Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Quyền về đời sống riêng tư cá nhân theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.99 MB, 111 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN QUỐC HUY

QUYỀN VỀ ĐỜI SỐNG RIÊNG TƢ CÁ NHÂN
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
ĐỊNH HƢỚNG NGHIÊN CỨU

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HỒ CHÍ MINH

QUYỀN VỀ ĐỜI SỐNG RIÊNG TƢ CÁ NHÂN
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng Dân sự
Định hƣớng nghiên cứu
Mã số: 60380103

Người hướng dẫn khoa học: Ts. Nguyễn Hồ Bích Hằng
Học viên: Nguyễn Quốc Huy
Lớp: Cao học Luật Khóa 27

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan các nội dung trong Luận văn này hồn tồn do chính tơi
nghiên cứu thực hiện, dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Hồ Bích Hằng,
Giảng viên Khoa Luật Dân sự, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
Trong luận văn tơi có trích dẫn, sử dụng số liệu của một số bài báo, ý kiến,
quan điểm của một số tác giả, nhà nghiên cứu, bản án của Tịa án. Sự trích dẫn này
được thể hiện cụ thể trong Danh mục tài liệu tham khảo.
Tơi xin chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác của các thơng tin, số
liệu, ý kiến, quan điểm khoa học đã trình bày trong luận văn.
Tác giả luận văn

Nguyễn Quốc Huy


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

TÊN ĐẦY ĐỦ

STT

TỪ VIẾT TẮT

1

Bộ luật Dân sự

BLDS

2


Hiến pháp

HP

3

Quyền đời sống riêng tư cá nhân

QĐSRTCN


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
CHƢƠNG 1.................................................................................................... 10
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUYỀN ĐỜI SỐNG RIÊNG TƢ CÁ
NHÂN ............................................................................................................. 10
1.1. Khái quát về quyền đời sống riêng tƣ cá nhân................................ 10
1.1.1. Khái niệm quyền đời sống riêng tư cá nhân ................................. 10
1.1.2. Đặc điểm quyền đời sống riêng tư cá nhân .................................. 11
1.1.3. Các hành vi xâm hại quyền đời sống riêng tư cá nhân ................ 16
1.2. Nội dung về quyền đời sống riêng tƣ cá nhân ................................. 26
1.2.1. Quyền đời sống riêng tư cá nhân là bất khả xâm phạm ............... 26
1.2.2. Quyền đời sống riêng tư cá nhân được bảo đảm an tồn và bí mật
................................................................................................................. 28
1.2.3. Quyền đời sống riêng tư cá nhân có thể bị giới hạn..................... 30
1.3. Quy định về quyền đời sống riêng tư cá nhân trên thế giới và Việt
Nam ............................................................................................................. 31
1.3.1. Lịch sử phát triển về quyền đời sống riêng tư cá nhân ................ 31

1.3.2. Quy định về quyền đời sống riêng tư cá nhân của một số quốc gia
trên thế giới ............................................................................................. 33
1.3.3. Quy định về quyền đời sống riêng tư cá nhân trong pháp luật Việt
Nam ......................................................................................................... 39
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .............................................................................. 44
CHƢƠNG 2.................................................................................................... 45
BẤT CẬP VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ....................... 45
VỀ QUYỀN ĐỜI SỐNG RIÊNG TƢ CÁ NHÂN ...................................... 45
2.1. Bất cập và giải pháp hoàn thiện trong quy định pháp luật về quyền
đời sống riêng tƣ cá nhân ......................................................................... 45
2.1.1. Bất cập........................................................................................... 45
2.1.2. Một số giải pháp hoàn thiện ......................................................... 51
2.2. Bất cập và giải pháp hoàn thiện trong thực tiễn áp dụng pháp luật
về quyền đời sống riêng tƣ cá nhân ......................................................... 55


2.2.1. Bất cập trong thực tiễn áp dụng pháp luật về quyền đời sống riêng
tư cá nhân ................................................................................................ 55
2.2.2 Một số giải pháp hoàn thiện .......................................................... 61
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .............................................................................. 66
KẾT LUẬN .................................................................................................... 67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 69
PHỤ LỤC


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bảo đảm quyền con người luôn là nỗi khát khao và quan tâm của toàn nhân
loại. Cộng đồng quốc tế đã cùng nhau xây dựng nhiều văn bản pháp lý quan trọng

như Tuyên ngôn nhân quyền của Liên hợp quốc năm 1948, Công ước quốc tế về các
quyền dân sự, chính trị của Liên hợp quốc năm 1966, Công ước về quyền trẻ em
năm 1989… làm cơ sở pháp lý để bảo vệ các quyền con người. Khi xã hội ngày
càng phát triển thì vấn đề quyền con người càng được các quốc gia quan tâm và
Việt Nam cũng khơng nằm ngồi xu hướng chung đó. Trong điều kiện xây dựng
nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay, một trong những mục tiêu hàng đầu là
hoàn thiện các quy định pháp luật nhằm bảo vệ các quyền cơ bản của công dân,
trong đó có quyền đời sống riêng tư cá nhân.
Quyền đời sống riêng tư cá nhân là một trong những quyền hiến định cơ bản
và quan trọng của con người. Điều 21 Hiến pháp năm 2013 quy định “Mọi người có
quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có
quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình. Thơng tin về đời sống riêng tư, bí mật cá
nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo đảm an tồn”. Bộ luật Dân sự năm 2015
cũng đã cụ thể hóa quy định này tại Điều 38, theo đó: “Đời sống riêng tư, bí mật cá
nhân, bí mật gia đình là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ”. Ngoài ra,
một số văn bản pháp luật chuyên ngành khác như: Luật khám, chữa bệnh năm 2009,
Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm
2010, Luật An tồn thơng tin mạng năm 2015, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi,
bổ sung năm 2017), Luật Tiếp cận thơng tin năm 2016, Luật Báo chí năm 2016, …
cũng điều chỉnh một cách trực tiếp hoặc gián tiếp đến vấn đề bảo vệ quyền đời sống
riêng tư cá nhân. Như vậy, có thể thấy rằng hiện nay hệ thống pháp luật Việt Nam
đã ghi nhận và từng bước hoàn thiện các quy định hướng đến bảo vệ và đảm bảo
thực thi quyền đời sống riêng tư cá nhân.
Tuy nhiên, trong thời đại công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ như hiện
nay, việc chúng ta đưa các thông tin đời sống riêng tư cá nhân của mình lên các
trang mạng xã hội hay sử dụng vào các giao dịch trực tuyến đã dần trở nên quen
thuộc. Việc làm này một mặt giúp thuận tiện hơn trong việc sử dụng các dịch vụ
xã hội, tuy nhiên mặt trái của nó là tồn tại những nguy cơ bị người khác đánh cắp



