Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Phát triển nuôi tôm ở vùng đầm phá ven biển Thừa Thiên Huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (85.77 KB, 6 trang )

TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 28, 2005

PHÁT TRIỂN NUÔI TÔM Ở VÙNG ĐẦM PHÁ
VEN BIỂN THỪA THIÊN HUẾ
Nguyễn Tài Phúc
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Huế

ĐẶT VẤN ĐỀ
Thừa Thiên Huế, một tỉnh duyên hải miền Trung, có hệ thống đầm phá ven biển
rộng lớn (gần 22.000 ha) được xếp vào loại lớn của thế giới. Hệ thồng đầm phá Tam
Giang, Cầu Hai, Lăng Cô chạy dọc suốt 5 huyện ven biển Thừa Thiên Huế, từ Phong
Điền đến Phú Lộc, là một vùng đầm phá nước lợ với hệ sinh thái sông biển phong phú
và đặc sắc là điều kiện tự nhiên rất thuận lợi cho nhiều loại thủy sinh phát triển, một lợi
thế cho nhiều ngành nghề nông lâm, ngư nghiệp, mà đặc biệt là nghề nuôi trồng thủy
sản [7; 8].
Trong những năm gần đây, sự phát triển nhanh các ngành khai thác tài nguyên
đầm phá mà chủ yếu là nghề ni tơm với nhiều hình thức và trình độ khác nhau, đã
làm thay đổi diện mạo của toàn vùng đầm phá ven biển. Một bộ phận dân cư trong vùng
có đời sống tăng đáng kể, song nhiều vấn đề kinh tế, xã hội, môi trường sinh thái cần
được tiếp tục nghiên cứu. Sự bùng nổ nuôi tôm một cách ồ ạt và tự phát đã làm cho
không gian đầm phá bị chia cắt manh mún, môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng, nguồn
lợi thủy sản đang giảm sút; những điều này sẽ để lại hậu quả nặng nề cho vùng đầm phá
trong tương lai. Xuất phát từ đó, Chúng tơi lựa chọn vấn đề “Phát triển nuôi tôm ở vùng
đầm phá ven biển Thừa Thiên Huế" làm đề tài nghiên cứu với mục tiêu chủ yếu là:
- Đánh giá kết quả và các nhân tố ảnh hưởng hiệu quả nuôi tôm vùng đầm phá
ven biển Thừa Thiên Huế giai đoạn 1998 - 2003.
- Đề xuất một số giải pháp phát triển nuôi tôm hiệu quả và bền vững.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Những kết quả nuôi tôm ở vùng đầm phá ven biển Thừa Thiên Huế:
Trong giai đoạn từ năm 1998 đến năm 2003, diện tích nuôi tôm vùng đầm phá
ven biển Thừa Thiên Huế tăng nhanh, nhất là những năm 2000 - 2003. Năm 2000 diện


tích ni tơm là 2.021ha, chiếm khoảng 66,77% diện tích nuôi trồng thủy sản. Năm
5


2003 các trị số tương ứng là 3.875ha, chiếm khoảng 80,45%; tăng 207,46% so với năm
2000 [2;3;5].
Cùng với sự gia tăng về diện tích, nghề ni tơm vùng đầm phá đã khơng ngừng
áp dụng kỹ thuật và những hình thức nuôi tiến bộ nên năng suất tôm nuôi tăng khá, từ
0,208 tấn/ha ở năm 1998 lên 0,858 tấn/ha ở năm 2003, tương ứng tăng 412,5%. Từ đó
sản lượng tơm ni tăng, năm 2003 đạt 9.149 tấn, tăng 11,66 lần so với năm 1998. Đây
chính là nguồn nhiên liệu tơm cho chế biến, xuất khẩu và tiêu dùng nội địa [3;6].
Các huyện Phú Vang, Phú Lộc phát triển nuôi tôm nhanh hơn các huyện khác.
Vùng đầm phá huyện Phú Lộc tăng diện tích bình qn hàng năm 41,192%/năm và sản
lượng tăng 109,84%/năm trong thời gian trên. Phong Điền không mở rộng diện tích
ni tơm, nhưng lại đầu tư thâm canh nên sản lượng tôm nuôi ở năm 2003 tăng 9,67 lần
so với năm 1998 [1;2;6].
2. Hiệu quả nuôi tôm ở vùng đầm phá ven biển Thừa Thiên Huế:
Thời kỳ 1998 - 2003 hiệu quả ni tơm có sự biến động đáng kể. Ở năm 1998 số
hộ ni có lãi đạt tỷ lệ cao nhất 74,2% số hộ nuôi và số hộ bị lỗ là 9,2% số hộ ni.
Nhiều huyện có số hộ ni có lãi từ 85 - 96% số hộ nuôi, như Phú Vang, Quảng Điền,
Hương Trà. Năm 2003 do phát triển ồ ạt diện tích ni tơm mà các yếu tố giống, thức ăn
cơng nghiệp, phịng trừ dịch bệnh khơng được kiểm sốt chặt chẽ nên số hộ ni toàn
vùng bị lỗ là 1.094 hộ, chiếm khoảng 21,6% hộ nuôi [2; 3; 6].
Bảng 1: Hiệu quả sản xuất tôm của các hộ điều tra
theo các hình thức ni, tính cho 1 ha

