiện cách dạy nầy rồi.
Tôi đến các lớp hỏi thăm học sinh lớp 10 có biết ghi bài bằng sơ đồ tư duy hay
khơng thì các em tra lời ở Trường THCS các em cũng đã được dạy rồi.


Từ đó tơi mới tìm hiểu và áp dụng theo phương pháp “Sử dụng sơ đồ
<i>tư duy trong dạy học lịch sử ở trường THPT” và bài tra lời cho câu hỏi làm thế</i>
nào để đổi mới phương pháp dạy học “khơng đọc – chép ; khơng nhìn – chép”
theo chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo mà tơi trăn trở băn khoăn bấy lâu nay


đã có cách để giai quyết


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

mang lại hiệu qua cao nếu giáo viên biết vận dụng các kĩ năng CNTT vào tiêt
dạy thì sẽ giúp học sinh hứng thú, yêu thích tiết học lịch sử hơn so với một tiết
dạy bằng giáo án điện tử thông thường.


<b>2. Mức độ nghiên cứu đề tài </b>


Năm học 2011 – 2012 là năm học đầu tiên Bộ GD – ĐT triển khai thực
hiện “Chấm dứt hoàn toàn việc đọc – chép; nhìn – chép ở các trường THPT”.


Vì trong năm học nầy tôi chỉ được phân công giang dạy Lịch sử lớp 10
và lớp 12 nên tôi chỉ tập trung nghiên cứu hai khối lớp của mình phụ trách.
Trong phạm vi nghiên cứu đề tài nầy, mức độ nghiên cứu chỉ giới hạn trong
vấn đề lớn : “Hướng dẫn học sinh ghi bài theo sơ đồ tư duy”.


<b>3. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu </b>


<b>+ Đối tượng nghiên cứu : “Soạn giảng bộ môn Lịch sử 10 và 12 theo sơ đồ tư</b>
<i>duy và chuẩn KTKN được điều chỉnh giảm tải trong năm học 2011 – 2012”.</i>
+ Khách thể nghiên cứu : Môn LS lớp 10 và lớp 12 ở trường THPT.


+ Phạm vi nghiên cứu : Hướng dẫn học sinh ghi bài theo sơ đồ tư duy.
<b>4. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

nguyên Hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm Hà Nội, để cuộc vận động này
thành cơng, thì đội ngũ giáo viên là yếu tố quyết định. Do vậy ngay từ khâu
đào tạo giáo viên ở các trường đại học, cao đẳng phai đào tạo họ biết cách
“không đọc chép”.



Vấn đề càng tỏ ra bức xúc hơn khi Bộ trưởng Giáo dục – Đào tạo
Nguyễn Thiện Nhân phát động chiến dịch “Nói khơng với đọc chép” cùng với
việc “Nói khơng với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục”.
Nói thì dễ nhưng làm thật khó. Nhiều đồng nghiệp đã nhận thức được sự tai
hại của việc dạy học theo lối đọc chép, nhưng qua thực để <i>“Nói khơng với đọc</i>
<i>chép”, có người chưa biết nên bắt đầu từ đâu, làm như thế nào, thậm chí cịn</i>
rất ái ngại, vì thay đổi một tập qn khơng dễ gì nếu thiếu một quyết tâm và sự
định hướng.


<i>Để góp phần tạo nên sự chuyển biến trong dạy học bộ môn, đáp ứng</i>
<i>yêu cầu phát triển xã hội, và để “Nói khơng với đọc chép”, giáo viên lịch sử</i>
<i>cần lưu ý một số điểm sau đây:</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

<i>Để “Nói khơng với đọc chép”, địi hỏi giáo viên phải có tâm huyết với</i>
<i>nghề nghiệp, phải ln thấy được trách nhiệm và uy tín cá nhân của mình</i>
<i>trước hết là đối với học sinh. Cần phai tích cực đầu tư chun mơn và khơng</i>
ngừng học tập nâng cao trình độ nghiệp vụ. Việc đầu tư chun mơn địi hỏi
phai tiếp cận với thơng tin khoa học chuyên ngành. Điều kiện sách vở, tài liệu
tham khao và các nguồn thông tin cần thiết hiện nay khơng đến nổi q khó
khăn. Mỗi khi đã có sự hiểu biết sâu sắc về chuyên môn, giáo viên dễ dàng lựa
chọn phương pháp để giang dạy, vì phương pháp là sự vận động của tri thức.


<i>Mỗi phương pháp dạy học có một giá trị riêng, tuỳ theo nội dung kiến</i>
<i>thức và đối tượng mà lựa chọn phương pháp cho phù hợp nhằm tạo biểu</i>
<i>tượng, hình thành khái niệm, khắc sâu kiến thức cơ bản… cho học sinh.</i> Để
phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập, phương pháp dạy học sử
dụng sơ đồ tư duy tỏ ra có ưu thế. Mỗi bài học chứa đựng một số vấn đề cơ
ban của lịch sử, bằng sự hiểu biết của mình, giáo viên nêu vấn đề, tổ chức cho
học sinh giai quyết bằng cách sáng tạo thành sơ đồ tư duy nhằm phát huy tính
tích cực và huy động bộ não các em làm việc hết công suất cho mỗi bài học, sẽ


khơng cịn tình trạng học sinh ngồi im thụ động chỉ có vài em được phát biểu
và làm việc với giáo viên trong tiết học.


<i>Việc học sinh tham gia trực tiếp vào việc giải quyết những yêu cầu</i>
<i>của bài học vừa có tác dụng phát triển tư duy vừa gây hứng thú học tập. Tất</i>
nhiên vai trò dẫn dắt của người thầy là hết sức quan trọng. Dạy học là một
nghệ thuật, bằng tâm hồn, sự hiểu biết và nghệ thuật của giáo viên, những
“phần xác” lịch sử sẽ được “pha hồn” vào một cách sinh động và đẹp đẽ, giúp
các em cam nhận tốt hơn, u thích hơn bộ mơn lịch sử.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

sự đầu tư cơng sức và trí ṭ cho bài giang. Rõ ràng làm tốt cơng việc này sẽ
góp phần nâng cao chất lượng, hiệu qua giờ dạy và hiên tượng “đọc chép” sẽ
khơng có cơ hội để tồn tại.


<i>Lý luận dạy học đã chỉ ra rằng, học sinh vừa là đối tượng, vừa là chủ</i>
<i>thể của quá trình dạy học. Dạy học theo lối đọc chép có nghĩa giáo viên đã thủ</i>
tiêu mất vai trò chủ thể của học sinh, đưa các em vào trạng thái hoàn toàn thụ
động, bị nhồi nhét một cách đáng thương. Việc tạo ra mơ hình dạy học sử dụng
sơ đồ tư duy trong đó học sinh có điều kiện trao đổi với thầy với bạn, sẽ phát
huy tốt tính tích cực, chủ động của các em, giúp các em vươn lên chiếm lĩnh tri
thức.Thay đổi mơ hình dạy học theo sơ đồ tư duy là một u cầu khơng thể
thiếu được. Nó vừa phát huy tốt ưu thế của bộ môn, vừa tạo được sự hấp dẫn,
hứng thú đối với học sinh. Cần chú ý mơ hình dạy lịch sử theo sơ đồ tư duy,
giam dần tính biên niên trong dạy học lịch sử.