2
thông tin đời sống riêng tư cá nhân để sử dụng vào mục đích trái pháp luật. Cùng
đó, với sự phát triển nhanh chóng của internet cũng khơng khó để tìm kiếm được
các thơng tin đời sống riêng tư cá nhân của một chủ thể nào đó trong xã hội, đặc
biệt là những đối tượng nổi tiếng như diễn viên, ca sĩ, người mẫu, chính trị gia...
Hiện nay, vấn đề xâm phạm quyền đời sống riêng tư cá nhân đã và đang diễn ra
khá phổ biến, thực tế chỉ với vài cú nhấp chuột thơng tin bí mật đời sống riêng tư
của cá nhân đã bị phơi bày, tiết lộ một cách tràn lan, khơng thể kiểm sốt. Tình
trạng nhiều tờ báo, mạng xã hội với nhiều lý do khác nhau đã tiến hành thu thập,
cập nhật, đăng tải nhiều thơng tin thuộc về bí mật đời sống riêng tư cá nhân của
các chủ thể trong xã hội một cách công khai mà không màng đến hậu quả. Khi các
thông tin đời sống riêng tư cá nhân bị đăng tải như vậy luôn tiềm ẩn những nguy
cơ dẫn đến tổn hại về tinh thần, danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân người
trong cuộc và gây ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống riêng tư của mỗi người.
Chính vì vậy, việc xác định và hiểu rõ được các phạm trù pháp lý liên quan đến
quyền đời sống riêng tư cá nhân là điều hết sức quan trọng và cần thiết cho các
chủ thể trong xã hội trước nguy cơ bị xâm hại.
Tại Việt Nam, tuy quyền đời sống riêng tư cá nhân đã được Hiến pháp năm
2013, Bộ luật Dân sự năm 2015 và một số văn bản pháp luật chuyên ngành ghi nhận
và bảo vệ, nhưng về mặt lý luận cũng như trong thực tiễn xét xử các quy định này
vẫn cịn mang tính chất chung chung và chưa thực sự rõ ràng. Chính điều này đã
gây ra nhiều khó khăn trong q trình xác định, áp dụng các quy định pháp luật liên
quan đến việc bảo vệ quyền đời sống riêng tư cá nhân, từ đó dẫn đến tình trạng
quyền đời sống riêng tư cá nhân của các chủ thể bị xâm hại nhưng vẫn chưa được
bảo vệ kịp thời trong thời gian qua. Vì vậy, việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá làm
rõ các vấn đề hạn chế, bất cập trong quy định và thực tiễn áp dụng pháp luật về
quyền đời sống riêng tư cá nhân để từ đó đưa ra những giải pháp kiến nghị hoàn
thiện là điều rất quan trọng, cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Xuất phát từ những
lý do trên, tác giả chọn đề tài “Quyền về đời sống riêng tư cá nhân theo pháp luật
Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến tình hình nghiên cứu quyền về đời sống riêng tư cá nhân đã
có một số cơng trình cứu của một số tác giả được tiếp cận ở nhiều góc độ khác
nhau như:


3
- Về nhóm tài liệu giáo trình, sách chun khảo:
+ Thái Thị Tuyết Dung (2012), “Quyền tiếp cận thông tin và quyền riêng tư
ở Việt Nam và một số quốc gia”, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
Tác giả đưa ra khái niệm và nội dung của “quyền riêng tư”, đánh giá pháp luật về
quyền riêng tư ở Việt Nam và một số quốc gia, mối quan hệ giữa quyền tiếp cận
thông tin và quyền riêng tư, từ đó đưa ra một số kiến nghị nhằm hồn thiện pháp
luật về quyền riêng tư.
+ Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2014), “Quyền con người trong
pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam”, Nxb. Hồng Đức - Hội luật gia Việt Nam.
Tài liệu đánh giá nội dung “quyền riêng tư” qua tiếp cận Tun ngơn tồn thế giới
về quyền con người (UDHR) và Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị
(ICCPR), từ đó chỉ ra được những nội dung của “quyền riêng tư” dưới góc độ pháp
luật quốc tế.
+ Nguyễn Văn Cừ, Trần Thị Huệ (2017) “Bình luận khoa học Bộ luật dân sự
năm 2015 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, Nxb. Công an nhân
dân. Trong phạm vi công trình nghiên cứu, tác giả đã đưa ra cách hiểu về “quyền
riêng tư”, “bí mật cá nhân, bí mật gia đình”, tuy nhiên tác giả cũng chỉ mới dừng lại
ở việc đánh giá chung chứ chưa đi sâu phân tích các nội hàm về quyền đời sống
riêng tư cá nhân.
- Về nhóm tài liệu luận văn, luận án:
+ Lê Đình Nghị (2009), “Quyền bí mật đời tư theo quy định của pháp luật
Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội. Trong luận án tác giả
đã nghiên cứu quyền bí mật đời tư theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005,

Hiến pháp năm 1992, đưa ra khái niệm “bí mật đời tư” cũng như đề xuất các giải
pháp nhằm bảo vệ quyền bí mật đời tư của cá nhân. Thông qua luận án, tác giả đã
khái quát cụ thể được các vấn đề về quyền nhân thân và vị trí của quyền bí mật
đời tư trong hệ thống các quyền nhân thân và bản chất pháp lý, thực tiễn của việc
bảo vệ quyền bí mật đời tư. Tuy nhiên, trong cơng trình của mình tác giả chỉ mới
tập trung vào việc nghiên cứu ở góc độ là “quyền bí mật đời tư” theo quy định của
Bộ luật Dân sự năm 2005 mà chưa có sự đề cập, phân tích, đánh giá và làm rõ các
vấn đề về “Quyền đời sống riêng tư cá nhân” theo quy định của Bộ luật Dân sự
năm 2015.


4
+ Nguyễn Thị Huyền Trang (2014), “Quyền được bảo vệ đời tư trong pháp
luật quốc tế và pháp luật Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật - Đại học Quốc
gia Hà Nội. Nội dung luận văn đã nghiên cứu so sánh các quy định pháp luật quốc
tế và pháp luật Việt Nam về quyền được bảo vệ đời tư và thực tiễn áp dụng quyền
này ở Việt Nam, đánh giá thực trạng, lý giải nguyên nhân của những tồn tại, hạn
chế trong việc bảo vệ quyền này, từ đó đưa ra các giải pháp kiến nghị hoàn thiện
nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền đời tư ở Việt Nam. Tuy nhiên, trong phạm vi
cơng trình, tác giả cũng chỉ chủ yếu tập trung vào việc phân tích, so sánh, đánh giá
về quyền được bảo vệ đời tư trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam mà
chưa có sự đề cập nhiều đến quyền đời sống riêng tư cá nhân trong hệ thống pháp
luật Việt Nam.
+ Hoàng Lê Minh (2016), “Quyền bí mật đời tư trong Hiến pháp năm 2013
và thực tiễn tại Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội. Cơng
trình nghiên cứu của tác giả đã làm sáng tỏ được một số vấn đề lý luận như khái
niệm, đặc điểm, nội dung và lịch sử phát triển của quyền bí mật đời tư trong các
bản Hiến pháp. Làm rõ được nội hàm của quyền bí mật đời tư trong luật nhân
quyền quốc tế thông qua việc nghiên cứu, đánh giá các quy định có liên quan đến
các điều ước quốc tế như: Tun ngơn tồn thế giới về quyền con người năm 1948

(UDHR), Công ước về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (ICCPR), Cơng
ước về quyền trẻ em năm 1989 (CRC)…; làm rõ được nội hàm của quyền bí mật
đời tư trong pháp luật Việt Nam thơng qua Hiến pháp, Bộ luật Dân sự, Bộ luật
Hình sự, Luật Báo chí, Luật Khám chữa bệnh, từ đó đánh giá được sự tương thích
giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế khi quy định về vấn đề này. Ngồi
ra, tác giả cũng đã phân tích, đánh giá được các vấn đề thực trạng bảo vệ quyền bí
mật đời tư ở Việt Nam, qua đó đề ra được một số giải pháp xây dựng, hoàn thiện
pháp luật, cũng như các giải pháp nâng cao hiệu quả việc bảo vệ quyền này. Tuy
nhiên, trong phạm vi cơng trình của mình, tác giả chỉ chủ yếu tập trung nghiên cứu
những vấn đề xung quanh quyền bí mật đời tư dưới góc độ quyền con người được
quy định trong Hiến pháp mà chưa đi sâu vào nghiên cứu các vấn đề về quyền đời
sống riêng tư cá nhân được quy định trong Bộ luật Dân sự 2015 và các văn bản
pháp luật có liên quan.
+ Trần Hồng Đức (2016), “Quyền riêng tư dưới góc độ lý luận và pháp
luật thực định”, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội. Tác giả tập trung


