Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

Nhà nguyễn giai đoạn đầu 1802 – 1858

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.39 KB, 39 trang )

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU..................................................................................................1
CHƯƠNG 1. SỰ RA ĐỜI CỦA TRIỀU ĐẠI NHÀ NGUYỄN........................3
CHƯƠNG 2...CÁC CHÍNH SÁCH VÀ TÌNH HÌNH CHUNG CỦA TRIỀU
ĐẠI GIAI ĐOẠN ĐẦU.......................................................................................6
2.1. Tổ chức bộ máy.......................................................................................6
2.1.1. Quan chế và tổ chức chính quyền trung ương................................6
2.1.2. Phân chia hành chính.......................................................................7
2.1.3. Qn đội............................................................................................9
2.1.4. Thuế khóa và lao dịch.....................................................................10
2.1.5. Luật pháp.........................................................................................12
2.2. Ngoại giao..............................................................................................13
2.2.1. Với các nước lân bang....................................................................13
2.2.2. Với phương Tây...............................................................................14
2.3. Kinh tế....................................................................................................15
2.3.1. Tiền tệ..............................................................................................15
2.3.2. Thương mại.....................................................................................16
2.3.3. Thủ công nghiệp..............................................................................20
2.3.4. Nơng nghiệp....................................................................................21
2.4. Văn hóa và giáo dục..............................................................................25
2.4.1. Giáo dục...........................................................................................25
2.4.2. Văn học............................................................................................25
2.5. Khoa học, kỹ thuật................................................................................26
2.5.1. Sử học..............................................................................................26


2.5.2. Địa lý và Lịch sử..............................................................................28
2.5.3. Kỹ thuật công nghệ.........................................................................28
2.5.4. Kiến trúc..........................................................................................29
CHƯƠNG 3. NHẬN ĐỊNH CÁ NHÂN...........................................................31


CHƯƠNG 4. KẾT LUẬN.................................................................................35
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................36


PHẦN MỞ ĐẦU
Dân tộc Việt Nam anh hùng đã trải qua hơn bốn ngàn năm lịch sử dựng
nước và giữ nước. Với ý chí quật cường, ơng cha ta đã viết nên những trang sử
vàng chói lọi làm vẻ vang cho dân tộc ta, đất nước ta. Quá khứ và hiện tại, lịch
sử và cảnh quan, thiên nhiên và con người hoà quyện nhau như đưa ta về cội
nguồn ngàn nǎm bất khuất của dân tộc để tìm hiểu, để khám phá, để tin tưởng ở
khí phách, tài trí, lịng yêu nước, tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc, ý thức độc lập,
tự chủ, tự lực, tự cường, truyền thống vǎn hiến và ý chí thống nhất đất nước của
nhân dân ta. Để có được một nước Việt Nam hịa bình như ngày nay thì đất nước
ta đã phải trải qua nhiều triều đại khác nhau, và mỗi triều đại lại có được những
thăng trầm nhất định.
Các triều đại trong lịch sử Việt Nam gồm: nước Văn Lang, nước Âu Lạc,
4 lần Bắc Thuộc, Nhà Khúc, Nhà Ngô, Nhà Đinh, Nhà Tiền Lê, Nhà Lý, Nhà
Trần, Nhà Hồ, Nhà Lê Sơ, Nhà Mạc, thời Lê Trung Hưng, Nhà Tây Sơn, Nhà
Nguyễn, thời Pháp Thuộc, Chiến tranh Đông Dương và Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam.
Trong suốt quá trình hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam, điểm
nổi bật chiếm vị trí hàng đầu và trở thành chuẩn mực đạo lý Việt Nam là tinh
thần yêu nước, ý chí tự lập, tự cường, truyền thống đồn kết vì đại nghĩa dân
tộc. Cuộc sống lao động gian khổ đã tạo ra truyền thống lao động cần cù, sáng
tạo và kiên nhẫn; yêu cầu phải liên kết lại để đấu tranh với những khó khăn,
thách thức đã tạo ra sự gắn bó giữa con người với thiên nhiên, giữa con người
với nhau trong mối quan hệ gia đình, láng giềng, dịng họ của người Việt cũng
như trong cộng đồng nhà – làng - nước - dân tộc. Lịch sử cũng cho con người
Việt Nam truyền thống tương thân tương ái, sống có đạo lý, nhân nghĩa; khi gặp
hoạn nạn thì đồng cam cộng khổ, cả nước một lịng; tính thích nghi và hội nhập;

lối ứng xử mềm mỏng và truyền thống hiếu học, trọng nghĩa, khoan dung. Đây
chính là sức mạnh tiềm tàng, là nội lực vô tận cho công cuộc xây dựng đất nước
1


Việt Nam vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ và văn
minh.
Những đóng góp của các triều đại đối với lịch sử dân tộc đều rất to lớn.
Mỗi triều đại lại để lại những dấu ấn, ấn tượng riêng mang phong cách của triều
đại đó. Dù các triều đại có trơi qua hàng ngàn, hàng vạn năm vẫn không thể
quên được những dấu ấn của từng triều đại.
Dưới đây là những sơ lược cũng như cảm nghĩ của bản thân về giai đoạn
đầu khi nhà Nguyễn lên nắm quyền cai trị.

2


CHƯƠNG 1. SỰ RA ĐỜI CỦA TRIỀU ĐẠI NHÀ NGUYỄN
Nhà Nguyễn (chữ Nôm: 家家, chữ Hán: 家家; Hán-Việt: Nguyễn triều) là
triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành
lập sau khi Nguyễn Ánh (Hoàng đế Gia Long) lên ngơi năm 1802 và chấm dứt
hồn tồn khi Hồng đế Bảo Đại thối vị vào năm 1945, tổng cộng là 143 năm.
Triều Nguyễn là một triều đại đánh dấu nhiều thăng trầm của lịch sử, đặc biệt là
cuộc xâm lược của người Pháp giữa thế kỷ 19.
Triều Nguyễn đặc biệt ngay từ sự ra đời – hành trình giành lại chính
quyền đầy gian trn của Vương tử Nguyễn Phúc Ánh – tức vua Gia Long sau
này vị vua sáng lập nên triều đại nhà Nguyễn
Năm 1771, phong trào nông dân Tây Sơn bùng nổ. Đối tượng đầu tiên mà
cuộc khởi nghĩa này hướng tới chính là chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong
đang bị quyền thần Trương Phúc Loan thao túng. Cả gia tộc chúa Nguyễn phải

bỏ mạng, duy chỉ có một người hậu duệ mới 15 tuổi sống sót, chạy ra đảo Thổ
Chu năm 1777. Đó chính là Nguyễn Phúc Ánh.
Năm 1778, chàng thiếu niên đã quay về, được tôn làm Đại nguyên súy,
Nhiếp quốc chính. Nguyễn Ánh đã tập hợp lực lượng, tái chiếm Gia Định rồi
xưng vương năm 1780. Trong sự nghiệp trung hưng dòng họ, Nguyễn Ánh liên
tiếp nhận những thất bại trước quân đội Tây Sơn đầy binh hùng, tướng giỏi.
Một trong những thất bại gây ra hệ lụy xấu của Nguyễn Ánh xuất phát từ
trận thủy chiến ở sông Ngã Bảy, cửa Cần Giờ năm 1782 với quân Tây Sơn. Dù
thuyền của chúa Nguyễn tân tiến và áp đảo, nhưng lại thua trước tài thao lược
của Nguyễn Huệ, lòng can đảm của nghĩa quân. Nguyễn Ánh bỏ chạy về Ba
Giồng, rồi có khi trốn sang tận rừng Romdoul, Chân Lạp. Nguyễn Nhạc tuy
chiếm được Nam bộ nhưng người Hoa ở đây lại ủng hộ Nguyễn Ánh, cộng thêm
cái chết của tướng Đơ đốc Phạm Ngạn , cùng tình trạng binh lính thương vong
nhiều, nên Hồng đế Trung ương đã hạ lệnh tàn sát Hoa kiều, đốt phá nhà cửa để
trả thù, thiệt hại nhất là vùng Cù Lao Phố. Việc này đã cản chân Tây Sơn trong
việc truy bắt Nguyễn Ánh, tạo cơ hội cho Nguyễn Ánh quay trở về Giồng Lữ,
3


