Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

Quan hệ ngoại giao việt nam philippines từ năm 1976 đến năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (581.08 KB, 59 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA LỊCH SỬ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:

Quan hệ ngoại giao Việt Nam - Philippines
từ năm 1976 đến năm 2014

Sinh viên thực hiện: Đoàn Anh Nam
Chuyên ngành: Sư phạm Lịch sử
Lớp: 11SLS
Người hướng dẫn: PGS.TS Lưu Trang

Đà Nẵng, tháng 05 năm 2015


Lời cảm ơn

Để hồn thành khóa luận này, em xin được gửi lời cảm ơn chân thành sâu sắc
đến thầy giáo PGS.TS Lưu Trang, người đã trực tiếp, nhiệt tình hướng dẫn, giúp đỡ
em có thể hồn thành khóa luận tốt nghiệp của mình. Em xin chân thành cảm ơn các
thầy cô giáo trong khoa Lịch Sử - Trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng đã
chỉ bảo giúp đỡ em trong quá trình thực hiện đề tài.
Xin được gửi lời cảm ơn đến tập thể lớp 11SLS, gia đình và bạn bè đã ln
chia sẽ, động viên tơi trong suốt thời gian tơi làm khóa luận này.
Do khả năng bản thân và thời gian có hạn nên khóa luận khơng tránh khỏi
những thiếu sót. Mong q thầy cơ và các bạn đánh giá, góp ý kiến để khóa luận
được hồn chỉnh hơn.


Đà Nẵng, tháng 05 năm 2015
Sinh viên thực hiện
Đoàn Anh Nam

MỤC LỤC


MỞ BÀI ................................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài................................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................... 2
3. Mục đích nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................... 4
3.1. Mục đích.................................................................................................. 4
3.2. Nhiệm vụ ................................................................................................. 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 5
4.1 Đối tượng nghiên cứu .............................................................................. 5
4.2 Phạm vi nghiên cứu ................................................................................. 5
5. Nguồn tư liệu nghiên cứu .................................................................................. 5
6. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................. 6
7. Đóng góp của đề tài .......................................................................................... 6
8. Bố cục đề tài ....................................................................................................... 6
CHƯƠNG 1: BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ QUAN HỆ NGOẠI GIAO HAI
NƯỚC VIỆT NAM – PHILIPPINES TRƯỚC NĂM 1976 ................................. 7
1.1 Bối cảnh quốc tế ............................................................................................... 7
1.2 Tình hình quan hệ Việt Nam và Philippines trước năm 1976 ....................... 8
CHƯƠNG 2; QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT NAM – PHILIPPINES THỜI
KỲ 1976 - 2014..................................................................................................... 10
2.1 Các nhân tố thúc đẩy quan hệ ngoại giao Việt Nam - Philippines .............. 10
2.1.1 Tác động của tình hình thế giới và khu vực........................................ 10
2.1.2. Chính sách đối ngoại của Việt Nam và Philippines ........................... 15
2.1.3. Sự hội nhập của hai nước vào khu vực và quốc tế ............................ 17

2.2 Các giai đoạn quan hệ ngoại giao Việt Nam - Philippin .............................. 20
2.2.1 Giai đoan 1976 – 1995 ......................................................................... 20
2.2.2 Giai đoạn 1995 – 2014 ......................................................................... 26
2.3 Đặc điểm, vai trò và tác động của quan hệ ngoại giao Việt Nam –
Philippines thời kỳ 1976 - 2014 ........................................................................... 43
2.3.1 Đặc điểm quan hệ ngoại giao Việt Nam - Philippines thời kỳ 1976 2014 ...................................................................................................................... 43


2.3.2 Vai trò quan hệ ngoại giao Việt Nam - Philippines thời kỳ 1976 –
2014 ...................................................................................................................... 45
2.3.3 Tác động quan hệ ngoại giao Việt Nam – Philippines thời kỳ 1976 –
2014 ........................................................................Error! Bookmark not defined.
2.4 Triển vọng của quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Philippines .............. 46
2.4.1 Thuận lợi và khó khăn ........................................................................ 46
2.4.2 Triển vọng ........................................................................................... 48
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 50
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 53


MỞ BÀI

1. Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh mà tồn cầu hóa đã và đang tác động đến nhiều quốc gia và
khu vực trên tất cả các lĩnh vực của xã hội. Không một quốc gia dân tộc nào có thể
phát triển nếu khơng tiến hành hợp tác, liên kết và tham gia các tổ chức khu vực, tổ
chức quốc tế. Xu thế hợp tác và phát triển trở thành xu thế chủ đạo của thế giới hiện
nay.
Việt Nam và Philippines cũng khơng nằm ngồi xu thế chung đó, hai nước đều
là thành viên của tổ chức ASEAN. Ngay từ khi ra đời mục đích của tổ chức này là
không ngừng liên kết, hợp tác mở rộng quan hệ giữa các nước trong khối và trong

khu vực. Vấn đề hợp tác khu vực ngày càng cấp thiết, nhất là trong giai đoạn hiện
nay.
Mặc dù có những nét tương đồng về văn hóa, lịch sử nhưng thực tế đặt ra là:
Để hiểu rõ về nhau và cơ hội giao lưu tìm hiểu tiếp xúc với nhau giữa Việt Nam và
Philippines cịn khá ít. Nhưng ngày nay, cả hai quốc gia đều ra sức xây dựng và
phát triển Đất nước, với đường lối đối ngoại mở rộng, quan hệ giữa hai nước ngày
càng có điều kiện phát triển mạnh mẽ.
Việc tìm hiểu quan hệ ngoại giao Việt Nam và Philippines sẽ giúp cho q
trình hợp tác giữa hai nước có hiệu quả hơn trong điều kiện tình hình chung của thế
giới và khu vực có nhiều biến đổi. Điều đó đáp ứng được yêu cầu nguyện vọng của
nhân dân hai nước, đồng thời phù hợp với quan điểm đường lối của Đảng và Nhà
nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới đó là: Thực
hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa
dạng hóa các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng làm bạn là đối tác tin cậy của các
nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hịa bình, độc lập và phát triển.
Việc tăng cường hợp tác song phương giữa các thành viên trong khu vực là hết
sức cần thiết. Vì vậy Việt Nam và Philippines đã đẩy mạnh quá trình hợp tác song
phương trên nhiều lĩnh vực trong đó có quan hệ ngoại giao được xem là một mối
quan hệ trọng tâm và xuyên suốt trong cả quá trình hợp tác giữa hai nước nhằm thúc
đẩy mối quan hệ hữu nghị, hịa bình, hợp tác cùng phát triển.