5
phân tích quyền riêng tư dưới góc độ lý luận, chỉ ra những ưu nhược điểm của hệ
thống quy định pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền riêng tư, phân tích những yếu
tố ảnh hưởng đến quyền riêng tư trong thời kỳ mới, từ đó kiến nghị những đường
lối, giải pháp tăng cường bảo vệ quyền riêng tư cá nhân tại Việt Nam. Bên cạnh
đó, tác giả cũng làm sáng tỏ được bản chất của quyền riêng tư, sự giống và khác
nhau giữa quan niệm về quyền riêng tư tại Việt Nam và thế giới, làm rõ ý nghĩa và
tầm quan trọng của quyền riêng tư, từ đó nâng cao nhận thức của mỗi cá nhân
cũng như toàn xã hội trong việc bảo vệ quyền riêng. Mặc dù, trong cơng trình
nghiên cứu của mình tác giả có đề cập đến quyền đời sống riêng tư cá nhân, tuy
nhiên việc đề cập này chỉ dừng lại ở mức độ sơ lược, chưa có sự nghiên cứu, phân
tích chun sâu về quyền này.
+ Trịnh Minh Tuấn (2018), “Bảo vệ quyền nhân thân đối với đời sống riêng

tư, bí mật gia đình”, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Kinh tế - Luật. Cơng trình
của tác giả tập trung vào việc làm rõ một số vấn đề lý luận về bảo vệ quyền nhân
thân nói chung và bảo vệ quyền đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình
nói riêng. Tác giả đã phân tích, đánh giá được các vấn đề về thực trạng bảo vệ
quyền nhân thân đối với đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình ở Việt
Nam từ đó chỉ ra một số bất cập, hạn chế và đưa ra một số giải pháp kiến nghị nhằm
hoàn thiện về vấn đề này. Tuy nhiên, trong phạm vi cơng trình nghiên cứu của
mình, tác giả chỉ tập trung vào nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo
vệ quyền nhân thân đối với đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình mà
chưa tập trung nghiên cứu đi sâu vào các vấn đề liên quan đến quyền đời sống riêng
tư cá nhân.
- Nhóm các bài viết trên tạp chí, kỷ yếu hội thảo:
+ Thái Thị Tuyết Dung (2012), “Quyền riêng tư trong thời đại công nghệ
thông tin”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 9(217). Trong bài viết, tác giả đã trình
bày sơ lược về lịch sử phát triển của quyền riêng tư, một số quan điểm của các học
giả nước ngoài về khái niệm “quyền riêng tư”, nội dung, mối quan hệ của quyền
riêng tư và quyền tiếp cận thơng tin, các mơ hình bảo vệ quyền riêng tư trên thế giới
và quyền riêng tư trong các văn bản quốc tế.
+ Nguyễn Thị Ánh Hồng (2014), “Bảo vệ quyền đảm bảo bí mật, an tồn thư
tín, điện thoại, điện tín của cơng dân trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt


6
Nam” Tạp chí Khoa học pháp lý, số 2/2014. Trong bài viết, tác giả nghiên cứu về
quyền đảm bảo bí mật, an tồn thư tín, điện thoại, điện tín dưới góc độ Điều 125 Bộ
luật hình sự năm 1999, có so sánh với pháp luật một số nước trên thế giới.
+ Lê Hà Huy Phát, Nguyễn Ngọc Hồng Phượng (2015),“Những điểm mới về
quyền nhân thân của cá nhân trong dự thảo bộ luật dân sự sửa đổi - so sánh với bộ
luật dân sự năm 2005”, Kỷ yếu tọa đàm dự thảo bộ luật dân sự (sửa đổi 2015) do
Khoa Luật dân sự Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh tổ chức năm 2015. Trong bài viết,

các tác giả đặt ra các vấn đề về khái niệm “quyền bí mật đời tư” hay “quyền của cá
nhân đối với đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình” chưa được làm rõ
trong Bộ luật dân sự năm 2015, cũng theo các tác giả thì hai khái niệm trên có sự
đồng nhất nhau.
+ Lê Văn Sua (2016), “Quyền bí mật đời tư cần được hướng dẫn”, Tạp chí
Luật sư Việt Nam, số 5/2016. Trong bài viết tác giả nghiên cứu về khái niệm “bí mật
đời tư”, “quyền bí mật đời tư” và đưa ra quan điểm cá nhân về hai khái niệm này.
+ Vũ Công Giao, Phạm Thị Hậu (2017), “Pháp luật bảo vệ quyền bí mật dữ
liệu cá nhân trên thế giới và Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số
02/2017. Các tác giả đã nghiên cứu về khía cạnh dữ liệu, quyền bảo vệ bí mật dữ
liệu cá nhân trong luật nhân quyền quốc tế, quyền bảo vệ bí mật dữ liệu cá nhân
trong pháp luật của một số quốc gia và pháp luật Việt Nam, từ đó đưa ra một số gợi
mở cho Việt Nam.
+ Thái Vĩnh Thắng (2017),“Bảo vệ quyền riêng tư ở Hoa Kỳ, Pháp và những
kinh nghiệm cho Việt Nam”, Tạp chí Luật học, số 8/2017. Bài viết phân tích cơ sở
lí luận pháp luật và thực tiễn bảo vệ quyền riêng tư ở Hoa Kỳ, Pháp và những kinh
nghiệm có thể áp dụng cho Việt Nam.
Nhìn chung các cơng trình nêu trên đã nghiên cứu, đánh giá một cách chung
nhất về quyền bí mật đời tư, quyền riêng tư, quyền bí mật dữ liệu cá nhân ở nước ta
và một số quốc gia trên thế giới, trong đó các tác giả đã có những đóng góp khoa
học quan trọng như: đưa ra khái niệm và cách tiếp cận về quyền riêng tư; phân biệt
quyền riêng tư và bí mật đời tư; các mơ hình bảo vệ quyền riêng tư trên thế giới;
khái quát về lịch sử phát triển về quyền bí mật đời tư ở Việt Nam; tìm hiểu về việc
ghi nhận và bảo hộ quyền bí mật đời tư ở một số quốc gia trên thế giới… Tuy nhiên,
nhìn nhận một cách khách quan, các cơng trình nêu trên mới chỉ dừng lại ở việc


7
đánh giá chung nhất về quyền riêng tư, bí mật đời tư dưới góc độ quyền con người.
Hơn nữa, đa phần các cơng trình nghiên cứu được thực hiện dựa trên các quy định