đoạt được 80 thuyền từ Nguyễn Học, một vị Đô đốc Tây Sơn. Chúa Nguyễn
định kéo về giành lại Gia Định nhưng Nguyễn Huệ đã kịp dàn binh và đánh bật
Nguyễn Ánh. Chúa Nguyễn phải chạy trốn ra Phú Quốc, và sai Nguyễn Hữu
Thụy sang Xiêm La cầu viện. Tuy nhiên, Xiêm La đã nhân cớ đó để xâm lược
Việt Nam, rồi chuốc lấy thất bại nhục nhã trong trận Rạch Gầm – Xoài Mút
(tháng 1 năm 1785). Nguyễn Ánh cũng vì đó mà mang tiếng “cõng rắn cắn gà
nhà”.
Năm 1792, vua Quang Trung đột nhiên băng hà. Quang Toản nhỏ dại lên
nối ngôi, niên hiệu Cảnh Thịnh. Các sĩ phu Bắc Hà, cựu thần nhà Lê tôn Lê Duy
Cận làm minh chủ, kết hợp với Nguyễn Ánh ở Gia Định, cùng tấn công Tây
Sơn, tuy liên quân này bại trận nhưng cũng khiến nhà Tây Sơn nhanh chóng suy

yếu. Khơng những thế, triều chính Tây Sơn bị nhũng loạn bởi bàn tay Thái sự
Bùi Đắc Tuyên. Nội bộ Tây Sơn cũng rơi vào lục đục, “nồi da xáo thịt”.
Nhân tình hình này, Nguyễn Ánh liên tiếp mở các cuộc phản công. Năm
1793, quân Nguyễn công thành Quy Nhơn của Thái Đức – Nguyễn Nhạc. Chính
quyền Quy Nhơn phải cầu cứu Phú Xuân và đã đẩy lùi quân Nguyễn Ánh,
nhưng rồi Nguyễn Nhạc cũng qua đời sau đó khơng lâu.
Trong thế dùng dằng một thời gian, Nguyễn Ánh kéo quân giao chiến dữ
dội với Tây Sơn ở cửa Tư Dung; rồi đụng Quang Toản ở cửa Eo, Quang Toản
thua trận bỏ chạy ra Bắc và Nguyễn Ánh giành được Phú Xuân (3/5/1801).
Đầu năm 1802, Trần Quang Diệu hạ được thành Quy Nhơn. Tướng Võ
Tánh của chúa Nguyễn tự vẫn để xin tha mạng cho lính tráng. Trần Quang Diệu
đồng ý, rồi bỏ thành Quy Nhơn; cùng Vũ Văn Dũng mang quân cứu viện ra
Nghệ An, bị quân Nguyễn bắt sống. Bà Bùi Thị Xuân, vợ Trần Quang Diệu giải
cứu không được, cũng bị bắt và áp giải.
Cũng trong năm này, Nguyễn Ánh lên ngơi hồng đế, chính thức khơi
phục quyền lực dòng họ, thống nhất đất nước sau nhiều thập kỉ chia cắt. Ông lấy
niên hiệu là Gia Long, “Gia” trong Gia Định, “Long” trong Thăng Long. Sau đó
Gia Long tổ chức lễ Hiến phù, trả thù Tây Sơn một cách man rợn, như một hành
4


động “đáp lại” những gì mà Tây Sơn đã gây ra cho gia tộc, cũng như năm tháng
chui lủi, lưu vong của vị tân vương.
Triều Nguyễn trải qua hai giai đoạn chính:
 Giai đoạn thứ nhất (1802–1858) được coi là giai đoạn độc lập
 Giai đoạn thứ hai (1858–1945) được coi là giai đoạn bị Pháp xâm
lăng và đô hộ
Giai đoạn độc lập, các vua nhà Nguyễn nắm toàn quyền quản lý đất nước,
trải qua 4 đời vua: Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Gia Long và sau
đó là Minh Mạng đã cố gắng xây dựng Việt Nam trên nền tảng Nho giáo và xóa

bỏ các cải cách theo hướng tiến bộ của nhà Tây Sơn. Trong thời kỳ này, nội bộ
đất nước không ổn định, triều Nguyễn ít được lòng dân, chỉ trong 60 năm đã xảy
ra hơn 400 cuộc nổi dậy của người dân.
Thời kỳ Minh Mạng lại diễn ra nhiều cuộc chiến tranh giành lãnh thổ ở
Campuchia nên đã khiến ngân khố cạn kiệt, đến thời Tự Đức thì mọi mặt của đất
nước đều sút kém đi. Từ thập niên 1850, một nhóm trí thức Việt Nam, tiêu biểu
là Nguyễn Trường Tộ, đã nhận ra sự trì trệ của đất nước và yêu cầu học hỏi
phương Tây để phát triển công nghiệp – thương mại, cải cách quân sự – ngoại
giao, nhưng họ chỉ là thiểu số, còn đa số quan chức triều Nguyễn và giới sĩ phu
không ý thức được sự cần thiết của việc cải cách và mở cửa đất nước nên Tự
Đức không quyết tâm thực hiện những đề xuất này. Nước Đại Nam dần trở nên
trì trệ, lạc hậu và đứng trước nguy cơ bị thực dân châu Âu xâm chiếm.

5


CHƯƠNG 2. CÁC CHÍNH SÁCH VÀ TÌNH HÌNH CHUNG CỦA TRIỀU
ĐẠI GIAI ĐOẠN ĐẦU
2.1. Tổ chức bộ máy
2.1.1. Quan chế và tổ chức chính quyền trung ương
Ngay từ sớm, Nguyễn Ánh đã phong tước, đặt quan lại cho những người
theo phị tá mình. Sau khi đánh bại nhà Tây Sơn và trở thành hồng đế Gia
Long, ơng lại tiếp tục kiện tồn lại hệ thống hành chính và quan chế của chính
quyền mới. Nhà Nguyễn về cơ bản vẫn giữ nguyên hệ thống quan chế và cơ cấu
chính quyền trung ương giống như các triều đại nhà Lê trước đó. Đứng đầu nhà
nước là hoàng đế, nắm mọi quyền hành trong tay. Giúp hoàng đế giải quyết giấy
tờ, văn thư và ghi chép có Văn thư phịng (năm 1829 đổi là Nội các). Về việc
qn quốc trọng sự thì có 4 vị Điện Đại học sĩ gọi là Tứ trụ Đại thần, đến năm
1834 trở thành viện Cơ mật. Ngoài ra cịn có Tơng nhân phủ phụ trách các cơng
việc của Hồng gia.

Bên dưới, triều đình lập ra 6 Bộ, đứng đầu mỗi bộ là quan Thượng thư
chịu trách nhiệm chỉ đạo các công việc chung của Nhà nước, các bộ gồm: Bộ
Lại, Bộ Hộ, Bộ Lễ, Bộ Binh, Bộ Hình và Bộ Cơng. Bên cạnh 6 Bộ cịn có Đô sát
viện (tức là Ngự sử đài bao gồm 6 khoa) chịu trách nhiệm thanh tra quan lại,
Hàn lâm viện phụ trách các sắc dụ, công văn, 5 Tự phụ trách một số sự vụ, phủ
Nội vụ coi sóc các kho tàng, Quốc tử giám phụ trách giáo dục, Thái y viện chịu
trách nhiệm về việc chữa bệnh và thuốc thang,... cùng với một số Ti và Cục
khác.
Theo Trần Trọng Kim, người ta "thường hiểu mấy chữ quân chủ chuyên
chế theo nghĩa của các nước Tây Âu ngày nay, chứ khơng biết mấy chữ ấy theo
cái học Nho giáo có nhiều chỗ khác nhau..." Theo tổ chức của nhà Nguyễn, khi
có việc gì quan trọng, thì vua giao cho đình thần các quan cùng nhau bàn xét.
Quan lại bất kỳ lớn bé đều được đem ý kiến của mình mà trình bày. Việc gì đã
quyết định, đem dâng lên để vua chuẩn y, rồi mới thi hành. Hoàng đế tuy có
quyền lớn nhưng lại khơng được làm điều gì trái phép thường. Khi vua có làm
6


