Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Một số biện pháp giáo dục kĩ năng sống thông qua môn tiếng việt cho học sinh lớp 3a ở trường tiểu học đông hưng, thành phố thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.77 KB, 22 trang )

1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục là nền tảng trong sự nghiệp của quốc gia, góp phần đưa đất
nước hòa nhập với các nước phát triển. Các nhà giáo dục – những người truyền
đạt cho thế hệ học sinh không chỉ chú ý đến truyền thụ tri thức, mà quan trọng
hơn là phải biết dạy cách học, cách nghiên cứu, kích thích người đọc chủ động,
sáng tạo, tích cực trong hoạt động học tập. Đứng trước sự phát triển nhanh
chóng của nhiều lĩnh vực xã hội thì giáo dục thời đại mới đã và đang phấn đấu
đổi mới về nội dung, chất lượng, phương pháp sao cho vừa đào tạo nhân lực,
vừa tạo kỹ năng sống cho học sinh. Vì vậy, giáo dục Việt Nam đã đưa vào dạy
môn Tiếng Việt kết hợp với dạy kỹ năng sống cho trẻ. Điều này giúp cho học
sinh hoàn thiện hơn về nhân cách, hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập của mình,
biết ứng xử có văn hóa, biết cách xử lý những tình huống xảy ra trong cuộc
sống.
Ngay từ lúc sinh ra, gia đình và mơi trường xung quanh đã cho các em
những kỹ năng sống cơ bản. Nhưng điều đó vẫn chưa đủ. Vì thế, các em khi
đến trường sẽ được rèn luyện một số kỹ năng sống khác cần thiết và hồn thiện
hơn. Thơng qua các bài học trong từng phân môn Tập đọc, Luyện từ và câu,
Tập làm văn trong Tiếng Việt, các câu truyện ngụ ngôn hay những mẩu chuyện
sẽ giúp học sinh được mở mang khơng chỉ về tri thức mà cịn cả về hành động,
nhận thức của các em. Các bài học được lồng ghép vào đó các kỹ năng sẽ tạo
hứng thú hơn cho các em khi học.
Nhiều nghiên cứu đã cho phép đi đến kết luận là trong các yếu tố quyết
định sự thành công của con người, kỹ năng sống góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục phát triển tồn diện cho học sinh. Ba thành tố hợp thành năng
lực của con người là: kiến thức, kỹ năng và thái độ. Hai yếu tố sau thuộc về kỹ
năng sống, có vai trị quyết định trong việc hình thành nhân cách, bản lĩnh, tính
chun nghiệp…Thành cơng chỉ thực sự đến với những người biết thích nghi
để làm chủ hồn cảnh và có khả năng chinh phục hồn cảnh. Vì vậy, kỹ năng
sống sẽ là hành trang không thể thiếu. Biết sống, làm việc và thành đạt là ước
mơ không quá xa vời, là khát khao chính đáng của những ai biết trang bị cho


mình những kỹ năng sống cần thiết và hữu ích. Kỹ năng sống tốt thúc đẩy thay
đổi cách nhìn nhận bản thân và thế giới, tạo dựng niềm tin, lịng tự trọng, thái
độ tích cực và động lực cho bản thân, tự mình quyết định số phận của mình. Kỹ
năng sống giúp giải phóng và vận dụng năng lực tiềm tàng trong mỗi con người
để hoàn thiện bản thân, tránh suy nghĩ theo lối mòn và hành động theo thói
quen trên hành trình biến ước mơ thành hiện thực. Q trình hội nhập với thế
giới địi hỏi phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, ngoài kiến thức chuyên
môn, yêu cầu về các kỹ năng sống ngày càng trở nên quan trọng. Thiếu kỹ năng
sống con người dễ hành động tiêu cực, nơng nổi. Đây là những ích lợi mà kỹ
năng sống đem lại cho con người và nó càng cần thiết khi đưa vào dạy học
ngay từ học sinh Tiểu học. Do đó tơi chọn đề tài: “Một số biện pháp giáo dục
kỹ năng sống thông qua môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 3A ở trường Tiểu
học Đơng Hưng, Thành phố Thanh Hóa”
1


1.2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu và tìm hiểu thực trạng về kỹ năng sống của học
sinh lớp 3A do tơi phụ trách giảng dạy, từ đó có những phương pháp và biện
pháp tích cực tác động đến học sinh trong quá trình hình thành một số kỹ năng
sống cho các em thông qua việc dạy lồng ghép trong mơn Tiếng Việt, góp phần
nâng cao chất lượng dạy học và giáo dục trong nhà trường Tiểu học Đông
Hưng hiện nay.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu thực trạng dạy kĩ năng sống tại trường Tiểu học Đông Hưng.
- Nghiên cứu một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống thông qua môn Tiếng
Việt cho học sinh lớp 3A ở trường Tiểu học Đông Hưng năm học 2020-2021.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
1.4.1. Phương pháp nghiên cứu lí thuyết:

Nghiên cứu sách, báo, tạp chí giáo dục...có liên quan đến nội dung đề tài
1.4.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn :
- Dự giờ trao đổi ý kiến với đồng nghiệp về nội dung và phương pháp dạy
lồng ghép kỹ năng sống trong môn Tiếng Việt.
- Rút kinh nghiệm trong quá trình dạy học.
1.4.3.Phương pháp điều tra, thống kê:
Điều tra để nắm đặc điểm tình hình của lớp, thực trạng về kỹ năng sống
của các em học sinh trong lớp 3A, để từ đó đưa ra các biện pháp thực hiện cho
phù hợp với tình hình thực tiễn đối với lớp mình trực tiếp giảng dạy.
1.4.4. Phương pháp phân tích:
Phân tích để nắm các vấn đề có tính chất lý luận như ý nghĩa và tầm
quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Tiểu học nói chung và
học sinh lớp 3 nói riêng.
1.4.5. Phương pháp quan sát: Theo dõi, ghi chép, rút kinh nghiệm.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận .
2.1.1.Ý nghĩa của việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Tiểu học
Kỹ năng sống ảnh hưởng đến thói quen lành mạnh. Kỹ năng sống giúp
mỗi chúng ta có những thói quen tích cực, có thể kiểm sốt cảm xúc, suy nghĩ
và hành vi. Nó giúp con người có những hành động chuẩn xác xuất phát từ
những tư duy và thói quen lành mạnh. Với những người được trang bị những
kỹ năng sống như vậy họ sẽ sống lạc quan, năng động bản lĩnh và thành công
hơn trong cuộc sống.
Giáo dục kỹ năng sống góp phần tạo ra một xã hội tích cực. Giáo dục kỹ
năng sống giúp giảm thiểu các vấn nạn xã hội bởi vì nguyên nhân của nhiều
vấn đề xã hội chính là do những người thiếu kỹ năng sống gây ra. Việc giáo dục
kỹ năng sống thúc đẩy những hành vi tích cực nhất là khi phải đối mặt với
những tình huống thử thách, hoặc dễ dàng bị sa ngã, bị ảnh hưởng tiêu cực bởi
môi trường sống, giảm thiểu những tệ nạn xã hội, chất lượng cuộc sống được
đảm bảo và hạnh phúc hơn. Với xã hội hiện đại, kinh tế ngày càng phát triển

2


việc giáo dục kỹ năng sống giúp con người sống an toàn, khỏe mạnh với chất
lượng cao và hiện đại.
Kỹ năng sống giúp việc sử dụng nguồn tri thức một cách hợp lý. Việc
trang bị nền tảng kỹ năng sống vững chắc giúp chúng ta biết cách sử dụng
nguồn tri thức sao cho hợp lý mang lại lợi ích cho bản thân và người khác. Đặc
biệt trong môn Tiếng Việt lớp 3 nói riêng và mơn Tiếng Việt Tiểu học nói
chung kỹ năng sống giúp học sinh phát triển kỹ năng giao tiếp, kỹ năng hoạt
động nhóm, thuyết trình trước đông đảo người nghe, thực hành kỹ năng thuyết
phục, kỹ năng lãnh đạo …. giúp các em tự tin hơn, mạnh dạn hơn khi đưa ra
các ý kiến trước đám đông. Khi được rèn những điều này, trẻ sẽ không cịn bỡ
ngỡ, lúng túng khi được đặt vào tình huống tương tự. Theo đó qua các bài học
trong mơn Tiếng Việt các em sẽ hình thành nên nền tảng kiến thức vững chắc.
Đồng thời nhờ việc liên hệ thực tế đời sống qua các bài học cụ thể các em sẽ
lĩnh hội được từ cuộc sống rất nhiều điều từ tốt đến xấu và phân biệt được đâu
là tốt để học tập và đâu là xấu để phòng tránh. Thêm đó, các em sẽ được rèn
luyện nhiều kỹ năng phát triển sự cần cù, tỉ mỉ, rèn luyện đạo đức bản thân.
2.1.2. Mục tiêu, nội dung và các yêu cầu cần thiết trong việc giáo dục kỹ
năng sống qua môn Tiếng Việt:
a. Khả năng giáo dục kỹ năng sống qua môn Tiếng Việt:
- Môn Tiếng Việt là một trong những mơn học ở cấp Tiểu học có khả
năng giáo dục kỹ năng sống khá cao, hầu hết các bài học đều có thể tích hợp
giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ở những mức độ nhất định.
- Số lượng phân môn nhiều.
- Thời gian dành cho môn học chiếm tỉ lệ cao.
- Các bài học trong các phân môn đều có khả năng giáo dục giáo dục kỹ
năng sống cho học sinh.
b. Mục tiêu và nội dung giáo dục kỹ năng sống qua môn Tiếng Việt:

- Giúp học sinh bước đầu hình thành và rèn luyện các kỹ năng sống cần
thiết, phù hợp lứa tuổi; nhận biết được những giá trị tốt đẹp trong cuộc sống,
biết tự nhìn nhận, đánh giá đúng về bản thân; biết ứng xử phù hợp trong các
mối quan hệ; biết sống tích cực, chủ động trong mọi điều kiện, hoàn cảnh.
- Nội dung giáo dục kỹ năng sống được thể hiện ở tất cả các nội dung
học tập của môn học.
- Những kỹ năng sống chủ yếu đó là: Kỹ năng giao tiếp; kỹ năng tự nhận
thức; kỹ năng suy nghĩ sáng tạo; kỹ năng ra quyết định;kỹ năng làm chủ bản
thân.
c. Các yêu cầu cần thiết phải đưa giáo dục kỹ năng sống vào môn Tiếng Việt:
- Xuất phát từ thực tế cuộc sống: Sự phát triển của khoa học kỹ thuật, sự
hội nhập, giao lưu, những yêu cầu và thách thức mới của cuộc sống hiện đại.
- Xuất phát từ mục tiêu giáo dục Tiểu học: Giáo dục con người toàn diện.
- Xuất phát từ đổi mới mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học.
Xuất phát từ thực tế dạy học Tiếng Việt: Cung cấp kiến thức và kỹ năng
sử dụng Tiếng Việt thông qua thực hành.

3


d/Nội dung giáo dục kỹ năng sống trong môn Tiếng Việt
- Kỹ năng sống đặc thù, thể hiện ưu thế của môn Tiếng Việt: Kỹ năng giao
tiếp.
- Kỹ năng nhận thức (gồm nhận thức thế giới xung quanh, tự nhận thức, ra
quyết định,...) là những kỹ năng mà môn Tiếng Việt cũng có ưu thế vì đối
tượng của mơn học này là công cụ của tư duy.
- Giao tiếp là hoạt động trao đổi tư tưởng, tình cảm, cảm xúc,... giữa các
thành viên trong xã hội. Gồm các hành vi giải mã (nhận thông tin), ký mã (phát
thông tin) qua : nghe, nói và đọc, viết.
- Các kỹ năng sống này của học sinh được hình thành, phát triển dần, từ

những kỹ năng đơn lẻ đến những kỹ năng tổng hợp.
*Tóm lại: Qua việc dạy học mơn Tiếng Việt và các phân mơn của nó,
giáo viên cần trang bị cho học sinh những kiến thức, giá trị, thái độ và kỹ năng
phù hợp qua các bài học cụ thể. Trên cơ sở đó hình thành cho học sinh những
hành vi, thói quen lành mạnh, tích cực; loại bỏ những hành vi, thói quen tiêu
cực trong các mối quan hệ, các tình huống và hoạt động hàng ngày. Tạo cơ hội
thuận lợi để học sinh thực hiện tốt quyền, bổn phận của mình và phát triển hài
hịa về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức.
Hình thành cho học sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt thành thạo để
học tập và giao tiếp tự tin. Đồng thời có kiến thức tốt, có thể thích nghi với mọi
hồn cảnh khi ra ngoài xã hội. Và cần rèn luyện thường xuyên các kỹ năng này
cho trẻ.
Hình thành cho trẻ có lịng khoan dung, vị tha, sống lạc quan và có ích
hơn sau mỗi bài học. Việc giúp trẻ hình thành đức tính khoan dung và lịng vị
tha cịn khiến trẻ hạnh phúc hơn trong tương lai. Rộng lượng và vị tha cho
người khác chính là cách tốt nhất để đem lại sự bình n ổn trong tâm hồn.
Ngay từ khi cịn nhỏ tất cả ứng xử của mọi người với môi trường xung quanh
đều được con trẻ ghi nhớ và làm theo. Vì vậy, giúp trẻ có lịng độ lượng và vị
tha ngay từ khi còn nhỏ là điều thiết yếu nhất, do đó rèn luyện kỹ năng sống
cho trẻ là điều khơng thể thiếu.
Hơn hết, cần khơi dậy lịng u Tiếng Việt, tiếng mẹ đẻ cùng lòng yêu
nước, quê hương, lòng tự hào dân tộc sâu sắc qua các bài như Tập đọc, Chính
tả, Kể chuyện,…Và hình thành nên nhân cách, những con người tốt đẹp cho xã
hội tương lai.
2.2. Thực trạng kỹ năng sống hiện nay của học sinh lớp 3A ở trường Tiểu
học Đông Hưng
Qua thời gian nhận lớp và qua tìm hiểu về thực tế ở trường Tiểu học
Đơng Hưng nói chung học sinh lớp 3A nói riêng tơi đã nhận thấy những thuận
lợi và khó khăn như sau:
2.2.1. Thuận lợi

- Đối với nhà trường và giáo viên chủ nhiệm lớp:
+ Ban giám hiệu rất quan tâm đến việc nâng cao chất lượng ,nề nếp lớp
học. Ngay từ đầu năm học nhà trường đã cho các giáo viên chủ nhiệm lớp mở
hội nghị Phụ huynh học sinh, tổ chức các buổi hội thảo bàn về việc xây dựng
4


nề nếp, hình thành và rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh nhằm nâng cao chất
lượng dạy học trong nhà trường nói chung và trong mỗi đơn vị lớp học nói
riêng.
+ Trong nhà trường Tiểu học Đơng Hưng hiện nay, giáo viên cũng đã
thấy được vai trò và tầm quan trọng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong
lớp của mình. Bởi vì, con người muốn phát triển tồn diện thì khơng phải chỉ
có kiến thức mà cịn rất nhiều yếu tố trong đó kỹ năng sống đóng vai trò rất
quan trọng. Nếu một học sinh lớn lên chỉ thụ động dựa vào người khác thì sẽ
mất tự chủ và khơng bảo vệ được chính mình.
- Đối với học sinh: Học sinh lớp 3 bước đầu cũng có những nhận thức
đúng đắn và có suy nghĩ sâu sắc hơn học sinh ở lớp dưới.
2.2.2. Khó khăn:
Đối với giáo viên: Trong thực tế hiện nay, khó khăn lớn nhất khi giảng
dạy là một số giáo viên chưa chú ý nhiều tới việc giáo dục và rèn luyện kỹ năng
sống cho học sinh, giáo viên chỉ quan niệm dạy học làm sao cho học sinh nắm
được kiến thức của bài học, xem như đó là mình đã hồn thành cơng việc giảng
dạy . Giáo viên chưa chú ý nhiều đến việc rèn luyện kỹ năng khác làm cho học
sinh không chủ động được trong các hoạt động học tập, học sinh ngại nói, ngại
trả lời câu hỏi, ngại trình bày ý kiến, suy nghĩ của bản thân làm cho các em
thiếu sự mạnh dạn, tự tin trong các giờ học, tiết học cũng như trong cuộc sống
hằng ngày của các em. Làm cho các giờ học trôi qua một cách tẻ nhạt, trầm
lắng, thụ động dẫn đến hiệu quả giờ học chưa cao.
Trong thực tế, vẫn có một số ít giáo viên chưa coi trọng rèn kỹ năng sống

trong dạy học vì thế nên những kỹ năng thơng thường các em cũng khó xử lí.
Bởi họ cho rằng kỹ năng sống không liên quan đến kiến thức học tập của học
sinh nên chưa được quan tâm nhiều.
Một số giáo viên vẫn nghĩ là kỹ năng sống là bố mẹ các em nhắc nhở ở
nhà, đến lớp giáo viên chỉ cần lồng ghép vào mơn Đạo đức là được. Do đó ,
học sinh hay có thói quen ỷ lại hoặc chờ đợi sự phán quyết , can thiệp của giáo
viên, dẫn đến các em hay làm việc theo kiểu bị động mà quên dần tính chủ
động trong học tập cũng như mọi hoạt động khác của lớp, của trường.
Một số giáo viên vẫn còn lúng túng trong việc lựa chọn kỹ năng sống
nào phù hợp, lồng ghép ở đâu, dạy như thế nào để đạt được hiệu quả mà không
mất nhiểu thời gian, không ảnh hưởng đến mục tiêu truyền thụ kiến thức cho
học sinh trong mỗi bài học.
Chính vì thế mà chất lượng giáo dục kỹ năng sống đối với lớp tôi khi
nhận bàn giao là học sinh thiếu khá nhiều kỹ năng trong học tập cũng như trong
các hoạt động khác .
Đối với học sinh: Điều kiện môi trường sống và giao tiếp của các em còn
hạn chế đã làm ảnh hưởng đến quá trình học tập cũng như khả năng trải nghiệm
những kỹ năng sống đã học. Bởi vậy, các em còn rụt rè, thiếu sự mạnh dạn, tự
tin dẫn đến lối học thụ động, không phát huy được tính tích cực, chủ động trong
q trình chiếm lĩnh tri thức.