<i>Khả năng vận dụng tri thức đã học vào cuộc sống là cái đích của việc</i>
<i>dạy học bộ mơn. Kha năng đó có được từ nghệ thuật truyền dạy và tổ chức rèn</i>
luyện của giáo viên cho các em. Học lịch sử mà không liên hệ được thực tế,
không làm bài tập thực hành, sẽ khơng thể nào có được năng lục vận dụng và
như vậy sự học trở nên vô bổ. Cuộc sống đang đặt ra vô vàn những vấn đề


phức tạp, hiểu sâu sắc lịch sử để lý giai những vấn đề của cuộc sống hiện tại là
vô cùng cần thiết, nó tỏ rõ ưu thế của bộ môn. Không làm tốt điều này xem
như giáo viên lịch sử chưa hoàn thành nhiệm vụ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

<b>5. Kết cấu của đề tài sáng kiến kinh nghiệm </b>


Ngoài phần đặt vấn đề, kết luận, tài liệu tham khao, đề tài gồm có 3
phần :


-Phần I : Nêu thực trạng của vấn đề.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

<b>NỘI DUNG</b>


<b>Phần I . Nêu thực trạng của vấn đề</b>
<b>1. Thuận lợi khi thực hiện đề tài SKKN </b>


Năm học 2011 – 2012 Bộ Giaó dục và Đào tạo giam tai nội dung sách
giáo khoa tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên trong việc dạy và học hơn nững
năm qua.


Tơi được Sở GD&ĐT Bình Dương cử tham dự lớp tập huấn “Phương
pháp dạy học mới” và những năm qua đã soạn giang khá tốt bộ giáo án điện tử
lớp 10 và lớp 12 nên có thuận lợi hơn khi áp dụng đề tài hướng dẫn học sinh
bậc THPT thực hiện ghi bài theo sơ đồ tư duy.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

để sử dụng ngay trong tiêt dạy tại lớp nên rất thuận tiện cho giáo viên và học
sinh khi áp dụng phương pháp giang dạy mới sử dụng sơ đồ tư duy.


Học sinh các lớp THPT của Bình Dương bước đầu đã được làm quen
với cách ghi bài theo sơ đồ tư duy ở các trường THCS nên các em tiếp thu cách


học mới dễ dàng hơn ở bậc THPT.


Một số phần mềm sơ đồ tư duy được phổ biến rộng rãi nên đã hỗ trợ
cho giáo viên và học sinh khi trình bày sơ đồ tư duy trên máy chiếu.


<b>2. Khó khăn khi thực hiện đề tài SKKN</b>


Khi dự giờ các tiết dạy giáo viên còn theo bang chấm điểm cũ, hầu
như đa số giáo viên của các trường THPT đều chưa giang dạy học sinh theo
phương pháp sử dụng sơ đồ tư duy vào trong một tiết dạy.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

<b>Phần II . Mô tả và giới thiệu các nội dung, biện pháp chính</b>
<b>“SỬ DỤNG SƠ ĐỒ TƯ DUY TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ</b>


<b>Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG”</b>
<b>1. Thực trạng và giải pháp:</b>


<i><b>1.1 Giảng dạy theo sơ đồ tư duy tăng cường tính tích cực của học sinh </b></i>
Năm học 2011-2012 là năm đầu tiên ngành Giáo dục và Đào tạo triển
khai giang dạy theo sơ đồ tư duy ở bậc học THPT. Qua thực tế cho thấy việc
giang dạy này đã tạo hứng thú cho học sinh. Mỗi học sinh có thể tự lập sơ đồ
tư duy cho mình dưới sự hướng dẫn của giáo viên để bài học trở nên dễ thuộc,
dễ hiểu, dễ nhớ hơn. Cùng một nội dung nhưng các em có thể thêm nhánh,
thêm chú thích dưới dạng hình vẽ nhiều màu sắc tùy vào cách hiểu, cách lĩnh
hội kiến thức trong bài học của mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

hình vẽ tay với những màu sắc, hình anh, từ ngữ diễn đạt khác nhau nhằm giúp
học sinh có thể nắm bắt và nhớ được phần cốt lõi của bài giang ngay tại lớp học.
Sơ đồ tư duy đặc biệt chú trọng về màu sắc, hình anh với từ ngữ ngắn
gọn thể hiện qua mạng liên tưởng (các nhánh trong bài giang). Từ phần nội


dung chính, giáo viên vẽ ra từng nhánh nhỏ theo từng tiểu mục chính của bài
giang và chú thích, giang giai theo một ngôn ngữ dễ hiểu và gần gũi với học
sinh.


Như vậy, thay vì phai học thuộc lịng các khái niệm, định nghĩa hay ca
bài giang đọc chép như lúc trước, giờ đây học sinh có thể hiểu và nắm được
khái niệm qua hình vẽ. Chính sự liên tưởng theo hướng dẫn của giáo viên
<i>cũng giúp các em nhớ được phần trọng tâm của bài giảng.</i>


Cách học này còn phát triển được năng lực riêng của từng học sinh
không chỉ về trí ṭ, vẽ, viết gì trên sơ đồ tư duy, hệ thống hóa kiến thức chọn
lọc những phần nào trong bài để ghi, thể hiện dưới hình thức kết hợp hình vẽ,
chữ viết, màu sắc, vận dụng kiến thức được học qua sách vở vào cuộc sống.


Để giang dạy theo sơ đồ tư duy, giáo viên có thể chủ động vẽ hình trên
bang rồi cho học sinh tiếp tục lên phân nhánh sơ đồ hay để học sinh chia thành
từng nhóm nhỏ rồi tự vẽ sơ đồ theo cách hiểu của mình sau đó giáo viên định
hướng lại từng nội dung cho học sinh.


Sơ đồ tư duy thực chất là một sơ đồ mở không theo một khuôn mẫu hay
tỷ lệ nhất định mà là cách hệ thống kiến thức tạo ra một tiết học sinh động, đầy
màu sắc và thực sự hiệu qua. <i><b>Giảng dạy theo sơ đồ tư duy phát huy tính tích</b></i>
<i><b>cực nhiều nhất trong các giờ ôn tập. Khi học sinh trở thành chủ thể thành</b></i>
<i><b>nhân vật trung tâm trong mỗi tiết học, các em sẽ trở nên hào hứng và hăng</b></i>
<i><b>say hơn trong học tập.</b></i>


<i><b>1.2 Giáo viên trở thành người hướng dẫn, hỗ trợ</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

sơ đồ sau đó yêu cầu các bạn khác bổ sung những phần còn thiếu. Kết thúc bài
giang, thay vì phai ghi chép theo cách truyền thống, học sinh có thể tự “vẽ” bài


học theo cách hiểu của mình với nhiều màu sắc và hình anh khác nhau. Đến tiết
học sau, chỉ cần nhìn vào sơ đồ, các em có thể nhớ được những phần trọng tâm
của bài học. Giang dạy theo sơ đồ tư duy mang tính kha thi cao vì có thể vận
dụng được với bất kỳ điều kiện cơ sở vật chất nào của các nhà trường, có thiết kế
trên giấy, bìa, bang bằng cách sử dụng bút chì màu, phấn màu hoặc cũng có thể
thiết kế trên phần mềm sơ đồ tư duy đã được triển khai đến từng trường. Việc vận
dụng sơ đồ tư duy trong dạy học sẽ dần hình thành cho học sinh tư duy mạch lạc,
hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ thống, khoa
học.


<i>Sơ đồ tư duy hay bản đồ tư duy (Mind Map) là hình thức ghi chép sử</i>
<i>dụng màu sắc, hình ảnh nhằm tìm tịi đào sâu, mở rộng một ý tưởng, tóm tắt</i>
<i>những ý chính của một nội dung, hệ thống hố một chủ đề.</i> Nó là một cơng cụ
tổ chức tư duy được tác gia Tony Buzan (Anh) nghiên cứu kỹ lưỡng và phổ
biến rộng khắp thế giới.