điều gì sai thì các quan Giám Sát Ngự Sử có quyền can ngăn vua và thường là
vua phải nghe lời can ngăn của những người này. Quan chức của triều đình chỉ
phân ra tới phủ huyện, từ tổng trở xuống thuộc về quyền tự trị của dân. Người
dân tự lựa chọn lấy người của mình mà cử ra quản trị mọi việc tại địa phương.
Tổng gồm có vài làng hay xã, có một cai tổng và một phó tổng do Hội đồng Kỳ
dịch của các làng cử ra quản lý thuế khóa, đê điều và trị an trong tổng.
Ngạch quan lại chia làm 2 ban văn và võ. Kể từ thời vua Minh Mạng được
xác định rõ rệt giai chế phẩm trật từ cửu phẩm tới nhất phẩm, mỗi phẩm chia ra
chánh và tòng 2 bậc. Trừ khi chiến tranh loạn lạc cịn bình thường quan võ phải
dưới quan văn cùng phẩm với mình. Quan Tổng đốc (văn) vừa cai trị tỉnh vừa
chỉ huy quân lính của tỉnh nhà. Lương bổng của các quan tương đối ít nhưng
quan lại được hưởng nhiều quyền lợi, cha họ được khỏi đi lính, làm sưu và miễn

thuế tùy theo quan văn hay võ, hàm cao hay thấp. Ngoài ra con cái các quan cịn
được hưởng lệ tập ấm. Tuy bộ máy khơng thật sự cồng kềnh, nhưng tệ tham
nhũng vẫn là một trong những vấn đề lớn. Trong bộ luật triều Nguyễn có những
hình phạt rất nghiêm khắc đối với tội này.
2.1.2. Phân chia hành chính
An Nam đại quốc họa đồ do giáo sĩ Jean-Louis Taberd vẽ vào triều vua
Minh Mạng, in lại trong sách Dictionarium Latino-Annamiticum completum et
novo ordine dispositum (Từ điển Việt-La) năm 1838.
Nước Đại Nam của nhà Nguyễn vào thời điểm kết thúc độc lập năm 18831884, lãnh thổ chính bị chia thành 3 xứ Nam Kỳ thuộc địa (Cochinchina), Trung
Kỳ (Annam), Bắc Kỳ (Tonkin) thuộc Pháp. Lãnh thổ cực đại của nhà Nguyễn
thời độc lập tương đương với 3 xứ này và những vùng hay vương quốc mà nhà
Nguyễn từng sáp nhập ở xung quanh: Trấn Ninh, Tây Nguyên (Pays de Mois),
và Trấn Tây (Cambodge 1834-1840).
Năm 1802, trong khi đã quyết định Phú Xuân là quốc đô, Nguyễn Ánh
vẫn tạm đặt 11 trấn phía Bắc (tương đương khu vực Bắc Bộ ngày nay) thành
một Tổng trấn với tên cũ Bắc Thành, do một Tổng trấn đứng đầu.
7


Đến thời Minh Mạng, để nhất thể hóa các đơn vị hành chính trong cả
nước, năm 1831–1832, nhà vua thực hiện một cuộc cải cách hành chính lớn,
theo đó bỏ các tổng trấn, đổi các dinh, trấn thành tỉnh. Đây là lần đầu tiên, đơn
vị hành chính tỉnh xuất hiện ở Việt Nam. Năm 1831, Minh Mạng đổi các trấn từ
Quảng Trị trở ra thành 18 tỉnh, và vùng còn lại ở phía Nam được chia làm 12
tỉnh. Thừa Thiên, nơi tọa lạc của kinh đô Phú Xuân, là phủ trực thuộc Trung
ương. Cả nước được chia làm 30 tỉnh và phủ Thừa Thiên.
Đứng đầu tỉnh là Tổng đốc (mỗi người phụ trách 2–3 tỉnh và chuyên trách
1 tỉnh) và Tuần phủ (dưới Tổng đốc, phụ trách chỉ 1 tỉnh). Giúp việc có Bố
chánh sứ ti lo về thuế khóa, hộ khẩu, hành chính; Án sát sứ ti lo về an ninh, luật
pháp. Phụ trách về quân sự có chức lãnh binh. Các quan chức đứng đầu tỉnh đều

do chính quyền trung ương trực tiếp bổ nhiệm, và thường là võ quan cao cấp, về
sau mới bổ dụng thêm các quan văn. Hệ thống chính quyền được phân biệt rõ rệt
giữa Trung ương và địa phương, và trong hệ thống này nhà vua, người đứng đầu
đất nước, nắm nhiều quyền lực hơn hẳn so với các thời kỳ trước.
Dưới tỉnh là phủ, huyện, châu, tổng và xã. Quan chức của triều đình chỉ
phân ra tới phủ huyện, từ tổng trở xuống do người dân tự lựa chọn cử ra quản
trị. Tổng gồm có vài làng hay xã, có một cai tổng và một phó tổng do Hội đồng
Kỳ dịch của các làng cử ra quản lý thuế khóa, đê điều và trị an trong tổng. Nhìn
chung, cơ cấu hành chính của các tổng, xã được tổ chức khá chặt chẽ để triều
đình dễ dàng quản lý và phản ứng mau lẹ khi có sự biến xảy ra.
Đối với vùng thượng du và với các khu vực sinh sống của các dân tộc
thiểu số, Minh Mạng thực hiện nhất thể hóa về mặt hành chính cùng với các
vùng miền xi. Năm 1829, ông bãi bỏ chế độ thế tập của các Thổ ti (các tù
trưởng của dân tộc thiểu số) mà cho quan lại lựa chọn những thổ hào ở địa
phương làm Thổ tri các châu huyện. Sau đó, Minh Mạng còn đặt thêm một chức
lưu quan do người Kinh nắm giữ để khống chế các vùng này tốt hơn và tiến

8


hành thu thuế như ở miền xuôi. Tuy nhiên, do phản ứng của người dân địa
phương, vua Tự Đức sau đó đã bãi bỏ chế độ lưu quan.

Tính đến cuối thế kỷ 19, Việt Nam có 98 phủ bao gồm 342 huyện và châu.
Đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, vua Gia Long từ năm 1816
đã chính thức ra lệnh tiếp thu Hoàng Sa, cắm cờ trên đảo và đo thủy trình. Sang
triều Minh Mạng, nhà Nguyễn cho xây đền, đặt bia đá, đóng cọc và trồng cây.
Đội Hoàng Sa và Đội Bắc Hải được trao nhiều nhiệm vụ hơn: khai thác, tuần
tiễu, thu thuế dân trên đảo và nhiệm vụ biên phòng bảo vệ hai quần đảo. Hai đội
này tiếp tục hoạt động cho đến khi người Pháp vào Đơng Dương. Từ thập niên