5


Đối với phụ huynh: Đây là địa phương vùng ven thành phố nên phụ
huynh có cơng việc làm khơng ổn định, kinh tế gặp khó khăn, phụ huynh bận
rộn với cơng việc mưu sinh nên khơng có nhiều thời gian quan tâm đến việc
giáo dục kỹ năng sống cho con mình có chăng chỉ nhắc con học bài. Do đó,
nhiều em lên lớp 3 còn chưa biết được địa chỉ nhà mình ở đâu nói gì đến các kỹ
năng các em cần có để phát triển cũng như tự bảo vệ cho mình.

Trong những ngày đầu nhận lớp, tơi nhận thấy các em học sinh còn tỏ vẻ
rụt rè, nhút nhát. Khi giáo viên gọi trả lời câu hỏi, các em không mạnh dạn giơ
tay phát biểu xây dựng bài, ngại nói trước đơng người, sợ mình nói sai các bạn
cười, chưa tự tin về câu trả lời của mình như em: Khánh, Quỳnh Anh, Hà, Quý.
Bảo…
Các em chưa thể hiện được tinh thần thi đua trong học tập, vào lớp
thường không nhớ bài và không làm bài, không mạnh dạn nhận xét góp ý xây
dựng bài cho bạn như em : Mạnh, Tiến, Khánh, Nam…
Một số em trong lớp có hồn cảnh gia đình khó khăn về đời sống vật chất,
bố mẹ phải đi làm cả ngày khơng có khả năng kèm cặp con cái ở nhà, như em
Tùng, Ngọc, Bảo… .Một số em có bố mẹ đi làm ăn xa, gửi con lại cho ông bà
như em Ngọc, Minh, Yến Nhi,...Có em bố mất sớm như: Vương Ngọc, Bảo
Ngọc .. các em thiếu tình cảm của bố nên cũng thiệt thòi cả về vật chất lẫn tinh
thần dẫn đến ít nói, lầm lì. Những học sinh này thiếu kỹ năng sống, thiếu sự
quan tâm giáo dục kịp thời nên thường khó bảo, hay lười học, it nói sống nội
tâm, kể cả những công việc tự phục vụ bản thân các em cũng không biết làm
hoặc ỷ lại cho người khác.
Một số học sinh khác là do sự nuông chiều của ơng bà, cha mẹ nên chưa
có ý thức tự phục vụ, chưa có ý thức tự quản bản thân do đó thường có những
hành động bột phát làm ảnh hưởng đến trật tự lớp học như em: Thái Anh, Tùng,
Phan Khánh... Giáo viên và cán bộ lớp nhắc nhở nhiều nhưng chứng nào vẫn
tật ấy rất khó để thay đổi.
Đầu năm học 2020 - 2021 khi nhận lớp tôi đã tiến hành kháo sát với chủ đề
“Kỹ năng sống của em” bằng phương pháp trắc nghiệm như sau:
PHIẾU KHẢO SÁT KĨ NĂNG SỐNG CỦA EM

Các biểu hiện hành vi
I. Kĩ năng giao tiếp
Chào hỏi lễ phép, tự tin
Tự tin giới thiệu cơ bản về nhà trường (Tên

trường, tên thầy cơ giáo HT, PHT, TPTĐ, thầy
cơ, bạn bè)
Nói lời cảm ơn khi được giúp đỡ, xin lỗi khi mắc
kh điểm
Trong những trường hợp bản thân gặp khó
khăn, biết tìm đến sự giúp đỡ của người khác
II. Kĩ năng tự phục vụ
Ăn mặc gọn gàng, sạch sẽ; trang phục phù hợp

Mức độ
Tốt Đạt C.Đ

6


thời tiết.
Thường xun giữ vệ sinh phịng học, sân
trường: khơng vứt rác ra lớp học,sân trường
Thường xuyên quét lớp, quét nhà, quét dọn
khu vực sân trường (trong lớp học, sân trường,
cổng trường ln sạch )
III. Kỹ năng nghe, nói, đọc, viết
Tập trung chú ý nghe, khơng nói chen ngang
khi người khác đang nói
Có thể nhắc lại tóm tắt nội dung đã nghe, thực
hiện được yêu cầu theo nội dung đã nghe (theo
mức độ từng lớp).
Nói rõ ràng, mạch lạc: trình bày ngắn gọn,
trọng tâm theo mục đích nói.
Đọc đúng văn bản, ngắt nghỉ đúng dấu câu và

đảm bảo tốc độ đọc theo từng lớp.
Biết viết ra những suy nghĩ, ý thích của mình.
IV. Kỹ năng hợp tác, chia sẻ, làm việc theo
nhóm.
Tích cực, tự giác tham gia hoạt động nhóm theo
nhiệm vụ được giao
Tích cực chia sẻ trong nhóm (trước lớp).
Tự giác, tích cực, hợp tác khi tham gia hoạt
động nhóm, giúp đỡ bạn khi gặp khó khăn.
Kết quả đạt được như sau:
Tổng số học sinh
38

-

Có kỹ năng Tốt
SL
10

%
26,3

Có kỹ năng ở
mức Đạt
SL
%
18
47,4

Chưa đạt yêu cầu

kỹ năng
SL
%
10
25,3

Từ kết quả khảo sát cho thấy, tuy trong lớp cũng có những nhân tố tích
cực, song vẫn cịn nhiều mặt tồn tại về đạo đức, tác phong, về học tập và hoạt
động xã hội. Những tồn tại trên ít nhiều cũng ảnh hưởng đến kết quả rèn luyện
và học tập của lớp, của trường và ảnh hưởng đến tư tưởng của một số học sinh
ngoan, tích cực trong lớp. Chính vì vậy mà qua q trình giảng dạy và làm
cơng tác chủ nhiệm, tơi nhận thấy để cịn tồn tại như thực trạng trên là do một
số nguyên nhân sau:
- Quan điểm dạy kỹ năng sống cho học sinh trong lớp học chưa được coi
trọng nhiều.
Ở nhà, học sinh chưa có ý thức tự chủ bản thân, ông bà, cha mẹ làm hết mọi
việc kể cả thói quen tự phục vụ nhu cầu thiết yếu của bản thân mỗi học sinh
cũng không được rèn luyện và giáo dục chu đáo.
7


- Do tác động của kinh tế thị trường nên một số học sinh được bố mẹ quá
quan tâm đến việc ăn uống và trau dồi kiến thức mà không chú ý đến việc rèn
luyện kỹ năng sống thực tế hàng ngày từ những kỹ năng nhỏ nhất nên các em
hoàn toàn bị thụ động trong cuộc sống sinh hoạt và giao tiếp. Có nhiều em học
tốt tất cả các môn học nhưng lại rụt rè không tự tin trước đám đông, hiểu bài
học nhưng không diễn đạt được suy nghĩ của mình.
- Điều quan trọng nhất là một số giáo viên vẫn còn băn khoăn trong việc
lựa chọn kỹ năng sống nào phù hợp, lồng ghép ở đâu, dạy như thế nào để đạt
được hiệu quả mà không mất nhiểu thời gian, không ảnh hưởng đến mục tiêu

truyền thụ kiến thức cho học sinh trong mỗi bài học.
Từ những thực trạng trên, với tâm huyết là muốn xây dựng cho học kỹ
năng sống nhằm nâng cao chất lượng giáo dục của lớp mình phụ trách, tơi ln
trăn trở tìm hiểu nguyên nhân và thực trạng của lớp để tìm cho mình một số
biện pháp giáo dục phù hợp, hiệu quả. Vì vậy tơi đã áp dụng và thực hiện dạy
kỹ năng sống cho học sinh bằng tất cả sự kiên trì và quyết tâm trong đó thành
cơng nhất là việc dạy kỹ năng sống cho học sinh thông qua môn Tiếng Việt.
2.3. Các giải pháp, biện pháp rèn kỹ năng sống cho học sinh thông qua
môn Tiếng Việt lớp 3.
2.3.1. Nâng cao trình độ nhận thức của giáo viên, gia đình học sinh.
Cho đến thời điểm hiện nay, khơng phải cán bộ quản lý giáo dục nào,
giáo viên nào cũng hiểu hết tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống
cũng như chủ trương đưa giáo dục kỹ năng sống tích hợp vào các mơn học và
các hoạt động giáo dục của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Đặc biệt, phần lớn cha mẹ
học sinh chưa có sự quan tâm đến giáo dục kỹ năng sống cho con em mình, cịn
nghĩ cơng việc đó là của nhà trường. Để nâng cao nhận thức của các đối tượng
nêu trên, cần thiết phải tiến hành một số nội dung sau:
- Đối với cán bộ quản lý giáo dục và đội ngũ giáo viên: Cần phải có bộ
tiêu chí đánh giá công tác giáo dục kỹ năng sống của các nhà trường. Xem nội
dung giáo dục kỹ năng sống trở thành yêu cầu bắt buộc, không nên đưa vào nội
dung phong trào thi đua như thời gian trước đây. Có như thế, cán bộ quản lý
giáo dục các cấp, đội ngũ giáo viên mới thực sự vào cuộc, mới thực sự quan
tâm.
- Đối với cha mẹ học sinh: Tích cực tuyên truyền bằng nhiều hình thức
như lồng ghép trong các buổi sinh hoạt phụ huynh học sinh; tổ chức hội thảo
chuyên đề; thu hút họ tham gia vào việc tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên
lớp cho học sinh, các cuộc họp khu phố phải lồng vào nhắc nhở tuyên truyền để
phụ huynh nhận thức đúng và tích cực hơn về kỹ năng sống, ở gia đình họ phải
chỉ bảo cho con cái làm một số việc đơn giản như: quét nhà, rửa bát, làm một
số việc tự phục vụ bản thân, cách ứng xử giao tiếp với mọi người, có khả năng

tự vệ khi có người khác giới lại gần hoặc ơm hơn mình,...
- Tiếp tục tổ chức tập huấn cho giáo viên về nội dung, phương pháp và
hình thức tổ chức giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong các mơn học, trong
đó có mơn Tiếng Việt.