<i>Tony Buzan sinh năm 1942, chuyên gia hàng đầu thế giới về nghiên</i>
<i>cứu hoạt động của bộ não và là cha đẻ của Mind Map.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

<b>Trong dạy học: Việc sử dụng sơ đồ tư duy huy động tối đa tiềm năng</b>
<i>của bộ não, giúp học sinh học tập tích cực, hỗ trợ hiệu quả các phương pháp</i>
<i>dạy học.</i>


Vận dụng sơ đồ tư duy trong dạy học, giáo viên giúp học sinh có thói
quen tự tay ghi chép hay tổng kết một vấn đề, một chủ đề đã đọc – đã học,
theo cách hiểu của học sinh với dạng sơ đồ tư duy.


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

<b>Đối với học sinh: </b><i>Học sinh thường xuyên tự lập sơ đồ tư duy sẽ phát</i>
<i>triển khả năng thẩm mỹ do việc thiết kế nó phai bố cục màu sắc, các đường</i>
nét, các nhánh sao cho đẹp, sắp xếp các ý tưởng khoa học, súc tích… Và đó


chính là để học sinh “Học cách học”: Học sinh được học để tích lũy kiến thức,
nhưng từ trước đến nay học sinh chưa biêt cách học cách để lĩnh hội những
kiến thức bộ môn lịch sử một cách hiệu qua.


<b>Khái niệm của sơ đồ tư duy: </b><i>Nguyên lý hoạt động theo nguyên tắc</i>
<i>liên tưởng “ý này gợi ý kia” của bộ não.</i> Học sinh có thể tạo một sơ đồ tư duy
ở dạng đơn gian theo nguyên tắc phát triển ý: từ một chủ đề tạo ra nhiều nhánh
lớn, từ mỗi nhánh lớn lại tỏa ra nhiều nhánh nhỏ và cứ thế mở rộng ra vô tận.
<i>(Cách vẽ cũng rất giản đơn và cịn rất nhiều tiện ích khác khiến cho sơ đồ tư</i>
<i>duy ngày càng trở nên phổ biến toàn cầu).</i>


<i><b>1.3 Những lưu ý học sinh khi sử dụng sơ đồ tư duy</b></i>


<i>Màu sắc cũng có tác dụng kích thích bộ não như hình ảnh. Tuy nhiên,</i>
học sinh cũng khơng cần phai sử dụng quá nhiều màu sắc. Học sinh có thể chỉ
cần dùng một hai màu nếu thích và muốn tiết kiệm thời gian.


Nếu học sinh thấy mất quá nhiều thời gian để tơ đậm màu trong một
nhánh, thì học sinh có thể gạch chéo, đánh dấu cộng, hay chấm bi trong đó –
rất mới mẻ và tốn ít thời gian.


<i>Vẽ nhiều nhánh cong hơn là đường thẳng để tránh sự buồn tẻ, tạo sự</i>
<i>mềm mại, cuốn hút.</i>


Khi học sinh sử dụng những từ khóa riêng lẻ, mỗi từ khóa đều khơng
bị ràng buộc, do đó nó có kha năng khơi dậy các ý tưởng mới, các suy nghĩ
mới.


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

tin và nhờ vậy, thúc đẩy năng lực gợi nhớ và dần dần nâng cao kha năng ghi
nhớ của học sinh.



<i>Giáo viên nên thường xuyên cho học sinh sử dụng sơ đồ tư duy khi</i>
<i>làm việc nhóm và hệ thống kiến thức đã học trong môn học lịch sử, đặc biệt là</i>
<i>khi ôn tập cho các kỳ thi (dù là thi , học , đều sử dụng tốt).</i> Sơ đồ tư duy cũng
giúp các học sinh và các thầy cô tiết kiệm thời gian làm việc ở nhà và trên lớp
rất nhiều với các phần mềm sơ đồ tư duy trên máy tính học sinh có thể làm tại
nhà và gửi email cho các thầy cô chấm chữa trước khi lên lớp.


<b>2. Giảng dạy và học tập với công cụ sơ đồ tư duy</b>
<i><b>2.1 Giới thiệu</b></i> <i><b>đôi nét về sơ đồ tư duy</b></i>


Việc phát triển tư duy cho học sinh và giang dạy kiến thức về thế giới
xung quanh luôn là một trong những ưu tiên hàng đầu của những người làm
công tác giáo dục. <i>Nhằm hướng học sinh đến một phương cách học tập tích</i>
<i>cực và tự chủ, giáo viên không những cần giúp học sinh khám phá các kiến</i>
<i>thức mới mà còn phải giúp học sinh hệ thống được những kiến thức đó. Việc</i>
xây dựng được một “hình anh” thể hiện mối liên hệ giữa các kiến thức sẽ
mang lại những lợi ích đáng quan tâm về các mặt: ghi nhớ, phát triển nhận
thức, tư duy, óc tưởng tượng và kha năng sáng tạo…Một trong những công cụ
hết sức hữu hiệu để tạo nên các “hình anh liên kết” là sơ đồ tư duy.


<i><b>2.2 Nguyên lý và ứng dụng sơ đồ tư duy trong dạy học </b></i>


<i>Sơ đồ tư duy (Mind Map) là một hình thức ghi chép sử dụng màu sắc</i>
<i>và hình ảnh, để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. Kỹ thuật tạo ra loại sơ đồ này</i>
được gọi là Mind Mapping và được phát triển bởi Tony Buzan vào những năm
1960.


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

kết này sẽ tạo ra một “bức tranh tổng thể” mô ta về ý trung tâm một cách đầy
đủ và rõ ràng.



<i><b>Những yếu tố đã làm cho sơ đồ tư duy có tính hiệu quả cao và nền</b></i>
<i><b>tảng của chúng là:</b></i>


<i>Sơ đồ tư duy đã thể hiện ra bên ngồi cách thức mà não bộ chúng ta</i>
<i>hoạt động. Đó là liên kết, liên kết và liên kết. Mọi thông tin tồn tại trong não</i>
bộ của con người đều cần có các mối nối, liên kết để có thể được tìm thấy và
sử dụng. Khi có một thơng tin mới được đưa vào, để được lưu trữ và tồn tại,
chúng cần kết nối với các thông tin cũ đã tồn tại trước đó.


<i>Việc sử dụng các từ khóa, chữ số, màu sắc và hình ảnh đã đem lại một</i>
<i>cơng dụng lớn vì đã huy động cả bán cầu não phải và trái cùng hoạt động. Sự</i>
kết hợp này sẽ làm tăng cường các liên kết giữa 2 bán cầu não, và kết qua là
tăng cường trí tuệ và tính sáng tạo của chủ nhân bộ não.


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

<i><b>2.3 Giới thiệu một số phần mềm dùng để tạo sơ đồ tư duy</b></i>


Một sơ đồ tư duy có thể được thực hiện dễ dàng trên một tờ giấy với
các loại bút màu khác nhau, tuy nhiên, cách thức này có nhược điểm là khó
<i><b>lưu trữ, thay đổi, chỉnh sửa. </b></i>Một giai pháp được hướng đến là sử dụng các
phần mềm để tạo ra sơ đồ tư duy. Một số phần mềm tiêu biểu trong thể loại
“phần mềm mind mapping” (mind mapping software).