1890, chính quyền Bảo hộ nhân danh triều đình Huế của nhà Nguyễn cũng có dự
định dựng ngọn hải đăng để khẳng định chủ quyền của Pháp trên quần đảo
Hoàng Sa nhưng đồ án không thực hiện được và mãi đến năm 1938 mới có lực
lượng chính thức chiếm đóng quần đảo này. Dù vậy, khi nhà Thanh gửi thuyền
xâm phạm quần đảo Hồng Sa vào những năm đầu thế kỷ 20 thì Bộ Ngoại giao
Pháp đã có cơng văn phản đối. Cuộc tranh chấp này kéo dài cho đến khi người
Pháp mất chủ quyền ở Đông Dương và vẫn chưa kết thúc.
2.1.3. Quân đội
Một trong những thành quả Gia Long đạt được sau nhiều năm nội chiến
với Tây Sơn là quân đội tương đối mạnh với trang bị và tổ chức kiểu phương
Tây. Sau khi làm chủ toàn bộ quốc gia, nhà Nguyễn xây dựng qn đội hồn
thiện hơn, chính quy hơn. Để sung binh ngạch mới, vua Gia Long cho thực hiện
phép giản binh, theo hộ tịch tùy nơi mà định, lấy 3, 5 hay 7 suất đinh tuyển 1
người lính. Qn chính quy đóng tại kinh thành và những nơi xung yếu; các địa
phương đều có lực lượng vũ trang tại chỗ làm nhiệm vụ trị an. Qn chính quy
có 14 vạn người,ngồi ra cịn có qn trừ bị. Qn đội còn được tổ chức thành 4
binh chủng: bộ binh, tượng binh, thủy binh và pháo binh, trong đó bộ binh và
thủy binh được chú trọng xây dựng để tác chiến độc lập. Trình độ chính quy
thống nhất cao. Ngồi vũ khí cổ truyền, quân chính quy được trang bị hỏa khí
9


mua của phương Tây như đại bác, súng trường, thuyền máy, thuốc nổ... Các loại
súng thần công, đại bác được đúc với kích thước, trọng lượng thống nhất; thành
lũy, đồn to nhỏ cũng được quy định cho từng cấp với số lượng quân nhất định.

Sự quan tâm tới khoa học quân sự phương Tây của Gia Long được xem là
do tình thế bắt buộc thì với Minh Mạng lại hồn toàn tự nguyện. Minh Mạng lấy
phương Tây làm kiểu mẫu cho việc tổ chức quân đội, hướng đến việc quân cần
tinh nhuệ, không cần nhiều, bỏ bớt số lượng người cầm cờ từ 40 người xuống 2

người trong đội ngũ đơn vị 1 vệ (500 người). Phương thức tác chiến được các
học giả Mãn Thanh ghi nhận là giống hệt kiểu Pháp, do trong quân đội Minh
Mạng có thuê các sĩ quan huấn luyện đến từ phương Tây. Có thể nói, quân đội
nhà Nguyễn thời Minh Mạng là lực lượng quân sự tân tiến hiện đại nhất ở khu
vực Đông Á, vượt trội các nước láng giềng như Trung Hoa, Thái Lan,
Campuchia.
Sang thời Tự Đức, cơng tác quốc phịng của nhà Nguyễn bị sa sút và có sự
tương phản rõ rệt với các triều vua trước. Một trong các lý do khiến tình hình
quân đội suy sút là vấn đề tài chính. Vũ khí và trang thiết bị làm mới gần như
khơng có. Trang bị bộ binh rất lạc hậu: 50 người mới có 5 súng, mỗi năm chỉ tập
bắn 1 lần 6 viên đạn. Vũ khí được bảo trì cũng kém. Về thủy binh, không tàu hơi
nước nào được đóng mới, thủy qn thậm chí khơng đủ khả năng bảo vệ bờ biển
chống hải tặc. Việc giảng dạy binh pháp không chú trọng tới sách vở phương
Tây nữa mà quay trở lại với Binh thư yếu lược của Trần Hưng Đạo. Đời sống
qn lính khơng được quan tâm thỏa đáng, lương thực lại bị ăn bớt. Do đó tinh
thần chiến đấu của quân sĩ không cao. Quan điểm khoa học quân sự của vua
quan nhà Nguyễn không hề vượt quá khuôn khổ của khoa học quân sự phong
kiến. Việc không bắt kịp với thành tựu mới của khoa học phương Tây thời Tự
Đức khiến quân sự Việt Nam bị lạc hậu nhiều. Do đó, khi người Pháp vào xâm
lược Việt Nam (1858), khoảng cách về traNg thiết bị giữa quân đội nhà Nguyễn
và quân Pháp đã khá xa.
10


2.1.4. Thuế khóa và lao dịch
Việc sinh hoạt quốc gia địi hỏi phải có đủ tài chính để duy trì bộ máy
triều đình nên sau khi lên ngơi, vua Gia Long đã tổ chức lại vấn đề đăng tịch, bắt
buộc mỗi làng xã phải ghi vào sổ đinh trong làng số đàn ông từ 18-60 tuổi. Các
đinh bộ không bao giờ kê khai hết tất cả số đàn ông trong làng vì ngồi dân đinh
cịn có một số người là dân ngoại tịch, dân lậu, những người bần cùng, vô sản,

không thể đánh thuế cũng như những người mới tới làng định cư.
Do tổ chức xã hội Việt Nam căn bản dựa trên xã, thơn nên triều đình
khơng địi hỏi người dân phải trả thuế trực tiếp mà giao cho làng lo việc thuế má
và sưu dịch, không cần biết làng sẽ phân chia trách nhiệm giữa các dân làng ra
sao. Mỗi làng hưởng quyền tự trị rất lớn, tự họ cai trị theo những tục lệ riêng ghi
trong hương ước của làng. Hội đồng Kỳ mục trông coi tất cả cơng sản (tài sản
cơng) và thuế khóa, đê điều, trị an. Họ cũng phải lo phân phối công điền (ruộng
công) giữa các dân đinh mỗi kỳ quân cấp và chỉ định thanh niên đi lính.
Về thuế nhân đinh và thuế ruộng, nhà Nguyễn xoá bỏ tất cả chế độ thuế
khóa cũ của Tây Sơn để đặt lại thuế khóa mới nặng hơn thời trước. Vua Gia
Long cho sửa lại hộ tịch và điền tịch đã hư hỏng qua thời nội chiến. Hộ tịch
phân ra 9 hạng, tùy từng hạng mà nộp thuế toàn bộ hay được miễn giảm một nửa
hoặc miễn trừ cả sưu thuế lẫn sai dịch. Thuế đinh nhà Nguyễn đặc biệt đánh
nặng lên dân Thanh – Nghệ và Bắc Hà. Dân cơng nghệ thì nộp thuế sản vật.
Thời Minh Mạng thì định lại thuế điền, chia cả nước ra 3 khu vực để đánh thuế.
Thuế điền thì dân Thanh Nghệ và Bắc Hà cũng bị nặng hơn ở các miền khác.
Theo thống kê của bộ Hộ thì số đinh năm đầu đời Gia Long là 992.559 người,
cuối đời Thiệu Trị là 1.024.380 người. Về điền thổ thì đầu đời Tự Đức có
3.398.584 mẫu ruộng và 502.672 mẫu đất.
Mỗi người dân đinh phải chịu 60 ngày lao dịch cho triều đình. Lao dịch
thường là để làm các mục đích, xây sửa hệ thống đê điều, kênh rạch, sơng ngịi;
xây đắp các thành lũy; xây dựng các cung điện cho hoàng gia. Trên thực tế,
người dân phải lao dịch khá nặng trong thời gian vương triều Nguyễn xây dựng
11


các cung điện, lăng tẩm, dinh thự,... Ví dụ năm 1807, ngay khi kinh thành Huế
vừa được xây xong, vua Gia Long lại huy động hàng nghìn dân đinh và binh
lính tiếp tục sửa chữa và tu bổ thêm trong một thời gian dài. Vua Minh Mạng
cũng tiếp tục công việc xây dựng kinh đơ. Vua Thiệu Trị thì khơng tập trung xây