8


Đây là giải pháp then chốt. Giáo viên là người trực tiếp thực hiện giáo
dục kỹ năng sống cho học sinh. Nếu họ chưa hiểu mình làm gì? Làm như thế
nào? Tại sao phải làm như thế? thì chắc chắn việc giáo dục kỹ năng sống sẽ
khơng có hiệu quả.
Mơn Tiếng Việt là một trong những môn học ở cấp Tiểu học có khả
năng giáo dục kỹ năng sống khá cao, hầu hết các bài học đều có thể tích hợp
giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ở những mức độ nhất định. Số lượng phân
môn nhiều. Thời gian dành cho môn học chiếm tỉ lệ cao. Các bài học trong các
phân mơn đều có khả năng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Thấu hiểu
được vấn đề này thì tất cả giáo viên đều biết coi trọng và chú ý hơn trong việc
giáo dục và rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh trong tất cả các giờ học.
- Gắn giáo dục kỹ năng sống với xác định giá trị sống trong môn Tiếng
Việt lớp 3:
Kỹ năng sống là cơng cụ hình thành và thể hiện giá trị sống: Thực chất
kỹ năng sống là các giá trị thể hiện bằng hành động và ngược lại với kỹ năng
thể hiện giá trị bằng hành động sẽ cho kết quả tích cực và nó lại củng cố các giá
trị. Tuy nhiên, nếu chúng ta quá tập trung vào giáo dục các kỹ năng sống dưới
góc độ “kỹ thuật hành vi” và không chứa đựng giá trị nhân văn tốt đẹp thì giáo
dục kỹ năng sống kiểu này có thể dẫn đến phi đạo đức, khơng phù hợp với mục
đích giáo dục tốt đẹp của chúng ta. Chính vì thế, việc giáo dục kĩ năng sống
cho học sinh phải gắn với xác định giá trị sống.
Từ bài học trong các phân mơn của Tiếng Việt, học sinh có thể tự liên hệ

đến thực tế, tự rút ra bài học cần thiết, hướng bản thân đến những điều tốt đẹp
hơn, hoàn thiện về nhân cách. Điều này cũng hướng cho các em dễ thích nghi
hơn với cuộc sống, dễ dàng vượt qua những khó khăn, thử thách phía trước.
- Tạo mơi trường thuận lợi cho học sinh có cơ hội rèn luyện kỹ năng
sống:
Việc tổ chức giáo dục kỹ năng sống trong các mơn học nói chung và mơn
Tiếng Việt nói riêng được tiến hành thường xuyên và liên tục nhưng để có được
hiệu quả bền vững và lâu dài thì rất cần đến việc tổ chức giáo dục kỹ năng sống
thơng qua các hoạt động ngoại khố, hoạt động ngồi giờ lên lớp để học sinh
có cơ hội được rèn luyện, trải nghiệm kỹ năng sống đã được học trong lớp. Vì
vậy, rất cần sự đầu tư kinh phí và những điều kiện cơ sở vật chất nhất định. Ví
dụ: sân bóng, nhà đa năng, phịng luyện tập thể dục,... Vì vậy, nhà trường ln
quan tâm đầu tư kinh phí và các điều kiện cơ sở để giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh có hiệu quả.
Bên cạnh đó trong các giờ học, giáo viên cần tổ chức các hoạt động như
thảo luận nhóm, đóng vai, trị chơi để học sinh dễ dàng tiếp nhận kiến thức, kỹ
năng sống thông qua các bài học một cách dễ dàng hơn. Tạo khơng khí lớp học
ln sơi nổi, vui vẻ để gây hứng thú học tập cho các em. Và hơn nữa cần tích
cực liên hệ bản thân, liên hệ thực tế đời sống để học sinh hiểu kĩ bài học và
phát triển kỹ năng vốn có của mình.
2.3.2. Một số biện pháp sư phạm sử dụng hiệu quả trong việc dạy lồng
ghép kỹ năng sống cho học sinh trong các phân môn Tiếng Việt.
9


2.3.2.1. Biện pháp 1: Lựa chọn các kỹ năng sống phù hợp lứa tuổi, phù
hợp với môi trường sống của trẻ, phù hợp với nội dung bài học và khả
năng giảng dạy của giáo viên.
a. Chú trọng rèn luyện kỹ năng giao tiếp bằng ngơn ngữ nói - viết kết hợp với
cử chỉ, điệu bộ để tăng hiệu quả giao tiếp.

Như chúng ta đã biết, kỹ năng sống đặc thù, thể hiện ưu thế của môn
Tiếng Việt là kỹ năng giao tiếp.Trong quá trình dạy và học, giao tiếp càng đóng
vai trị quan trọng. Ở bậc Tiểu học nói chung và học sinh lớp 3 nói riêng, học
sinh cần thiết phải được rèn luyện kỹ năng giao tiếp. Kỹ năng giao tiếp của các
em được thể hiện qua cách trình bày vấn đề, xử lý tình huống bằng ngơn ngữ,
tranh luận cùng người khác trước các vấn đề... Từ những kỹ năng đó sẽ giúp
cho các em chững chạc, tự tin, lịch sự, lễ phép và nhanh nhẹn trước các tình
huống trong cuộc sống. Kỹ năng giao tiếp của các em được thể hiện nhiều
trong quá trình các em học mơn Tiếng Việt,do đó giáo viên ln phải quan tâm,
uốn nắn, rèn luyện cho các em kỹ năng này qua từng bài học.
Để giúp học sinh rèn luyện kỹ năng giao tiếp thông qua các giờ học
Tiếng Việt, giáo viên rèn luyện cho học sinh một số kỹ năng khi giảng dạy
Tiếng Việt thông qua các phân môn bằng một số hình thức là:
- Tập cho học sinh cách trình bày vấn đề trước đông người;
- Thể hiện thái độ tranh luận tích cực nhưng thân thiện với người khác
trước các tình huống.
- Mở rộng phạm vi một số nghi thức: Chào (chào trong gia đình, bạn bè
thân thiết, hàng xóm…), giới thiệu (tự giới thiệu; giới thiệu qua người thứ ba),
hứa hẹn, xin phép, xác nhận, hỏi và dạy cho học sinh sử dụng các hành vi ngôn
ngữ trong giao tiếp: Phải tuân thủ quy luật trao – đáp, đảm bảo tính chất của
các cặp kế cận khi dạy kỹ năng giao tiếp cho học sinh. Phải rèn luyện tích trao
lời – đáp lời cho học sinh trong các cặp trao – đáp.
- Chú ý luyện cho học sinh kỹ năng thể hiện thái độ, tình cảm và các yếu
tố kèm theo khi giao tiếp (sắc mặt, cử chỉ, thái độ, ánh mắt, nụ cười và các yếu
tố ngữ điệu). Với cử chỉ, điệu bộ nét mặt phù hợp thì sẽ có tác dụng nâng kịch
tính tình huống, sự việc của câu chuyện lên cao hơn.
- Đa dạng hoá các bài tập giao tiếp. Kết hợp rèn luyện nhiều kỹ năng
trong giao tiếp cho học sinh: kỹ năng nghe, kỹ năng nói, kỹ năng nhận biết thái
độ, tình cảm của người đối thoại, kỹ năng đáp lời nhanh, phù hợp, khéo léo. Hệ
thống bài tập phải bao gồm bài tập phát triển kỹ năng nghe, bài tập phát triển

kỹ năng nói. Trong mỗi loại bao gồm nhiều dạng nhỏ với mục đích rèn luyện
kỹ năng cụ thể tinh tế, chứa các lời về giao tiếp. Tạo nên môi trường và nhu cầu
giao tiếp cho học sinh.
-Tạo môi trường rèn luyện kỹ năng giao tiếp cho học sinh thông qua các
hoạt động trong giờ Tiếng Việt:
+ Tạo dựng các tình huống giao tiếp thực sự hoặc tình huống giao tiếp
giả định.
+ Phân tích rõ vai giao tiếp và yêu cầu giữ đúng vai giao tiếp.

