Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Đánh giá hiệu quả kỹ thuật cho nghề đánh bắt cá ngừ đại dương của tỉnh Khánh Hòa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (396.12 KB, 5 trang )

Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản

Số 2/2015

THÔNG BÁO KHOA HỌC

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ KỸ THUẬT CHO NGHỀ ĐÁNH BẮT CÁ NGỪ
ĐẠI DƯƠNG CỦA TỈNH KHÁNH HÒA
TECHNICAL EFFICIENCY ASSESSING FOR KHANH HOA OCEAN TUNA FISHERY
Phạm Thị Thanh Bình1, Hồng Thu Thủy2
Ngày nhận bài: 04/02/2015; Ngày phản biện thơng qua: 06/5/2015; Ngày duyệt đăng: 10/6/2015

TĨM TẲT
Nghiên cứu phân tích hiệu quả kỹ thuật cho các tàu khai thác cá ngừ đại dương tại tỉnh Khánh Hòa trong năm 2013
bằng phương pháp phân tích màng dữ liệu (DEA) theo mơ hình tối thiểu hóa đầu vào. Kết quả nghiên cứu cho thấy nghề
khai thác cá ngừ đại dương của Khánh Hịa đang sử dụng lãng phí các nguồn lực đầu vào, đặc biệt là nhóm tàu có cơng
suất lớn. Để gia tăng các hoạt động kinh tế của Việt Nam trên Biển đông một cách bền vững, Nhà nước, các nhà quản lý
và các nhà khoa học cần đặc biệt chú trọng công tác nghiên cứu mẫu tàu, nguồn lợi, đầu tư cho đào tạo và huấn luyện ngư
dân nhằm gia tăng hiệu quả sử dụng ngồn lực đầu vào của sản xuất, đặc biệt cho các tàu lớn.
Từ khóa: hiệu quả kỹ thuật, Cá ngừ đại dương, Khánh Hòa, DEA

ABSTRACT
The study adopts Data Envelopment Analysis (DEA) method with input orientation to analyse technical efficiency for
the ocean tuna fishery in 2003, Khanh Hoa province. The results indicate that inefficiency in input utilization still exists in
the fleet, especially for vessels with large horse power’s engine. For a sustainable incease in fishing activities in East Sea,
the Vietnamese government, managers and experts should focus on research about models of fishing vessels, tuna stock
and fishing ground, training for fishermen to improve technical efficiency, especially for vessels with large horse power’s
engine.
Keywords: technical efficiency, Ocean tuna, Khanh Hoa, DEA

I. ĐẶT VẤN ĐỀ


Với sự hỗ trợ của Chương trình xa bờ giai đoạn
2000 - 2005, nghề khai thác cá ngừ đại dương là
một trong số ít những nghề cá xa bờ của Việt Nam
thành công về phương diện kinh tế (Long và các
cộng sự, 2008). Tuy vậy, nhiều nghiên cứu cũng
cảnh báo rằng việc khai thác cá ngừ đại dương ở
Biển Đơng đã tới mức bão hịa về mặt sinh học.
Long và các cộng sự (2008) đưa ra bằng chứng cho
thấy tín hiệu về đầu tư quá mức đã xuất hiện trong
nghề câu cá ngừ đại dương ở Khánh Hòa [2]. Do
vậy, việc tiếp tục nghiên cứu hiệu quả khai thác của
nghề đánh bắt này là vấn đề đáng quan tâm.
Thế giới đã và đang dịch chuyển mơ hình phát
triển từ “kinh tế nâu, brown economy” sang “kinh
tế xanh, green economy”. Đây là bước chuyển tiếp

1

cần thiết để từng bước tiến tới sự phát triển
bền vững. Trong điều kiện dân số thế giới gia tăng
và các nguồn tài nguyên thiên nhiên hữu hạn, việc
phân tích hiệu quả sử dụng yếu tố đầu vào (còn
được gọi là hiệu quả kỹ thuật - technical efficiency)
để tìm cách gia tăng sản lượng đầu ra mà không
phải sử dụng nhiều hơn các yếu tố đầu vào đang
là một chủ đề được nhiều nhà khoa học, nhà hoạch
định chính sách trên thế giới quan tâm. Farrel
(1957) là người đầu tiên xây dựng một cách có hệ
thống về lý thuyết này và hiện tại có hai cách tiếp
cận phân tích chính là Data Envelopment Analysis