dựng kinh đô nữa, nhưng, trong một cuộc tuần du lớn ra Bắc Kỳ năm 1842,
người dân đã phải xây 44 hành cung cho một phái đồn đơng đến 17.500 người,
44 con voi và 172 con ngựa của nhà vua. Theo nhận xét của giáo sĩ Pháp
Guérard: "Vua Gia Long bóp nặn dân chúng bằng đủ mọi cách, sự bất công và
lộng hành làm người ta rên xiết hơn cả thời Tây Sơn: thuế khóa và lao dịch đã
tăng lên gấp ba".
Việc xây thành Phú Xuân và đào kênh Vĩnh Tế phải huy động hàng vạn
dân phu đi lao dịch. Một người Pháp là Borel viết năm 1818 mô tả việc xây
thành Phú Xuân (Huế): “Nhà vua sử dụng tất cả nhân lực vào việc xây tòa thành
và các cơng trình cơng cộng khác. Khi tơi đến Huế, đã có đến 8 vạn người được
điều động từ các nơi trong cả nước đang khẩn trương xây dựng một tòa thành
rộng lớn bằng gạch... Riêng việc xây bờ thành đã tốn kém những khoản tiền
khổng lồ và làm thiệt hàng ngàn nhân mạng vì phải khổ dịch liên tục... Nhà vua
[Gia Long] đã vung ra những món tiền lớn và hy sinh tính mạng của hàng ngàn
dân chúng vì họ phải làm việc không nghỉ tay trên các tường lũy của kinh thành.
Đây quả là một cơng trình kỳ diệu. Mười vạn người được thường xuyên huy
động”.
Trong dân gian đã xuất hiện các bài vè, bài ca miêu tả sự nặng nề của chế
độ lao dịch, ví dụ bài "Tố khuất khúc" của dân Sơn Nam Hạ có câu:
“Binh tài hai việc đã xong,
Lại cịn lực dịch thổ cơng bao giờ.
Một năm ba bận cơng trình,
Hỏi rằng mọt sắt dân tình biết bao...”

12


2.1.5. Luật pháp
Lúc đầu, nhà Nguyễn chưa có một bộ luật rõ ràng, chi tiết. Vua Gia Long
chỉ mới lệnh cho các quan tham khảo bộ luật Hồng Đức để rồi từ đó tạm đặt ra

15 điều luật quan trọng nhất. Năm 1811, theo lệnh của Gia Long, tổng trấn Bắc
Thành là Nguyễn Văn Thành đã chủ trì biên soạn một bộ luật mới và đến năm
1815 thì nó đã được vua Gia Long ban hành với tên Hoàng Việt luật lệ hay còn
gọi là luật Gia Long. Bộ luật Gia Long gồm 398 điều chia làm 7 chương và chép
trong một bộ sách gồm 22 cuốn, được in phát ra khắp mọi nơi. Theo lời tựa, bộ
luật ấy hình thành do tham khảo luật Hồng Đức và luật nhà Thanh, nhưng kỳ
thực là chép lại gần như nguyên vẹn luật của nhà Thanh và chỉ thay đổi ít nhiều.
Chương "Hình luật" chiếm tỉ lệ lớn, đến 166 điều trong khi những chương khác
như "Hộ luật" chỉ có 66 điều cịn "Cơng luật" chỉ có 10 điều. Trong bộ luật có
một số điều luật khá nghiêm khắc, nhất là về các tội phản nghịch, tội tuyên
truyền "yêu ngôn, yêu thư". Tuy nhiên, bộ luật cũng đề cao việc chống tham
nhũng và đặt ra nhiều điều luật nghiêm khắc để trừng trị tham quan. Tất nhiên,
đến các đời vua sau Gia Long, bộ luật này cũng được chỉnh sửa và cải tiến
nhiều, nhất là dưới thời Minh Mạng.
2.2. Ngoại giao
2.2.1. Với các nước lân bang
Cũng như các triều đại trước, nước đầu tiên mà Gia Long tiến hành ngoại
giao là Trung Quốc. Tháng 5 năm 1802, sau khi lên ngôi vua, Gia Long cho một
đoàn sứ giả đem đồ cống sang Quảng Đơng cầu phong triều đình Trung quốc.
Dẫn đầu đồn sứ giả là Trịnh Hồi Đức chánh sứ, Ngơ Nhân Tĩnh và Hồng
Ngọc Uẩn là phó sứ. Đồn sứ giả sang Quảng Tây, quan lại nhà Thanh ở đây
nhận chuyển đồ cống lên Bắc Kinh, cịn giữ đồn sứ ở lại Quảng Tây chờ lệnh
triều đình có cho sứ giả lên Bắc Kinh triều yết hay khơng. Sứ đồn này chưa hồi
hương thì cuối năm đó vua Gia Long tiếp tục cử Binh bộ Thượng thư là Lê
Quang Định sang cầu phong vua Gia Khánh nhà Thanh đổi quốc hiệu là Nam
Việt. Sau những tranh luận về tên gọi, vì nhà Thanh ngại nhầm lẫn với nước
13


Nam Việt xưa nằm ở Lưỡng Quảng và cuối cùng đồng ý đảo ngược lại thành

Việt Nam, vua Thanh cho Tổng đốc Quảng Tây là Tề Bố Xâm sang làm lễ tấn
phong cho Gia Long là Việt Nam quốc vương, ấn định thể lệ tiến cống hai năm
một lần và cứ bốn năm một lần Việt Nam sẽ phái sứ bộ sang làm lễ triều kính.
Ngồi Trung Quốc, nhà Nguyễn cịn qua lại với Xiêm La. Dù có xung đột
từ thời kỳ chúa Nguyễn trước đó, nhưng đến khi Gia Long tị nạn ở Xiêm cho
đến lúc lên ngôi, việc giao thiệp giữa triều Gia Long và Xiêm La vẫn giữ được
sự hòa hảo. Từ năm 1802 trở đi hai bên vẫn có sứ bộ qua lại trao đổi thân thiện
và tặng phẩm.
Tại Ai Lao, Việt và Xiêm cùng đặt ảnh hưởng, Quốc vương Ai Lao xin
thần phục cả Việt lẫn Xiêm. Dân vùng Cam Lộ, dân ở các vùng cao nguyên hai
tỉnh Thanh Nghệ, người Thượng (tức người Rhadé) ở các nước Thủy Xá và Hỏa
Xá cũng có cống phẩm đến để tỏ lịng tn theo chính quyền của triều Nguyễn.
Thời vua Minh Mạng, nhiều xứ ở Ai Lao xin thuộc quyền bảo hộ của Việt Nam.
Các vùng nay là Sầm Nứa, Trấn Ninh, Cam Môn và Savannakhet giáp với các
tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Trị, đều xin làm nội thuộc và trở thành các
châu, phủ của Việt Nam.
Cịn với Chân Lạp, khi vua Gia Long lên ngơi, nước Cao Miên tuy mất
Thủy Chân Lạp cho người Việt nhưng vẫn phải chịu thần phục. Thời Minh
Mạng, sau khi phá được quân Xiêm, tướng Trương Minh Giảng và tham tán Lê
Đại Cương lập đồn đóng quân ở gần Nam Vang để bảo hộ Chân Lạp.
2.2.2. Với phương Tây
Năm 1803, Anh Quốc sai sứ là Robert sang xin cho mở cửa hàng buôn
bán ở Trà Sơn, thuộc Quảng Nam. Vua Gia Long không nhận đồ, và cũng không
cho mở cửa hàng. Sau người Anh còn đưa thư sang hai ba lần nữa, nhưng vẫn bị
từ chối. Đối với nước Pháp, vua Gia Long có thiện cảm hơn do khi ơng cịn gian
trn có nhờ ơng Bá Đa Lộc giúp đỡ. Khi chiến tranh kết thúc, các ông
Chaigneau, Vannier và Despiau làm quan tại triều, Gia Long cho mỗi người 50
lính hầu và khi chầu thì khơng cần lạy Hồng đế. Năm 1817, chính phủ Pháp
14