10


+ Hướng dẫn học sinh xác định rõ mục đích giao tiếp. Mỗi người thực
hiện giao tiếp đều có mục đích của mình.
+ Định hướng cho học sinh lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp.
+ Rèn luyện kỹ năng đặt câu và trả lời câu hỏi, trao đổi, thảo luận: Xác
định rõ các nhân tố trong giao tiếp, các nhân vật tham gia, đề tài, mục đích giao
tiếp.
Chương trình đã tập trung tích hợp một số kỹ năng sống trong quá trình
học sinh tiếp cận kiến thức phân mơn, trong đó kỹ năng giao tiếp được thể hiện
rõ trong các dạng bài từ Kể chuyện, Tập đọc đến Luyện từ và câu hay Tập làm
văn... Chính vì vậy, giáo viên cần phải quan tâm đến việc rèn kỹ năng giao tiếp
trong tất cả các phân môn của Tiếng Việt. Kỹ năng này có hiệu quả thì các kỹ
năng khác mới có thể trau dồi, rèn luyện và phát huy được.
b. Rèn luyện tính chăm chỉ, kiên trì, cẩn thận, tính tỉ mỉ cho học sinh thông qua
các bài học môn Tiếng Việt.
Hiện nay, việc rèn luyện kỹ năng chăm chỉ, rèn luyện tính kiên nhẫn, tỉ
mỉ, cẩn thận trong q trình học tập cho học sinh là vô cùng cần thiết. Các kỹ
năng này không chỉ được dùng trong một môn học mà cần ở nhiều phân môn
khác nhau trong Tiếng Việt nói riêng và các mơn học khác nói chung. Nó sẽ

giúp các em đạt được kết quả cao trong học tập một cách dễ dàng hơn. Và hơn
nữa nó cịn có tác dụng rèn tính nết cho con người.
Trong môn Tiếng Việt đa phần là các phân môn rèn luyện về đọc và viết,
vì thế các kỹ năng này ngày càng được nâng cao. Khi giảng dạy, giáo viên tập
cho học sinh biết kiên nhẫn suy nghĩ trả lời các câu hỏi từ dễ đến khó, từ đơn
giản đến phức tạp và mở rộng hơn. Giáo viên luôn khuyến khích học sinh tích
cực tư duy và sáng tạo trong học tập. Tính cẩn thận, tỉ mỉ cịn thể hiện qua
cách học sinh trình bày bài trong vở viết và nó trở nên quan trọng trong phân
mơn Chính tả của mơn Tiếng Việt. Người ta thường nói: “Nét chữ nết người”,
từng chữ, từng câu viết thể hiện sâu sắc tính cách, thái độ của người học đối với
mơn học. Vì vậy, trong các tiết học đặc biệt là phân môn Chính tả và Tập làm
văn, giáo viên càng nâng cao về tính tỉ mỉ và cẩn thận của học sinh bao nhiêu
thì tính cách của các em càng hồn thiện bấy nhiêu. Cho nên trong các tiết học
đó giáo viên cần lồng ghép các kỹ năng này vào các phân mơn của Tiếng Việt
để việc học trở nên hồn thiện hơn, đạt hiệu quả cao hơn.
Ngồi việc rèn luyện tính cẩn thận, tỉ mỉ thông qua các kỹ năng đọc viết,
cách trình bày bài thì việc động viên, khuyến khích học sinh bằng những tấm
gương điển hình trong các bài học cũng rất quan trọng. Thơng qua đó, chúng ta
cũng có thể giáo dục cho học sinh ý thức rèn luyện tính kiên trì, chăm chỉ, ham
học khơng ngại khó, ngại khổ để rèn luyện đức tính con người và đạt tới thành
cơng.
Ví dụ: Tập đọc: Tuần 21: Ơng tổ nghề thêu (Tiếng Việt 3 - Tập 2 )
Hoạt động 3: Tìm hiểu bài
+ Mục tiêu: Giúp học sinh nắm được:
- Trần Quốc Khái là người thông minh, ham học , giàu trí sáng tạo.
- Giáo dục cho học sinh tính ham học, chăm chỉ học tập và óc sáng tạo.
11


+ Cách tiến hành: Đoạn 1:

+1 học sinh đọc đoạn, lớp theo dõi đọc thầm để trả lời câu hỏi:
Hồi nhỏ Trần Quốc Khái ham học như thế nào?
Nhờ chăm chỉ học tập, Trần Quốc Khái đã thành đạt như thế nào?
+ Học sinh trả lời. Giáo viên kết luận:
Trần Quốc Khái là người ham học, chăm chỉ .
Nhờ ham học , chăm chỉ học tập mà ông đã đỗ tiến sĩ và làm quan to
trong triều đình nhà Lê.
* GV lồng ghép giáo dục cho học sinh tính ham học, chăm chỉ học tập.
- Học sinh nêu nội dung bài.
* GV lồng ghép giáo dục cho học sinh tính ham học, chăm chỉ học tập .
- Học sinh trao đổi theo nhóm cặp đơi: Qua câu chuyện này em rút ra
được bài học gì cho bản thân mình?
- Các nhóm trình bày kết quả trao đổi.
- Giáo viên kết luận:
+ Chăm học , chịu khó học hỏi chúng ta sẽ biết được nhiều điều.
+ Nếu chăm chỉ, ham học hỏi bản thân chúng ta sẽ thành người biết
nhiều điều và sẽ thành cơng.
c. Rèn luyện tính mạnh dạn, tự tin trước đông người cho học sinh thông qua các
bài học môn Tiếng Việt.
Sự mạnh dạn, tự tin luôn là kỹ năng cần thiết của mỗi con người nói
chung và học sinh Tiểu học nói riêng. Các em cần mạnh dạn để làm chủ bản
thân mình khi giao tiếp với mọi người xung quanh, làm chủ bản thân để chủ
động tiếp thu và lĩnh hội kiến thức,...Sự mạnh dạn tự tin có thể được biểu hiện
qua cử chỉ, lời nói, thái độ rất đơn giản và gần gũi trong cuộc sống. Vì vậy, việc
rèn luyện kỹ năng này cho học sinh nó có tác dụng rất lớn trong việc hình thành
kỹ năng tự chủ, tự giác trong học tập của học sinh.
Học sinh hiện nay do điều kiện tiếp xúc cịn hạn chế, mơi trường sống hạn hẹp
nên tính cách của các em thường hay nhút nhát, ngại nói, ngại phát biểu
trước đơng người. Vì vậy để tạo cho học sinh có tính mạnh dạn, giáo viên
thường quan tâm nhất là rèn cho học sinh biết cách trả lời câu đầy đủ chủ vị,

biết giới thiệu bản thân, giới thiệu câu chuyện, hay hoạt động mình chuẩn bị
thực hiện. HS được tập đi tập lại nhiều lần thuần thục, khi đó các hoạt động trở
thành bình thường, học sinh khơng còn thấy e ngại nữa và các em thể hiện một
cách tự nhiên như khơng có điều gì khó khăn hay bị cản trở nữa.
Có những hoạt động giáo viên giao cho học sinh tự hỏi, tự trả lời và đóng
vai theo cặp, bạn hỏi mình trả lời và ngược lại. Sau đó cho học sinh tập trình
bày trước lớp bằng những tình huống đơn giản sau đó là cả một đoạn truyện,
học sinh làm quen dần và từ đó các em khơng cịn ngại ngùng và sợ sệt nữa.
Thơng qua các hoạt động đó giáo viên cịn tạo cho học sinh có cơ hội
được trao đổi thảo luận với bạn bè trong nhóm, trao đổi trước lớp để tăng khả
năng lập luận lý lẽ, bảo vệ ý kiến của mình, khẳng định ý kiến đúng. Từ những
việc làm đó học sinh dần trở nên mạnh dạn, tự tin và không ngại ngùng trước
đông người nữa.
12


d. Giáo dục học sinh biết vượt qua khó khăn hướng đến tương lai tốt đẹp hơn
thông qua môn Tiếng Việt.
Trong quá trình dạy học, nếu giáo viên quan tâm chú ý đến điều này thì
sẽ giúp học sinh có khó khăn trong học tập trở nên có động lực và sẵn sàng học
tập hơn, khi đó, việc học tập sẽ được nâng cao và tích cực rất nhiều. Nhiều học
sinh gặp khó khăn trong học tập thường hay trở nên bi quan về các hoạt động,
việc làm ở trường học và mất niềm hi vọng rằng mình có thể tiến bộ trong học
tập. Chính vì thế mà trong dạy học giáo viên coi trọng điều này sẽ góp phần
củng cố việc phát triển tinh thần lạc quan đối với học sinh tuổi mới lớn đăc biệt
là lứa tuổi các em học sinh lớp 3A .
Mơn Tiếng Việt có nhiều câu chuyện, tình huống, bài học giáo dục học sinh
kỹ năng này. Vì thế giáo viên hiểu thấu đáo và chú ý rèn luyện thì sẽ giúp các
em có niềm tin vào thầy cơ, vào những điều có trong câu chuyện, bài học. Từ
đó sẽ có tác dụng ni dưỡng ý chí phấn đấu vượt khó trong học tập cũng như