<b>Phần mềm Buzan’s iMindmap™: một phần mềm thương mại, tuy</b>
nhiên có thể tai ban dùng thử 30 ngày. Phần mềm do công ty Buzan Online
Ltd. thực hiện. Trang chủ tại www.imindmap.com


<b>Phần mềm Inspiration: san phẩm thương mại của công ty Inspiration</b>
Software, Inc. San phẩm có phiên ban dành cho trẻ em (các em từ mẫu giáo
đến lớp 5) rất dễ dùng và nhiều màu sắc. Có thể dùng thử 30 ngày. Trang chủ


tại www.inspiration.com


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

<b>Phần mềm FreeMind: san phẩm hồn tồn miễn phí, được lập trình</b>
trên Java. Các icon chưa được phong phú, tuy nhiên chương trình có đầy đủ
chức năng để thực hiện mind mapping. Trang chủ tại:


/>


Ngồi ra, chúng ta cịn có thể tham khao một danh sách các phần mềm
loại mind mapping tại địa chỉ sau:


/>


<b>Mind mapping – Sơ đồ tư duy</b>


<i><b>Trước nay, chúng ta ghi chép thông tin bằng các ký tự, đường thẳng, con</b></i>
<i><b>số. </b><b>Với cách ghi chép này, chúng ta mới chỉ sử dụng một nửa của bộ não – não</b></i>
<i><b>trái, mà chưa hề sử dụng kỹ năng nào bên não phải, nơi giúp chúng ta xử lý các</b></i>
<i><b>thông tin về nhịp điệu, màu sắc, không gian và sự mơ mộng. Hay nói cách khác,</b></i>
<i><b>chúng ta vẫn thường đang chỉ sử dụng 50% khả năng bộ não của chúng ta khi ghi</b></i>
<i><b>nhận thông tin. Với mục tiêu giúp chúng ta sử dụng tối đa kha năng của bộ não,</b></i>
Tony Buzan đã đưa ra sơ đồ tư duy để giúp mọi người thực hiện được mục tiêu này


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

<b>P</b>


<b>3. Tiến trình một tiết dạy theo sơ đồ tư duy</b>


<i><b>Trước khi áp dụng phương pháp "</b><b>Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy</b></i>
<i><b>học lịch sử ở trường THPT” giáo viên giới thiệu cho học sinh xem một số</b></i>
đoạn phim ngắn (có gửi kèm theo đĩa CD gắn chung với SKKN) cho học sinh
thấy hiệu qua của việc sử dụng sơ đồ tư duy khi ghi bài, học bài và hướng dẫn
học sinh cách vẽ sơ đồ tư duy gồm nội dung ca bài học trên một trang giấy rất


dễ học, dễ thực hiện và học sinh sẽ rất thích thú với mỗi tác phẩm sơ đồ tư duy
của mình. (Xem phim hướng dẫn phần mềm sơ đồ tư duy đính kèm trong dĩa
CD)


<i>Sơ đồ tư duy là một công cụ tổ chức tư duy. Đây là phương pháp dễ</i>
<i>nhất để chuyển tải thông tin vào bộ não của học sinh rồi đưa thơng tin ra</i>
<i>ngồi bộ não. Nó là một phương tiện ghi chép đầy sáng tạo và rất hiệu quả</i>
<i>theo đúng nghĩa của nó là “Sắp xếp” ý nghĩ của học sinh.</i>


Với cách thể hiện gần như cơ chế hoạt động của bộ não, Ban đồ tư duy
sẽ giúp học sinh:


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

 Tiết kiệm thời gian
 Ghi nhớ tốt hơn


 Nhìn thấy bức tranh tổng thể


 Tổ chức và phân loại suy nghĩ của học sinh
 và nhiều vấn đề khác trong quá trình học tập…


Lập sơ đồ tư duy (hoặc sơ đồ ý tưởng) là việc bắt đầu từ một ý tưởng
trung tâm và viết ra những ý khác liên quan tỏa ra từ trung tâm. Bằng cách tập
trung vào những ý tưởng chủ chốt được viết bằng từ ngữ của học sinh, sau đó
tìm ra những ý tưởng liên quan và kết nối giữa những ý tưởng lại với nhau
hình thành nên một sơ đồ tư duy. Tương tự, nếu học sinh lập một sơ đồ kiến
thức, nó sẽ giúp học sinh hiểu và nhớ những thông tin mới và nắm kiến thức
sâu hơn


Hướng dẫn học sinh sử dụng những đường thẳng, màu sắc, mũi tên,
nhánh rẽ hoặc những cách khác để thể hiện kết nối giữa những ý tưởng được


đưa ra trong ban đồ tư duy của học sinh. Những mối quan hệ này sẽ quan trọng
khi học sinh đang tìm hiểu những thông tin mới hoặc xây dựng cấu trúc của
một bài học. Bằng cách cá nhân hoá sơ đồ với những ký hiệu và thiết kế riêng
của mỗi học sinh, học sinh sẽ xây dựng được những mối quan hệ trực quan và
có ý nghĩa giữa những ý tưởng; điều này sẽ hỗ trợ học sinh rất nhiều trong việc
gợi nhớ và hiểu.


Ý tưởng của ban đồ tư duy là suy nghĩ sáng tạo và liên kết bằng một
cách thức phi tuyến tính. Có rất nhiều thời gian để chỉnh sửa thông tin sau này
nhưng ở bước đầu tiên, việc đưa mọi kha năng vào ban đồ là rất quan trọng.
Đôi khi một trong những kha năng tưởng như là không thể ấy lại trở thành ý
tưởng chủ chốt đưa học sinh đến kiến thức đó.


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

Hầu hết học sinh đều thấy tiện dụng khi lật ngang trang giấy và vẽ sơ
đồ tư duy của các em theo chiều ngang. Đặt ý tưởng hoặc chủ đề chính vào
chính giữa trang giấy, ta sẽ có có khơng gian tối đa cho những ý khác tỏa ra từ
trung tâm.


Vài sơ đồ tư duy hữu dụng nhất thường được học sinh bổ sung hoàn
chỉnh trong một khoang thời gian dài tiếp tục sau nầy trong quá trình học tập
của các em. Sau lần vẽ ban đầu, học sinh có thể muốn làm nổi bật vài thứ,
thêm thông tin hoặc thêm vài câu hỏi. Vì vậy, để trống nhiều chỗ trên ban đồ
là một ý hay để sau đó học sinh có thể thêm vào những ý tưởng mới.


<b>Hướng dẫn học sinh làm sơ đồ tư duy</b>


Đây là những thành phần cấu tạo nên một ban đồ tư duy, mặc dù
chúng có thể được chỉnh sửa tự do theo ý muốn cá nhân.


 Bắt đầu ở trung tâm với một bức anh của chủ đề, sử dụng ít nhất 3


màu.


 Sử dụng hình anh, ký hiệu, mật mã, mũi tên trong ban đồ tư duy
của bạn.


 Chọn những từ khoá và viết chúng ra bằng chữ viết hoa.
 Mỗi từ/hình anh phai đứng một mình và trên một dịng riêng.
 Những đường thẳng cần phai được kết nối, bắt đầu từ bức anh


trung tâm. Những đường nối từ trung tâm dày hơn, có hệ thống và
bắt đầu ốm dần khi toa ra xa.


 Những đường thẳng dài bằng từ/hình anh.


 Sử dụng màu sắc – mật mã riêng của bạn – trong khắp sơ đồ.
 Phát huy phong cách cá nhân riêng của học sinh.


 Sử dụng những điểm nhấn và chỉ ra những mối liên kết trong sơ
đồ tư duy của mỗi học sinh.


 Làm cho sơ đồ rõ ràng bằng cách phân cấp các nhánh, sử dụng số
thứ tự hoặc dàn ý để bao quát các nhánh của sơ đồ tư duy.