1


Với những lý do trên việc tìm hiểu quan hệ ngoại giao Việt Nam - Philippines
là một vấn đề có ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Đề tài khóa luận
khơng chỉ giúp chúng ta hiểu biết thêm về lịch sử quan hệ ngoại giao Việt Nam Philippines mà còn rút ra những kinh nghiệm về quan hệ giữa các nước trong khu
vực và trên thế giới. Là người học tập và nghiên cứu lịch sử tôi cho rằng việc
nghiên cứu quan hệ ngoại giao Việt Nam - Philippines là điều cần thiết.
Do đó tơi chọn vấn đề : Quan hệ ngoại giao Việt Nam - Philippines từ năm

1976 đến năm 2014 làm đề tài khóa luận tốt nghiệp với hi vọng làm sáng tỏ hơn
mối quan hệ ngoại giao giữa hai nước nhằm tăng thêm sự hiểu biết cho bản thân và
phục vụ cho công việc học tập sau này.
2. Lịch sử vấn đề
Quan hệ ngoại giao Việt Nam- Philippines từ năm 1976 đến năm 2014 là một
vấn đề có ý nghĩa khoa hoc và thực tiễn sâu sắc. Đây không phải là vấn đề mới song
cho tới nay vẫn chưa có một cơng trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ
thống mối quan hệ này.
Nguồn tài liệu tôi tiếp xúc bao gồm nhiều dạng: sách tham khảo, sách chuyên
khảo, luận án, luận văn, các bài viết đăng trên các tạp chí, báo, tài liệu của Thông
tấn xã Việt Nam, tài liệu từ các hội thảo khoa học, tài liệu từ đại sứ qn Philippines
và các kênh thơng tin chính thống khác.
Dưới đây là một số nghiên cứu quan hệ Việt Nam - Philippines mà tơi tiếp cận
được.
Cuốn sách “Tiến trình hội nhập Việt Nam - ASEAN” của tác giả Đinh Xuân Lý
(NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 2001) đã trình bài khái quát về quan hệ Việt Nam ASEAN từ năm 1967 đến năm 1998. Ở tác phẩm này tác giả đã nghiên cứu quan hệ
hợp tác song phương giữa Việt Nam - Philippines tuy nhiên chỉ đề cập quan hệ
chính trị - ngoại giao một cách khá sơ lược.
Trong cuốn “ Quan hệ đối ngoại của các nước ASEAN” của tác giả Nguyễn
Xuân Sơn, Thái Văn Long ( NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 1997) tác giả đã dành
hẳn chương VI trình bày quan hệ đối ngoại của Cộng hịa Philippines. Tác giả đã
trình bày mối quan hệ giữa nước Cộng hịa Philippines và Việt Nam. Ngồi ra tác
giả còn khái quát lịch sử quan hệ hai nước, thống kê sơ bộ các dự án, các thỏa thuận

2


hai bên đã kí kết. Trong đó tác giả nhấn mạnh đến những mặt thuận lợi để hai nước
phát triển quan hệ hợp tác song phương. Cuối cùng tác giả đã ra nhận định “Với
quan hệ hợp tác hiểu biết và tin cậy lẫn nhau, cùng với những thuận lợi cơ bản

quan hệ Việt Nam - Philippines sẽ phát triển tốt đẹp. Hơn nữa với chính sách đối
ngoại đa dạng và đa phương hóa của Cộng hịa Philippines, chắc chắn rằng
Philippines ngày càng quan hệ rộng rãi với Việt Nam và nhiều nước trên thế giới để
đạt mục tiêu là nước công nghiệp mới vào đầu thế kỉ XXI” [23, tr. 83].
Tác giả Bùi Hồng Hạnh trong bài viết “Philippines và quan hệ Việt NamPhilippines” in trong cuốn Việt Nam - ASEAN quan hệ đa phương và song phương
(NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 2004) đã trình bày những nét cơ bản nhất về đất
nước Philippines, về điều kiện địa lý và tiến trình lịch sử. Tác giả đã giành thời gian
nghiên cứu quan hệ Việt Nam - Philippines từ trước khi thiết lập quan hệ ngoại giao
cho tới nay. Tác giả cũng điểm qua, khái quát những thành tựu của quan hệ hai
nước trên lĩnh vực ngoại giao. Tuy nhiên vì tính chất của bài viết nên tác giả chưa
có dịp đi sâu tìm hiểu các quan hệ hợp tác khác.
Cuốn “Tìm hiểu lịch sử văn hóa Philippines”, tập 2, (NXB Khoa học xã hội,
2001) là cơng trình khá công phu của các chuyên gia nghiên cứu về Philippines, tập
hợp 9 bài viết về Philippines trên nhiều lĩnh vực. Trong đó, bài “Đặc điểm trong
quan hệ đối ngoại cộng hòa Philippines”, tác giả Nguyễn Huy Hồng đã nghiên cứu
rất rõ về quan hệ đối ngoại của Philippines, trong bài viết này tác giả đã đề cập đến
quan hệ Việt Nam và Philippines. Đặc biệt là trong thập niên 90 khi vấn đề về
Camphuchia được giải quyết, chiến tranh lạnh kết thúc, tình hình Đơng Nam Á có
những bước thay đổi quan trọng, quan hệ Việt Nam và Philippines có bước phát
triển mới.Tác giả đã đề cập đến quan hệ chính trị - ngoại giao Việt Nam Philippines.
Tác giả Vũ Dương Huân và Phạm Thị Miên đã có bài viết đăng trên Tạp chí
Nghiên cứu Quốc tế số 40 năm 2001 là “Quan hệ Việt Nam - Philippines hợp tác
nhiều mặt vì hịa bình và phát triển” nhân dịp kỷ niệm 25 năm ngày thiết lập quan hệ
ngoại giao Việt Nam - Philippines (12/07/1976 - 12/07/2001). Ở bài viết này hai tác
giả đã khái quát mối quan hệ Việt Nam - Philippines từ trước khi quan hệ ngoại giao
và tổng hợp khái quát quan hệ Việt Nam - Philippines từ năm 1976 đến năm 2001
trên các lĩnh vực chính trị, an ninh, quan hệ hợp tác kinh tế thương mại và các lĩnh
3



vực khác. Đồng thời tác giả cũng nêu lên triển vọng hợp tác giữa hai nước trong
những năm tới.
Tác giả Cao Minh Chương - một người tâm huyết nghiên cứu về Philippines
đã viết rất nhiều bài về vấn đề này.Trong cuốn“ Cộng hòa philippines” tác giả đã đề
cập một cách tổng thể về Philippines từ đất nước con người, lịch sử kinh tế và đặc
biệt chú ý đến chính sách đối ngoại. Trong đó tác giả đề cập đến sự thay đổi trong
chính sách đối ngoại của Philippines đối với Mỹ và quá trình thiết lập quan hệ ngoại
giao với Việt Nam.
Ngồi ra, cịn có các cơng trình nghiên cứu về quan hệ ngoại giao Việt Nam Philippines được đăng trên các tạp chí chun ngành như: Nghiên cứu Đơng Nam
Á; Nghiên cứu lịch sử; Tạp chí khoa học và xã hội; các báo Nhân dân; Quân đội
nhân dân; các bản tin tham khảo hằng ngày của Thông tấn xã Việt Nam và các trang
web bộ ngoại giao.
3. Mục đích nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Khi tiến hành nghiên cứu vấn đề “Quan hệ ngoại giao việt Nam- Philippines
từ năm 1976 đến năm 2014” mục đích tơi muốn làm sáng tỏ một số vấn đề sau:
Tìm hiểu mối quan hệ hợp tác ngoại giao của Việt Nam - Philippines trong
giai đoạn 1976 - 2014.
Thơng qua khóa luận cung cấp cho chúng ta những kiến thức về quan hệ ngoại
giao của 2 nước từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm, những đặc điểm, thành tựu,
triển vọng nhằm thúc đẩy quan hệ hợp tác của 2 nước ngày càng phát triển bền
vững hơn.
3.2. Nhiệm vụ
Khái quát lịch sử quan hệ ngoại giao của 2 nước từ đó rút ra nhận xét về mối
quan hệ này.
Khóa luận tìm hiểu những nhân tố tác động đến quan hệ ngoại giao Việt Nam
- Philippines trong từng giai đoạn từ đó rút ra nhận xét về ảnh hưởng của các nhân
tố chủ quan và khách quan đến quá trình phát triển hợp tác giữa 2 nước trong thời
gian tới.