phái tới Việt Nam chiếc tàu Cybèle để thăm dò bang giao. Thuyền trưởng là
Achille De Kergariou nói rằng vua Louis XVIII sai sang xin thi hành những điều
ước do Bá Đa Lộc ký năm 1787 về việc nhường cửa Đà Nẵng và đảo Côn Lôn.
Vua Gia Long sai quan ra trả lời rằng những điều ước ấy nước Pháp trước đã
khơng thi hành thì nay bỏ, khơng nói đến nữa.
Tuy nhiên, sự bành trướng của Châu Âu ở Đông Nam Á khiến Gia Long e
ngại, nhất là sau khi nước Anh chiếm được Singapore. Nhà vua thấy rằng cần
phải giao hảo với người Tây phương nhưng không thể biệt đãi một quốc gia đặc
biệt nào. Năm 1819, John White, một thương gia Hoa Kỳ tới Gia Định và được
hứa hẹn sẽ dành cho mọi sự dễ dàng khi buôn bán ở Việt Nam. Vua Minh Mạng
khơng có cảm tình với người Pháp như thái độ chung của người Á Đơng lúc đó,
coi người Âu Châu là bọn man di, là qn xâm lược. Ngồi ra ơng cũng khơng
thích cả Công giáo của châu Âu. Trong thời kỳ Minh Mạng nắm quyền, tín đồ
Cơng giáo bị đàn áp quyết liệt và các giáo sĩ nước ngồi đã so sánh ơng với
hoàng đế Nero của Đế quốc La Mã - một hồng đế từng tàn sát hàng loạt giáo
dân Cơng giáo. Với những người Pháp đã từng giúp vua Gia Long, Minh Mạng
tỏ thái độ lạnh nhạt nên khi Chaigneau trở lại Việt Nam không được trọng dụng
nữa. Minh Mạng cho Chaigneau hay rằng không cần phải ký thương ước giữa
hai chính phủ, người Việt Nam vẫn đối xử tốt đẹp với người Pháp là đủ, ông chỉ
thỏa thuận mua bán với người Pháp nhưng không chấp nhận xây dựng đặt quan
hệ ngoại giao chính thức với nước Pháp, quốc thư của Pháp xin cho ông
Chaigneau làm Lãnh sự Pháp ở Việt Nam không được nhà vua đếm xỉa đến.
Cũng theo đường lối của hai triều Minh Mạng và Thiệu Trị, vua Tự Đức khước
từ mọi việc giao thiệp với các nước ngoài, dầu việc giao thiệp chỉ nhằm phục vụ
thương mại. Năm 1850 có tàu của nước Mỹ vào cửa Hàn có quốc thư xin thơng
thương nhưng khơng được tiếp nhận.
Từ năm 1855 các nước Anh, Pháp, Tây Ban Nha nhiều lần có tàu vào cửa
Hàn, cửa Thị Nại và Quảng Yên xin thông thương cũng không được. Sau khi
Gia Định bị người Pháp chiếm, việc ngoại giao giữa triều đình với các nước

15


phương Tây khó khăn, Tự Đức mới thay đổi chính sách, đặt ra Bình Chuẩn Ty
để lo bn bán và Thương Bạc Viện để giao dịch với người nước ngoài nhưng
khơng có kết quả vì những người được ủy thác vào các việc này khơng được học
gì về ngoại giao.
2.3. Kinh tế
2.3.1. Tiền tệ
Tiền lưu hành vào thời kỳ này được làm từ vàng, bạc, kẽm, đồng và chì,
được phát hành ở dạng tiền xu, nén (thỏi). Khi Nguyễn Vương lên ngôi vua, ông
cho đúc các loại tiền "Gia-long Thông-bảo". Các vua Gia Long, Minh Mạng,
Thiệu Trị và Tự Đức ngoài việc đúc tiền kim loại bằng đồng và kẽm có hình trịn
lỗ vng, cịn đúc các loại tiền bằng bạc hay bằng vàng, mang hình ảnh Long
Vân, Nhật Nguyệt, Ngũ Phúc, Phú Thọ Đa Nam; hoặc đúc các thoi bạc thoi
vàng hình hộp chữ nhật. Giá-trị của thoi tiền tính theo quan, theo lạng và được
in nổi trên thoi tiền.
Từ giữa cuối thế kỷ 19, nhà Nguyễn bắt đầu cho phép tư nhân đúc tiền, do
đồng kim loại trong tiền đồng giảm đi nên nhiều tiền đồng có chất lượng kém
được đưa vào lưu thông. Do những điểm yếu đó, nên đến thời vua Tự Đức,
phương tiện thanh tốn chủ yếu trong các giao dịch là tiền đồng của nhà Nguyễn
2.3.2. Thương mại
 Nội thương
Việc thống nhất đất nước vào đầu thế kỷ XIX là một điều kiện thuận lợi
cho thương nghiệp phục hồi và tái phát triển sau một thời gian dài suy thối.
Ngồi ra, Gia Long và các vua nhà Nguyễn cũng cho sửa sang đường sá, xoi đào
các sơng ngịi, đắp các đê điều, để cho việc làm ăn của người dân được tiện lợi,
cụ thể là: đường sá trong nước là sự khẩn yếu cho việc chính trị, vậy nên Gia
Long mới định lệ sai quan ở các doanh, các trấn phải sửa sang đường quan lộ,
bắt dân sở tại phải đắp đường làm cầu, lệ cứ 15.000 trượng đường thì phát cho

dân 10.000 phương gạo. Từ ải Nam Quan (thuộc Lạng Sơn) vào tận Bình Thuận,
cứ 4.000 trượng phải làm một nhà trạm ở cạnh đường quan lộ, để cho quan
16


khách đi lại nghỉ ngơi. Cả thảy 98 trạm. Còn từ Bình Thuận trở vào phía nam
đến Hà Tiên thì phải đi đường thủy.
Tuy nhiên, thương mại của Việt Nam rất kém cỏi, họ bn lẻ hàng hóa của
người Hoa để bán lại kiếm lời. Sự tổ chức thương mại của người Việt sơ sài,
trong phạm vi gia đình. Nếu có những hội bn lớn thì cũng chỉ là những
phường họp vài thương gia hùn vốn với nhau để kinh doanh rồi chia tiền ngay.
Họ không liên kết lại thành những hội buôn làm ăn lâu dài. Nhiều người Việt
Nam cho vay lãi trở nên phát tài nhưng họ dùng tiền của để mua ruộng đất chứ
không đầu tư kinh doanh, khuếch trương thương mại hay cơng nghệ. Do đó mà
thương nghiệp không mạnh được, một phần lớn cũng bởi tâm lý của người dân.
Trong vùng quê, hoạt động thương mại cũng chỉ nhằm trao đổi nông sản
và hàng tiểu thủ cơng ở các chợ. Ở đó, ngồi những cửa hàng tạp hóa quy mơ
nhỏ hay các cửa tiệm bán thuốc Bắc, cịn có những nơng dân bán thổ sản và
nông sản của minh và một số thương nhân nhỏ bán vải vóc, hàng xén, cau thuốc,
đi rong từ chợ này sang chợ khác.
Ngồi các tổ chức bn bán đại quy mơ ra, Hoa kiều trong các đơ thị lớn
cịn kinh doanh sịng bạc, đánh đề hay đút lót cho các quan để được đúc tiền,
trưng thầu thuế đò, thuế chợ hay độc quyền rượu. Có những Hoa thương có thế
lực còn chiếm độc quyền cung cấp hàng cho triều đình. Dù vậy, guồng máy
chính phủ cản trở nhiều sự trao đổi hàng hoá bởi sự nhiêu khê của các thủ tục
hành chính ở các cửa ải và sở thuế.
Những cải cách tiền tệ cho thấy là thương mại phát triển hơn so với thế kỷ
trước. Cho tới hết thời Nam-Bắc triều thì chỉ tệ duy nhất được đúc là tiền đồng,
cứ 500 đồng thành 1 quan. Giá trị thứ tiền này rất kém, sử dụng khó khăn chỉ
hợp với 1 xã hội mà hoạt động kinh tế không quá thôn xã và sự mậu dịch không

quan trọng. Vua Gia Long và Minh Mạng đã cho đúc những nén vàng, nén bạc
cho thấy kinh tế thương mại đã có bước tiến lên trước. Tuy nhiên, chúng ít được
đầu tư và được dân chúng đem cất trữ bởi tâm lý dân chúng cịn mang nặng tính
nơng nghiệp.
17