(DEA) được khởi xướng bởi Charnes và các
cộng sự (1978) và Stochastic Production Frontier
(SPF) được phát triển bởi Battese và Coelli (1995)
(trích dẫn theo [5&6]). Việc phân tích hiệu quả

ThS. Phạm Thị Thanh Bình, 2 ThS. Hồng Thu Thủy: Khoa Kinh tế - Trường Đại học Nha Trang

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 9


Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
sử dụng yếu tố đầu vào của các đơn vị sản xuất
nhằm đề xuất các chính sách phát triển bền vững đã
và đang được áp dụng rất rộng rãi trong các nghiên
cứu về nghề cá. Cả hai cách tiếp cận phân tích
DEA và SFA đều được áp dụng rất rộng rãi trong
nghiên cứu thực nghiệm. Các nghiên cứu tiêu biểu,
ví dụ như, Coglan và cộng tác viên (2009) [1] cho
nghề lưới kéo tầng đáy ở vùng biển nước Anh;
Sharma và Lueng (1999) [3] cho nghề câu ở vùng
biển Hawaii, và Pascoe và các cộng sự (2003)
[5&6] nghiên cứu một cách toàn diện cho các nghề
cá ở Châu Âu.
Mục tiêu của nghiên cứu này là: phân tích hiệu
quả kỹ thuật (technical efficiency) của nghề khai
thác cá ngừ đại dương, với bộ dữ liệu thu thập trong
năm 2013, theo cách tiêp cận phân tích DEA để đề
xuất một số khuyến nghị cho chính quyền và các
chủ tàu nhằm từng bước phát triển nghề khai thác
cá ngừ đại dương của Khánh Hòa bền vững.

II. CƠ SỞ LÝ THUYẾT

Số 2/2015
trong trường hợp quy mô ảnh hưởng đến kết
quả sản xuất (Variable Return to Scale - VRS).
Cả hai mơ hình DEACRS và DEAVRS đều được xây
dựng với giả thiết tối thiểu hóa các yếu tố đầu vào
mà khơng làm giảm sút đầu ra và tối đa hóa đầu ra
dựa trên đầu vào có sẵn [5].
Để so sánh phương pháp DEACRS và DEAVRS,
ta xét điểm không đạt hiệu quả kỹ thuật P (hình 1).
Sự khơng hiệu quả kỹ thuật theo mơ hình phân tích
màng dữ liệu tối thiểu hóa đầu vào trong trường
hợp qui mơ khơng ảnh hưởng đến kết quả sản xuất
(CRS) của điểm P là một khoảng cách PPc. Trong
khi đó, sự khơng hiệu quả kỹ thuật theo mơ hình
phân tích màng dữ liệu tối thiểu hóa đầu vào trong
trường hợp qui mơ ảnh hưởng đến kết quả sản xuất
(VRS) chỉ là PPv. Sự khác biệt của hai mơ hình đo
lường này là do sự khơng hiệu quả về mặt qui mơ.
Các khái niệm này có thể chỉ rõ trong đo lường hiệu
quả tỉ lệ như sau:
TECRS = APc/ AP
TEVRS = APv/ AP

1. Khái niệm về hiệu quả (Efficiency)
Hiểu theo nghĩa rộng, hiệu quả thể hiện mối
tương quan giữa các biến số đầu ra thu được
(outputs) so với các biến số đầu vào (inputs) đã
được sử dụng để tạo ra những kết quả đầu ra đó [5].

Hiệu quả = Đầu ra /Đầu vào
2. Hiệu quả kỹ thuật (Technical efficiency)
Hiệu quả kỹ thuật là tối thiểu hóa lượng các
yếu tố đầu vào với đầu ra cho trước hoặc tối đa
hóa các yếu tố đầu ra với lượng yếu tố đầu vào cho
trước [5&6]. Có hai phương pháp đo lường hiệu quả
kỹ thuật phổ biến là: phân tích màng dữ liệu (Data
Envelopment Analysis - DEA) và phân tích đường
biên ngẫu nhiên (Stochastic Production Frontier SPF), trong đó SFA sử dụng phương pháp tham số
(parametric methods), DEA dựa theo phương pháp
phi tham số (non - parametric methods) để ước
lượng giới hạn khả năng sản xuất dựa trên các quan
sát thực tế.
Phương pháp DEA
DEA lần đầu tiên được phát triển bởi Charnes,
Cooper, và Rhodes vào năm 1978. Có hai phương
pháp tiếp cận ước lượng giới hạn khả năng sản xuất
là: phân tích màng dữ liệu trong trường hợp quy mơ
khơng ảnh hưởng đến kết quả sản xuất (Constant
Return to Scale - CRS) và phân tích màng dữ liệu