4


Từ thực tế quan hệ ngoại giao Việt Nam - Philippines khóa luận cố gắng rút ra
những đặc điểm, những khó khăn thách thức và triển vọng hợp tác quan hệ giữa 2
nước.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là quan hệ ngoại giao Việt Nam Philippines từ 1976 đến 2014.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận chủ yếu tập trung nghiên cứu mối quan hệ về ngoại giao giữa Việt
Nam và Philippines giai đoạn 1976 - 2014. Bên cạnh đó, khóa luận cũng dành
chương đầu tiên để giới thiệu khái quát về quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và
Philippines trước năm 1976.
5. Nguồn tư liệu nghiên cứu
Một số văn kiện Đảng, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Văn
kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX, X, XI), một số tác phẩm của
các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước, tài liệu về cuộc viếng thăm lẫn nhau của các
quan chức lãnh đạo các cấp giữa 2 Nhà nước.
Các công trình nghiên cứu của các học giả Việt Nam được in thành sách của
một số nhà xuất bản như: NXB Chính trị quốc gia, NXB Khoa học xã hội, NXB
Giáo dục…Các bài viết đăng trên các báo, các tạp chí, báo Nhân dân, báo Quân đội
nhân dân, báo Quốc tế…Các tạp chí chun ngành như: Tạp chí Nghiên cứu Đơng
Nam Á, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Nghiên cứu quốc tế, Tạp chí xưa- nay, Tạp chí
lịch sử Đảng, Tạp chí Cộng sản.
Các tài liệu về lịch sử Philippines, lịch sử Đơng Nam Á, các luận án, luận văn
có liên quan đến quan hệ Việt Nam - Philippines, các tài liệu được lưu trữ tại các
thư viện như: Thư viện quốc gia, thư viện lưu trữ khoa học xã hội, thư viện khoa
học xã hội nhân văn, thư viện đại học sư phạm Hà Nội.
Các tài liệu tham khảo khác như: Bản tin tham khảo hằng ngày của Thông tấn

xã Việt Nam, các trang web, các cơng trình nghiên cứu của các học giả nước ngoài.

5


6. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận sử học Mác- LêNin, khóa luận sử dụng phương
pháp chính là phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic để trình bày q trình phát
triển của vấn đề thơng qua các sự kiện lịch sử tiêu biểu, trên cơ sở đó phục dựng lại
tồn bộ q trình phát triển quan hệ ngoại giao Việt Nam - Philippines và bước đầu
rút ra nhận xét về mối quan hệ này.
Ngồi ra cịn sử dụng các phương pháp bổ trợ khác như so sánh, tổng hợp,
thống kê để xử lý các số liệu một cách cụ thể, đảm bảo tính chân thực khách quan
của vấn đề mà đề tài đặt ra.
7. Đóng góp của đề tài
Quan hệ ngoại giao Việt Nam - Philippines từ năm 1976 đến năm 2014 là một
vấn đề đang ít người quan tâm nghiên cứu. Đề tài tổng hợp và tái hiện lại một cách
cụ thể về mối quan hệ ngoại giao giữa hai quốc gia từ năm 1976 đến năm 2014.
Khóa luận cung cấp cho người đọc thấy được quá trình phát triển đi lên của
mối quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Thấy được sự hợp tác ngày càng chặt chẻ
giữa Việt Nam và Philippines.
Khóa luận cịn là một nguồn tài liệu tham khảo phục vụ cho q trình học lịch sử
Đơng Nam Á nói chung và quan hệ Việt Nam - Philippines nói riêng.
8. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, cấu trúc của đề tài được chia
làm 2 chương:
Chương 1: Bối cảnh lịch sử và quan hệ ngoại giao hai nước Việt Nam Philippines trước năm 1976
Chương 2: Quan hệ ngoại giao Việt Nam - Philippines giai đoạn1976 - 2014

6



CHƯƠNG 1
BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ QUAN HỆ NGOẠI GIAO
HAI NƯỚC VIỆT NAM – PHILIPPINES TRƯỚC NĂM 1976

1.1 Bối cảnh lịch sử.
Sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, tình hình quốc tế có những thay
đổi lớn với sự hình thành của trật tự hai cực Ianta. Đây được xem như là đặc trưng
nổi bật nhất của tình hình thế giới trong giai đoạn này, với sự đối đầu của hai phe,
hai cực do Liên Xô và Mĩ đứng đầu. Cuộc chiến tranh lạnh diễn ra và kéo theo
những hậu quả vô cùng to lớn đối với nhân loại thế giới. Đây là một cuộc chiến tuy
không trực tiếp gây ra chiến tranh nhưng lại là một cuộc đối đầu căng thẳng giữa
hai phe và được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực từ kinh tế, chính trị, quân sự…dẫn
đến hàng loạt các cuộc chiến tranh cục bộ dưới tác động của chiến tranh lạnh.
Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ngày càng phát triển và lớn mạnh.
Phong trào không liên kết ra đời với đường lối chống chủ nghĩa thực dân cũ và mới,
chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, đấu tranh giành độc lập chính trị, kinh tế, văn
hóa, thiết lập một thế giới cơng bằng, bình đẳng và cùng có lợi.
Vào thập niên 70 của thế kỉ XX xu thế hịa hỗn giữa hai khối Đông - Tây,
giữa hai siêu cường quốc Xô - Mĩ bắt đầu xuất hiện đã làm giảm bớt tình trạng căng
thẳng kéo dài và mất ổn định. Các nước lớn dần chuyển chính sách đối ngoại của
mình từ đối đầu sang đối thoại nhằm khắc phục những khó khăn và thách thức do
chiến tranh lạnh gây ra.
Cuộc cách mạng khoa học kỉ thuật bước vào giai đoạn phát triển mới với
những thành tựu hết sức to lớn trên nhiều lĩnh vực và có tác động mạnh mẽ đến toàn
thế giới. Những rào cản các quốc gia bởi ý thức hệ, chế độ xã hội khác biệt dần dần
được tháo gỡ. Thế giới đã và đang xích lại gần nhau hơn và trở thành một thị trường
thống nhất trong xu thế khu vực hóa và tồn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ và có
tác động sâu sắc.


