Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Bài tập cá nhân môn Thư viện Khoa học - Vũ Thị Nhiên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (306.81 KB, 9 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HĨA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BÀI TẬP CÁ NHÂN
MÔN: THƯ VIỆN KHOA HỌC
SINH VIÊN: VŨ THỊ NHIÊN
MSSV: 1450101106

ĐỀ BÀI:
Câu 1: Giới thiệu một thư viện Đại học/ Khoa học trong/ ngoài nước.
Câu 2: Giới thiệu một cơng nghệ/ thiết bị hiện đại có thể ứng dụng vào hoạt động thư
viện.
BÀI LÀM:
Câu 1:
Thư viện trường Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh được thành lập năm 1977,
trên cơ sở sát nhập 3 thư viện, đó là: Thư viện Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật Phú Thọ;
Thư viện Bách Khoa Trung cấp; Thư viện Cao đẳng Hóa học.
Từ đó đến nay, thư viện đã có rất nhiều đổi thay song vẫn tọa lạc tại tòa nhà A2, nằm
ngay trung tâm, đối diện với cổng chính của Trường.
Ngoài thư viện tại nhà A2, từ tháng 1/2008 Thư viện tại cơ sở 2 ( nhà H1- Dĩ An, Bình
Dương) cũng đã chính thức hoạt động phục vụ bạn đọc.
Để phucjvuj cho các chương trình đào tạo kỹ sư tài năng, kỹ sư chất lượng cao của nhà
trường, sinh viên có thể sử dụng tư liệu tại Thư viện trung tâm AUF (Pháp ngữ)
Đối tượng bạn đọc:
Giảng viên, cán bộ nghiên cứu, nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc
trường Đại học Bách Khoa- Đại học Quốc Gia thành phố Hồ Chí Minh.
Phương thức phục vụ:
Thư viện tổ chức kho mở tại các phòng đọc, tạo điều kiện thuận lợi cho bạn đọc có thể
tiếp cận trực tiếp với tài liệu một cách nhanh chóng, kịp thời.


Hướng dẫn bạn đọc tra cứu, tìm kiếm tài liệu tại địa chỉ website


Chức năng chính của thư viện:
Quản lý và tổ chức, trang bị, lưu trữ, bổ sung, bảo quản và phục vụ các loại tài liệu về
thông tin khoa học kỹ thuật, sách báo, giáo trình, các tư liệu khác cho cán bộ, viên chức
và sinh viên trong tồn Trường.
Bạn đọc có thể truy cập cơ sở dữ liệu của Thư viện trung tâm Đại học Quốc gia thành phố
Hồ Chí Minh như: Springerlink, Emerald, Fulltex, Proquest, Disertations, … thông qua
mạng Intranet của thư viện, mạng trường Đại học Bách Khoa, mạng Đại học Quốc Gia
thành phố Hồ Chí Minh.
Hệ thống các phịng đọc thư viện: bao gồm:
Phịng đọc trệt A2: 80 chỗ ngồi.
Phòng đọc và cho mượn sách về nhà lầu A2: 120 chỗ ngồi
Phòng đọc Sau đại học( tầng lửng): 40 chỗ ngồi
Phòng đọc báo và tạp chí ( Thư viện SK- Telecom): 30 chỗ ngồi
Phịng đọc và cho mượn sách về nhà tại cơ sở 2: 200 chỗ ngồi.
Hệ thống kho lưu: bao gồm:
Kho Lưu sách nội văn
Kho Lưu sách ngoại văn
Dịch vụ thông tin:
Bạn đọc có thể tra cứu trực tuyến (OPAC) thơng qua máy tính đặt tại các phịng đọc thư
viện (tìm theo chủ đề, từ khóa, tên tác giả…) hoặc cũng có thể tìm kiếm thơng tin bằng
cách dùng các tốn tử kết hợp của biểu thức Boolean như AND, OR, NOT.
Hoạt động Thông tin- Thư mục: cung cấp danh mục tài liệu mới, danh mục tài liệu theo
chủ đề, các bản thư mục chuyên đề, tờ rơi, (giới thiệu và hướng dẫn tra cứu tài liệu)…
Đáp ứng nhu cầu thông tin cho mọi đối tượng: giảng viên, nhà nghiên cứu, học viên, sinh
viên,…qua các dịch vụ phổ biến thơng tin có chọn lọc, dịch vụ bao gói thơng tin,…
Mượn, photo tài liệu, sao chép đĩa,…