Chỉ tiêu

ĐVT


Bán
TC/QCCT
Phú Quảng
Phú Lộc Quảng Điền Phú Lộc Quảng Điền
Lộc Điền
GT
GT
(1000đ)
(1000đ) GT (1000đ) GT (1000đ) (Lần) (Lần)

1. Tổng giá trị sản xuất (GO)

1000đ

40964,12

37423,79

53613,73

50878,88

1,31

1,36

2. Chi phí trung gian (IC)

1000đ


21738,48

1714,17

24029,21

23618,20

1,11

1,20

3. Giá trị gia tăng (VA)

1000đ

19225,64

17709,62

2584,52

27260,68

1,54

1,54

Ngày/người


184,18

195,67

211,22

223,12

1,15

1,14

4. VA/GO

Lần

0,47

0,47

0,55

0,54

1,17

1,15

6. VA/IC


Lần

0,88

0,90

1,23

1,15

1,42

1,28

1000đ

104,38

90,51

140,07

122,18

1,34

1,35

Quảng canh cải tiến


4. Công lao động

7. VA/công lao động

6

Bán thâm canh


(Nguồn: Tổng hợp kết quả điều tra hộ năm 2003)

Hình thức ni bán thâm canh có hiệu quả hơn so với hình thức ni quảng canh
cải tiến ở tất cả các chỉ tiêu tính tốn. Ví dụ như ở Quảng Điền giá trị sản xuất/ha của
hình thức ni bán thâm canh cao hơn hình thức ni quảng canh cải tiến là 36%; giá trị
gia tăng (VA) cao hơn 54%, VA/công lao động cao hơn 35% [2; 6] .
Nuôi tôm ở vùng đầm phá Phú Lộc có hiệu quả hơn Quảng Điền ở các chỉ tiêu
VA/GO, VA/IC cho cả hai hình thức nuôi bán thâm canh và quảng canh cải tiến [6].
Nếu tính trên 1 ha ni tơm, doanh thu có thể đạt tới 39 triệu đồng, lợi nhuận 17
triệu đồng; nếu so với sản xuất nơng nghiệp trong vùng thì hiệu quả nuôi tôm cao hơn 5
lần [3].
3. Ảnh hưởng của một số yếu tố đầu vào đối với năng suất tôm:
Kết quả ước lượng hàm sản xuất cho thấy: thức ăn cơng nghiệp, chi phí xử lý ao
hồ ni, lao động là những yếu tố ảnh hưởng tích cực đến năng suất tôm đối với cả hai
vùng với mức ý nghĩa thống kê cao 99% [6].
Chi phí đầu tư thức ăn tươi có tác động tích cực đến năng suất tôm ở Quảng
Điền và tiêu cực ở vùng đầm phá huyện Phú Lộc là do ở vùng đầm phá huyện Phú Lộc
nguồn nước lưu thông kém, các hộ đã sử dụng quá mức thức ăn tươi làm môi trường
nước bị ơ nhiễm [6].
Chi phí đầu tư phịng trừ dịch bệnh có ảnh hưởng tích cực đến năng suất tơm
ni ở Quảng Điền cao hơn ở Phú Lộc [6].