trong cuộc sống cho các em học sinh.
Để hoạt động đó có hiệu quả chúng ta cần thực hiện các cơng việc đó là:
- Giáo viên ln tạo dựng sự lạc quan thực tế và chỉ ra các ví dụ về biểu
hiện hành động của nó.Ví dụ, nói: “Chúng ta biết rằng đây sẽ là một nội dung
khó nhưng chúng ta phải làm nó và làm thật chăm chỉ và tích cực. Các con hãy
nhìn xem chúng ta đã đạt được những gì rồi!”.
- Tập cho học sinh tập cách chia sẻ thơng qua các ví dụ về các tình huống
nói về con người, con vật được nhân hóa vượt qua các trở ngại trong học tập,
trong cuộc sống để tiến tới đạt được ước mơ của mình. Giúp học sinh nhận thức
được rằng mọi người đều thường xuyên phải đối mặt và vượt qua các thử thách
khó khăn trong học tập cũng như trong cuộc sống để hướng tới tương lai tốt
đẹp hơn.
Ví dụ: Qua giao tiếp giữa giáo viên với học sinh, giữa học sinh với nhau
(kể cho nhau nghe), việc kể lại nội dung câu chuyện trước lớp giúp các em thấy
được Tình cảm của người mẹ dành cho con thiêng liêng cao cả, người mẹ có
thể hi sinh tính mạng của mình vì con. Để từ đó giáo dục cho các em tình u
thương bố mẹ.(Truyện Người mẹ - Tuần 4- Tiếng Việt 3).
- Giáo viên tích cực chia sẻ những bài văn, những câu ca dao, những câu
chuyện minh hoạ về lợi ích của sự lạc quan trong thực tế được vận dụng qua
nội dung câu chuyện, tình huống, bài học được rút ra.
Ví dụ: Câu tục ngữ ca dao: “Chớ thấy sóng cả mà rã tay chèo.” khun
chúng ta khơng được nản lịng khi gặp khó khăn.
- Đặc biệt giáo viên phải thường xuyên duy trì được bầu khơng khí học tập
tích cực bằng cách bất ngờ đưa ra các câu hỏi kiểu như: “Ngày hơm nay có gì
vui?” “Bài học hơm nay có điều gì thú vị?”
- Giáo viên có thể linh hoạt, mềm dẻo trong việc giúp học sinh có thể lựa
chọn được các chủ đề thuộc về sở thích cá nhân để viết hay để thể hiện trong
các hoạt động học tập, làm cho các em duy trì hứng thú và có động lực hơn.

13



Cho học sinh lựa chọn cũng là nhắc nhở các em có trách nhiệm với việc học
của bản thân.
Qua những việc làm đó sẽ giúp các học sinh gặp khó khăn học được
những điều mới mẻ, thú vị và các em có niềm tin rằng bằng sự nỗ lực của bản
thân sẽ giúp học sinh phát triển được nhiều kỹ năng và kiến thức để vượt lên
chính mình, để hướng tới thành công trong tương lai.
e. Giáo dục học sinh biết yêu thích vẻ đẹp thiên nhiên, biết thể hiện tình u
q hương, đất nước, con người thơng qua các bài học môn Tiếng Việt.
Bên cạnh những người thân trong gia đình như ơng bà, cha mẹ, anh chị
em, từ những lời ru ầu ơ ngọt ngào sâu lắng từ thuở cịn nằm nơi, đến việc tiếp
cận thế giới xung quanh các em qua những bài học ở nhà trường Tiểu học –
việc hình thành những tình cảm yêu Tổ quốc, yêu đồng bào cho học sinh cũng
cần có sự quan tâm hướng dẫn của giáo viên. Tâm hồn các em chân thật, trong
sáng, ngây thơ nên việc hình thành những tình cảm tốt đẹp đó ngay từ lứa tuổi
Tiểu học có một vị trí rất quan trọng.
Giáo dục lịng yêu quê hương, đất nước cho học sinh phải bắt đầu từ việc
giáo dục cho các em nhận thức được tình yêu thương từ những điều nhỏ nhặt,
gần gũi, thân thuộc nhất. Đó có thể là những sự vật nhỏ bé, là những cảnh vật
thiên nhiên xung quanh cuộc sống của trẻ như hàng cây, cánh đồng, ruộng lúa,
thảm cỏ, cánh cị bay,....Từ đó mới có thể bồi dưỡng tình yêu quê hương, đất
nước cho các em.
Nội dung và cách thức thực hiện:
+ Qua các bài học, những tình huống, những câu chuyện kể rút ra cho
học sinh những bài học quý giá, đặc biệt là lồng ghép vào đó tình yêu quê
hương, đất nước, tình yêu biển đảo, tình u với gia đình, làng xóm...
+ Đặt ra các câu hỏi gần gũi xung quanh cho học sinh. Bồi dưỡng thêm
tình yêu, giáo dục cho học sinh yêu những gì nhỏ nhất như bản thân mình, ơng
bà, cha mẹ rồi mới có thể yêu những thứ to lớn hơn như quê hương, đất nước,

yêu hành tinh của chúng ta...
Ví dụ: Chính tả : Tuần 10 (Tiếng Việt 3 - Tập 1 - trang 82 )
Nghe - viết:
Quê hương
Hoạt động 2:
+ Mục tiêu : Biết được: Tuổi thơ của chúng ta rất ngây thơ, trong sáng và
có nhiều kỉ niệm đẹp mà chúng ta nên gìn giữ và quý trọng .
Giáo dục học sinh biết yêu quê hương đất nước, yêu tuổi thơ với bao kỉ niệm.
+ Cách tiến hành: - Giáo viên đọc đoạn văn cần viết chính tả 1 lần, cả
lớp đọc thầm, 2 em đọc lại đoạn viết.
- Giáo viên hỏi nội dung đoạn viết. Học sinh trả lời.
- Giáo viên chốt nội dung.
* Giáo dục kĩ năng sống: Học sinh liên hệ bản thân:

14


- Giỏo viờn nờu cõu hi: Em có yêu những cảnh đẹp của thiên
nhiên đó không? Em cần làm gì để giữ gìn cảnh đẹp của
thiên nhiên và yêu quí những kỉ niệm của tuổi thơ?
- Hc sinh tr li. Học sinh khác bổ sung.
- Giáo viên kết luận: Các em cần phải biết yêu quê hương đất nước, yêu
tuổi thơ của mình vì ở đó có biết bao kỉ niệm lắng đọng mãi trong tâm hồn
ngây thơ trong sáng của các em. Tình cảm đó sẽ cùng các em đi theo suốt năm
tháng của cuộc đời mình.
*Trẻ sinh ra và lớn lên không chỉ được trau dồi kiến thức cơ bản về cuộc
sống xung quanh mà còn được giáo dục đạo đức làm người. Dạy trẻ biết yêu
thương gia đình, yêu quê hương đất nước là nền tảng để hình thành nhân cách
trong tương lai, đó cũng là cách làm giàu tình yêu quê hương trong con trẻ. Vì
vậy, thông qua các bài học, đặc biệt trong việc dạy môn Tiếng Việt cần rèn cho

trẻ những kỹ năng này để trở thành người có ích cho xã hội, có một nhân cách
tốt hơn, giúp đất nước phát triển hơn.
2.3.2.2. Biện pháp 2: Vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học tích cực
vào việc dạy lồng ghép kỹ năng sống trong môn Tiếng Việt.
Như chúng ta đã biết, khả năng giáo dục kỹ năng sống của môn Tiếng
Việt không chỉ thể hiện ở nội dung mơn học mà cịn được thể hiện qua phương
pháp dạy học của giáo viên. Để hình thành các kiến thức và rèn luyện kỹ năng
mà chương trình mơn Tiếng Việt đặt ra với học sinh Tiểu học, người giáo viên
phải vận dụng linh hoạt nhiều phương pháp dạy học tích cực để giúp học sinh
chủ động, tích cực, sáng tạo trong học tập.
Mơn Tiếng Việt 3 có nhiều bài học có thể giáo dục kỹ năng sống cho các
em, đó là các kỹ năng giao tiếp xã hội như: Viết thư, Điền vào giấy tờ in sẵn,
Giới thiệu địa phương, Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia,... được lồng
cụ thể qua các tình huống giao tiếp. Khi dạy, giáo viên chỉ gợi mở sau đó cho
các em tự nói một cách tự nhiên hồn tồn khơng gị bó áp đặt. Bên cạnh đó,
nhiều bài Luyện từ và câu có nội dung rèn luyện các nghi thức lời nói, nhiều
bài Tập đọc giới thiệu những văn bản mẫu chuẩn bị cho việc hình thành một số
kỹ năng giao tiếp cộng đồng như mẫu đơn, thư, …hoặc cung cấp những câu
chuyện mà qua đó học sinh có thể rút ra những nội dung rèn kỹ năng sống. Để
hình thành những kiến thức và rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh qua các bài
học đó, người giáo viên cần phải vận dụng nhiều phương pháp dạy học phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh như: thực hành giao tiếp, trò
chơi học tập, phương pháp nêu và giải quyết vấn đề, phương pháp tổ chức hoạt
động nhóm, phương pháp hỏi đáp,…Thơng qua các hoạt động học tập, được
phát huy trải nghiệm, rèn kỹ năng hợp tác, bày tỏ ý kiến cá nhân, đóng vai,…
học sinh có được cơ hội rèn luyện, thực hành nhiều kỹ năng sống cần thiết.
Sự tích hợp các phương pháp dạy học tích cực của giáo viên giúp học
sinh rèn được các kỹ năng như giao tiếp, ứng xử, hợp tác, tự tin, mạnh dạn hơn
với mọi người xung quanh. Học sinh có kỹ năng học tập tốt hơn trong các môn
học.