7


1.2 Tình hình quan hệ Việt Nam và Philippines trước năm 1976
Việt Nam và Philippines là hai nước láng giềng do cùng nằm chung trong khu
vực Đông Nam Á nên có những nét tương đồng về lịch sử và văn hóa. Ngay từ thời
xa xưa đã có mối quan hệ bang giao giữa các quốc gia trong khu vực và trong đó
cũng có mối quan hệ giữa hai nước Việt Nam và Philippines. Bước vào thời kì cận
đại, cả Việt Nam và Philippines đều có điểm chung đó là chịu sự thống trị của chủ
nghĩa thực dân. Cả hai nước đều đấu tranh kiên cường cho mục tiêu độc lập và lật
đổ sự thống trị của chủ nghĩa thực dân. Sau một thời gian đấu tranh kiên cường và
bất khuất thì cả hai dân tộc đều giành được độc lập, thoát khỏi ách thống trị của chủ
nghĩa thực dân. Tuy nhiên đối với Philippines thì Mĩ vẫn ln tìm mọi cách để ràng
buộc đất nước này thông qua các Hiệp định bất bình đẳng, từ đây chính sách đối
ngoại của Philippines lệ thuộc vào Mĩ và trở thành đồng minh của Mĩ. Quan hệ giữa
Việt Nam và Philippines cũng chịu tác động từ mối quan hệ này.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Philippines là nước đầu tiên ở khu vực Đơng
Nam Á có mối quan hệ chặt chẻ với Mĩ, điều này đã tạo nên mối quan hệ đặc biệt
giữa Mĩ và Philippines. Từ những năm 50 - 60 của thế kỉ XX, Philippines được coi
như là đồng minh tích cực của Mĩ trong các kế hoạch quân sự chống lại phong trào
đấu tranh giải phóng dân tộc của các nước Đơng Nam Á, trong đó có Việt Nam.
Thủ đô Manila là nơi ra đời của Tổ chức Hiệp ước phịng thủ tập thể Đơng Nam Á
(SEATO), một khối liên minh chính trị quân sự do Mĩ cầm đầu. Quân đội
Philippines đã tham chiến dưới ngọn cờ của Mĩ trong cuộc chiến tranh Triều Tiên
(1950 - 1953), chống lại nhân dân Lào trong những năm (1960 - 1961) và đặc biệt
là sự xuất hiện của một số lực lượng quân đội Philippines tham chiến tại miền Nam
Việt Nam trong giai đoạn (1966 - 1969). Các sự kiện trên đã tác động tiêu cực đến
quan hệ giữa Việt Nam và Philippines.
Những thắng lợi to lớn của quân và dân Việt Nam buộc Mĩ phải ngồi vào bàn

đàm phán và tiến tới kí hiệp định Pari về việc chấm dứt chiến tranh và rút hết quân
đội khỏi Việt Nam. Cũng từ đây quan hệ giữa các nước trong khu vực có sự thay
đổi mạnh mẽ theo chiều hướng tích cực. Trước tình hình như vậy thì người đứng
đầu Philippines cũng đã có những thay đổi trong chính sách ngoại giao của mình thể

8


hiện trước hết là việc rút quân khỏi Việt Nam và sau đó là tiến tới thiết lập quan hệ
ngoại giao.
Có thể nói quan hệ giữa Việt Nam và Philippines trước khi thiết lập quan hệ
ngoại giao năm 1976 thì chịu tác động ảnh hưởng mạnh mẽ từ các nước lớn, đặc
biệt là Mĩ. Trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam thì Philippines cùng một số
nước trở thành đồng minh của Mĩ, do vậy quan hệ hai nước chịu tác động tiêu cực
từ sự kiện này. Tuy nhiên đến năm 1969, việc Philippines rút hết quân khỏi miền
Nam Việt Nam đã tạo điều kiện để hai nước có thể tiến tới việc thiết lập quan hệ
trong thời gian tới.

9


CHƯƠNG 2
QUAN HỆ NGOẠI GIAO
VIỆT NAM - PHILIPPINES GIAI ĐOẠN 1976 - 2014

2.1 Các nhân tố thúc đẩy quan hệ ngoại giao Việt Nam - Philippines
2.1.1 Tác động của tình hình thế giới và khu vực
Tình hình thế giới: sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, tình hình thế
giới có nhiều thay đổi với sự đối đầu căng thẳng giữa hai siêu cường quốc Liên Xô
và Mĩ. Chính cuộc đối đầu này đã dẫn đến tình trạng chiến tranh lạnh kéo dài và hệ

quả của nó để lại đối với thế giới là hết sức to lớn. Sự đối đầu này làm cho tình hình
thế giới ngày càng trở nên căng thẳng và khó lường, quan hệ quốc tế cũng chịu ảnh
hưởng mạnh mẽ từ sự đối đầu này.
Tuy nhiên, do sự đối đầu của hai siêu cường quốc Mĩ và Liên Xô khiến cho
hai nước này ngày càng bị suy yếu về tiềm lực bên cạnh đó là sự vươn lên mạnh mẽ
của Nhật Bản và các nước Tây Âu đã đe dọa đến vị thế của hai nước. Điều này buộc
hai nước phải điều chỉnh chính sách của mình từ đối đầu sang đối thoại. Do vậy xu
thế hịa hỗn Đơng - Tây bắt đầu xuất hiện và trở thành xu thế chung của thế giới
trong giai đoạn này làm cho tình hình thế giới bớt căng thẳng.
Cuộc cách mạng khoa học kỉ thuật ngày càng phát triển mạnh mẽ và tác động
đến toàn thế giới trên nhiều lĩnh vực. Từ đây, thế giới bước vào một giai đoạn phát
triển mới với xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa. Địi hỏi các nước phải xích lại
gần nhau hơn thơng qua đối thoại, hợp tác khu vực và quốc tế. Xu thế toàn cầu hóa
và khu vực hóa trở thành xu thế chung của thế giới và điều này cũng tác động mạnh
mẽ đến quan hệ quốc tế.
Tình hình khu vực Đơng Nam Á: việc thành lập tổ chức Hiệp hội các nước
Đông Nam Á do 5 nước Inđônêxia, Malayxia, Philippines, Xingapo, Thái Lan sáng
lập có ý nghĩa tác động mạnh mẽ đến tình hình chung của khu vực. Từ đây các nước
có điều kiện hội nhập, hợp tác và cùng phát triển.
Sau khi Mĩ rút qn khỏi Việt Nam và Đơng Dương tình hình chính trị ở khu
vực cơ bản ổn định. Tuy nhiên ngay sau đó sự kiện xảy ra trên đất nước Campuchia
đã dẫn đến tình trạng mất ổn định trong khu vực trong một thời gian khá dài.

