Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Chiến thắng Điện Biên Phủ mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc bị nô dịch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.73 KB, 7 trang )

JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE
Social Sci., 2015, Vol. 60, No. 10, pp. 3-9
This paper is available online at

DOI: 10.18173/2354-1067.2015-0050

CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ MỞ RA CON ĐƯỜNG
GIẢI PHÓNG CHO CÁC DÂN TỘC BỊ NƠ DỊCH
Đỗ Thanh Bình

Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt. Bài viết nêu rõ chiến thắng Điện Biên Phủ đã mở ra con đường giải phóng cho
các dân tộc bị áp bức. Chiến thắng đã chứng minh các dân tộc thuộc địa dù nhỏ bé nhưng
biết đoàn kết, với đường lối đúng đắn,. . . có thể đánh bại được chủ nghĩa thực dân; Điện
Biện Phủ không chỉ chỉ ra con đường giải phóng mà cịn tiếp sức cho các dân tộc thuộc địa
trong cuộc đấu tranh giành độc lập. Từ cuối năm 1954, một cao trào giải phóng dân tộc đã
bùng nổ mạnh mẽ và giành thắng lợi do tác động của chiến thắng Điện Biên Phủ.
Từ khóa: Chiến thắng Điện Biên Phủ, các dân tộc bị áp bức, giải phóng, thuộc địa, chủ
nghĩa thực dân.

1.

Mở đầu

Bàn về ý nghĩa của chiến thắng Điện Biên Phủ đối với thế giới, đặc biệt là đối với phong
trào giải phóng dân tộc đã có khá nhiều bài viết ở các góc độ và cách tiếp cận khác nhau, chúng
tôi xin dẫn ra một số bài tiêu biểu sau đây: Các tác giả Phan Ngọc Liên và Đỗ Thanh Bình với
bài Ảnh hưởng và tác động của chiến thắng Điện Biên Phủ đối với phong trào giải phóng dân tộc
đăng trong tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 1 năm 1984. Một năm sau, vào năm 1985, bài Điện Biên
Phủ và phong trào giải dan tộc ở các nước Bắc Phi thuộc Pháp của Võ Kim Cương công bố trong
tuyển tập Mấy vấn đề về chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ do Nxb Khoa học Xã hội ấn hành, Hà


Nội, 1985. Đến năm 2004 lại có một số bài viết đề cập đến vấn đề này, trong đó phải kể đến các
bài viết của Đại tá Hán Văn Tâm: Tác động của chiến thắng Điện Biên Phủ đối phong trào giải
phóng dân tộc, của Đỗ Thanh Bình với bài Chiến thắng Điện Biên Phủ - sự kiện thay đổi dòng
lịch sử,. . . Các bài viết này chủ yếu tập trung vào một chủ đề về những ảnh hưởng và tác động của
chiến thắng Điện Biên Phủ tới cuộc đấu tranh chống thực dân cũ của các dân tộc bị áp bức trên thế
giới, trước hết là các dân tộc ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ latinh. Những tác động này thể
hiện rõ nhất là ở sự nêu gương và cổ vũ của chiến thắng đối với các dân tộc thuộc địa.
Trong bài báo này, chúng tôi tập trung vào làm rõ Chiến thắng Điện Biên Phủ nêu một tấm
gương cho các nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc: Một nước đất không rộng, người không
đông nhưng biết đồn kết, có đường lối đấu tranh đúng đắn,. . . có thể đánh bại được một đế quốc
lớn. Chiến thắng của nhân dân Việt Nam ở Điện Biên Phủ khơng chỉ vạch ra con đường giải phóng
cho các dân tộc thuộc địa mà còn “tiếp sức”cho cuộc đấu tranh chống thực dân của các dân tộc đó.
Đồng thời bài báo cũng chỉ ra thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc thế giới do chiến thắng
Điện Biên Phủ mở ra.
Ngày nhận bài: 15/7/2015 Ngày nhận đăng: 10/11/2015
Liên hệ: Đỗ Thanh Bình, e-mail:

3


Đỗ Thanh Bình

2.

Nội dung nghiên cứu

Chiến thắng Điện Biên Phủ của nhân dân Việt Nam đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, buộc Pháp phải kí Hiệp định Giơnevơ cơng nhận độc lập,
toàn vẹn lãnh thổ của nhân dân Việt Nam. Thắng lợi này không chỉ bảo vệ được thành quả cách
mạng mà nhân dân ta giành được từ Cách mạng tháng Tám năm 1945, không chỉ là mốc vàng lịch

sử trong cuộc đấu tranh giữ nước của Việt Nam, mà ý nghĩa của nó cịn vượt ra khỏi biên giới quốc
gia, mang tầm quốc tế, trước hết là đối với các dân tộc đang đấu tranh chống lại ách thực dân, đế
quốc. Khẳng định điều này, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Đó là thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt
Nam, đồng thời cũng là thắng lợi của các lực lượng hịa bình dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế
giới” [1;771]. Trước hết, nó là thắng lợi chung của các dân tộc bị áp bức, nó đã mở ra con đường
giải phóng cho các dân tộc bị thực dân nơ dịch.