Thư viện đang từng bước xây dựng cơ sở vật chất và nguồn nhân lực cho việc ứng dụng
công nghệ thơng tin để tự động hóa các hoạt động nghiệp vụ của thư viện truyền thống và

xây dựng thư viện điện tử để hướng tới việc liên thông với các thư viện của các trường
đại học nhằm chía sẻ tài nguyên, khai tác tốt nguồn thông tin, hỗ trợ công tác đào tạo và
nghiên cứu khoa học của Trường.
Nguồn lực thông tin thư viện: gồm: tài liệu bản in và tài liệu điện tử:
Tài liệu bản in:
Sách: có 18501 nhan đề và 61254 bản
Tạp chí: có 648 nhan đề
Tiêu chuẩn kỹ thuật: có 2380 nhan đề và 2386 bản
Báo cáo khoa học các cấp: có 885 nhan đề và 934 bản
Tuyển tập báo cáo khoa học: có 524 nhan đề và 562 bản
Luận án tiến sĩ: có 226 nhan đề và 226 bản
Luận văn thạc sỹ: có 5406 nhan đề và 5406 bản.
Tài liệu điện tử: gồm có:
Bài giảng điện tử (chuyên ngành): 33 nhan đề và 154 bản CD
Ebook: 2694 tên và 2700 files
Cơ sở dữ liệu trực tuyến (online): dùng chung 13 cơ sở dữ liệu online với Thư viện
Trung tâm ĐHQG-HCM
Cơ sở dữ liệu offline: tạp chí science Direct (2003-2011): 287 nhan đề; Tạp chí
IEEE, willson: 372 nhan đề.
CSDL phát minh sáng chế: 14194 (62 CD)
Băng từ: 64
CD- ROM: 10926 (trong đó có 46 DVD)
Giờ mở cửa thư viện:
Đối với Thư viện cơ sở 1: (nhà A2-268 lý Thường Kiệt, P4, Q10):


Thứ 2 đến thứ 6: sáng từ 7h30 đến 11h30, chiều từ 13h đến 15h
Phục vụ ngoài giờ (thứ 2 đến thứ 6): Từ 11h30 đến 13h ( phòng đọc Tham khảo), Từ 15h
đến 18h ( phòng đọc và mượn sách về nhà, Phòng đọc Sau đại học.
Thứ 7 (mở cửa phục vụ tại Phòng đọc đọc và mượn sách về nhà, Phòng đọc sau Đại học):

Sáng từ 7h30 đến 11h30, chiều từ 13h đến 17h
Đối với thư viện cơ sở 2 ( nhà H1- DixAn, Bình Dương)
Từ thứ 2 đến thứ 6: sáng 7h30 đến 11h30, chiều từ 13h đến 17h
Địa chỉ liên hệ:
Địa chỉ: Nhà A2-268 Lý Thường KIệt, phường 14, quận 10, TP.HCM
Điện thoại: 8.647256 (5410), 8.662569
Fax: 84-8-8.653.832
Email:


Câu 2: Ứng dụng công nghệ RFID trong thư viện:
Trước đây, trong mơ hình thư viện kho đóng truyền thống, cả thư viện và người dùng
gặp nhiều bất cập trong việc tra cứu tài liệu, tìm tài liệu hay quản lý lưu thông mượn trả
tài liệu. Bạn đọc thường mất thời gian vào việc tra cứu, đăng ký mượn/trả, trong khi thư
viện tốn nhiều nhân công trong việc quản lý, vận hành hệ thống.
Với mơ hình kho mở nơi mà bạn đọc được tự do tiếp cận tài liệu hơn, người ta thường
dùng công nghệ điện từ (Electro-Magnetic, viết tắt là EM), thường được gọi là hệ thống
cổng từ, bao gồm cổng từ, máy nạp khử, và dây từ. Công nghệ này thuần túy chỉ giúp
quản lý về an ninh, chống trộm cho tài liệu. Để định danh được tài liệu, người ta dùng các
máy mã vạch (barcode), gồm máy in và đầu đọc barcode.Một hệ thống cổng từ và
barcode thuần túy có thể nói là đã đáp ứng được các nhu cầu cơ bản của thư viện, bao
gồm các quy trình nghiệp vụ mượn/trả tài liệu, kiểm kê tài liệu. Tuy nhiên hạn chế của
giải pháp này là chức năng an ninh (EM) và định danh (barcode) tách rời nhau, điều này
dẫn tới tốc độ xử lý tài liệu, tính tiện nghi và khả năng phục vụ hướng người dùng thấp.
Vì vậy cơng nghệ EM và barcode được cho là không bắt kịp được yêu cầu của các thư
viện hiện đại đang ngày càng hướng tới người dùng.