10


Sau năm 1975, lực lượng Pôn Pốt lên nắm quyền ở Campuchia đã có những
hành động chống phá cách mạng Việt Nam. Sau khi chế độ Pôn Pốt bị lật đổ, theo
yêu cầu của chính phủ cách mạng Campuchia, quân đội Việt Nam đã ở lại giúp đỡ
nhân dân Campuchia bảo vệ và xây dựng cuộc sống mới. Chính điều này là duyên

cớ để các nước ASEAN và các lực lượng thù địch dựng nên cái gọi là “vấn đề
Campuchia” cho rằng Việt Nam đem quân xâm lược Campuchia làm cho tình hình
khu vực lập tức nóng lên, một khơng khí nghi ngờ căng thẳng kéo dài làm cho khu
vực mất ổn định.
Tình hình khu vực căng thẳng kéo dài đến cuối những năm 80 mới có biện
pháp tháo gỡ. Việc Việt Nam tuyên bố sẽ lần lượt rút quân và đến năm 1989 rút hết
toàn bộ quân khỏi Campuchia đã tạo điều kiện để giải quyết các vấn đề Campuchia.
Từ đây quan hệ giữa Việt Nam và các nước trong khu vực bước vào một giai đoạn
mới.
2.1.2. Tác động của tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam và Philippines đến
quan hệ hai nước.
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, cách mạng Việt Nam
chuyển sang một giai đoạn mới. Đất nước hoàn toàn độc lập, đi lên xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Tháng 12 năm 1976, Đại hội toàn quốc Đảng cộng sản Việt Nam lần
thứ IV đã đề ra đường lối cho cách mạng Việt Nam trong thời kì quá độ đi lên xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội quyết định phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu
của kế hoạch 5 năm (1976 - 1980). Với sự nổ lực của cả nước, chúng ta đã từng
bước khắc phục những khó khăn, nền kinh tế đã có bước phát triển, văn hóa, giáo
dục có nhiều tiến bộ. Tuy nhiên chúng ta cịn gặp nhiều khó khăn, sự mất cân đối
trong nền kinh tế quốc dân vẫn chưa được giải quyết. Thu nhập quốc dân chưa đảm
bảo tiêu dùng xã hội, nền kinh tế chưa được tích lũy, lương thực và các mặt hàng
tiêu dùng thiết yếu đều thiếu. Đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn và tình
hình này cịn kéo dài sang cả giai đoạn (1981 - 1986).
Đến năm 1986, nền kinh tế nước ta vẫn cịn gặp nhiều khó khăn, yêu cầu đổi
mới một cách toàn diện đặt ra ngày càng khẩn thiết. Trước tình hình đó, Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VI tháng 12 năm 1986 đã khởi xướng cho công cuộc đổi

11



mới. Kết quả của công cuộc đổi mới đem lại là hết sức to lớn, từ năm 1986 đến năm
1990 hàng xuất khẩu tăng 3 lần. Từ năm 1989, chúng ta tăng thêm các mặt hàng
xuất khẩu có giá trị lớn như: gạo, dầu thô, các mặt hàng nông sản. Cũng trong năm
này ta xuất khẩu được 1,5 triệu tấn gạo, nhập khẩu đã giảm đi đáng kể, tiến gần đến
mức cân bằng giữa nhập khẩu và xuất khẩu.
Chúng ta đã bước đầu xây dựng được nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước. Những thành tựu và
kết quả đã đạt được chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, những bước
đi của công cuộc đổi mới là phù hợp.
Tuy vậy công cuộc đổi mới vẫn cịn gặp nhiều khó khăn, nền kinh tế vẫn còn
mất cân đối, lạm phát vẫn ở mức cao, lao động thiếu việc làm, hiệu quả lao động
còn thấp.
Bước vào thập kỉ 90, Việt Nam tiến hành Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII, tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đề ra kế hoạch 5 năm 1991 - 1995. Đại hội còn
quyết định một số vấn đề về chiến lược lâu dài là thông qua Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội và chiến lược ổn định, phát triển
kinh tế - xã hội đến năm 2000. Mục tiêu của kế hoạch 5 năm 1991 - 1995 là “Đẩy
lùi và kiểm soát được lạm phát, ổn định phát triển và nâng cao hiệu quả của nền
sản xuất xã hội, ổn định từng bước cải thiện đời sống nhân dân, bắt đầu tích lũy nội
bộ từ nền kinh tế”[ 37,tr. 155]
Những kết quả đạt được trong giai đoạn này là hết sức to lớn. Nhịp độ phát
triển kinh tế được đẩy mạnh, mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm đã hoàn thành
vượt mức. Kinh tế tăng trưởng nhanh, tổng sản phẩm GDP trong nước tăng bình
qn 8,2% năm. Cơng nghiệp tăng bình qn hàng năm là 13%, nơng nghiệp tăng
4,5%, sản lượng lương thực 5 năm 1991 – 1995 tăng 26% so với năm trước. Kinh tế
đối ngoại phát triển, thị trường xuất nhập khẩu được mở rộng, nguồn vốn đầu tư
nước ngồi tăng nhanh, khoa học cơng nghệ có bước phát triển mới, văn hóa xã hội
cũng có bước chuyển biến tích cực. Nền kinh tế chính trị được giữ vững, an ninh
quốc phòng được củng cố. Trên mặt trận ngoại giao chúng ta không ngừng mở rộng


12


quan hệ đối ngoại, phá thế bị bao vây, tham gia tích cực các hoạt động của cộng
đồng quốc tế.
Như vậy, sau gần 30 năm đổi mới, tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam có
nhiều chuyển biến tích cực. Việt Nam từng bước vững vàng phát triển và tiến nhanh
trên con đường hội nhập với khu vực và thế giới. Đến năm 2014 nước ta đã có quan
hệ ngoại giao với 180 quốc gia và có quan hệ buôn bán trên 100 nước. Sự phát triển
về kinh tế - xã hội Việt Nam là nhân tố góp phần quan trọng đến sự phát triển quan
hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Philippines. Chính sự phát triển mạnh mẽ về kinh
tế cùng với đường lối đối ngoại rộng mở là điều kiện cần thiết để quan hệ hai nước
gắn bó với nhau.
Đối với Philippines, sau khi giành được độc lập vào năm 1946. Chính phủ
Philippines sớm bắt tay vào công cuộc phát triển kinh tế. Philippines sớm nhận thức
được vai trị của cơng nghiệp hóa đến sự phát triển đất nước. Cũng như các nước
Đông Nam Á khác, Philippines đã chọn chiến lược công nghiệp hoa thay thế nhập
khẩu. Mục đích của chiến lược này là giảm sự phụ thuộc của Philippines vào thị
trường bên ngoài. Nội dung cơ bản của chiến lược trên là xóa bỏ tự do thương mại,
thực hiện bảo hộ mậu dịch, chú trọng phát triển công nghiệp nhẹ đáp ứng nhu cầu
của nhân dân trong nước.
Để thực hiện chiến lược cơng nghiệp hóa, chính phủ Philippines đã ban hành
hàng loạt chính sách về tài chính và tiền tệ. Các phương pháp quản lí và các kỉ thuật
mới được áp dụng. Những ngành công nghiệp sử dụng nguyên liệu tại chổ đặc biệt
là công nghiệp chế biến hết sức được chú ý. Với những nổ lực trên, thập niên 50 60 của thế kỉ XX, Philippines trở thành một trong số những nước có trình độ phát
triển cao ở khu vực.
Sau một thời gian dài phát huy tác dụng tích cực, chiến lược cơng nghiệp hóa
thay thế nhập khẩu đã bộc lộ những yếu điểm rất cơ bản và nó cản trở sự phát triển
của Philippines. Nhằm kéo nền kinh tế ra khỏi sự khủng hoảng, từ đầu những năm
70, Philippines áp dụng chiến lược cơng nghiệp hóa hướng ra xuất khẩu, một chiến