Ngoài một số trung tâm thương mại thành thị được phát triển ở các thành
phố và cảng biển chính, phần lớn hoạt động mua bán vẫn diễn ra trên các con
sơng. Triều đình nắm giữ độc quyền thương mại ở các mặt hàng có giá trị cao
như ngà voi, sừng nai, bạch đậu khấu, vàng...Mức thuế mua bán cao, việc cấp
giấy phép khó khăn trong việc xuất khẩu gạo, muối, và kim loại cũng gây kìm
hãm sự phát triển của thương mại.Ngoại thương bị hạn chế, dân chúng bị cấm
giao thương bằng đường biển, triều đình cấm xuất khẩu các loại gỗ quý và đánh
thuế cảng, thuế xuất khẩu cao; quan hệ thương mại quan trọng với Trung Quốc
nằm trong tay các thương gia người Hoa và quan lại, trong khi các thương gia
người Việt thì bị hạn chế ở mảng bn bán trong nước.
 Ngoại thương
Nhìn chung, Gia Long khơng quan tâm đến thương mại. Ơng đã nhiều lần
từ chối người Anh khi họ đến xin được mua bán, ngay cả người Pháp khi đến
mua bán cũng không được thuận lợi mấy, ông không cho phép người phương
Tây lập phố buôn trên lãnh thổ Việt Nam, triều Nguyễn dưới thời ơng khơng
khuyến khích cũng như khơng chào mời các thuyền bn phương Tây. Triều
đình bấy giờ khơng có ý đóng cửa với phương Tây nhưng theo cách nhìn của
hàng ngũ Nho sĩ ở Việt Nam, việc giao thương với phương Tây là không đáng
tin cậy; cũng đồng thời với đó là sự lo ngại sự xâm lược bằng quân sự và truyền
giáo của họ đã dẫn đến chính sách như trên.
Cho tới thời Thiệu Trị, chính sách ngoại giao của nhà Nguyễn với phương
Tây khá cẩn trọng nhưng thương mại với họ vẫn được khuyến khích. Sau năm
1818, các thương gia phương Tây khỏi phải trả thuế nhập cảng quá cao, chỉ vài

loại hàng mới phải chịu thuế xuất cảng còn phần lớn được miễn. Hoạt động
thương mại của Việt Nam với các nước láng giềng không thể phát triển tự do khi
các quan chức đánh thuế nặng lên thương mại, cịn thủ tục thì rất phiền phức.
Ngồi ra, triều đình cịn cấm đốn một số mặt hàng, muốn bán phải có giấy phép
riêng. Guồng máy hành chính của nhà Nguyễn cản trở rất nhiều các hoạt động
của thương nhân trong thế kỷ XIX mà cũng khơng có một tầng lớp trung lưu
18


làm giàu bằng thương mại để thúc đẩy triều đình mở rộng giao dịch quốc tế. Về
các thành thị công thương thì Hội An, Phố Hiến, Thanh Hà do nhiều nguyên
nhân trở nên suy tàn và không thể phục hồi như xưa; còn Thăng Long, Bến
Nghé, Đà Nẵng vẫn tiếp tục cuộc sống cơng thương như bình thường; Gia Định
vẫn phát triển đều đặn. Xuất hiện thêm vài hiệu buôn người Hoa, một số phường
thủ công cũng ổn định mặt hàng nhưng không thay đổi nhiều.
Thương mại Việt Nam sau khi đất nước được thống nhất vẫn không phát
triển lắm, tổ chức thương mại của người Việt sơ sài, trong phạm vi gia đình. Nếu
có những hội bn lớn thì cũng chỉ là những phường họp vài thương gia hùn
vốn với nhau để kinh doanh rồi chia tiền ngay, không liên kết lại thành những
hội buôn làm ăn lâu dài. Nhiều người Việt Nam dùng tiền của để mua ruộng đất
chứ không đầu tư kinh doanh, khuếch trương thương mại hay cơng nghệ.
Triều đình đã tổ chức nhiều chuyến đi công cán đến các nước trong khu
vực để thực hiện giao dịch buôn bán. Năm 1824, Minh Mạng đã sai người đi
công cán ở Hạ Châu (Singapore) và Giang Lưu Ba (Indonesia). Năm 1825, vua
Minh Mạng phái người sang Hạ Châu mua vải và đồ thủy tinh. Sau đó, mỗi năm
đều có quan viên được phái đi tới các trung tâm mậu dịch của người Âu ở khắp
Đông Nam Á. Từ 1831-1832 trở đi, các chuyến công cán càng lúc càng nhiều,
điểm đến cũng khá đa dạng: Hạ Châu, Lữ Tống (Luzon - Philippines), đảo
Borneo, Quảng Đông, Giang Lưu Ba,... Trong khoảng 1835-1840 đã có 21 chiếc
được cử đi. Hàng bán ra chủ yếu là gạo, đường, lâm thổ sản quý, hàng mua về là

len dạ và vũ khí, đạn dược. Các hoạt động này gần như là độc quyền của triều
đình dù tư nhân khơng bị cấm. Dù vậy, nhiều thương nhân cũng lợi dụng các
chuyến buôn bán này để buôn lậu gạo và thổ sản sang Hạ Châu hay Quảng
Châu.
Hàng năm, thuyền buôn Trung Hoa thường đi lại giữa Việt Nam và
Singapore. Thương nhân người Hoa thường lén chở gạo đi và đem thuốc phiện
về. Trong những năm 1820-1830, giao dịch với Singapore rất hạn chế. Nguyên
nhân do hàng hóa của Việt Nam phù hợp với thị trường Trung Hoa hơn. Khi
19


người Pháp sắp chiếm hết Nam Kỳ, các bản lược kê tài chính cho thấy quan thuế
hàng năm tương đương 3.000.000 france vàng trên tổng ngân sách 40.000.000
mà các quan viên đã giữ lại gấp đôi số tiền thuế kia, như vậy số tiền thu được
vượt quá số tiền chuyển về triều đình rất nhiều. Từ thời Thiệu Trị, do xung đột
với phương Tây từ nguyên nhân tôn giáo, quan hệ buôn bán với các nước này bị
tổn hại. Năm 1850, Tự Đức không phái thuyền đi buôn ở Hạ Châu nữa. Triều
đình cũng tìm cách cản trở dân thường buôn bán với người Tây nên cuối cùng,
thương gia ngoại quốc chủ yếu là Hoa kiều, Xiêm và Mã Lai, trong đó người
Hoa chiếm tỷ lệ lớn nhất.
Việc bn bán ở các chợ quy mô lớn do thương nhân Hoa kiều chi phối,
dù những người này chỉ là thiểu số. Các mặt hàng tiêu dùng họ kinh doanh gồm
có: mua thổ sản như gạo, lúa, bắp, đường, hạt tiêu... và bán và nhập cảng trà,
thuốc Bắc, vải, đồ đồng, giấy. Trong vùng nông thôn, hoạt động thương mại
cũng chỉ nhằm trao đổi nông sản và hàng tiểu thủ công ở các chợ. Ở đó, ngồi
những cửa hàng tạp hóa quy mơ nhỏ hay các cửa tiệm bán thuốc Bắc, cịn có
những nơng dân bán thổ sản và nơng sản địa phương và một số thương nhân nhỏ
bán vải vóc, hàng xén, cau thuốc, đi rong từ chợ này sang chợ khác. Theo sử gia
Trần Trọng Kim, người Việt Nam chỉ quanh quẩn trong nước, bn bán những
hàng hóa lặt vặt, nên bao nhiêu mối lợi lớn về tay người ngoài mất.