pháp luật đã hết hiệu lực như Hiến pháp năm 1992, Bộ luật Dân sự năm 2005… và
hiện nay các văn bản này đã được thay thế bởi các văn bản hiện hành với nhiều quy
định thay đổi. Vì vậy, các vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền đời sống riêng tư cá
nhân chưa được các tác giả nghiên cứu một cách chuyên sâu, cụ thể và tương ứng.
Trong khn khổ đề tài của mình, tác giả kế thừa có chọn lọc các cơng trình
nghiên cứu trên và có sự đánh giá, phân tích, nghiên cứu sâu hơn quyền về đời sống
riêng tư cá nhân trên cơ sở các quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 và các văn
bản pháp luật có liên quan.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Tìm ra điểm hạn chế, bất cập trong quy định pháp
luật điều chỉnh về quyền đời sống riêng tư cá nhân, chỉ ra những vướng mắc trong
việc áp dụng quyền này trên thực tế, từ đó đưa ra một số giải pháp hoàn thiện.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Làm rõ được các vấn đề về khái niệm, đặc điểm và
các hành vi xâm hại quyền đời sống riêng tư cá nhân; xác định được các nội dung
của quyền đời sống riêng tư cá nhân, cũng như làm rõ được các quy định về quyền
đời sống riêng tư cá nhân trên thế giới và Việt Nam. Đánh giá được thực trạng và
chỉ ra được những điểm hạn chế, bất cập, vướng mắc trong quy định pháp luật và
thực tiễn áp dụng quyền đời sống riêng tư cá nhân, từ đó đưa ra được một số giải
pháp nhằm hoàn thiện về quyền này ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Quyền đời sống riêng tư cá nhân trong hệ thống
pháp luật Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu quyền đời sống riêng tư cá nhân
theo quy định của pháp luật Việt Nam trên cơ sở kết hợp nghiên cứu, trích dẫn, so
sánh, đối chiếu với các quy định có liên quan của một số quốc gia trên thế giới.
+ Về thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định về quyền đời sống
riêng tư cá nhân trong các quy định pháp luật hiện hành trên cơ sở kết hợp so sánh,
đối chiếu với một số văn bản quy phạm pháp luật trước đây.



8
+ Về nội dung: Trong phạm vi đề tài, tác giả sẽ tập trung đi sâu nghiên cứu
các khía cạnh về mặt lý luận, quy định pháp luật hiện hành và thực tiễn thi hành
quyền đời sống riêng tư cá nhân theo quy định của pháp luật.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, tác giả sử dụng kết hợp nhiều phương
pháp nghiên cứu khác nhau. Cụ thể:
- Phương pháp phân tích: Được sử dụng để phân tích các khái niệm, dữ liệu,
đặc điểm, quan điểm khoa học, các quy định pháp luật về quyền đời sống riêng tư
cá nhân. Phương pháp này được dùng chủ yếu và phổ biến ở các chương.
- Phương pháp so sánh: Dùng để so sánh giữa các quy định pháp luật có liên
quan, so sánh giữa các quy định pháp luật hiện hành với các quy định pháp luật
trước đây, giữa pháp luật Việt Nam với pháp luật thế giới về quyền đời sống riêng
tư cá nhân. Phương pháp này được sử dụng ở cả hai chương của luận văn.
- Phương pháp thống kê: Được sử dụng để cung cấp các thông tin, số liệu và
dữ liệu liên quan đến quyền đời sống riêng tư cá nhân để phục vụ cho việc thực hiện
đề tài… Phương pháp này được sử dụng ở cả hai chương của luận văn.
- Phương pháp chứng minh: Được dùng để chứng minh cho những nhận định
và kiến nghị của tác giả về thực trạng pháp luật, chứng minh tính cần thiết, tính khả
thi của các kiến nghị. Phương pháp này được tác giả sử dụng chủ yếu ở chương 2.
- Phương pháp tổng hợp: Dùng để tổng hợp các kết quả phân tích, đánh giá từ
đó đưa ra kết luận. Phương pháp này được sử dụng ở cả hai chương.
- Phương pháp phân tích bản án, phương pháp logic pháp lý: Được sử dụng
để đánh giá các vấn đề pháp lý trong các bản án có liên quan đến đề tài của luận
văn, đồng thời đánh giá việc áp dụng pháp luật trong bản án.
6. Kết quả thu đƣợc sau khi nghiên cứu đề tài
- Về điểm mới: Luận văn là một cơng trình nghiên cứu chuyên sâu các vấn đề
pháp lý liên quan đến quyền đời sống riêng tư cá nhân. Hệ thống hóa được các quy
định pháp luật liên quan đến việc điều chỉnh quyền đời sống riêng tư cá nhân. Chỉ ra

được những ưu điểm, hạn chế trong quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng về
quyền đời sống riêng tư cá nhân, từ đó đưa ra được các kiến nghị hồn thiện.


9
- Đóng góp về mặt lý luận, thực tiễn: Với những kết quả nghiên cứu đạt
được, Luận văn là một cơng trình khoa học nghiên cứu một cách có hệ thống các
quy định về quyền đời sống riêng tư cá nhân, góp phần hồn thiện pháp luật về
quyền đời sống riêng tư cá nhân nói riêng và quyền nhân thân nói chung. Đồng thời,
kết quả nghiên cứu cũng có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan,
doanh nghiệp và những cá nhân, tổ chức có nhu cầu nghiên cứu, tìm hiểu về quyền
đời sống riêng tư cá nhân.
7. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, Luận
văn gồm 02 chương như sau:
- Chƣơng 1: Những vấn đề cơ bản về quyền đời sống riêng tư cá nhân.
- Chƣơng 2: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền đời sống
riêng tư cá nhân.


10
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUYỀN ĐỜI SỐNG RIÊNG TƢ CÁ NHÂN
1.1. Khái quát về quyền đời sống riêng tƣ cá nhân
1.1.1. Khái niệm quyền đời sống riêng tư cá nhân
Quyền đời sống riêng tư cá nhân (QĐSRTCN) là một trong những quyền cơ
bản và quan trọng của con người được ghi nhận tại Hiến pháp (HP) năm 20131 và
Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015.2 Mỗi người đều có QĐSRTCN, điều này được
pháp luật bảo vệ và không ai được phép xâm phạm. Tuy nhiên, hiện nay chưa có
một văn bản pháp luật nào tại Việt Nam đưa ra khái niệm về QĐSRTCN. Trong các

quyền của con người, có lẽ QĐSRTCN là một trong những quyền khó định nghĩa,
điều này phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Trong bối cảnh hiện nay, việc ghi
nhận bảo vệ QĐSRTCN được xem là một cách để hướng dẫn các chủ thể trong xã
hội hạn chế can thiệp, xâm phạm vào đời sống riêng tư cá nhân của mỗi người.
Theo cách định nghĩa của từ điển Tiếng Việt “đời sống được hiểu là không
gian sống, cách sống, cách sinh hoạt, cịn riêng tư là thuộc về một cá nhân, khơng
chung đụng với người khác”.3 Như vậy, đời sống riêng tư được hiểu là những việc
thuộc về một cá nhân trong cuộc sống hằng ngày. Đời sống riêng tư cá nhân gắn
liền với mỗi cá nhân, đó có thể là những thơng tin về hình ảnh, cuộc sống gia đình,
tình cảm, con cái, tên gọi, các mối quan hệ, các loại thư tín… Mỗi người đều có một
đời sống riêng tư cá nhân riêng và được quyền tự quyết định đối với đời sống riêng
tư cá nhân của mình mà khơng phải chịu bất kỳ sự can thiệp nào từ những người
xung quanh bởi đời sống riêng tư cá nhân bao gồm những lợi ích tinh thần của cá
nhân có mối liên hệ với tài sản hoặc khơng có mối liên hệ với tài sản và là quyền
nhân thân của mỗi người.
Đời sống riêng tư là khái niệm rộng, bao gồm tập hợp các yếu tố tạo thành
nét riêng biệt đặc thù, độc lập của mỗi cá nhân, không thể trộn lẫn và hòa tan vào
đời sống riêng của người khác.4 Đời sống riêng tư cá nhân được hình thành trong
quá trình sống, thời gian sống, sự trải nghiệm trong các quan hệ xã hội và mang dấu

1

Điều 21 HP năm 2013.
Điều 38 BLDS năm 2015.
3
Từ điển Tiếng Việt (1999), Nhà xuất bản Văn hóa Thơng tin, tr.58.
4
Phùng Trung Lập (2019), “Cơ sở pháp lý bảo đảm quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia
đình”, Tạp chí dân chủ và pháp luật, số 7 (328), tr.14.
2