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

huy các quy tắc của riêng mình để làm cho nó tốt hơn. Những đề nghị sau đây
có thể giúp học sinh tăng hiệu qua của việc đó:


<i><b>* Sử dụng những từ ngữ đơn giản thể hiện thông tin: Hầu hết các từ</b></i>
trong cách viết bình thường đều là nhồi nhét, bởi vì chúng đam bao rằng thông
tin được chuyển tai đúng ngữ canh và trong một dạng thức dễ đọc. Trong sơ đồ
tư duy của học sinh, những từ khóa có ý nghĩa có thể chuyển tai cùng ý nghĩ


như thế một cách rõ ràng hơn. Những từ dư thừa chỉ làm sơ đồ lộn xộn


<i><b>* Chữ in: Cách viết dính nhau hoặc khơng rõ ràng sẽ khó đọc hơn.</b></i>
<i><b>* Sử dụng màu sắc để tách các ý khác nhau: Điều này sẽ giúp học</b></i>
sinh tách các ý ra khi cần thiết. Nó cũng giúphọc sinh làm sơ đồ trực quan hơn
để gợi nhớ lại. Màu sắc cũng giúp cho việc sắp xếp các chủ đề.


<i><b>* Sử dụng những ký hiệu và hình ảnh: Khi một ký hiệu hoặc hình</b></i>
anh có ý nghĩa gì đó với học sinh, hãy sử dụng chúng. Hình anh có thể giúp
học sinh nhớ thơng tin hiệu qua hơn là từ ngữ.


<i><b>* Sử dụng liên kết đan chéo: Thông tin trong một phần của sơ đồ có</b></i>
thể liên quan đến phần khác. Khi đó, học sinh có thể vẽ những đường thẳng để
chỉ ra sự liên quan đan chéo. Việc này sẽ giúp cho học sinh thấy mức anh
hưởng một phần trong chủ đề đến các phần khác.


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28></div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

<i><b>Dạy bài mới : Giáo viên giới thiệu bài mới và vẽ chủ đề chính của bài</b></i>
học lên bang bằng một hình vẽ bất kì trên bang của lớp mà không ghi bài theo
kiểu cũ và giáo viên cho học sinh ngồi theo nhóm thao luận sơ đồ tư duy của
mỗi học sinh đã chuẩn bị trước ở nhà để đối chiếu với sơ đồ tư duy của các
bạn trong nhóm.


Giáo viên đặt câu hỏi chủ đề nội dung chính hơm nay có mấy nhánh
lớn cấp số 1 và gọi học sinh học sinh lên bang vẽ nối tiếp chủ đề chia thành
các nhánh lớn trên bang có ghi chú thích tên từng nhánh lớn.


Sau khi học sinh vẽ xong các nhánh lớn cấp số 1, giáo viên đặt câu hỏi
tiếp ở nhánh thứ nhất có mấy nhánh nhỏ cấp số 2... tương tự học sinh đã hoàn
thành nội dung sơ đồ tư duy của bài học mới ngay tại lớp. Học sinh tự chỉnh
sửa điều chỉnh bổ sung những phần còn thiếu vào sơ đồ tư duy của từng cá


nhân.


Để minh họa cho sơ đồ tư duy giáo viên sẽ cho học sinh xem những
hình anh , đoạn phim ngắn minh họa cho rõ ý hơn của từng nhánh cấp độ 1,
cấp độ 2 ... Khi cho học sinh xem hình anh và phim minh họa giáo viên phai
giáo dục tư tưởng tình cam học sinh khi có liên quan đến phần tích hợp tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, đến lịch sử địa phương của huyện Dĩ An và tỉnh
Bình Dương theo tài liệu hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo và tài liệu
Lịch sử địa phương của Sở Giáo dục và Đào tạo Bình Dương đã phổ biến đến
giáo viên.


<i><b>Củng cố : Giáo viên gọi học sinh lên bang trình bày nội dung sơ đồ tư</b></i>
duy mà các em đã thực hiện. Gọi một vài em đã vẽ sơ đồ tư duy bằng phần
mềm www.mind-map.com dùng USB gắn vào máy tính trình chiếu và thuyết
trình trước lớp cho các bạn theo dõi nội dung bài học. Giáo viên nhận xét đánh
giá cho điểm và dặn dò học sinh chuẩn bị bài học lần sau.


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

những câu có liên quan đến kiến thức của bài học cũ để học sinh vừa học kiến
thức mới, vừa ôn tập kiến thức cũ đã học.


<i><b>Ví dụ minh họa : Sơ đồ tư duy bài 23 lịch sử 12 của học sinh</b></i>
<i><b>Nguyễn Trần Thúy An lớp 12 B5</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

<i><b>Sơ đồ tư duy chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các mạng lưới</b></i>
<i><b>liên tưởng (các nhánh). Có thể vận dụng sơ đồ tư duy vào hỗ trợ dạy học kiến</b></i>
thức mới, củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, ôn tập hệ thống hóa kiến thức
sau mỗi chương, mỗi học kì...


<i><b>Giáo viên có thể tổ chức một số hoạt động khác sau đây khi sử dung</b></i>
<i><b>sơ đồ tư duy trong dạy học lịch sử ở trường THPT:</b></i>



<i><b>Hoạt động 1: Lập sơ đồ tư duy : Mở đầu bài học, giáo viên có thể cho</b></i>
học sinh lập sơ đồ tư duy theo nhóm hay cá nhân với các gợi ý của giáo viên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

<i><b>Hoạt động 3: Thảo luận, chỉnh sửa, hoàn thiện sơ đồ tư duy : Tổ</b></i>
chức cho học sinh thao luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện sơ đồ tư duyvề
kiến thức của bài học. Giáo viên sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp học sinh
hoàn chỉnh sơ đồ tư duy về hình thức, từ đó dẫn dắt đến kiến thức trọng tâm
của bài học.


<i><b>Hoạt động 4: Củng cố kiến thức bằng một sơ đồ tư duy : Giáo viên</b></i>
cho học sinh lên trình bày, thuyết minh về kiến thức bài học thông qua một sơ
đồ tư duy do giáo viên đã chuẩn bị sẵn (vẽ ở bang phụ hoặc ở bìa), hoặc sơ đồ
tư duy mà các em vừa thiết kế và ca lớp đã chỉnh sửa, hoàn thiện. Giáo viên có
thể giới thiệu sơ đồ tư duy khác của học sinh chuẩn bị ở nhà bằng phần mềm
mind – map (vì sơ đồ tư duy là một sơ đồ mở nên khơng u cầu tất ca các
nhóm học sinh có chung 1 kiểu sơ đồ tư duy, Giáo viên chỉ nên chỉnh sửa cho
học sinh về mặt kiến thức và góp ý thêm về đường nét vẽ và hình thức – nếu
cần).


<i><b>Khi học sinh đã thiết kế sơ đồ tư duy và tự “ghi chép” phần kiến thức</b></i>
<i>như trên là các em đã hiểu sâu kiến thức và biết chuyển kiến thức từ sách giáo</i>
<i>khoa theo cách trình bày thơng thường thành cách hiểu, cách ghi nhớ riêng</i>
<i>của mình.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33></div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

<i><b>Hoạt động 1: học sinh lập sơ đồ tư duy theo nhóm hay cá nhân với gợi</b></i>
ý của giáo viên.


<i><b>Hoạt động 2: </b></i>học sinh hoặc đại diện của các nhóm học sinh lên báo
cáo, thuyết minh về sơ đồ tư duy mà nhóm mình đã thiết lập.