Việc lựa chọn hình thức ni bán thâm canh hay quảng canh cải tiến có ảnh
hưởng đến năng suất tơm ở cả hai vùng có mức ý nghĩa thống kê cao [6].
4. Một số vấn đề đặt ra đối với phát triển nuôi tôm của vùng
- Nghề nuôi tôm đã phát triển q nhanh về quy mơ diện tích nhưng thiếu quy
hoạch và kế hoạch đồng bộ, các hình thức ni bán thâm canh và thâm canh chưa được
chú trọng đã làm môi trường bị ô nhiễm nặng.
- Sự phát triển mất cân đối giữa nuôi tôm và các nghề nuôi trồng thủy sản khác
làm giảm đáng kể tính đa dạng sinh học dẫn đến ô nhiễm, mất cân bằng sinh thái và sự
rủi ro cao cho nghề nuôi trồng thủy sản của ngư dân trong vùng.
- Thị trường thủy sản không ổn định, đặc biệt tôm là mặt hàng xuất khẩu nên giá
phụ thuộc rất lớn vào giá cả thị trường tôm thế giới. Sự biến động của thị trường Mỹ và
một số nước khác đã tác động lớn đến nghề nuôi tôm. Mặc khác, ngư dân thường thiếu
thông tin thị trường và việc mua bán tôm thường diễn ra tại hồ ni nên cịn bị tư
thương chèn và ép giá.
5. Một số giải pháp phát triển nuôi tôm:
7


- Giải pháp quy hoạch: Để phát triển nuôi tôm hiệu quả và bền vững phải có quy
hoạch đồng bộ mà trước hết cần phải: quy hoạch chuyển đổi đất nông nghiệp hiệu quả
thấp và nhiễm mặn sang nuôi trồng thủy sản; quy hoạch vùng đất cát bãi ngang ven biển
sang nuôi trồng thủy sản; quy hoạch nuôi trồng thủy sản ở diện tích đất có mặt nước ven
đầm phá như nuôi hạ triều, nuôi chắn sáo [9].
- Giải pháp về thị trường: Xây dựng hệ thống thông tin thị trường để giúp cho
các cơ sở sản xuất cập nhật được các thông tin cần thiết liên quan đến thị trường đầu
vào và thị trường tiêu thụ sản phẩm, từ đó chủ động trong sản xuất; Xây dựng và nâng
cấp hệ thống chợ trong vùng; Hình thành một số trung tâm thương mại ở các tiểu vùng
nhằm đẩy mạnh xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm và xuất
khẩu; Tạo điều kiện thuận lợi để phát triển nhanh các loại hình du lịch, dịch vụ có lợi
thế như du lịch biển, nghỉ dưỡng, văn hóa, sinh thái... tạo mơi trường hấp dẫn du khách

trong và ngồi nước. Đây cũng là một thị trường xuất khẩu tại chỗ rộng lớn đối với
nhiều mặt hàng có lợi thế trong vùng [3; 7; 8].
- Đẩy mạnh các hoạt động khoa học, công nghệ và bồi dưỡng nguồn nhân lực:
tăng cường hoạt động của hệ thống khuyến ngư nhằm đẩy mạnh việc chuyển giao các
tiến bộ khoa học công nghệ đến tận từng hộ ngư dân, từng trang trại, giúp cho họ nắm
được kỹ thuật nuôi trồng từng loại thủy sản trong từng điều kiện cụ thể của vùng.
- Khuyến khích và chuyển giao kỹ thuật ni cá nước mặn, lợ, ngọt và các loài
thuỷ sản khác như cua, ghẹ... nhằm đa dạng hóa các lồi thủy sản ni trồng.
KẾT LUẬN
- Nuôi tôm đã trở thành một nghề mới cho vùng đầm phá ven biển Thừa Thiên
Huế và đã tăng trưởng với tốc độ cao cả về diện tích, số hộ nuôi và năng suất nuôi, tạo
giá trị sản xuất lớn góp phần tích cực vào việc cải thiện đời sống dân cư và bộ mặt nông
thôn vùng đầm phá ven biển.
- Hiệu quả của nghề nuôi tôm rất cao và cao hơn 5 lần so với sản xuất nông
nghiệp trong vùng. Hình thức ni bán thâm canh và thâm canh đang chiếm tỷ trọng
nhỏ nhưng đã thể hiện hiệu quả hơn nhiều so với hình thức ni quảng canh cải tiến và
quảng canh.
- Các nhân tố thức ăn công nghiệp, chi phí xử lý ao hồ và lao động có ý nghĩa
tích cực đối với năng suất tơm ở cả hai hình thức ni bán thâm canh và quảng canh cải
tiến.
- Nuôi tôm phát triển nhanh và chiếm hơn 80% diện tích ni trồng thủy sản dẫn
đến sự đơn điệu về sản phẩm, có thể tăng rủi ro cho ngư dân, tính đa dạng thủy sản
giảm sút cũng là nhân tố gây ra ô nhiễm môi trường nước đầm phá.
8