11
ấn riêng của cá nhân. Bản thân của mỗi cá nhân thường chủ động trong đời sống
riêng tư của mình thơng qua việc tự mình quyết định thực hiện các hành vi khác
nhau để phục vụ cho đời sống của riêng mình và thường khơng muốn chia sẻ, bộc lộ
cho người khác biết và người khác cũng không được phép tác động vào đời sống
riêng tư của mỗi cá nhân. Tính chất đời sống riêng tư của mỗi cá nhân là khơng
giống nhau cho dù có thể cùng chung sống trong một mơi trường, hồn cảnh xã hội
như nhau. Việc xác định các yếu tố tạo nên đời sống riêng tư cá nhân sẽ là căn cứ để
xác định được những quyền riêng tư của cá nhân được pháp luật bảo vệ và đảm bảo
thực hiện.
Quyền về đời sống riêng tư cá nhân là quyền do luật định, việc thực hiện
quyền này và mức độ thực hiện đến đâu là do chính cá nhân tự định đoạt bằng
hành vi của chính mình, vì mình và tự do hưởng dụng những lợi ích nào đó cho
riêng mình, chỉ là của mình và không ai được xâm phạm. Với quyền này, cá nhân
được sống như mong muốn của mình mà khơng phải chịu ảnh hưởng, tác động từ
các chủ thể, trừ những trường hợp luật định. Cá nhân được phép giữ kín những
thông tin, tư liệu, dữ liệu gắn liền với cuộc sống riêng tư của mình, được quyền
bất khả xâm phạm về thân thể, về nơi ở, thư tín, điện thoại, điện tín và các thơng
tin điện tử khác mà khơng một chủ thể nào có quyền tiếp cận, cơng khai trừ trường
hợp được chính người này đồng ý hoặc được bằng quyết định của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.
Từ những nội dung đề cập phân tích đánh giá nêu trên có thể hiểu QĐSRTCN
là một phạm trù pháp lý nhằm đảm bảo cho cá nhân thực hiện được các lựa chọn cho
mình cách sống, cách thể hiện chức năng để đạt được ước vọng, điều kiện sống nhằm
thỏa mãn những nhu cầu sống trên cơ sở hành động phù hợp với quy định của pháp
luật về đời sống riêng tư cá nhân. Hiểu một cách cụ thể hơn, QĐSRTCN là quyền của
cá nhân tự mình hành xử các hành vi nhằm đáp ứng trực tiếp nhu cầu sống độc lập
theo cách lựa chọn của bản thân mà không ai được phép can thiệp, tác động.

1.1.2. Đặc điểm quyền đời sống riêng tư cá nhân
Như đã phân tích ở phần khái niệm, QĐSRTCN là một trong những quyền cơ
bản và quan trọng của mỗi người. Thông qua quyền này mỗi cá nhân được quyền tự
quyết định đời sống riêng tư của mình trên cơ sở phù hợp với quy định pháp luật và
không bị can thiệp, xâm hại bởi bất cứ chủ thể nào nếu việc can thiệp đó là trái với


12
quy định pháp luật. Do đó, việc xác định, nhận diện các đặc điểm của QĐSRTCN rất
quan trọng và cần thiết, là cơ sở để giúp các chủ thể phân biệt được QĐSRTCN với
các quyền dân sự khác. Từ bản chất của quyền này, có thể rút ra được QĐSRTCN có
những đặc điểm nhận dạng sau:
Thứ nhất: QĐSRTCN là quyền nhân thân, gắn liền với mỗi cá nhân.
QĐSRTCN là quyền mang tính chất vơ hình, khơng định dạng ở một trạng thái vật
chất và khi đã hình thành thì sẽ ghi đậm dấu ấn của cá nhân. QĐSRTCN có thể vĩnh
viễn, bất biến và có giá trị về nhân thân gắn liền với mỗi cá nhân và không xác định
được bằng tiền. Về cơ bản chủ sở hữu QĐSRTCN thường chỉ được hưởng lợi ích tinh
thần mà khơng được hưởng các lợi ích vật chất, những lợi ích vật chất mà chủ thể
được hưởng do giá trị tinh thần mang lại. QĐSRTCN thường được xác lập dựa trên
những cơ sở quy định của pháp luật và các chủ thể có nghĩa vụ tôn trọng giá trị đời
sống riêng tư được bảo vệ của mỗi cá nhân. Mỗi cá nhân có một đời sống riêng tư
riêng, đó là quyền của họ và không chuyển giao cho các chủ thể khác bởi đời sống
riêng tư cá nhân là những yếu tố xác định tạo nên dấu ấn cá nhân không thể trộn lẫn,
khơng thể hịa nhập với đời sống riêng tư của cá nhân khác. QĐSRTCN gắn liền với
bản thân và cuộc sống riêng tư của mỗi cá nhân có liên quan mật thiết đến danh dự,
nhân phẩm, uy tín của người đó. Vì vậy, QĐSRTCN do mỗi cá nhân tự lựa chọn và
quyết định, điều này phụ thuộc vào quan niệm sống của từng cá nhân, cá nhân có thể
lựa chọn cho mình một cách sống, cách thể hiện để tự thỏa mãn, đáp ứng được nhu
cầu sống độc lập riêng tư của bản thân.
Thứ hai: QĐSRTCN chứa đựng những thông tin mang tính bí mật. Tính bí

mật của thơng tin đời sống riêng tư cá nhân này có thể được xác định theo nhiều
tiêu chí khác nhau như:5
(i) Xác định theo bản chất của thơng tin đó hoặc thơng qua những hình thức
chứa đựng thơng tin, truyền thơng tin cụ thể để xác định đó là thơng tin bí mật. Ví dụ
như cảm xúc vui buồn của một cá nhân được thể hiện trực tiếp trước các chủ thể thì
khơng được xem là bí mật đời sống riêng tư cá nhân nhưng nếu cảm xúc đó được cá
nhân ghi vào nhật ký thì đây được coi là bí mật đời sống riêng tư cá nhân và không
được phép công bố. Hoặc khi hai cá nhân nói chuyện điện thoại, gửi thư cho nhau thì
mặc nhiên nội dung của cuộc điện thoại hoặc những bức thư là mang tính bí mật.
5

Hồng Lê Minh (2016), Bí mật đời tư trong Hiến pháp năm 2013 và thực tiễn tại Việt Nam, Luận văn thạc
sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr12-14.


13
(ii) Xác định theo quy định của pháp luật. Hiện nay, pháp luật không thể dự
liệu và liệt kê được tồn bộ những thơng tin liên quan đến đời sống riêng tư cá
nhân mà chỉ có thể khái quát và cụ thể hóa trong một số trường hợp cụ thể. Chẳng
hạn như tại khoản 5 Điều 8 Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy
giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) năm 2006 quy định nghiêm cấm
hành vi cơng khai tên, địa chỉ, hình ảnh của người nhiễm HIV hoặc tiết lộ cho
người khác biết việc một người nhiễm HIV khi chưa được sự đồng ý của người
đó, trừ trường hợp luật định. Hay tại Điều 8 Luật Khám chữa bệnh năm 2009 quy
định người bệnh có quyền được giữ bí mật thơng tin về tình trạng sức khỏe và đời
tư được ghi trong hồ sơ bệnh án và các thông tin này chỉ được phép công bố khi
người bệnh đồng ý hoặc để chia sẻ thơng tin, kinh nghiệm nhằm nâng cao chất
lượng chẩn đốn, chăm sóc, điều trị người bệnh giữa những người hành nghề
trong nhóm trực tiếp điều trị cho người bệnh hoặc trong trường hợp khác được
pháp luật quy định. Hoặc tại khoản 3 Điều 33 Luật Phòng chống bệnh truyền