15


Ví dụ: Khi dạy Tập làm văn các bài: “Thảo luận về bảo vệ môi
trường” ( tuần 31) ”, giáo viên tổ chức cho các em đóng vai, chơi trị chơi.
Sau vài lời khuyến khích đầu tiên tổ chức cho các em đứng thành vịng trịn
đóng vai, giới thiệu, bày tỏ ý kiến,… Lúc đầu các em rất ái ngại khơng tự tin
khi đóng vai, bày tỏ ý kiến trước lớp nhưng được giáo viên kịp thời nhắc nhở
các em những điều cần chú ý trong khi giao tiếp, cộng thêm một mơi trường
hịa đồng thân thiện các em thực hiện rất tốt, khơng cịn những cái nhìn ái ngại.
Thay vào đó là những cánh tay tự tin cùng những câu nói rõ ràng, chắc gọn,
mạnh dạn hơn.
Các kỹ năng được phát triển từ dễ đến khó. Sau bài học giới thiệu là
những bài học như khám phá, tư duy hiệu quả và đặc biệt kỹ năng làm việc
đồng đội. Giáo viên ln tạo khơng khí thân thiện, áp dụng việc đổi mới
phương pháp tạo điều kiện cho các em mạnh dạn, tự lập, tự khẳng định và phát
huy mình hơn qua việc học nhóm.
Ví dụ: Khi dạy bài: “Từ ngữ về gia đình” phân mơn Luyện từ và câu
( tuần 4) hay ” Từ ngữ về cộng đồng”( tuần 8) : Giáo viên cho học sinh chuẩn
bị những hộp thư: Yêu cầu, đề nghị và tổng kết lại vào cuối tiết. Em nào nêu
được nhiều câu thành ngữ, tục ngữ nói về tình cảm của những người trong thân
đối với nhau nhất sẽ được tuyên dương. Giáo viên tổ chức cho các em trao đổi
trong nhóm nhỏ: “Bạn hiểu như thế về các thành ngữ, tục ngữ đó?” “Bạn đã
thể hiện tình cảm của mình đối với người thân trong gia đình mình như thế
nào?”... Qua đó các em sẽ bộc lộ những suy nghĩ của mình.
Rèn kỹ năng sống có hiệu quả cịn được giáo viên vận dụng khá nhiều
trong các mơn học thơng qua xử lí tình huống hay các trị chơi học tập có nội
dung gần gũi với cuộc sống hằng ngày của các em. Thông qua những hoạt động
đó giúp học sinh nắm bắt được các kỹ năng sống một cách nhanh chóng và

thuần thục hơn.
2.3.2.3. Biện pháp 3: Tổ chức cho học sinh được thực hành, trải nghiệm
những kỹ năng đã học.
Việc tổ chức giáo dục kỹ năng sống trong các mơn học nói chung và mơn
Tiếng Việt nói riêng để có được hiệu quả bền vững thì rất cần đến việc tổ chức
cho học sinh có cơ hội được trực tiếp thực hành luyện tập và trải nghiệm kỹ
năng sống đã được học. Bởi vì học sinh Tiểu học có đặc điểm là nhanh nhớ và
chóng quên. Do đó, để chuyển từ kỹ năng thành kỹ xảo thì chỉ có con đường
thực hành luyện tập thường xuyên, liên tục ở mọi lúc, mọi nơi thì mới có hiệu
quả như mong muốn.
Tùy theo từng bài học mà giáo viên có thể tổ chức cho các em hoạt động
ngay tại lớp với tình huống tương tự bài học để học sinh tự tìm ra hướng giải
quyết vấn đề, sau đó học sinh tự nêu các kỹ năng mà em đã ứng dụng để giải
quyết vấn đề đó.
Nếu khơng tổ chức thực hành được thì giáo viên hướng dẫn học sinh tự
tìm hiểu các tình huống tương tự mà các em đã gặp ở cuộc sống thường ngày,
16


ghi chép lại và nêu cách giải quyết của bản thân để hơm sau trình bày trước lớp
cho các bạn nghe và bổ sung, sau đó bình chọn cách giải quyết tốt nhất.
Việc tổ chức cho học sinh thực hành và trải nghiệm các kỹ năng sống
trong các phân môn Tiếng Việt được tiến hành thường xuyên và liên tục như
thế sẽ có được hiệu quả bền vững và lâu dài trong việc giáo dục kỹ năng sống
cho học sinh.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
Với những biện pháp, giải pháp thiết thực và hiệu quả như đã trình bày ở
trên, qua việc theo dõi sát sao các hoạt động học tập cũng như các hoạt động
tập thể của học sinh tôi nhận thấy kỹ năng sống của học sinh có sự thay đổi,

tiến bộ rõ rệt. Cụ thể là:
+ Các em học sinh khơng cịn tỏ vẻ rụt rè, nhút nhát khi giáo viên gọi trả lời
câu hỏi, mạnh dạn giơ tay phát biểu xây dựng bài, tự tin phát biểu trước đông
người, như là em Đặng Khánh, Tiến, Nam , Mạnh…
+ Các giờ học sôi nổi hơn, số lượng học sinh không chịu học bài và làm bài
ở nhà khơng cịn nữa. Tỉ lệ học sinh hoàn thành tốt tăng cao, tỷ lệ học sinh chưa
hoàn thành giảm hẳn so với kết quả khảo sát đầu năm. Những học sinh đầu năm
còn lười học, chưa có ý thức tự giác nay đã tiến bộ hẳn lên như em Tiến ,
Ngọc...
+ Một số em trong lớp có hồn cảnh gia đình khó khăn về đời sống vật
chất, bố mẹ phải đi làm cả ngày không có khả năng kèm cặp con cái ở nhà, như
Tùng , Ngọc, Bảo... .Một số em có bố mẹ đi làm ăn xa, gửi con lại cho ông bà
như em Vương Ngọc, Nam, Yến Nhi... Những học sinh này đến nay đã có
những kỹ năng sống nhất định, các em ngoan ngỗn, biết vâng lời thầy cơ, cha
mẹ, ơng bà.
+ Một số học sinh khác trước đây do sự nuông chiều của ơng bà, cha mẹ
chưa có ý thức tự phục vụ cũng như ý thức tự quản bản thân do đó thường có
những hành động bột phát làm ảnh hưởng đến trật tự lớp học như em Thái Anh,
Phan Khánh, Tùng... thì giờ đây các em đã biết giữ gìn trật tự lớp học, ln tự
giác thực hiện tốt nội quy của trường, lớp.
+ Đội ngũ cán bộ lớp như: Đức, Đan, Thảo... đã có kỹ năng quản lý nhóm,
tổ, lớp thành thạo. Các em thường thay cho giáo viên chủ nhiệm quản lý điều
hành các hoạt động của lớp khi vắng giáo viên chủ nhiệm. Lớp học trật tự, đi
vào nề nếp làm cho tất cả học sinh luôn tự giác thực hiện nội quy của lớp, của
trường. Nên giáo viên bộ môn đặc thù khác nếu dạy thì các em học rất hăng say
và tích cực và được các cô đánh giá cao sự tiến bộ rõ rệt.
Khi họp phụ huynh đầu học kì II tơi cũng đã trao đổi tới các bậc phụ huynh
về quá trình giáo dục kỹ năng sống cho các em, một học sinh phát triển tồn
diện khơng phải chỉ có học tốt mà còn nhiều yếu tố khác nữa như: về sức khỏe,
về kỹ năng giao tiếp trong cuộc sống… nói chung là phải có kỹ năng sống, biết

ứng xử tốt trong mọi tình huống. Phụ huynh cũng rất đồng lịng với cách giáo
dục của cô, họ rất tâm đắc và hứa sẽ về nhà quan tâm đến kỹ năng sống của các
con nhiều hơn nữa.
17


Giữa kì II năm học 2020 – 2021 tơi đã tiến hành kháo sát bằng phương pháp
trắc nghiệm như sau:
PHIẾU KHẢO SÁT KĨ NĂNG SỐNG CỦA EM

Các biểu hiện hành vi
I. Kĩ năng giao tiếp
Chào hỏi lễ phép, tự tin
Tự tin giới thiệu cơ bản về nhà trường (Tên
trường, tên thầy cơ giáo HT, PHT, TPTĐ, thầy
cơ, bạn bè)
Nói lời cảm ơn khi được giúp đỡ, xin lỗi khi mắc
kh điểm
Trong những trường hợp bản thân gặp khó
khăn, biết tìm đến sự giúp đỡ của người khác
II. Kĩ năng tự phục vụ
Ăn mặc gọn gàng, sạch sẽ; trang phục phù hợp
thời tiết.
Thường xun giữ vệ sinh phịng học, sân
trường: khơng vứt rác ra lớp học,sân trường
Thường xuyên quét lớp, quét nhà, quét dọn
khu vực sân trường (trong lớp học, sân trường,
cổng trường ln sạch )
III. Kỹ năng nghe, nói, đọc, viết
Tập trung chú ý nghe, khơng nói chen ngang

khi người khác đang nói
Có thể nhắc lại tóm tắt nội dung đã nghe, thực
hiện được yêu cầu theo nội dung đã nghe (theo
mức độ từng lớp).
Nói rõ ràng, mạch lạc: trình bày ngắn gọn,
trọng .
Đọc đúng văn bản, ngắt nghỉ đúng dấu câu và
đảm bảo tốc độ đọc theo từng lớp.
Biết viết ra những suy nghĩ, ý thích của mình.
IV. Kỹ năng hợp tác, chia sẻ, làm việc theo
nhóm.
Tích cực, tự giác tham gia hoạt động nhóm .
Tích cực chia sẻ trong nhóm (trước lớp).
Tự giác, tích cực, hợp tác khi tham gia hoạt
động nhóm, giúp đỡ bạn khi gặp khó khăn.