10 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG

Hình 1. Mơ hình phân tích màng dữ liệu tối thiểu hóa
đầu vào DEACRS và DEAVRS

Do vậy, hệ số hiệu quả TECRS, TEVRS trong
mơ hình phân tích màng dữ liệu luôn nằm trong
khoảng từ 0 đến 1.
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

1. Dữ liệu nghiên cứu
1.1. Địa bàn và qui mô nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các tàu khai thác cá
ngừ đại dương tỉnh Khánh Hòa năm 2013. Tổng số
tàu trong tổng thể là 153 và mẫu nghiên cứu là 39
(35,5%).
1.2. Phương pháp chọn mẫu nghiên cứu
Phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đơn
giản bằng cách dựa vào danh sách các tàu được


Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản

Số 2/2015
Trong đó, TEi =

cung cấp bởi Sở NN&PTNT Khánh Hịa, sau đó rút
thăm ngẫu nhiên khơng lặp lại từ danh sách lập để
chọn ra các tàu cần điều tra. Số liệu thu thập bằng
phương pháp phỏng vấn trực tiếp chủ tàu.

là thước đo vô hướng của

hiệu quả kỹ thuật của tàu câu thứ thứ i. Phần mềm
thống kê R được sử dụng để ước lượng kết quả.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

2. Mơ hình và phương pháp phân tích dữ liệu
Các nghiên cứu trước đây trong nghề cá áp
dụng phương pháp DEA, ví dụ như Coglan và

cộng tác viên (2009) và Pascoe và các cộng sự
(2003), thường lựa chọn cách tiếp cận tối thiểu
hóa đầu vào với đầu ra khơng đổi vì: (i) trữ lượng
nguồn lợi có hạn và (ii) dư thừa năng lực đánh
bắt trong các nghề cá đang là vấn đề tồn cầu.
Để khuyến cáo chính phủ và người dân trong việc
đầu tư tàu đánh bắt xa bờ, bài viết này cũng thực
hiện đo lường hiệu quả kỹ thuật theo hướng tối
thiểu hóa các yếu tố đầu vào mà không làm giảm
sút yếu tố đầu ra với mơ hình DEA. Mơ hình tốn
cụ thể như sau:
Giả sử rằng có N tàu đánh bắt cá ngừ đại dương
và sử dụng K yếu tố đầu vào. Đối với tàu thứ i (i = 1,
2,…, N), dữ liệu đầu vào và đầu ra được biểu diễn
bằng các véc tơ cột là xi và yi . Dữ liệu cho tất cả các
tàu được biểu diễn bởi ma trận K*N yếu tố đầu vào, X,
và véc tơ cột đầu ra Y. Thông thường, trong sản xuất
yếu tố quy mô thường được giả sử có ảnh hưởng đến
kết quả sản xuất. Vì vậy, mơ hình VRS DEA theo định
hướng đầu vào cho tàu khai thác thứ i là:

1. Một số giá trị thống kê của các biến dùng
trong phân tích
Tiếp theo Sharma và Lueng (1999), và
Pascoe và các cộng sự (2003), nghiên cứu này
sử dụng 3 biến đầu vào của sản xuất là công
suất máy tàu, lượng dầu sử dụng và số giờ lao
động trên biển của mỗi tàu trong năm, 01 biến
đầu ra là sản lượng khai thác trong năm. Công
suất máy tàu được sử dụng làm biến đại diện

cho tài sản đầu tư, vì thực sự, ở Việt Nam và các
nước đang phát triển, mọi chính sách đang sử
dụng cơng suất máy tàu để phân loại mức độ đầu
tư. Hơn nữa, đối với các nghề khai thác cá di cư
như cá ngừ, dầu là đầu vào có chi phí lớn nhất
nên được chọn làm biến đại diện cho chi phí biến
đổi. Cuối cùng, lao động trong hàm sản xuất được
tính bằng số giờ lao động trên biển trong năm.
Dữ liệu trữ lượng nguồn lợi không thực sự cần
thiết với dữ liệu chéo khi các tàu được giả định
là hoạt động trên cùng một ngư trường [5&6]. Đối
với nghề cá ngừ đại dương của Khánh Hòa, một
số giá trị thống kê của các biến dùng trong phân

tích được thể hiện trong bảng 1.
Bảng 1. Một số giá trị thống kê của các biến dùng trong phân tích
STT

Biến số

Trung bình

Nhỏ nhất

Lớn nhất

Độ lệch chuẩn

1.