nhiễm năm 2007 quy định thầy thuốc và nhân viên y tế trong phòng lây nhiễm
bệnh truyền nhiễm tại các cơ sở khám chữa bệnh phải có trách nhiệm giữ bí mật
thơng tin liên quan đến người bệnh. Ở khía cạnh này có một vấn đề đặt ra là các
thơng tin về tên tuổi, hình ảnh, lịch trình đi lại của các cá nhân bị dương tính với
Covid-19 có được xem là thông tin thuộc về đời sống riêng tư cá nhân và có bắt
buộc phải giữ bí mật hay khơng. Câu trả lời ở đây là có bởi vì các thơng tin về tên
tuổi, hình ảnh, lịch trình đi lại là những thông tin riêng tư cá nhân của mỗi người,
họ có quyền được giữ bí mật và được pháp luật bảo vệ, các chủ thể khác phải tôn
trọng và không được tự ý công bố công khai nếu như không có sự đồng ý của họ.
Điều này là cần thiết và phù hợp với những chủ thể có ý thức tuân thủ pháp luật về
phòng chống dịch bệnh truyền nhiễm, cịn đối với các chủ thể khơng chủ động,
trung thực và cố tình trốn tránh trách nhiệm phịng chống bệnh tật thì vấn để đảm
bảo QĐSRTCN của họ trong trường hợp này cần phải được hạn chế bởi dịch
Covid-19 là một đại dịch tồn cầu, có tốc độ lây lan nhanh và tính chất nguy hiểm
rất cao vì vậy địi hỏi các quốc gia trong đó có Việt Nam cần phải có sự kiểm sốt
chặt chẽ để hạn chế thấp nhất mức thiệt hại có thể xảy ra. Chính vì vậy, trong
trường hợp này việc công bố các thông tin về người bị dương tính với Covid-19 là
điều cần thiết bởi nếu khơng cơng bố kịp thời thì có thể sẽ gây nguy hại cho cộng
đồng, xã hội. Tuy nhiên, việc công bố thông tin ở đây là phải nhằm vào mục đích
phục vụ cho việc phịng tránh, kiểm sốt dịch bệnh chứ không phải nhằm vào mục


14
đích xúc phạm, lăng mạ, sỉ nhục người có thơng tin bị cơng bố hoặc phục vụ vào
các mục đích xấu khác. Như vậy, có thể thấy rằng QĐSRTCN là quyền lợi hợp
pháp, chính đáng của mỗi cá nhân và cần phải được bảo vệ, tuy nhiên cũng cần
phải đảm bảo rằng lợi ích cá nhân phải đặt trong mối quan hệ với lợi ích cộng
đồng, lợi ích quốc gia nên việc công bố thông tin cá nhân của những người bị
dương tính Covid-19 trong trường hợp những người này cố tình trốn tránh thực
hiện trách nhiệm và nghĩa vụ của mình trong việc phịng chống dịch bệnh truyền

nhiễm là điều cần thiết và phù hợp.
(iii) Xác định khi chủ sở hữu thông tin áp dụng các biện pháp bảo mật. Biện
pháp bảo mật được hiểu là các cách thức mà người sở hữu thông tin sử dụng để
chống lại sự tiếp cận, xâm nhập và can thiệp trái phép các thông tin đời sống riêng
tư cá nhân của họ từ các chủ thể khác. Trường hợp chủ sở hữu cho rằng người khác
cung cấp, tiết lộ thông tin đời sống riêng tư cá nhân nhưng không được sự đồng ý
của họ thì việc cung cấp, tiết lộ này được xem là hành vi xâm phạm bí mật đời sống
riêng tư cá nhân của chủ sở hữu thông tin. Bởi bản thân của chủ sở hữu thông tin
trong trường hợp này không muốn cho người khác tiếp cận, cung cấp, công bố, tiết
lộ các thông tin liên quan đến đời sống riêng tư cá nhân của họ, việc có tiết lộ hay
khơng do chính bản thân chủ sở hữu đó quyết định.
(iv) Xác định thông qua quan hệ nghĩa vụ giữa chủ sở hữu thông tin đời sống
riêng tư cá nhân với các chủ thể khác. Trong quan hệ nghĩa vụ này giữa chủ sở hữu
thông tin và những người biết được thơng tin đó có sự thỏa thuận về nghĩa vụ bảo
mật. Theo đó, những người biết được thơng tin đời sống riêng tư cá nhân do chủ sở
hữu cung cấp phải có nghĩa vụ giữ bí mật thơng tin mình đã biết, tuyệt đối khơng
được tự ý cung cấp, công khai các thông tin do chủ sở hữu cung cấp khi chưa có sự
đồng ý của họ. Ví dụ như khi tham gia vào các quan hệ xác lập, thực hiện hợp đồng,
các bên trong hợp đồng không được tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư cá nhân
của nhau mà mình đã biết được trong quá trình xác lập, thực hiện hợp đồng, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác;6 hoặc khi tham gia vào quan hệ hợp đồng dịch vụ,
bên cung ứng có nghĩa vụ phải giữ bí mật thơng tin mà mình biết được trong thời
gian thực hiện công việc, hoặc trong quan hệ ủy quyền bên được ủy quyền phải giữ
bí mật thơng tin mà mình biết được trong khi thực hiện việc ủy quyền7.
6
7

Khoản 4 Điều 38 BLDS năm 2015.
Khoản 4 Điều 565 BLDS năm 2015.



15
Những thông tin đời sống riêng tư cá nhân sẽ khơng được coi là bí mật nếu
có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích cơng cộng, lợi ích quốc gia, đến quyền và lợi ích
hợp pháp của người khác. Trong những trường hợp này, việc công bố thông tin đời
sống riêng tư cá nhân mặc dù không được sự cho phép của chủ sở hữu thông tin
nhưng vẫn được xem là khơng vi phạm QĐSRTCN, thậm chí trong những trường
hợp trên nếu thơng tin khơng được bộc lộ thì có thể bị xem là cố ý che giấu và bị coi
là hành vi phạm tội.
Thứ ba: QĐSRTCN chứa đựng những thơng tin, tư liệu có ý nghĩa đối với cá
nhân chủ sở hữu, việc công bố, tiết lộ những thông tin, tư liệu về đời sống riêng tư
cá nhân sẽ tạo ra sự bất lợi đối với chủ thể sở hữu. Các thơng tin dữ liệu liên quan
đến QĐSRTCN đóng vai trò rất quan trọng đối với mỗi chủ thể. Mức độ xác định
tầm quan trọng của các thông tin, tư liệu đối với các cá nhân là khác nhau, điều này
tùy thuộc vào quan niệm sống, phong tục, tập quán, văn hóa, nghề nghiệp của mỗi
người. Có thể đối với người này thì thơng tin, tư liệu đó được xác định là không
quan trọng nhưng đối với người khác thì lại đóng vai trị rất quan trọng vì có ảnh
hưởng trực tiếp đến đời sống riêng tư cá nhân của họ. Do đó, việc cơng bố, tiết lộ
các thơng tin, tư liệu đời sống riêng tư cá nhân sẽ gây ra nhiều bất lợi khác nhau cho
chủ sở hữu, đó có thể là những bất lợi về kinh tế, bất lợi trong sinh hoạt cuộc sống
hằng ngày hoặc bất lợi trong cơng việc. Ví dụ như khi bí mật thông tin đời sống
riêng tư cá nhân bị tiết lộ có thể làm cho bản thân người có thơng tin bị tiết lộ bị
giảm sút thu nhập, gánh chịu áp lực dư luận, khủng hoảng tinh thần, mất việc, thậm
chí gặp nhiều khó khăn trong quan hệ với đồng nghiệp, gia đình và những người
liên quan, cuộc sống bị xáo trộn.
Thứ tư: QĐSRTCN được pháp luật bảo vệ. Đây là quyền nhân thân bất khả
xâm phạm của mỗi cá nhân, không ai được xâm phạm đến đời sống riêng tư cá nhân
khi chưa được cá nhân đó đồng ý và cho phép. Hiện nay, QĐSRTCN được cả pháp
luật quốc gia và pháp luật quốc tế ghi nhận và bảo vệ. Tại Việt Nam, QĐSRTCN đã
được ghi nhận và bảo vệ trong HP năm 2013, BLDS năm 2015 và một số văn bản