Công nghệ RFID bắt đầu được áp dụng rộng rãi vào quản lý thư viện từ khoảng những
năm 2000 trong các mơ hình thư viện hiện đại, thân thiện, ln hướng tới việc tạo sự tiện

nghi và chủ động cho người dùng. Ngay từ thời điểm mới được áp dụng, RFID đã chứng
minh được tính tiện lợi và ưu thế vượt trội so với các công nghệ quản lý tài liệu trước
đây. Đã có hàng trăm thư viện tiến hành chuyển đổi sang RFID ngay tại thời điểm đó.
Tuy nhiên rào cản lớn nhất lúc đó chính là giá thành của các thiết bị và vật tư cho RFID
là quá cao, vượt ngoài tầm với của đa số các thư viện. Tại Việt Nam, cho tới thời điểm
trước năm 2015, vẫn chưa có nhiều thư viện đã đầu tư và vận hành thành công hệ thống
này, một số thư viện điển hình có thể kể đến làthư viện của các trường như ĐH Quốc Gia
TP HCM, ĐH Quốc Gia Hà Nội,ĐH Nha Trang, ĐH Giao thông Vận tải, ĐH Ngoại
thương. Tuy nhiên, với sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật ngày nay, giá thành
của một hệ thống RFID đã thay đổi rất nhiều. Thay đổi đến mức nếu làm một phép so
sánh ngang từng hạng mục, giá thành RFID khơng cịn q “đắt” so với cổng từ (EM).
Điều này dẫn tới hàng chục ngàn thư viện trên thế giới đã áp dụng RFID và tại Việt Nam
đang có một làn sóng các thư viện xây dựng kế hoạch với RFID.
Ưu điểm:
Ngày nay, thư viện trên thế giới đang đối diện với những khó khăn chung như sự cắt
giảm ngân sách, tinh giảm biên chế nhân sự, sự gia tăng không ngừng về vốn tài liệu và
tần suất giao dịch tại các điểm lưu thông. Các nhân viên thư viện không chỉ đảm bảo hiệu
quả sử dụng nguồn tài nguyên, mà còn trợ giúp bạn đọc và cung cấp dịch vụ chất lượng
cao thỏa mãn mọi nhu cầu của người dùng.
Công nghệ RFID đã và đang giải quyết những khó khăn và thách thức kể trên. Với tính
năng “3 trong 1”, “lưu thông – an ninh – kiểm kê”, RFID khơng những tối ưu hóa quỹ
thời gian của nhân viên thư viện mà đặc biệt đem lại sự thuận tiện, đảm bảo tính riêng tư
và nâng cao tính chủ động của bạn đọc.Ứng dụng công nghệ RFID vào trong thư viện


thực sự đã và đang đem đến những lợi ích trước mắt và lâu dài cho quy trình quản lý thư
viện hiện đại, cho phép “truy tìm dấu vết” của các tài liệu xếp sai vị trí, tự động mượn trả,
gia tăng an ninh thư viện.
Một số ví dụ về các ưu điểm nổi bật của RFID bao gồm: tính năng kiểm kê hàng loạt khi
nhân viên chỉ cần đi dọc theo hàng dãy kệ mà không cần phải nhấc xuống,đặt lên bất kỳ

quyển sách nào; và tính năng lưu thơng nhiều tài liệu cùng một lúc, ví dụ một chồng sách
gồm 10 quyển, vài đĩa CD-ROM và băng video hoặc cát xét chỉ cần một lần quét và nhấn
nút duy nhấttại quầy lưu thông để thực hiện mượn/trả, điều này làm tăng tốc độ phục vụ
mượn/trả gấp nhiều lần so với các cơng nghệ trước đây.Ngồi ra, một ưu điểm nữa là
RFID còn cho phép áp dụng vàocác thiết bị tự phục vụ trong thư viện, qua đó làm tăng
tính chủ động cho bạn đọc, giảm thiểu tối đa thời gian chết khi không phải chờ đợi xếp
hàng dài để đăng ký mượn, trả tài liệu. Cụ thể hơn,chi tiết về các ưu điểm RFID mang lại
cho thư viện như sau:


Kết hợp giữa chức năng an ninh và chức năng nhận dạng tài liệu: đối với công
nghệ barcode, mỗi nhãn mã vạch chỉ cho phép nhận dạng tài liệu,còn để chống
trộm tài liệu thì người ta phải sử dụng dây từ. Trong khi đó, đối với các hệ
thống RFID, mỗi thẻ RFID đã đảm nhiệm được cả 2 chức năng này: chức năng
an ninh và nhận dạng tài liệu.



Mượn/Trả nhanh chóng cùng lúc nhiều tài liệu: RFID có khả năng đọc cùng lúc
nhiều tài liệu do nó khơng u cầu “line-of-sight” (sắp xếp thẳng hàng) để xử lý
từng quyển một như công nghệ barcode.Do vậy sử dụng RFID cho phép bạn
đọc xử lý theo lô, chứ không phải từng quyển một như barcode, qua đó làm
tăng tốc độ lưu thơng tài liệu.



Kiểm kê nhanh chóng: thiết bị kiểm kê RFID cho phépviệc quét và nhận thông
tin từ các quyển sách một cách nhanh chóng mà khơng cần phải dịch chuyển
sách ra khỏi giá. Chỉ việc sử dụng ăng ten quét qua giá sách theo từng tầng, các



tài liệu trên giá đã được ghi lại để làm cơ sở kiểm kê. Điều này tiết kiệm được
rất nhiều nhân công kiểm kê và tăng hiệu quả sử dụng của tài liệu.


Hỗ trợ tối đa việc tự động hóa mượn/trả tài liệu:RFID cho phép tối đa hóa tính
tự phục vụ (self-service) của bạn đọc mà không yêu cầu sự can thiệp của thủ
thư. Bạn đọc có thể tự thực hiện các thủ tục mượn sách, trả sáchmà không cần
thông qua bất cứ một người nào khác. Điều này được đánh giá cao do đã tạo ra
sự riêng tư và sự chủ động cho bạn đọc.



Khơng cần tiếp xúc trực tiếp với tài liệu: khác với công nghệ EM và barcode,
để nhận dạng tài liệu cần phải tiếp xúc trực tiếp giữa tài liệu và thiết bị đọc. Đối
với công nghệ RFID, cho phép máy đọc có thể nhận dạng được tài liệu ở
khoảng cách từ xa.



Độ bền của thẻ cao: độ bền của thẻ RFID cao hơn so với mã vạch bởi vì nó
khơng tiếp xúc trực tiếp với các thiết bị khác. Các nhà cung cấp RFID đảm bảo
rằng mỗi thẻ RFID có thể sử dụng ít nhất được 100.000 lượt mượn/trả trước khi
nó bị hỏng.

Các thành phần của hệ thống công nghệ RFID trong thư viện:
1. Trạm thủ thư ( lập trình và lưu thơng mượn, trả)
2. Thiết bị kiểm kê, tìm kiếm tài liệu.
3. Trạm tự mượn, trả tài liệu (Self- service station).
4. Trạm thủ thư đa năng.

5. Trạm trả sách thông minh.
6. Thiết bị trả sách 24h và tự động trả sách:
Thiết bị trả sách 24h thường được chia làm 2 loại chính:


Dạng đặt ngoài trời (outdoor),
Dạng đặt trong nhà (indoor)
7. Nhãn (chip) Rfid dùng cho sách, tài liệu
8. Nhãn (chip) Rfid dùng cho đĩa CD/DVD
Như vây, công nghệ RFID đang được áp dụng nhiều ở các nước trên thế giới. Còn ở
Việt Nam, RFID mới chỉ được áp dụng ở một vài thư viên, trong tương lai có thể nó
sẽ được sử dụng rộng rãi hơn nữa, đặc biệt là ở các trường đại học, cao đẳng,…



×