2.1.

Các dân tộc thuộc địa có thể đánh bại được chủ nghĩa thực dân

Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc (1945), chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa quân phiệt - bộ
phận cực đoan nhất của nghĩa đế quốc bị thất bại. Bản thân các nước phương Tây - những nước có
nhiều thuộc địa ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Latinh - trong thời kì chiến tranh bị các nước
phát xít giáng cho những địn chí mạng khơng những ở chính quốc mà ngay cả ở các thuộc địa của
họ, do đó các nước này khơng cịn giữ được thuộc địa và bị suy yếu nghiêm trọng sau Chiến tranh
thế giới thứ hai. Nói chung, “Những năm đầu sau chiến tranh,... hầu hết các nước tư bản thắng lợi
hay bại trận đều bị suy yếu kiệt quệ” [2;5]. Đây là điều kiện khách quan thuận lợi cho sự vùng
lên giành độc lập của các dân tộc thuộc địa, bởi “một khoảng trống quyền lực”đã xuất hiện. Tận
dụng thời cơ này, một số nước đã tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền, tuyên bố độc lập (như
Việt Nam, Inđơnêxia, Lào,...), trong khi đó nhiều nước đang tiến hành chiến tranh giải phóng để
tiến tới nền độc lập. Tuy nhiên, thời cơ thuận lợi do chiến thắng chủ nghĩa phát xít tạo ra, nhanh
chóng qua đi. Từ cuối năm 1945- đầu năm 1946 trở đi, các thực dân phương Tây đều quay trở lại
tái chiếm thuộc địa bằng cách sử dụng “chính sách pháo hạm ”đàn áp các dân tộc đang đấu tranh
giành và bảo vệ độc lập, tự do, trong đó, thực dân Pháp là một ví dụ điển hình. Nhiều nước ở châu
Á, châu Phi bị thực dân phương Tây nô dịch trở lại, các cuộc kháng cự bị quân đội thực dân núp
dưới danh nghĩa lực lượng Đồng minh đàn áp, tiền đồ của cuộc đấu tranh giành độc lập trở nên
mờ mịt, người dân có nguy cơ tiếp tục trở lại kiếp nơ lệ. Khu vực Đông Nam Á là một minh chứng
cho tình trạng này.
Ở Philippin, đạo quân dân tộc HUKBALAHAP tiến hành cuộc kháng chiến chống quân

phiệt Nhật, đã giải phóng hai phần ba lãnh thổ trước khi quân Mỹ dưới danh nghĩa Đồng minh
đổ bộ vào đất nước này. Lãnh trách nhiệm đánh bại quân Nhật ở Philippin, tháng 1- 1945, quân
Mỹ với một lượng lượng mạnh, vũ khi tối tân [3;245-246] dưới sự chỉ huy của tướng Mác Áctơ
vào nước này, nhưng lại đàn áp phong trào kháng chiến HUKBALAHAP, chứ khơng phải giúp họ
chống Nhật.
Tình hình tương tự cũng diễn ra ở Miến Điện và Mã Lai. Với khẩu hiệu “Miến Điện của
người Miến Điện”, nhà cách mạng Aung San đã lãnh đạo quân vệ quốc Miến giải phóng phần lớn
đất nước vào tháng 5 - 1945. Nhưng sau đó quân Anh đã tràn vào và thi hành chính sách chia rẽ
dân tộc, lãnh tụ Aung San bị sát hại (7 - 1947), mặc dù sau đó, Anh phải thừa nhận nền độc lập
của Miến Điện để xoa dịu phong trào đấu tranh chống Anh.
Cũng giống như ở Miến Điện, trước khi Nhật đầu hàng Đồng minh, quân du kích Mã Lai
đã giải phóng hầu hết bán đảo, chỉ còn lại một số thành phố do quân Nhật chiếm giữ. Sau khi Nhật
đầu hàng Đồng minh, thực dân Anh đã tiến vào Mã Lai, dùng các biện pháp trấn áp, chia rẽ các
cộng đồng dân tộc ở bán đảo này bằng cuộc chiến tranh kéo dài 12 năm, lập lại nền thống trị thực
dân ở đây.
4


Chiến thắng Điện Biên Phủ mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc bị nơ dịch