pháp luật chuyên ngành. Có thể thấy rằng, QĐSRTCN không những được ghi nhận là
một quyền dân sự, mà còn là khả năng khách quan để mọi cá nhân được hưởng các
quyền này. QĐSRTCN được pháp luật bảo vệ ở một khoảng khơng gian rất rộng,
theo đó QĐSRTCN được bảo vệ không chỉ trong cuộc sống hằng ngày tại khơng gian
cư trú mà cịn có thể được đảm bảo ở môi trường xung quanh. Với sự ghi nhận và bảo


16
vệ, trong phạm vi QĐSRTCN, cá nhân được tự mình hành xử các hành vi nhằm đáp
ứng trực tiếp nhu cầu sống độc lập theo cách lựa chọn của bản thân trên cơ sở không
làm phiền ai và không muốn ai làm phiền mình. Đồng thời, cá nhân được tự ngăn
chặn các hành vi cản trở đến đời sống riêng tư của mình và có quyền khởi kiện khi
đời sống riêng tư của mình bị người khác cản trở xâm hại. Hơn nữa, QĐSRTCN còn
được ghi nhận và bảo vệ trong suốt cuộc đời của mỗi cá nhân và ngay kể khi cá nhân
đã chết hoặc bị tuyên bố là đã chết. Khi cá nhân chết những thông tin, tư liệu về đời
sống riêng tư liên quan đến cá nhân này vẫn được pháp luật bảo vệ bởi điều đó có ảnh
hưởng trực tiếp đến đời sống, sinh hoạt của những người thân thích của họ. Việc thu
thập, cơng bố thông tin, tư liệu đời sống riêng tư của cá nhân đã chết chỉ được thực
hiện khi được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người đại diện của người
đó đồng ý.
Như vậy, so với các quyền dân sự khác, QĐSRTCN là một quyền nhân thân,
gắn liền với mỗi cá nhân, chứa đựng những thơng tin bí mật có ý nghĩa quan trọng
đối với người sở hữu và được pháp luật bảo vệ. Đây cũng chính là những đặc điểm
để giúp nhận diện, xác định được QĐSRTCN so với các quyền dân sự khác.
1.1.3. Các hành vi xâm hại quyền đời sống riêng tư cá nhân
QĐSRTCN là một quyền dân sự có phạm vi rất rộng và được ghi nhận trong
nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Căn cứ theo Điều 38 BLDS năm 2015, các hành
vi vi phạm QĐSRTCN gồm:
(1) Hành vi thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến đời
sống riêng tư cá nhân nhưng không được sự đồng ý của người đó.

Đời sống riêng tư cá nhân là những sự việc, thông tin, quan hệ liên quan đến
cá nhân mà người đó giữ cho riêng mình. QĐSRTCN của mỗi người được thể hiện
thông qua sự chủ động, tự do và tự mình thực hiện các hành vi để phục vụ cho đời
sống của riêng họ. Sự khép kín đời sống riêng tư của mỗi cá nhân được thể hiện ở
việc cá nhân không muốn chia sẻ, bộc lộ cho người khác biết về những thông tin
liên quan đến đời sống riêng tư của mình. Theo đó, mỗi cá nhân sẽ tự mình quyết
định việc có cơng khai các thơng tin đời sống riêng tư cá nhân của mình hay khơng.
Việc cơng khai này sẽ phụ thuộc vào ý chí của các cá nhân mà không ai được quyền
can thiệp, tác động hoặc xâm phạm bởi đời sống riêng tư cá nhân là quyền nhân
thân gắn liền với mỗi cá nhân nên sẽ do các cá nhân tự quyết định.


17
Ví dụ theo như bản án số 287/2019/DS-ST ngày 21/10/2019 về việc tranh
chấp bồi thường thiệt hại do danh dự nhân phẩm uy tín bị xâm hại giữa bà Nguyễn
Thị C với Bệnh viện Y. Với vai trò là bị đơn bà C cho rằng Bệnh viện Y đã vi phạm
quyền đời sống riêng tư bí mật cá nhân của bà. Theo đó, ngày 26/06/2018, Bệnh
viện Y tổ chức họp báo vào lúc 15:00 cơng bố tồn bộ hồ sơ bệnh án và thông tin cá
nhân của bà C cho các cơ quan báo chí và phương tiện truyền thơng mà chưa có bất
kỳ sự đồng ý nào của bà C. Theo bà C việc Bệnh viện Y tự ý công bố hồ sơ bệnh án
và thông tin cá nhân của bệnh nhân đã vi phạm nghiêm trọng nguyên tắt khám bệnh,
chữa bệnh tại khoản 2 Điều 3 của Luật Khám chữa bệnh năm 2009 và Quyền được
tơn trọng bí mật đời sống riêng tư cá nhân. Tuy nhiên, sau đó Tịa án đã bác bỏ và
cho rằng đây khơng phải là thơng tin bí mật đời sống riêng tư cá nhân vì bà C là
người đầu tiên và là người chủ động tiết lộ các thông tin cá nhân, tình trạng bệnh,
quá trình điều trị của mình tại bệnh viện Y lên Facebook cá nhân để mọi người chia
sẻ, lan truyền các thơng tin này nên khơng cịn là thơng tin bảo mật/bí mật đời sống
riêng tư.8 Tuy nhiên, theo quan điểm của mình, tác giả khơng đồng tình với quan
điểm của Tòa án bởi theo quy định tại Điều 8 Luật Khám chữa bệnh năm 2009 thì
người bệnh có quyền được giữ bí mật thơng tin về tình trạng sức khỏe và đời tư

được ghi trong hồ sơ bệnh án và các thông tin này chỉ được phép công bố khi người
bệnh đồng ý hoặc để chia sẻ thơng tin, kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng chẩn
đốn, chăm sóc, điều trị người bệnh giữa những người hành nghề trong nhóm trực
tiếp điều trị cho người bệnh. Đồng thời, theo quy định tại Điều 59 Luật Khám chữa
bệnh năm 2009 thì hồ sơ bệnh án là tài liệu y học, y tế và pháp lý; mỗi người bệnh
chỉ có một hồ sơ bệnh án trong mỗi lần khám bệnh, chữa bệnh tại cơ sở khám bệnh,
chữa bệnh và sẽ được lưu trữ theo các cấp độ mật của pháp luật về bảo vệ bí mật
nhà nước. Như vậy, có thể thấy rằng hồ sơ bệnh án là thơng tin cực kỳ bí mật và
nhạy cảm của mỗi cá nhân, do đó, việc bệnh viện Y cung cấp thơng tin bệnh án của
bà C trên báo chí mà khơng được sự đồng ý của bà là vi phạm nghiêm trọng quyền
và lợi ích hợp pháp của bà C. Cịn việc Tòa án cho rằng bà C là người chủ động tiết
lộ thơng tin về tình trạng bệnh nên khi bệnh viện Y công bố hồ sơ bệnh án của bà C
là khơng cịn vi phạm về quyền đảm bảo bí mật đời sống riêng tư cá nhân là khơng
phù hợp bởi lẽ những thông tin trong hồ sơ bệnh án là thơng tin thuộc về bí mật
riêng tư của bà C và điều này cần phải được giữ bí mật theo quy định tại Điều 8
Luật Khám chữa bệnh năm 2009 vì vậy bệnh viện khơng được tự ý thực hiện.
8

Xem nội dung Bản án tại Phụ lục số 1.