lược đang thịnh hành trong khu vực lúc bấy giờ. Để thực hiện chiến lược này,

13


Philippines đã ban hành một số chính sách khuyến khích kinh tế tư nhân, xây dựng
cơ sở công nghiệp nặng, công nghiệp chế biến, nâng cấp và mở rộng cở sở hạ tầng.
Tuy nhiên vào lúc Philippines thực hiện chiến lược trên thì mơi trường kinh tế
thế giới có sự thay đổi bất lợi cho sự phát triển của nước này. Có 3 sự kiện ảnh
hưởng đến sự phát triển của Philippines vào giữa thập niên 70 đó là:
Thứ nhất: Tình trạng suy thối kinh tế ở các nước cơng nghiệp làm giảm khả
năng nhập khẩu từ các nước đang phát triển nói chung và của Philippines nói riêng.
Thứ hai: Cuộc khủng hoảng năng lượng trên toàn thế giới, giá dầu tăng gấp 4
lần so với giá cũ khiến cho Philippines một nước phụ thuộc nặng nề về nhiên liệu từ
bên ngoài phải chi một khoản tiền rất lớn mới đáp ứng được nhu cầu về dầu lửa
trong nước.
Thứ ba: Hiệp ước buôn bán với Mĩ hết hạn, việc chấm dứt hiệp định đó làm
Philippines thua lỗ về thương mại tới 418 triệu USD.
Chính phủ Philippines đã nổ lực tìm các giải pháp nhằm khôi phục kinh tế, thi
hành một loạt biện pháp về kinh tế, chính tri, ngoại giao nhằm mở đường cho kinh
tế phát triển và đã đạt được nhiều kết quả khả quan.
Tuy nhiên đến những năm 80, sau một thập kỉ nền kinh tế tăng trưởng, nền
kinh tế Philippines rơi vào khủng hoảng và suy thoái trầm trọng. Để cứu vãn tình
hình trên, chính phủ buộc phải tăng các khoản vay nợ nước ngồi.Vì vậy,
Philippines trở thành một trong sáu con nợ lớn nhất thế giới.
Qua các đời Tổng thống tiếp theo, từ Côradôn Akinô, Phiden Ramot thì với
những chính sách ổn định tình hình xã hội, từng bước phục hồi đưa nền kinh tế phát
triển đúng hướng đã góp phần cho nền kinh tế Philippines khởi sắc và đi vào quỹ
đạo phát triển.
Với những gì diễn ra đối với hai nước Việt Nam và Philippines chúng ta thấy

tình hình kinh tế - xã hội của hai nước đều có những bước thăng trầm, nhìn một
cách tồn diện thì nền kinh tế của hai nước là khả quan và có điều kiện để phát triển
hơn nữa. Chính sự phát triển kinh tế địi hỏi đặt ra hai nước phải hợp tác với nhau
để cùng phát triển. Vì vậy, điều này tạo ra tiền đề để hai nước tiến tới hợp tác với
nhau không chỉ trên lĩnh vực ngoại giao mà còn trên tất cả các lĩnh vực khác nữa.
14


2.1.3. Chính sách đối ngoại của Việt Nam và Philippines
Chính sách đối ngoại của Việt Nam
Ngày 05/07/1976, chính phủ Việt Nam đã đưa ra chính sách 4 điểm dưới hình
thức trả lời phỏng vấn của Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Duy Trinh, bốn nguyên tắc
được đưa ra đó là:
Một là: Tơn trọng độc lập chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ của nhau, không
được xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp vào cơng việc của nhau, bình đẳng cùng
có lợi để tồn tại hịa bình.
Hai là: Khơng dành lãnh thổ của mình cho bất cứ nước nào làm căn cứ mà từ
đó có thể tiến hành xâm lược hoặc can thiệp vào nước khác.
Ba là: Thiết lập quan hệ hữu nghị, láng giềng tốt đẹp, trên cơ sở bình đẳng
cùng có lợi, giải quyết vấn đề tranh chấp trong khu vực thơng qua thương lượng
theo tinh thần bình đẳng, hữu nghị, tôn trọng lẫn nhau.
Bốn là: Phát triển hợp tác giữa các khu vực và sự phồn vinh xuất phát từ cơ sở
cụ thể của từng nước vì lợi ích độc lập, hịa bình và trung lập thật sự của các quốc
gia Đơng Nam Á, vì lợi ích hịa bình trên tồn thế giới [22, tr. 120].
Chính sách bốn điểm này trở thành đường lối ngoại giao của Việt Nam trong
một thời gian dài. Quan điểm hịa bình, hợp tác khu vực của Việt Nam được các
nước trong cộng đồng Đông Nam Á rất hoan nghênh.
Năm 1986, Đại hội lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra đường
lối mới, điều này đã mở ra một giai đoạn mới với những chuyển biến quan trọng
trong đời sống chính trị, kinh tế cũng như trong đường lối đối ngoại của Việt Nam.

Đại hội VII tiếp tục xác định đường lối đối ngoại trong thời kì mới là “Độc
lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại theo tinh thần
Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì
hịa bình, độc lập và phát triển” [11, tr. 88].
Tiếp tục đường lối đối ngoại do Đại hội Đảng lần thứ VII đề ra, Đại hội Đảng
lần VIII xác định nhiệm vụ ngoại giao trong thời kì tới là: Củng cố mơi trường hịa
bình và tạo điều kiện quốc tế thuận lợi hơn nữa để đẩy mạnh và phát triển kinh tế xã

15


hội, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc đồng thời góp phần tích cực vào cơng cuộc đấu tranh chung của nhân dân
thế giới vì hịa bình độc lập và phát triển [12, tr. 63].
Như vậy sau mười năm đổi mới chúng ta đã xác định được đường lối đối
ngoại, độc lập, tự chủ, rộng mở. Chính đường lối đó, vai trị của Việt Nam ngày
càng được nâng cao trên trường quốc tế. Việt Nam ngày càng xác lập vị thế của
mình ở khu vực và thế giới.
Chính sách đối ngoại của Philippines
Từ sau khi giành độc lập đến nay, đường lối đối ngoại của Philippines trải qua
hai giai đoạn. Giai đoạn từ năm 1946 đến năm 1970, Philippines thực hiện chính
sách ngoại giao thân Mĩ. Ngay sau khi giành độc lập, ngày 04/07/1946, Philippines
đã phải kí với Mĩ những Hiệp định bất bình đẳng cho phép Mĩ đặt các căn cứ qn
sự trên lãnh thổ của mình. Ngồi ra, Philippines còn phải cam kết các vấn đề khác
như quân đội Mĩ được phép chụp ảnh từ trên không lãnh thổ, lãnh hải Philippines.
Quân nhân Mĩ được phép đi lại trên toàn bộ lãnh thổ nước này và được hưởng
quyền lãnh sự tài phán…Từ đây, Philippines trở thành bàn đạp để Mĩ tiến hành triển
khai chiến lược toàn cầu phản cách mạng, xâm lược các nước khác và chống lại sự
lớn mạnh của chủ nghĩa xã hội, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở Châu Á.
Đối với Đông Dương, Philippines đã hành động dưới sức ép của Mĩ như ủng