<i><b>Hoạt động 3: </b></i>học sinh thao luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện sơ
đồ tư duy về kiến thức của bài học đó. Giáo viên sẽ là người cố vấn, là trọng
tài giúp học sinh hồn chỉnh sơ đồ tư, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học.


<i><b>Hoạt động 4: </b></i>củng cố kiến thức bằng một sơ đồ tư duy mà giáo viên
đã chuẩn bị sẵn hoặc một sơ đồ tư duy mà ca lớp đã tham gia chỉnh sửa hoàn
chỉnh, cho học sinh lên trình bày, thuyết minh về kiến thức đó.


<b>Lưu ý: </b><i>Sơ đồ tư duy là một sơ đồ mở nên khơng u cầu tất cả các</i>
<i>nhóm học sinh có chung một kiểu sơ đồ tư duy, Giáo viên chỉ nên chỉnh sửa</i>
cho học sinh về mặt kiến thức, góp ý thêm về đường nét vẽ, màu sắc và hình
thức (nếu cần).


</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

<i><b>Có thể tóm lược sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học lịch sử như sau:</b></i>


<i><b>Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học kiến thức mới giúp học sinh học</b></i>
<i><b>tập một cách chủ động, tích cực và huy động được tất cả 100% học sinh</b></i>
<i><b>tham gia xây dựng bài một cách hào hứng. Với san phẩm độc đáo “kiến thức</b></i>
+ hội họa” là niềm vui sáng tạo hàng ngày của học sinh và cũng là niềm vui
của chính thầy cơ giáo và phụ huynh học sinh khi chứng kiến thành qua lao
động của học sinh của mình. Cách học này cịn phát triển được năng lực riêng
của từng học sinh không chỉ về trí ṭ (vẽ, viết gì trên sơ đồ tư duy), hệ thống
hóa kiến thức (huy động những điều đã học trước đó để chọn lọc các ý để ghi),
kha năng hội họa (hình thức trình bày, kết hợp hình vẽ, chữ viết, màu sắc), sự
vận dụng kiến thức được học qua sách vở vào cuộc sống.


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

cách hiểu của mình, hơn nữa, các bang biểu đó chưa chú ý đến hình anh, màu
sắc và đường nét. Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học lịch sử bước đầu tạo
một khơng khí sơi nổi, hào hứng của ca thầy và trò trong các hoạt động dạy


học của nhà trường, là một trong những nội dung quan trọng của phong trào thi
đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” mà Bộ Giáo dục và
Đào tạo đang đẩy mạnh triển khai.


<i><b>Sơ đồ tư duy một cơng cụ có tính khả thi cao vì có thể vận dụng được</b></i>
với bất kì điều kiện cơ sở vật chất nào của các nhà trường hiện nay. Có thể
thiết kế sơ đồ tư duy trên giấy, bìa, bang phụ,… bằng cách sử dụng bút chì
màu, phấn, tẩy,… hoặc cũng có thể thiết kế trên phần mềm sơ đồ tư duy. Với
trường có điều kiện cơ sở hạ tầng cơng nghệ thơng tin tốt có thể cài vào máy
tính phần mềm Mindmap cho giáo viên và học sinh sử dụng, bằng cách vào
trang web www.download.com.vn gõ vào ô “tìm kiếm” cụm từ Mindmap, ta
có thể tai về ban demo ConceptDraw MINDMAP 5 Professional, phần mềm
này không hạn chế số ngày sử dụng và việc sử dụng nó cũng khá đơn gian.


</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

<b>Phần III. Kết quả, bài học kinh nghiệm và kiến nghị</b>
<b>1. Kết quả đạt được </b>


Qua một năm thực hiện đề tài SNKN “Sử dụng sơ đồ tư duy trong
<i><b>dạy học lịch sử ở trường THPT để chấm dứt việc đọc chép và nhìn chép theo</b></i>
<i><b>chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo” </b></i>tôi nhận thấy tiết học đạt hiệu qua cao
hơn rất nhiều so với cách dạy truyền thống là đọc chép hoặc một tiết dạy chỉ sử
dụng bằng bài giang điện tử cho học sinh nhìn chép.


Thực tế qua các tiêt dự giờ thao giang do Sở GD&ĐT Bình Dương tổ
chức hoặc dự giờ giáo viên lịch sử ở trường, chúng tôi thấy giáo viên thường
sử dụng tài liệu ôn tập in sẵn cho học sinh và các em chỉ ngồi nghe giáo viên
hoặc các bạn thuyết trình minh họa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

<i>Sử dụng sơ đồ tư duy trong giờ dạy lịch sử sẽ bắt buộc tất cả 100%</i>
<i>học sinh đều phải động não, sáng tạo và chỉ trong một tờ giấy các em có thể</i>


trình bày nội dung của bài học. Học sinh sẽ tự khám phá và khi tạo được một
tác phẩm đẹp, ý tưởng hoàn chỉnh được giáo viên và các bạn ngợi khen sẽ phấn
khởi rất nhiều.


<i>Các em khác cũng sẽ cố gắng tự hồn thiện mình và mỗi học sinh có</i>
một tính cách, một ý tưởng rất khác nhau khi trình bày sơ đồ tư duy của mình
nhưng điều quan động là các em biết cách tự ghi chép đầy đủ nội dung bài học
để học ở nhà có thể trinh bày trước tập thể lớp và ghi nhớ lâu kiến thức bài học.
<i>100% học sinh lớp 10 và lớp 12 do tôi giảng dạy đều biết cách thực</i>
<i>hiện sơ đồ tư duy môn lịch sử. Nhiều em sử dụng thành thạo phần mềm mind –</i>
map và ứng dụng vào môn học khác. Lúc đầu các em vẽ sơ đồ tư duy chưa
quen theo cách ghi ký tự ở từng nhánh, nhưng dần dần học sinh đã đạt yêu cầu
tốt hơn. Đặc biệt học sinh lớp 12 chỉ cần 24 sơ đồ tư duy là tác phẩm do tự tay
mình thiết lập nên các em có thể tự ôn tập thi tốt nghiệp thuận lợi hơn.


<b>2. Bài học kinh nghiệm </b>


<i><b>Môn lịch sử cũng như nhiều mơn học khác địi hỏi sự chăm chỉ</b></i>
<i><b>trong q trình học tập. Sự đầu tư thời gian và cơng sức để học là một trong</b></i>
những nhân tố quan trọng làm nên thành công.


Nếu các học sinh nghĩ rằng chỉ học thuộc lòng để nhớ các sự kiện là đã
học tốt mơn lịch sử thì đơn gian q. Lịch sử là mơn học địi hỏi rất cao tư duy
độc lập của người học trong cách đánh giá, phân tích nhân vật, sự kiện, v.v...


Học sinh không nên hiểu chỉ học trong sách giáo khoa là đủ. Những
kiến thức trong sách giáo khoa mới chỉ tóm lược vắn tắt tiến trình lịch sử quốc
gia và thế giới. Nếu có thời gian giáo viên hướng dẫn học sinh đọc thêm các
sách lịch sử khác để hiểu biết thêm.



</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

<i>Giáo viên dạy mơn lịch sử trước hết phải có lịng u nghề và có kiến</i>
<i>thức sâu về chun mơn. Dạy vơ cam thì hậu qua học trị học vơ cam. Vì vậy</i>
các thầy cơ cần phai dạy học trị khơng bằng trái tim mà ca khối óc nữa. Dạy
bằng trái tim là để truyền sự rung cam. Dạy bằng khối óc là để truyền đạt tri
thức.