Mức độ
Tốt Đạt C.đạt

Kết quả đạt được rất khả quan:

18


Tổng số học sinh

Có kỹ năng Tốt

38


SL
20

%
52,6

Có kỹ năng ở
mức Đạt
SL
%
18
47,4

Chưa đạt yêu
cầu kỹ năng
SL
%
0
0

Đối chiếu kết quả ở đầu năm học và giữa học kì II năm học 2020-2021
cho thấy tỉ lệ học sinh Có kỹ năng Tốt tăng lên rõ rệt, tỉ lệ học sinh Chưa đạt
yêu cầu kỹ năng khơng cịn nữa. Điều này cho thấy càng khẳng định được tính
hiệu quả của việc “Giáo dục kỹ năng sống” trong q trình giảng dạy nói
chung và trong mơn Tiếng Việt nói riêng.
Với kết quả cho thấy rõ rệt như vậy, là giáo viên trực tiếp giảng dạy tôi
thường đưa ra ý kiến cũng như kinh nghiệm để các đồng nghiệp trong tổ khối
học tập cùng thực hiện và áp dụng. Chính vì thế mà nề nếp, kỹ năng sống cũng
như chất lượng của các lớp trong tổ khối được nâng lên đáng kể. Điển hình là
đợt kiểm tra chất lượng giữa học học kì II của học sinh khối 3 trong nhà trường

Tiểu học Đông Hưng đã đạt kết quả tương đối khả quan. Lớp tôi được nhà
trường đánh giá cao trong việc nâng cao chất lượng dạy học của năm học 20202021.
Không những thế, qua hội thảo chun mơn của nhà trường, kinh nghiệm
của tơi cịn được phổ biến tích cực và được hội đồng khoa học trường Tiểu học
Đông Hưng đánh giá cao. Kinh nghiệm này tiếp tục được áp dụng sâu rộng
trong tất cả các khối lớp và là một trong những biện pháp hiệu quả góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường Tiểu học Đông Hưng. Đặc biệt là
sự tiến bộ vượt bậc trong các hoạt động học tập cũng như trong các hoạt động
ngoài giờ lên lớp của nhà trường đã được nâng lên với những nấc thang mới.
Như vậy, có thể nói sáng kiến kinh nghiệm của tơi đã góp phần nhỏ bé vào
việc đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường Tiểu học Đông
Hưng hiện nay.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận.
Qua việc những thực tế giảng dạy nhiều năm ở lớp 3, tôi thấy việc giáo
dục và rèn kỹ năng sống cho học sinh Tiểu học là việc tưởng chừng như đơn
giản nhưng cũng rất khó. Vì vậy, giáo viên cần nắm được các phương pháp đặc
trưng việc giáo dục và rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh, biết cách lựa chọn
phương pháp, kĩ thuật dạy học phù hợp, kết hợp hình thức dạy học hợp lý,
nhằm phát huy tính chủ động của học sinh sẽ giúp các em phát huy cao độ trí
tuệ, cảm xúc, năng động, sáng tạo trong học tập và giao tiếp.
Cuộc sống luôn biến đổi, do vậy khơng thể có một giáo trình cứng nhắc
về kỹ năng sống. Một trong những yêu cầu quan trọng để thực hiện việc lồng
ghép giáo dục kỹ năng sống vào các vài học đó là giáo viên phải tìm ra được

19


các mối quan hệ giữa các kĩ thuật dạy học với các nội dung rèn luyện kỹ năng
sống. Chẳng hạn, với học sinh Tiểu học, đề hình thành nhóm kỹ năng nhận thức

bao gồm: nhận thức bản thân, xây dựng kế hoạch, xác định điểm mạnh, điểm
yếu của bản thân, khắc phục khó khăn để đạt được mục tiêu…… giáo viên cần
sáng tạo rất nhiều tình huống trong bài học để học sinh qua đó tự hình thành
những kỹ năng này. Để làm tốt nhiệm vụ này, người giáo viên cần có tinh thần
trách nhiệm nhiệt tình, tận tụy với nghề nghiệp và khả năng sáng tạo rất cao.
Giáo dục kỹ năng sống thực sự có hiệu quả khi người thầy có tâm huyết,
kiên nhẫn và nhất là phải có thời gian. Giáo dục kỹ năng sống không phải chỉ là
công việc của giáo viên, nhà trường mà của cả xã hội. Phải kết hợp cả gia đình,
nhà trường và xã hội mới mong đào tạo được những học sinh phát triển toàn
diện.
Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh phải đảm bảo các yếu tố: giúp học
sinh ý thức được giá trị của bản thân trong các mối quan hệ xã hội, giúp học
sinh hiểu biết về thể chất và tinh thần của bản thân mình, có hành vi và thói
quen ứng xử có văn hóa, hiểu biết và chấp hành pháp luật…Vì giáo dục kỹ
năng sống là giáo dục kỹ năng xử lý tình huống, kỹ năng ra quyết định cho học
sinh thông qua dạy học môn Tiếng Việt lớp 3 ở Tiểu học Đơng Hưng nói riêng
và các trường Tiểu học trên địa bàn Thành phố Thanh Hóa nói chung được
thực hiện tốt thì sẽ nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện học sinh.
Đối với giáo viên, cần nắm vững phương pháp giảng dạy của bộ mơn để
phối hợp vận dụng vào thực tế lớp mình đang dạy nhằm góp phần nâng cao
chất lượng mơn Tiếng Việt nói riêng và các mơn ở tiểu học nói chung. Đặc biệt
trong các lần kiểm tra sau thì điểm khá đã tăng lên nhiều, lời lẽ giọng văn sắc
bén hơn, đua nhau chăm học hơn và ham học nhiều hơn. Đây là một trong
những thành công lớn của quá trình vận dụng nghiên cứu trên.
Chắc đây chưa phải là giải pháp hay nhất nhưng nó sẽ giúp cho giáo
viên có một số kinh nghiệm để giáo dục và rèn luyện kĩ năng sống cho học
sinh. Do thời gian nghiên cứu và năng lực của bản thân còn hạn chế nên tôi chỉ
nêu lên một số biện pháp giúp học sinh tự tin hơn trong các giờ học thêm yêu
gia đình, quê hương, đất nước, bạn bè người thân hơn qua các bài học Tiếng
Việt. Tôi rất mong được sự góp ý chân thành của các cấp và các bạn đồng

nghiệp để tơi hồn thiện được đề tài, áp dụng vào công tác giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh Tiểu học được tốt hơn.
3.2 Kiến nghị
- Tôi xin mạnh dạn đề xuất với nhà trường bổ sung thêm một số tài liệu
giáo dục kỹ năng sống.
- Tổ chức các buổi hội thảo, sinh hoạt chuyên môn về Giáo dục kỹ năng
sống có hiệu quả.
- Tập thể giáo viên cần quan tâm hơn và trao đổi vào các buổi sinh hoạt
chun mơn của tổ mình.
- Rất mong Phịng giáo dục và đào tạo thành phố có nhiều buổi trao đổi
kinh nghiệm về sáng kiến hay để giáo viên có điều kiện học hỏi lẫn nhau nhằm
nâng cao tay nghề, có chất lượng giáo dục cao hơn.
20


Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

An Hưng, ngày 25 tháng 3 năm 2021
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, khơng sao chép nội dung
của người khác.
Người viết sáng kiến

Cù Thị Lý

TÀI LIỆU THAM KHẢO

21



1. Lê Phương Nga (2013), Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học 1,
nhà xuất bản đại học sư phạm.
2. Sách giáo khoa Tiếng Việt 3 (tập1, tập 2)
3.Nguyễn Trại, Thiết kế bài giảng Tiếng Việt 3, nhà xuất bản Hà Nội
4.PGS. TS. Nguyễn Thị Mỹ Lộc, TS. Đinh Thị Kim Thoa, TS. Bùi Thị Thúy
Hằng, Giáo dục giá trị sống và kỹ năng sống cho học sinh tiểu học - Phần 1,
nhà xuất bản giáo dục Hà Nội.
5. Lưu ThuThủy, Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học qua các môn
học.
6. Nguyễn Minh Thuyết, Sách giáo khoa Tiếng Việt 3, nhà xuất bản giáo dục
Việt Nam.
7. Bài tập thực hành kĩ năng sống lớp 3, Lưu Thu Thủy

22



×