hộ chế độ bù nhìn, can thiệp vào Lào năm 1961, gửi quân tham chiến ở Việt Nam
1969. Bắt đầu vào thập niên 60, những thay đổi to lớn của tình hình quốc tế và khu
vực đã có những tác động đến chính sách đối ngoại của Philippines.
Trong giai đoạn này chính sách đối ngoại của Philippines đã có những điều
chỉnh, Philippines đã cải thiện tình trạng cơ lập của mình với các nước láng giềng,
các nhà lãnh đạo Philippines tỏ ra sẵn sàng và nhiệt tình ủng hộ những sáng kiến
thành lập các liên minh hay các tổ chức trong khu vực. Philippines là một trong 3
nước lập ra Hiệp hội Đông Nam Á (ASA) năm 1961 và liên hiệp MAPHILINDO
năm 1963 sau đó tham gia tổ chức hội đồng châu Á – Thái Bình Dương (AZPAK)
năm 1966. Điển hình nhất là việc Philippines tham gia sáng lập Hiệp hội các quốc
gia Đông Nam Á năm 1967. Tuy nhiên những động thái này vẫn không làm sáng
sủa hình ảnh của Philippines trên trường quốc tế vì những thay đổi lớn cần thiết cho
16


lợi ích của dân tộc của quốc gia chưa diễn ra. Lập trường của Philippines trong
chính sách đối ngoại vẫn tỏ ra thiếu đọc lập và ít nhiều cịn lệ thuộc vào bên ngoài.
Những thay đổi đáng kể về đối ngoại của Philippines được thể hiện qua trong
nhiệm kì thứ hai của Tổng thống F.Marcos. Tháng 12/1969, Marcos cho rút quân
khỏi miền nam Việt Nam. Chính sách đối ngoại của Philippines lúc này khơng cịn
đơn nhất một chiều theo Mĩ mà chuyển sang hướng đa cực, phần nào thể hiện được
tính độc lập, tự chủ, mềm dẻo và ơn hịa hơn.
Ngun nhân của sự thay đổi đó là do tình hình thế giới và khu vực có nhiều
chuyển biến, xu thế hịa hỗn, hợp tác đã thay thế cho đối đầu và chiến tranh lạnh.
Trong khu vực Đông Nam Á tổ chức ASEAN ra đời với mục đích là xây dựng một
khu vực hịa bình, ổn định, giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển.
Từ khi ASEAN ra đời nhu cầu hợp tác giữa các quốc gia trong khu vực ngày
càng cao, điều đó địi hỏi Philippines phải điều chỉnh chính sách đối ngoại của mình
sao cho phù hợp với tình hình mới của thế giới và khu vực.
2.1.4. Sự hội nhập của hai nước vào khu vực và quốc tế

Thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của nhân dân
Viêt Nam đã mở ra một kỉ nguyên mới cho sự phát triển đất nước trong điều kiện
hịa bình, ổn định chính là cơ sở để nước ta tiến tới hội nhập khu vực và quốc tế.
Nhiệm vụ lớn đặt ra lúc này là tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ thành quả
cách mạng đã giành được, tiến tới mở cửa hội nhập với khu vực và quốc tế. Tuy
nhiên nước ta còn gặp vơ vàng khó khăn và thử thách để tiến tới hội nhập, trong
tình thế khó khăn đó, để khắc phục những sai lầm, khuyết điểm đưa đất nước ra
khỏi khủng hoảng đòi hỏi đất nước ta phải tiến hành đổi mới.
Việt Nam tiến hành đổi mới trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động, quan
hệ quốc tế thay đổi sâu sắc, cuộc cách mạng khoa học kỉ thuật có bước tiến vượt
bậc. Cuộc khủng hoảng xã hội toàn diện đang diễn ra ở Liên Xô và các nước Đông
Âu đã làm cho hệ thống chủ nghĩa xã hội đứng trước nguy cơ bị sụp đổ.
Trong khi đó, ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Trung Quốc đã tiến hành
cải cách mở cửa đất nước từ năm 1978 và đạt được một số kết quả to lớn, đặt ra yêu
cầu khách quan của lịch sử đòi hỏi nước ta phải tiến hành đổi mới.

17


Trong bối cảnh đó, trên phương diện đối ngoại Đảng và Nhà Nước ta nổ lực
đổi mới tư duy, vận dụng sáng tạo tư tưởng ngoại giao của Hồ Chí Minh về “thêm
bạn bớt thù”, mở rộng và đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế. Sau đại hội
thứ VI, đặc biệt là sau nghị quyết 13 của Bộ chính trị (1988) và Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 6, khóa VI (1989) Việt Nam đã có những điều chỉnh cơ bản về
chính sách đối ngoại. Theo đó, cùng với chủ trương bình thường hóa quan hệ với
Trung Quốc và Mĩ, Việt Nam coi trọng cải thiện quan hệ láng giềng với các nước
Đông Nam Á, tạo môi trường quốc tế hịa bình, ổn định ở khu vực, tạo điều kiện
phát triển đất nước.
Triển khai đường lối đối ngoại mở rộng, đa dạng hóa, đa phương hóa, nước ta
coi trọng xây dựng và phát triển quan hệ với các nước ASEAN. Gia nhập ASEAN

trở thành bước đột phá trong chính sách đối ngoại và hội nhập quốc tế của Việt
Nam, cho thấy rõ được ưu tiên của Việt Nam đối với khu vực. Từ sau sự kiện này
Việt Nam bước vào giai đoạn hội nhập khu vực mạnh mẽ, đồng thời cải thiện rõ rệt
thế và quan hệ với các nước lớn.
Sau khi gia nhập ASEAN, Việt Nam đã nỗ lực thực hiện đầy đủ các cam kết
và trách nhiệm của một nước thành viên, chủ động đưa ra những sáng kiến nhằm
thúc đẩy hợp tác khu vực, Việt Nam tiếp tục mở rộng quan hệ nhiều mặt, trên nhiều
tầng nấc trên khuôn khổ đa phương và song phương, đóng góp thiết thực vào q
trình hợp tác liên kết ASEAN hướng đến mục tiêu xây dựng cộng đồng ASEAN
ngày càng hịa bình, ổn đình và phát triển.
Bên cạnh việc phát triển quan hệ với các nước láng giềng và khu vực, Việt
Nam còn năng động cải thiện quan hệ với các nước lớn và các tổ chức quốc tế trong
quá trình hội nhập.
Đồng thời với việc gia nhập ASEAN thì Việt Nam cũng tích cực, chủ động hội
nhập vào các tổ chức của khu vực và quốc tế nhằm thúc đẩy sự phát triển toàn diện
tất cả các mặt trong xã hội, đưa đi nước phát triển và hội nhập với thế giới.
Cùng với Việt Nam, Philippines cũng đã có những chính sách biện pháp nhằm
đẩy mạnh q trình hội nhập với khu vực và quốc tế sau khi quốc gia này giành
được độc lập. Tiêu biểu cho quá trình hội nhập chính là việc Philippines là một
trong năm nước sáng lập ra tổ chức ASEAN. Bên cạnh đó, Philippines cũng tích