<i>Làm cho học sinh thấy được học lịch sử có ý nghĩa sống cịn đối với</i>
<i>sự tồn tại của quốc gia dân tộc. Học lịch sử trước hết là học về lòng yêu nước,</i>
học xưa để biết nay. Nếu các cá nhân trong một dân tộc khơng biết nguồn gốc
và tổ tiên của mình thì dân tộc đó sẽ tiêu vong. Đánh mất lịch sử đồng nghĩa
với đánh mất quốc gia dân tộc mình.


<i>Cần cho học sinh thấy học lịch sử khơng có giới hạn mà là học suốt</i>
<i>đời như các môn học khác. Các em có thể học bất cứ lúc nào nếu muốn miễn là</i>
lịng đam mê với lịch sử là khơng có giới hạn.Làm cho học sinh thấy được học
lịch sử có lợi cho nghề nghiệp của mình sau này. Lịch sử có trong tất ca các
lĩnh vực, bởi ngành nghề nào mà chẳng có lịch sử hình thành và phát triển.


<i><b>Khi dạy học các thầy cô không nên quá cứng nhắc về phương pháp,</b></i>
<i><b>mà phải có sự linh hoạt trong từng bài giảng.</b></i> Khơng dạy theo kiểu “thầy đọc
trị chép”, vì hậu qua của nó là đến khi đi thi học trị sẽ “chép hết gì thầy đã
đọc”. Nên dạy cho học sinh cách phân tích, đánh giá, thậm chí là phê phán các
sự kiện lịch sử. Để học sinh thực sự nhập cuộc vào bài học, chủ động trong lối
suy và cách nghĩ, các thầy cô cần đưa ra các chủ đề lịch sử để các em tham gia
thao luận, nhất là thao luận theo các nhóm. Trước đây theo cách thao luận
nhóm cũ học sinh quay mặt vào nhau cùng phát biểu những nội dung trong bài
học chỉ vài phút rất máy móc và phan tự nhiên. Dạy học theo sơ đồ tư duy mỗi
nhóm sẽ cùng nhau hình thành một tác phẩm sơ đồ tư duy theo ý tưởng riêng
của từng học sinh hoặc từng nhóm rất đa dạng phong phú và hấp dẫn tất ca học
sinh ca lớp cùng tham gia. Chúng ta cần đa dạng hóa cách dạy và cách học.


Dạy học mà khn cứng là bóp chết lịng đam mê học tập của học trò.


</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40>

Học sinh phai chăm chỉ học theo sơ đồ tư duy của mình phát họa.
Khơng học thuộc lòng theo kiểu học vẹt, mà nên học theo kiểu xây dựng các
dàn ý cho mỗi bài học. Ví dụ một bài có bao nhiêu ý lớn, trong mỗi ý lớn có
bao nhiêu những ý nhỏ. Nắm lấy những sự kiện chính, nhân vật chính, địa danh
chính,… Sau đó viết diễn đạt lại theo văn phong của mình.


<i><b>Để nắm bắt được nội dung một bài cần đọc sách giáo khoa theo kiểu</b></i>
<i><b>đọc 5 lần. Không phải đọc oang oang làm tốn sức, mà nên đọc bằng mắt.</b></i>


<i><b>Đọc lần 1, học sinh nên đọc nhanh để nắm bắt nội dung cơ ban, để xác</b></i>
định các ý chính.


<i><b>Đọc lần 2, học sinh chậm hơn để xác định chính xác bài gồm có bao</b></i>
nhiêu ý chính, và nắm bắt sơ bộ các ý nhỏ.


<i><b>Đọc lần 3, học sinh đọc kỹ bài để xác định chính xác lại các ý chính,</b></i>
nắm cơ ban các ý nhỏ.


<i><b>Đọc lần 4, học sinh gập sách vở lại và tự đọc bằng đầu để kiểm định</b></i>
lại xem đã nhớ được những gì, có thể có bạn tự viết lại ra giấy cũng được.


<i><b>Đọc lần 5, học sinh mở sách vở ra để xem lại toàn bộ, lần đọc này sẽ</b></i>
giúp học sinh phát hiện được những chỗ mình cịn thiếu sót. Cứ sau năm bài
nên đọc lại từ đầu để nhớ tốt hơn.


<i><b>Cách đọc, học này sẽ giúp học sinh nhớ lâu hơn, tiết kiệm được thời</b></i>
<i><b>gian hơn. Một học sinh có thể mất từ 2- 3 giờ để nhớ được một bài có độ dài</b></i>
từ 3- 5 trang sách, nhưng nếu áp dụng cách đọc trên thuần thục qua sơ đồ tư


duy, có thể chỉ mất khoang 30 phút


<i><b>Tập trả lời các câu hỏi có sẵn trong sách giáo khoa. Nếu câu nào</b></i>
khơng hiểu, chưa hiểu rõ thì có thể hỏi thầy cô, hoặc thao luận cùng bạn bè.


</div>
<span class='text_page_counter'>(41)</span><div class='page_container' data-page=41>

<i><b>Sau khi nhận đề thi, học sinh cần đọc kỹ lưỡng các câu hỏi trong đề</b></i>
thi và không nên vội vã làm bài ngay.


Khi phân tích câu hỏi cần phai xem giới hạn thời gian, không gian, đối
tượng và nội dung câu hỏi đề cập đến để tránh tra lời thừa hay thiếu.


Đối với những câu hỏi cần phai tổng hợp kiến thức, cần phai xác định
rõ xem những nội dung tra lời nằm ở những bài nào.


Thường thì một đề thi có từ 3- 4 câu hỏi. Mỗi câu hỏi có thang điểm
khác nhau. Thường thì câu nào có số điểm cao thì có độ khó hơn và độ dài hơn,
với dạng câu hỏi này thì dành nhiều thời gian hơn. Với những câu hỏi có nội
dung ngắn hơn và điểm số ít hơn thì dành ít thời gian hơn. Nên làm câu hỏi dễ
trước trước, khó làm sau; câu hỏi mang tính học thuộc trước, tính tổng hợp
kiến thức sau.


<i><b>Nhiều học sinh có thói quen là viết nháp hết các nội dung trả lời ra</b></i>
<i><b>giấy rồi viết lại vào trong bài. Khơng nên làm theo cách này, vì sẽ rất mất thời</b></i>
gian chép lại. Có học sinh chép lại khơng kịp vì hết giờ làm bài. Tốt nhất là học
sinh đọc kỹ câu hỏi, sau đó viết ra các ý chính và những ý nhỏ đi theo từng ý
chính.


</div>
<span class='text_page_counter'>(42)</span><div class='page_container' data-page=42>

<b>3. Kiến nghị </b>


<i>Cùng với việc đổi mới mục tiêu và nội dung dạy học, vấn đề đổi mới</i>


<i>phương pháp dạy học theo triết lý lấy người học làm trung tâm được đặt ra</i>
<i>một cách bức thiết. Ban chất của dạy học lấy người học làm trung tâm là phát</i>
huy cao độ tính tự giác, tích cực, độc lập, sáng tạo của người học.


<i>Để làm được điều đó thì vấn đề đầu tiên mà người giáo viên cần nhận</i>
<i>thức rõ ràng là quy luật nhận thức của người học. Người học là chủ thể hoạt</i>
động chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xao và thái độ chứ khơng phai là “cái
bình chứa kiến thức” một cách thụ động.