2.3.3. Thủ công nghiệp
Thủ công nghiệp Nhà nước thời Nguyễn chế tạo tất cả những đồ dùng cho
hoàng gia, tham gia đóng thuyền cho qn đội, đúc vũ khí, đúc tiền,…
Nhà Nguyễn cũng tập trung xây dựng hệ thống các xưởng thủ công Nhà
nước, nhất là ở kinh đô và các vùng phụ cận. Năm 1803, Gia Long thành lập
xưởng đúc tiền Bắc Thành tiền cục ở Thăng Long. Nhà Nguyễn cũng lập các Ti
trông coi các ngành thủ công, như ti Vũ khố chế tạo quản lý nhiều ngành thủ
công khác nhau, gồm 57 cục: làm đất, đúc, làm đồ vàng bạc, vẽ tranh, làm ngói,
làm đồ pha lê, khắc chữ, đúc súng, làm trục xe, luyện đồng,... Ti Thuyền chịu

20


trách nhiệm về các loại thuyền công và thuyền chiến, gồm 235 sở trên tồn
quốc. Ngồi ra cịn có các ti Doanh kiến, ti Tu tạo, ti Thương bác hoả dược.
Phần lớn nhân lực trong các xưởng thủ công Nhà nước là do triều đình
trưng dụng thợ khéo trong các ngành như khảm xà cừ, kim hoàn, thêu thùa... tới
làm việc để cung cấp đồ dùng cho triều đình. Đối với nghề đóng tàu, năm 1820
sĩ quan người Mỹ, John White đã nhận xét: " Người Việt Nam quả là những
người đóng tàu thành thạo. Họ hồn thành cơng trình của họ với một kỹ thuật
hết sức chính xác." Ngồi các thuyền gỗ, người thợ thủ cơng Việt Nam cịn đóng
cả các loại tàu lớn bọc đồng.
Ngồi ra họ đã sáng chế được nhiều máy móc tiên tiến và có chất lượng
vào thời đó, ví dụ các máy cưa xẻ gỗ, máy tưới ruộng... và cả máy hơi nước.
Trong ngành khai mỏ, đến nửa đầu thế kỷ 19, triều đình đã quản lý 139 mỏ, và
năm 1833 có 3.122 nhân công trong các mỏ Nhà nước, tuy nhiên, phương thức
khai mỏ thời bấy giờ vẫn kém phát triển so với thế giới.
2.3.4. Nơng nghiệp
Triều Nguyễn có những chính sách ưu đãi để phát triển nông nghiệp, như
là cấm mua bán ruộng đất cơng, lập kho Thường bình, Sở Tịch điền, Sở Diễn

canh, kho Bình thiếu, Sở Đồn điền, Đàn Xã tắc,... Cũng nhằm khuyến khích
người dân cày ruộng năm 1828, Minh Mạng giao cho bộ Lễ soạn thảo chu đáo
các điển lễ khôi phục lại nghi lễ Tịch điền và làm thành luật lệ lâu dài, cũng như
quy định rất nghiêm túc, cụ thể. Triều Nguyễn có những chính sách ưu đãi để
phát triển nông nghiệp, như là cấm mua bán ruộng đất cơng, lập kho Thường
bình, Sở Tịch điền, Sở Diễn canh, kho Bình thiếu, Sở Đồn điền, Đàn Xã Tắc,
Đàn Tiên nông
 Về vấn đề ruộng đất
Ngay khi mới lên ngôi, Gia Long đã phải ra lệnh cấm bán ruộng đất công
và quy định chặt chẽ việc cầm cố loại công điền công thổ này để bảo đảm đất
cày cho mọi người nông dân. Trải qua nội chiến, nhân dân lại gặp mất mùa liên
tiếp. Triều đình thường phải giảm thuế, miễn thuế và phát chẩn. Thời Minh
21


Mạng định lại phép quân cấp ruộng khẩu phần, quan lại, binh lính, cơng tượng
(thợ làm quan xưởng) cùng các hạng dân đinh, không kể phẩm trật cao thấp đều
được hưởng một phần khẩu phần nhưng quan lại, cường hào cũng giành được
những phần tốt hơn. Người già, người tàn tật thì được nửa phần. Cơ nhi, quả phụ
được 1/3.
 Việc khai hoang và phục hóa
Nhà Nguyễn tiếp tục một số công việc từ thời các chúa Nguyễn để lại như
việc khẩn hoang, mở rộng, phát triển nông nghiệp. Ở Nam Kỳ, người dân đã tự
do đến khẩn hoang với tư cách cá nhân hoặc tập thể dưới sự giúp đỡ của triều
đình. Sử sách cũng ghi lại tên tuổi nhiều người đã có cơng trong việc đào kênh,
vỡ đất như Thoại Ngọc Hầu.
Triều đình nhà Nguyễn dành cho việc khai hoang, phục hóa rất nhiều sự
quan tâm, họ đã cho tiến hành nhiều chính sách khai khẩn hoang khác nhau và
đã đem lại nhiều kết quả tốt đẹp. Diện tích ruộng đất thực trưng tăng lên nhiều:
năm 1847 đã là 4.273.013 mẫu.

Hai vị quan tổ chức khẩn hoang nổi tiếng nhất là Nguyễn Công Trứ và
Nguyễn Tri Phương
 Đồn điền
Chính sách này chủ yếu dựa vào việc mộ dân nghèo, đi cùng với tội phạm
để thực hiện việc khai khẩn đất hoang. Trong thời gian khẩn hoang số dân này sẽ
được quản lý theo cung cách đồn điền không giống như thơn ấp bình thường;
sau một khoảng thời gian từ sáu đến mười năm để cuộc sống ổn định thì sẽ
chuyển sang hình thức bình thường.
Đồn điền xuất hiện nhiều nhất ở vùng Gia Định. Đợt lập đồn điền lớn nhất
do Kinh lược sứ Nam Kì là Nguyễn Tri Phương tổ chức vào năm 1853-1854, lập
được 21 cơ, 124 ấp phân phối ở cả sáu tỉnh.
 Doanh điền

22


Đây là hình thức triều đình và nhân dân cùng kết hợp khai hoang, mới ra
đời từ thời Nguyễn theo đề xuất của Tham tán quân vụ Bắc thành Nguyễn Cơng
Trứ
Chính sách này nhằm di dân để lập ấp mới, bắt đầu thực hiện từ năm 1828
dưới thời vua Minh Mạng. Cách thức được quy định cụ thể như sau: nhà nước sẽ
bỏ vốn ban đầu và cử ra một quan chức sẽ dứng ra chiêu mộ và chỉ đạo dân
chúng đưa đi khai hoang theo hai trường hợp
Ngoài ra, triều đình Nguyễn cịn khuyến khích nhân dân tự do khai hoang
kết hợp phục hóa. Việc đinh điền cũng có chỉnh đốn và kiểm soát chặt chẽ hơn.
Ruộng đất ở Nam Việt thời Minh Mạng được đo đạc lại, tính ra được 630.075
mẫu. Tổng số đinh toàn quốc là 970.516 xuất và 4.063.892 mẫu ruộng đất.
Tuy nói trên tồn diện, đất cơng điền khơng q 1/5 diện tích canh tác,
nhưng phần đất cịn lại được phân phối giữa nơng dân mà đa số chỉ làm chủ tới 5
mẫu là nhiều. Hạng người có 100 mẫu trở lên thì rất ít, mỗi tỉnh được nhiều nhất

là dăm ba người.
 Việc trị thủy
Vua Gia Long vừa lên ngôi đã quan tâm đến vấn đề đê điều và cho người
tu bổ đê cũ, đắp thêm đê mới. Năm 1809, ông lại cho đặt nha Bắc Thành đê
chánh và các chức Tổng lý và Tham lý đê chánh để lo vấn đề đê điều ở các trấn
xứ Bắc Kỳ. Tới năm 1828, theo đề nghị của các quan, vua Minh Mạng cho cho
tăng cường thêm nhân sự cho nha môn đê chánh nhưng tới 1833 thì bỏ nha này
đi để chuyên ủy việc đê điều cho các Đốc biện tại các tỉnh.
Việc đắp đê, sửa chữa và khám xét được quy định tỉ mỉ. Thời Tự Đức
nhiều lần đã xác định lại cách thưởng phạt về sự phòng hộ đê và phân định trách
nhiệm của các phủ, huyện, tổng, lý sở tại các nơi đê vỡ.
Năm 1809, hệ thống đê điều ở Bắc Thành tổng cộng là 239.933 trượng
tương đương 960 km. Sau 21 năm dưới thời nhà Nguyễn, chiều dài các con đê ở
Bắc Kỳ đã tăng lên 303.616 trượng tương đương 1.215 km. Tới cuối thế kỷ
XIX, hệ thống đê này đã dài tới 2.400 km
23


×