18


cực tham gia vào các tổ chức khác trong khu vực và quốc tế nhằm thúc đẩy sự phát
triển của đất nước, đưa đất nước ngày càng đi lên và hội nhập chung với xu thế của
tồn thế giới.
Có thể nói, việc Việt Nam và Philipines tiến hành hội nhập vào khu vực và
quốc tế cho thấy được xu thế chung của thế giới là hợp tác, hữu nghị, hòa bình và
cùng phát triển. Nó trở thành xu thế chung của tồn thế giới, khơng một quốc gia

khu vực nào cứ thế là phát triển riêng lẻ được mà cần phải có sự hội nhập để cùng
phát triển. Như vậy yếu tố hội nhập vào khu vực và quốc tế cũng đã chi phối mạnh
mẽ quan hệ ngoại giao của hai nước, góp phần vào việc hợp tác cùng phát triển trên
một mơi trường hịa bình, hữu nghị.

19


2.2 Các giai đoạn quan hệ ngoại giao Việt Nam - Philippines
2.2.1 Giai đoạn 1976 – 1995
Giai đoạn 1976 - 1978
Chiến thắng của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến giải phóng dân
tộc đã đi vào lịch sử của các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Thắng lợi này đã
đưa dân tộc Việt Nam bước vào một giai đoạn phát triển mới, giai đoạn hịa bình,
độc lập đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, là tiền đề quan trọng để Việt Nam có điều
kiện nhanh chóng thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước trong khu vực và quốc
tế.
Ở Đông Nam Á, sau khi hiệp định Pari được kí kết (1973), Mĩ buộc phải rút
quân khỏi miền nam Việt Nam. Ngay sau đó, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại
giao với các nước trong khối ASEAN là Malayxia và Xingapo. Trong thời gian này
tổ chức ASEAN cũng tìm cách bình thường hóa quan hệ với các nước Đơng Dương.
Đối với Việt Nam nói riêng, ASEAN bày tỏ thái độ hoan nghênh trước sự kiện hiệp
định Pari được kí kết. Năm 1973, ASEAN mời Việt Nam làm quan sát viên hội nghị
các bộ trưởng các nước ASEAN.
Đại thắng mùa xuân năm 1975 của nhân dân Việt Nam đã làm thay đổi đáng
kể cán cân so sánh lực lượng ở Đơng Nam Á. Trước tình hình đó, các nước trong
ASEAN đã tiến hành thay đổi chính sách đối ngoại từ đối lập sang hữu nghị, thận
trọng với ba nước Đông Dương. Mặc dù hai bên cịn e ngại vì có lúc đã là kẻ thù
của nhau song vượt lên tất cả là mong muốn có một khu vực hịa bình, ổn định, hợp
tác và phát triển để tăng cường sức mạnh của khu vực để cùng ứng phó với những

tác động từ bên ngồi. Chỉ hai tuần sau khi ngụy quyền Sài Gòn sụp đổ, Ngoại
trưởng các nước ASEAN họp tại Kalalumpua đã bày tỏ mong muốn phát triển quan
hệ với ba nước Đông Dương và thiết lập mối quan hệ hợp tác trong khu vực.
Ngày 24/02/1976, tại hội nghị cấp cao lần thứ nhất, hiệp ước Bali được thơng
qua, trong đó nêu rõ các nguyên tắc cơ bản trong quan hệ hợp tác giữa các nước
ASEAN với nhau. ASEAN muốn Việt Nam chấp nhận ZOPFAN và tham gia hiệp
ước Bali. Điều 18 chương V của hiệp ước Bali ghi: “hiệp ước này sẽ để ngỏ cho các
nước Đông Nam Á khác tham gia”. Về phía Việt Nam sau khi đất nước được thống
nhất, nhiệm vụ chiến lược và quan trọng nhất là xây dựng chủ nghĩa xã hội, Việt

20


Nam rất cần mơi trường hịa bình để tập trung phát triển đất nước. Trước xu thế đó,
việc mở rộng quan hệ ngoại giao với các nước trong khu vực là hết sức cần thiết.
Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với Philippines ngày 12/07/1976, với Thái
Lan ngày 06/08/1976…Việt Nam lần lượt đặt đại sứ quán Răng Gun tại Mianma
(11/1976), Kualalumpua (07/1977), Băng Cốc (01/1978). Như vậy đến tháng 8 năm
1976 Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước trong khu vực Đông
Nam Á.
Ngày 12/07/1976, đã đánh dấu mốc quan trọng trong quan hệ ngoại giao giữa
hai nước Việt Nam và Philippines. Phái viên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam Thứ trưởng Phan Hiền thăm Philippines, chính phủ hai nước đã ký tuyên
bố chung chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao mở ra một thời kì phát triển quan
hệ giữa hai nước.
Tháng 1/1978, Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Duy Trinh sang thăm
Philippines. Đây là chuyến thăm cấp cao của Bộ trưởng ngoại giao Việt Nam đến
Philippines, thể hiện quan điểm đoàn kết, đối thoại và hữu nghị của nhân dân Việt
Nam.
Tiếp sau đó tháng 8 năm 1978, Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Phạm Văn Đồng

dẫn đầu đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam sang thăm Philippines. Qua những cuộc
viếng thăm giữa hai nước đã thể hiện được sự phát triển thuận lợi của quan hệ hai
nước. Trên cơ sở đó, nhiều hiệp định hợp tác được kí kết giữa hai nước Việt Nam
và Philippines như: Hiệp định hợp tác kinh tế, khoa học kỉ thuật…
Giai đoạn 1979 - 1989
Tuy nhiên, vào thập niên 80 “vấn đề Campuchia” đã tác động mạnh mẽ đến
quan hệ các nước và ảnh hưởng trực tiếp đến quan hệ Việt Nam và Philippines nói
riêng. Lúc này Philippines ngã theo lập trường của Mĩ, Trung Quốc và các nước
ASEAN làm cho quan hệ giữa hai nước xấu đi. Đặc biệt, trong giai đoạn 10 năm
(1979 - 1989), thời kì qn đội Việt Nam có mặt tại Campuchia, các nước ASEAN
đã tập hợp lại thành một lực lượng bao vây và cô lập Việt Nam. Các nước ASEAN
phản đối sự có mặt của quân đội Việt Nam trên lãnh thổ của Campuchia và đòi việt
Nam phải rút qn. Tuy có chung tiếng nói trong việc địi lực lượng quân đội Việt
Nam rút quân, tôn trọng lãnh thổ Campuchia song mức độ của các nước ASEAN lại
21


×