<i><b>Trong thực tế hiện nay, còn nhiều học sinh, sinh viên học tập một</b></i>
<i><b>cách thụ năng tư duy. Học thụ động, chỉ đơn thuần là nhớ kiến thức một cách</b></i>
máy móc mà chưa rèn luyện kỹ năng, học sinh chỉ học bài nào biết bài đấy, cô
lập nội dung của các mơn, phân mơn mà chưa có sự liên hệ kiến thức với nhau
vì vậy mà chưa phát triển được tư duy logic và tư duy hệ thống. Sử dụng sơ đồ
tư duy giúp các em giai quyết được các vấn đề trên và nâng cao hiệu qua học
tập.


</div>
<span class='text_page_counter'>(43)</span><div class='page_container' data-page=43>

đồ tư duy và tổng quan toàn bộ kết qua của nhóm ra sao. Điều này giúp tiết
kiệm thời gian làm việc trong nhóm do các thành viên khơng mất thời gian giai
thích ý tưởng của mình thuộc ý lớn nào. Trong q trình thao luận nhóm có rất
nhiều ý kiến trong khi đó mỗi người ln giữ chính kiến của mình, khơng
hướng vào mục tiêu đã đề ra dẫn đến không rút ra được kết luận cuối cùng. Sử
dụng sơ đồ tư duy sẽ khắc phục được những hạn chế đó bởi sơ đồ tư duy tạo
nên sự đồng thuận trong nhóm, các thành viên đều suy nghĩ tập trung vào một
vấn đề chung cần giai quyết, tránh được hiện tượng lan man và đi lạc chủ đề.
Không những vậy, sơ đồ tư duy đa chiều tạo nên sự cân bằng giữa các cá nhân
và cân bằng trong tập thể. Mọi thành viên đều đóng góp ý kiến và cùng nhau
xây dựng nên sơ đồ tư duy của ca nhóm. Các thành viên tơn trọng ý kiến của
nhau và các ý kiến đều được thể hiện trên sơ đồ tư duy.



<i><b>Sơ đồ tư duy là một công cụ tư duy thực sự hiệu quả bởi nó tối đa</b></i>
<i><b>hố được nguồn lực của cá nhân và tập thể. Mỗi thành viên đều rèn luyện</b></i>
được kha năng tư duy, kỹ năng thuyết trình và làm việc khoa học. Sử dụng sơ
đồ tư duy giúp cho các thành viên hiểu được nội dung bài học một cách rõ ràng
và hệ thống. Việc ghi nhớ cũng như vận dụng cũng sẽ tốt hơn. Chỉ cần nhìn
vào sơ đồ tư duy, bất kỳ thành viên nào của nhóm cũng có thể thuyết trình
được nội dung bài học.


</div>
<span class='text_page_counter'>(44)</span><div class='page_container' data-page=44>

Bài thuyết trình – Bài 31 – Cách mạng tư san Pháp cuối thế kỉ XVIII của HS
Lê Phạm Duy Thông lớp 10 B4


<b>KẾT LUẬN</b>


<i><b>Sử dụng thành thạo và hiệu quả sơ đồ tư duy trong dạy học sẽ mang</b></i>
<i><b>lại nhiều kết quả tốt và đáng khích lệ trong phương thức học tập của học</b></i>
<i><b>sinh và phương pháp giảng dạy của giáo viên. </b></i>


<i>Học sinh sẽ học được phương pháp học tập, tăng tính chủ động, sáng</i>
<i>tạo và phát triển tư duy. Giáo viên sẽ tiết kiệm được thời gian, tăng sự linh</i>
hoạt trong bài giang, và quan trọng nhất sẽ giúp học sinh nắm được kiến thức
thông qua một “sơ đồ” thể hiện các liên kết chặt chẽ của tri thức.


</div>
<span class='text_page_counter'>(45)</span><div class='page_container' data-page=45>

<i><b>Có thể tóm lược sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học lịch sử như</b></i>
<i><b>sau:</b></i>


<i>Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học kiến thức mới giúp học sinh học</i>
<i>tập một cách chủ động, tích cực và huy động được tất cả 100% học sinh tham</i>
<i>gia xây dựng bài một cách hào hứng. Với san phẩm độc đáo “kiến thức + hội</i>
họa” là niềm vui sáng tạo hàng ngày của học sinh và cũng là niềm vui của
chính thầy cơ giáo và phụ huynh học sinh khi chứng kiến thành qua lao động


của học sinh của mình. Cách học này cịn phát triển được năng lực riêng của
từng học sinh không chỉ về trí ṭ (vẽ, viết gì trên sơ đồ tư duy), hệ thống hóa
kiến thức (huy động những điều đã học trước đó để chọn lọc các ý để ghi), kha
năng hội họa (hình thức trình bày, kết hợp hình vẽ, chữ viết, màu sắc), sự vận
dụng kiến thức được học qua sách vở vào cuộc sống.


<i>Trước đây, các tiết ôn tập chương một số giáo viên cũng đã lập bảng</i>
<i>biểu, vẽ sơ đồ, biểu đồ,… và ca lớp có chung cách trình bày giống như cách</i>
của giáo viên hoặc của tài liệu, chứ không phai do học sinh tự xây dựng theo
cách hiểu của mình, hơn nữa, các bang biểu đó chưa chú ý đến hình anh, màu
sắc và đường nét. Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học lịch sử bước đầu tạo
một khơng khí sơi nổi, hào hứng của ca thầy và trò trong các hoạt động dạy
học của nhà trường, là một trong những nội dung quan trọng của phong trào thi
đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” mà Bộ Giáo dục và
Đào tạo đang đẩy mạnh triển khai.


</div>
<span class='text_page_counter'>(46)</span><div class='page_container' data-page=46>

<i><b>Bước đầu cho phép kết luận: Việc vận dụng sơ đồ tư duy trong dạy</b></i>
học lịch sử ở trường THPT sẽ dần dần hình thành cho học sinh tư duy mạch
lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ thống,
khoa học. Sử dụng sơ đồ tư duy kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực
khác như vấn đáp gợi mở, thuyết trình, xem phim minh họa… có tính khả thi
<i>cao góp phần đổi mới phương pháp dạy học, đặc biệt là đối với các lớp ở cấp</i>
<i>THPT kể từ năm học 2012 – 2013.</i>


<i><b> Dĩ An, ngày 09 tháng 3 năm 2012</b></i>
<i><b> Người viết,</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(47)</span><div class='page_container' data-page=47>

<b>DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO</b>


1. Ban đồ Tư duy trong công việc – Tony Buzan – NXB Lao động – Xã hội.


2. www.mind-map.com (trang web chính thức của Tony Buzan)


3. www.peterussell.com/mindmaps/mindmap.htm


4. Bài giang của ThS Trương Tinh Hà về Mind Mapping và các Kỹ năng giai
quyết vấn đề.


5. Lớp tập huấn của Bộ GD&ĐT hướng dẫn sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy và
học (xem phim hứng dẫn đính kèm)


6. Hướng dẫn sử dụng phần mềm sơ đồ tư duy (xem phim minh họa)


7. Phim giới thiệu một số giáo viên và học sinh các trường THPT, TTGDTX
áp dụng thành công việc sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy và học của đài truyền
hình (gửi kèm theo SKKN)


8. Trần Đình Châu, Sử dụng Ban đồ tư duy – một biện pháp hiệu qua hỗ trợ
học sinh học tập Tạp chí Giáo dục, kì 2, tháng 9-2009.


</div>
<span class='text_page_counter'>(48)</span><div class='page_container' data-page=48>

<b>Lớp 10 – Bài 32 – Cách mạng công nghiệp ở Anh</b>
<b>NHẬN XÉT ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(49)</span><div class='page_container' data-page=49></div>

<!--links-->
Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học lịch sử thế giới cổ đại và trung đại lớp 10 THPT (chương trình chuẩn)
  • 16
  • 8
  • 10
  • ×