18
Về nguyên tắc, các chủ thể khác không được phép tùy tiện tự ý thực hiện các
hành vi thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai các thông tin liên quan đến đời sống
riêng tư của một cá nhân, trừ những trường hợp được pháp luật cho phép thu thập,
công bố thông tin, tư liệu về đời tư của cá nhân để phục vụ cho các lợi ích hợp pháp
khác cao hơn. Tuy nhiên, đối với các trường hợp được pháp luật cho phép thì cũng
khơng được phép thực hiện một cách tùy tiện mà chỉ được thực hiện khi có quyết
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và khi công bố thông tin đời sống riêng
tư của cá nhân trong trường hợp này thì cũng ln phải tuân thủ nguyên tắc tôn

trọng, bảo vệ quyền dân sự, trong đó có quyền bảo vệ danh dự, nhân phẩm của cá
nhân đó theo quy định tại Điều 34 BLDS năm 2015. Hiện nay, trên thực tế, với tốc
độ phát triển nhanh chóng của mạng xã hội đã dẫn đến tình trạng xâm phạm đến
QĐSRTCN diễn ra khá phổ biến, nhiều chủ thể lợi dụng quyền tự do ngôn luận, tự
do báo chí đã tiến hành tự ý thu thập sử dụng, công khai các thông tin liên quan đến
đời sống riêng tư của các cá nhân. Điều này không chỉ gây ảnh hưởng, xáo trộn đến
đời sống riêng tư của mỗi người mà còn xâm phạm đến quyền lợi chính đáng của cá
nhân được pháp luật bảo vệ.
Tiêu biểu như trường hợp của ơng Ngơ Văn Khánh - Phó Tổng Thanh tra
Chính phủ bị báo Người cao tuổi tự ý thu thập sử dụng, công khai các thông tin liên
quan đến đời sống riêng tư của ông Khánh mà khơng có cơ sở rõ ràng và cũng
khơng được sự đồng ý của ơng Khánh. Theo đó, ngày 15/1/2014, báo Người cao
tuổi số 9 (1326) có đăng bài “Về kết luận thanh tra Tập đồn Điện lực Việt Nam
(EVN)” có dẫn ơng Ngơ Văn Khánh, Phó Tổng Thanh tra Chính phủ “cắt giảm” hơn
6.000 tỉ đồng vi phạm. Ngày 21/1/2014 báo tiếp tục đăng bài trên số 12 (1329) “Kí
kết luận thanh tra, ơng Ngơ Văn Khánh, Phó Tổng TTCP cắt giảm những khoản gì
trong vi phạm của EVN cần xử lý?”. Báo dẫn ra rằng ông Ngô Văn Khánh đã kê
khai ơng và gia đình sở hữu các bất động sản gồm hai ngôi nhà và một mảnh đất.
Hai nhà được nói là của ơng đều ở quận Hồng Mai, Hà Nội và đều đã xây 5 tầng:
nhà thứ nhất diện tích 114m2 đất, và nhà thứ hai diện tích 248m2 đất. Cịn mảnh đất
của ơng Ngơ Văn Khánh rộng tới 1.800m2, nằm trong khuôn khổ dự án Mê Linh
gần đền Hai Bà Trưng, Hà Nội, giá đất tại Mê Linh trong thời điểm hiện nay là 10
triệu – 15 triệu đồng/m2; có nghĩa riêng mảnh đất này đã có giá trị ít nhất 18 tỷ
đồng. Ơng Khánh cịn có tài khoản trị giá trên 7 tỷ đồng tiền gửi tại Ngân hàng VIB
và nhiều cổ phiếu tại bốn ngân hàng và hai công ty khác. Báo cũng đăng kèm hình


19
ảnh các ngôi nhà của ông Khánh tuy nhiên báo không dẫn được nguồn về các thông
tin trên.9 Trước sức ép của dư luận, đại diện báo này cũng kiên trì lập luận báo chí

đang đi theo tinh thần nghị quyết Trung ương 3, Trung ương 5 về phòng chống
tham nhũng của Đảng và xuất phát từ nhiệm vụ của báo chí là giám sát và phản biện
xã hội. Từ vụ việc trên có thể thấy rằng việc đăng bài công khai về các thông tin của
ông Ngô Văn Khánh của báo Người cao tuổi đã vi phạm nghiêm trọng QĐSRTCN
của ông Khánh. Bởi các thông tin về tài sản của ông Khánh được báo thu thập, sử
dụng, công bố cơng khai nhưng khơng có sự đồng ý của ơng Khánh, cũng không
được sự cho phép của cơ quan tổ chức có thẩm quyền do đó trong trường hợp này
báo người cao tuổi đã vi phạm QĐSRTCN của ông Khánh. Theo quy định tại khoản
5 Điều 9 Luật Báo chí năm 2016, hành vi tiết lộ thơng tin bí mật đời tư của cá nhân
mà không được sự cho phép của cá nhân đó hoặc của các cơ quan có thẩm quyền thì
được xem là hành vị bị nghiêm cấm. Tuy nhiên, ở đây phải chăng báo chí nhầm lẫn
giữa 2 loại quyền tự do thông tin và quyền đời tư cá nhân hay lợi dụng sự giao thoa
của 2 quyền này để viện cớ vào tinh thần chống tham nhũng của Đảng để can thiệp
vào đời tư người dân nhằm mục đích khác. Hơn nữa, ở đây mặc dù nêu ra các thông
tin nhưng báo lại không dẫn được nguồn điều này chứng tỏ các thông tin do báo đưa
ra chưa có cơ sở khẳng định là đúng, là chính thức điều này gây ảnh hưởng nghiêm
trọng đến đời sống riêng tư của ơng Khánh. Như vậy, có thể thấy rằng báo chí có
quyền nhận diện, phanh phui các hành vi vi phạm nhưng phải trong khuôn khổ của
pháp luật tránh hiện tượng xâm phạm đến QĐSRTCN như trên.
Hay trường hợp trên mạng xã hội xuất hiện Giấy chứng nhận kết hôn của bà
Lê Thị Thu S. (61 tuổi) và chồng là ông Triệu Hoa C. (26 tuổi) thường trú tại
phường Sơng Bằng, TP. Cao Bằng. Vì độ chênh lệch tuổi tác quá lớn nên việc kết
hôn giữa bà S và ông C đã trở thành đề tài khiến dân mạng bàn tán sơi nổi, trong đó
có khơng ít những bình luận khiếm nhã, ác ý, miệt thị. Điện thoại của hai người liên
tục bị số máy lạ gọi đến quấy rối, đời sống riêng tư của họ bị xâm hại nặng nề. Điều
này đã làm cho người trong cuộc bị suy sụp tinh thần vì phải gánh chịu áp lực quá
lớn từ dư luận. Cuối cùng vì quá bức xúc, bà S cùng chồng đã làm đơn tố cáo cán
bộ tư pháp phường Sơng Bằng vì cho rằng người này đã để lộ hình ảnh Giấy chứng
nhận kết hôn của vợ chồng bà trên mạng xã hội, trong khi vợ chồng bà cịn chưa
9


Văn Quang, “Đến lượt Phó tổng thanh tra đương chức bị tố”, />/html/vq106.htm, truy cập lần cuối ngày 08/11/2019.


×