Cơng suất máy tàu (HP)

264,2

90

420

96,6

2.

Dầu (nghìn lít)

37,7

10,2

55

8,2

3.

Số giờ lao động trên biển (ngày)

1589,0

560


2200

266,6

5.

Sản lượng (tấn)

20

5

32,5

4,9

Nguồn: Tính tốn từ số liệu điều tra.

Các tàu cá tham gia đánh bắt cá ngừ đại dương
của Khánh Hịa có cơng suất bình qn đạt 264,2
HP, lớn nhất là 420 và nhỏ nhất là 90 HP, với độ
lệch chuẩn là 96,6. Lao động trên các tàu đánh bắt
cá ngừ đại dương trên biển của tỉnh Khánh Hịa
trung bình: 1589,0 ngày, nhỏ nhất: 560 ngày, lớn
nhất 2200 ngày trong năm đánh bắt 2013, với độ
lệch chuẩn: 266,6; lượng dầu sử dụng trung bình:

37,7 nghìn lít, nhỏ nhất: 10,2 và lớn nhất là 55 nghìn
lít, độ lệch chuẩn: 8,2; sản lượng trung bình: 20 tấn,
nhỏ nhất: 5, lớn nhất: 32,5 tấn, độ lệch chuẩn: 4,9.

2. Hiệu quả kỹ thuật theo phương pháp DEA
Kết quả nghiên cứu hiệu quả kỹ thuật (VRS)
với giả định quy mô hoạt động của các tàu chưa đạt
mức tối ưu về quy mô được trình bày như ở bảng 2.

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 11


Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản

Số 2/2015

Bảng 2. Hiệu quả kỹ thuật của các tàu khai thác cá ngừ đại dương
Chỉ tiêu

TEVRS

1. Tổng số tàu trong mẫu

39

2. Các tàu đạt hiệu quả kỹ thuật

8

3. Tỷ lệ các tàu đạt hiệu quả kỹ thuật (%)

20,51

4. Hệ số hiệu quả kỹ thuật (θ)

- Trung bình

0,857

- Độ lệch chuẩn

0,118

- Khoảng biến thiên

0,579 – 1,000
Số tàu

5. Phân nhóm hệ số hiệu quả kỹ thuật

Tần số (%)

<0,7

5

12,82

0,7 - 0,8

8

20,51

0,8 - 0,9


11

28,21

0,9 - 0,1

7

17,95

1,0

8

20,51

(Nguồn: Tính tốn từ số liệu điều tra)

nghiên cứu này cũng tương đối tương đồng với
Qua bảng 2, hệ số hiệu quả kỹ thuật của các
kết quả của Sharma và Lueng (1999) đối với nghề
tàu khai thác cá ngừ đại dương của tỉnh Khánh
câu ở Hawai cũng như một số nghề cá khơi trong
Hịa trong trường hợp quy mơ ảnh hưởng đến kết
nghiên cứu của Pascoe và các cộng sự (2003).
quả sản xuất (VRS) biến động từ 0,579 đến 1,00
Như vậy, việc tiếp tục nghiên cứu nâng cao hiệu
với giá trị trung bình là 0,857 và có 20,51% số tàu
quả kỹ thuật trong khai thác đối với đội tàu khai

đạt hiệu quả kỹ thuật. Kết quả này cho thấy, nếu
thác cá ngừ đại dương của Khánh Hòa là cần thiết
đầu ra giữ nguyên không đổi, các đầu vào của
và mang ý nghĩa thiết thực.
sản xuất có thể giảm xuống khoảng 14%. Kết quả
Bảng 3. Kết quả tính tốn hiệu quả kỹ thuật đối với các nhóm tàu phân theo dải công suất
Các chỉ tiêu

90 – 250 (HP)

250 – 400 (HP)

400 HP trở lên

15

18

6

Số lượng tàu
Trung bình

0,925

0,834

0,755

Độ lệch chuẩn


0,079

0,122

0,096

Lớn nhất

0,748

0,621

0,579

Nhỏ nhất

1

1

0,867

(Nguồn: Tính tốn từ số liệu điều tra)

Bảng 3 tính tốn hiệu quả kỹ thuật cho 3 nhóm
tàu phân theo các dải cơng suất. Kết quả cho thấy
nhóm tàu nhỏ nhất (từ 90 - 250 HP) có hiệu quả
nhất (trung bình 0,925 và độ lệch chuẩn là 0,079),
kế tiếp đến đội tàu có cơng suất trung bình (từ