- Tiềm năng ni trồng thủy sản nói chung và ni tơm nói riêng ở vùng đầm
phá ven biển Thừa Thiên Huế đang rất lớn. Vì vậy cần có những giải pháp toàn diện,
đồng bộ mà trước hết là quy hoạch chi tiết nuôi trồng thủy sản mới làm cho ngành nghề
này phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.

3.

4.

5.
6.
7.
8.
9.

Cục thống kê Thừa Thiên - Huế, Niên giám thống kê 2003 (2004)
Nguyễn Tài Phúc, Nguyễn Văn Đức. Nghề nuôi tôm ở vùng đầm phá Cầu Hai Lăng Cơ, tỉnh Thừa Thiên Huế, Tạp chí Nơng nghiệp và phát triển nơng thơn, số 8
(2003) 979
Hồng Hữu Hịa. Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu khoa học công nghệ cấp bộ:
Nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng đầm phá Thừa Thiên Huế ven biển
theo hướng bền vững và xuất khẩu - Mã số B2001-12-08
Phạm Quyền. Xây dựng phương án sử dụng hợp lý đất, ruộng nhiễm mặn bãi biển
và mặt nước để phát triển bền vững môi trường thuỷ sản ở một số vùng trọng
điểm của đầm phá Thừa Thiên Huế (2002)
Sở Thuỷ sản Thừa Thiên Huế, Số liệu điều tra cơ bản vùng ven biển đầm phá
Thừa Thiên Huế (2003)
Nguyễn Tài Phúc. Báo cáo tổng kết đề tài khoa học công nghệ cấp bộ: Thực trạng
kinh tế vùng đầm phá ven biển tỉnh Thừa Thiên Huế; Mã số B2002.12.02 (2003)
Tỉnh uỷ Thừa Thiên - Huế, Nghị quyết số 11-NQ/TU ngày 20/10/1998 về phát triển
kinh tế - xã hội vùng biển và đầm phá Thừa Thiên Huế giai đoạn 1998 - 2005.
UBND tỉnh Thừa Thiên Huế, Báo cáo sơ kết thực hiện nghị quyết số 11 NQ-TU về

phát triển kinh tế xã hội vùng biển và đầm phá Thừa Thiên Huế (1998 - 2001)
UBND tỉnh Thừa Thiên Huế, Quy hoạch tổng quan phát triển nuôi trồng thủy sản
vùng ven biển tỉnh Thừa Thiên Huế thời kỳ 2001 - 2010

THE DEVELOPMENT OF SHRIMP FARMING IN COASTAL REGIONS
AND LAGOONS OF THUA THIEN-HUE PROVINCE
Nguyen Tai Phuc
College of Economics, Hue University

SUMMARY
Of the different types of aquatic product raising, shrimp farming is the dominant, which
has brought new fresh air into the farming work in the coastal and lagoon regions of Thua
Thien Hue Province and has made many fishing households become better-off. However, this
development of shrimp farming without planning has deliberately segmented the farming space
of the regions, and seriously polluted their ecologic environment. If there were no reasonable
9


solutions, the environmental consequence would obviously be serious for the future of the
regions in future.

10



×