250 - 400 HP). Nhóm tàu có cơng suất lớn nhất
(400 HP trở lên) lại có hiệu quả thấp nhất (trung
bình 0,755 và độ lệch chuẩn là 0,096). Nghiên cứu
này ủng hộ kết quả của Long và các cộng sự (2009)
dù sử dụng phương pháp tiếp cận khác, đó là, có
khả năng xảy ra đầu tư quá mức và phi hiệu quả ở
các tàu có quy mơ lớn. Như vậy, để duy trì và phát
triển đội tàu khai thác cá ngừ đại dương của Khánh
Hòa trong dài hạn, rất cần các nghiên cứu chi tiết về

12 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG

ngư trường và nguồn lợi, thiết kế tàu phù hợp, đào
tạo ngư dân,.., nhằm tránh lãng phí trong việc sử
dụng nguồn lực đầu vào của sản xuất.
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Nghiên cứu sử dụng cách tiếp cận DEA (VRS)
đánh giá hiệu quả kỹ thuật của các tàu khai thác cá
ngừ đại dương tại tỉnh Khánh Hòa. Kết quả nghiên
cứu chỉ ra rằng việc tiếp tục nghiên cứu nâng cao
hiệu quả đánh bắt là cần thiết.
Trong 3 nhóm tàu phân tích, tàu có cơng suất
trung bình và lớn rất cần được đầu tư nghiên cứu


Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Thủy sản
để nâng cao hiệu quả kỹ thuật. Kết quả này cho
thấy, khi chúng ta đang khuyến khích việc đóng
tàu cơng suất lớn để cơng nghiệp hóa nghề cá và

gia tăng sự hiện diện các hoạt động kinh tế trên
biển, thì việc hỗ trợ giá dầu để các tàu có thể hoạt
động trong ngắn hạn là cần thiết (bù đắp sự phi
hiệu quả). Dù vậy, trong dài hạn để duy trì các tàu
này, rất cần các nghiên cứu chi tiết về ngư trường
và nguồn lợi, thiết kế tàu phù hợp, đào tạo ngư
dân,... để gia tăng hiệu quả sử dụng nguồn lực
đầu vào.

Số 2/2015
2. Kiến nghị
Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng nghề khai
thác cá ngừ đại dương của Khánh Hòa vẫn đang
sử dụng lãng phí các nguồn lực đầu vào, đặc biệt
là nhóm tàu có cơng suất lớn. Thực sự, đóng tàu
lớn để vươn khơi xa mới chỉ là bước đầu để cơng
nghiệp hóa nghề cá. Để gia tăng các hoạt động kinh
tế của Việt Nam trên biển đông một cách bền vững,
Nhà nước, các nhà quản lý, các nhà khoa học cần
đặc biệt chú trọng công tác nghiên cứu mẫu tàu,
nguồn lợi, đầu tư cho đào tạo và huấn luyện ngư
dân nhằm gia tăng hiệu quả sử dụng ngồn lực đầu
vào của sản xuất.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Coglan, L., Pascoe, S., Mardle, S., (1998). DEA versus econometric analysis of efficiency of demersal trawlers in the English
Channel. In: Eide, A., Vassdal, T. (Eds.), IIFET’98 Tromso Proceedings. Norwegian College of Fisheries Science, Tromso,
pp.334–343.


2.

Long, L K., Flaaten, O., Kim Anh, N T. (2008): ‘Economic performance of an open-acess fisheries - the case of Viet Namese
longline fishery in the South China Sea’. Fisheries Reasearch.

3.

Sharma, K.R., Leung, P., (1999). Technical efficiency of the longlinefishery in Hawaii: an application of a stochastic
production frontier.Mar. Res. Econ. 13, 259–274.

4.

Pascoe, S., Tingley, D., Mardle, S., (2003). Single output measures of technical efficiency in EU fisheries. CEMARE Report
61. CEMARE, UK.

5.

Pascoe, S., Tingley, D., Mardle, S., (2003). Technical efficiency in EU fisheries: implications for monitoring and management
through effort controls CEMARE Final Report. CEMARE, UK.

6.

Tingley. D., Pascoe. S., L. Coglan (2006). Factors affecting technical efficiency in fisheries: stochastic production frontier
versus data envelopment analysis approaches. Fisheries Research, 73, 363–376.

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 13




×