Phong trào dân tộc Inđônêxia cũng giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống Nhật
với việc ngày 17 - 8 - 1945, nước này tuyên bố độc lập và thành lập nước cộng hòa. Tuy nhiên, Anh
và Mỹ đã hỗ trợ cho thực dân Hà Lan vào Inđônêxia “lập lại trật tự cũ”. Cuộc chiến đấu chống Hà
Lan diễn ra quyết liệt. Với ưu thế về lực lượng và vũ khí, thực dân Hà Lan đã đánh chiếm được
nhiều vùng rộng lớn của nước cộng hịa non trẻ. Thậm chí bằng cuộc tập kích ngày 19- 12- 1948,
tồn bộ chính quyền Xucácnơ - Hatta bị thực dân Hà Lan bắt, sau một năm mới được thả ra, nền
độc lập được thừa nhận, nhưng vùngTây Irian của nước này vẫn chưa được thu hồi.
Đối với các nước Đông Dương, từ cuối năm 1945, đầu năm 1946, thực dân Pháp xâm lược
trở lại. Ngày 9 - 10 - 1945, Pháp cho một đại đội nhảy dù xuống Phnômpênh, bắt sống Sơn Ngọc
Thành và các thành viên Chính phủ Campuchia. Triều đình nhanh chóng quy thuận và kí Hiệp

định với Pháp (4 - 1946) chấp nhận sự thống trị trở lại của Pháp.
Trong khoảng thời gian này (3 - 1946), thực dân Pháp cũng đưa quân tái chiếm Lào. Sau
khi Thà Khẹt thất thủ, Chính phủ cách mạng lâm thời phải lưu vong sang Băng Cốc (Thái Lan).
Vua Lào Xixavang khôi phục lại ngai vàng và đưa Hoàng tử Vatthana lên làm thủ tướng của Chính
phủ thân Pháp.
Trước đó ở Việt Nam, ngày 2 - 9 - 1945, trong khi nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn tổ chức mít
tinh chào mừng “Ngày độc lập”, thực dân Pháp đã xả súng vào những người dự mít tinh, làm 47
người chết, nhiều người bị thương. Đêm 22 rạng sáng 23 - 9 1945, được sự giúp đỡ của quân Anh,
thực dân Pháp đã đưa quân đánh chiếm trụ sở Ủy ban nhân dân Nam Bộ và cơ quan lực lượng tự vệ
thành phố Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam lần thứ hai. Đến cuối năm 1946,
Pháp mở rộng qui mô xâm lược ra cả nước Việt Nam.
Tình hình châu Phi cũng bi đát khơng kém. Sau khi phát xít Đức và Italia bị đánh bật ra
khỏi lục địa đen này, các nước thực dân phương Tây lập tức khôi phục lại địa vị của mình ở đây và
thẳng tay đàn áp phong trào dân tộc của các nước. Trường hợp Angiêri đã nói lên điều đó. Giữa lúc
nhân dân nước này đang hoan hỉ trước thất bại của chủ nghĩa phát xít và hi vọng về một tương lai
mới của mình, thì ngày 8- 5- 1945, thực dân Pháp cho quân đội và cánh sát tàn sát hơn 45000 thanh
niên ở Cơngxtăngtinnoa (Constantinois),miền Đơng Angiêri [4;169]. Tiếp đó, hai cuộc vùng dậy
của người dân Angiêri những năm 1948 và 1951 cũng bị đàn áp đẫm máu [4;170].
Ở bên kia Tây bán cầu xa xôi, cuộc đấu tranh chống chế độ độc tài Batixta thân Mỹ, giành
tự do dân chủ do Phiđen Caxtrơ lãnh đạo cũng đang trong thời kì hết sức khó khăn.
Nhìn chung, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, các nước thực dân đều quay trở lại xâm lược
các nước vốn trước đây là thuộc địa của mình sau khi các nước phát xít bị đánh bại, thủ tiêu nền
độc lập, tự do và những thành quả cách mạng mà nhân dân các nước Á, Phi đã giành được từ tay
các nước phát xít. Họ mưu toan thiết lập lại ách thống trị thực dân như trước đây đối với các dân
tộc. Tất cả các cuộc đấu tranh bảo vệ nền độc lập hoặc giữ những thành quả cách mạng của nhân
dân Á, Phi và Mỹ Latinh đều bị thực dân phương Tây đàn áp. Cuộc đấu tranh bảo vệ nền độc lập
và giải phóng đất nước của nhân dân Á, Phi, Mỹ latinh đang rơi vào bế tắc.
Trong bối cảnh một dân tộc nhỏ, chưa có đủ lực lượng vật chất, với vũ khí thơ sơ, phải đối
mặt với một đội qn thực dân đơng đảo, chính qui, được trang bị vũ khí hiện đại,khơng từ bỏ một
thủ đoạn nào để đạt được mục đích,... thì một câu hỏi lớn của thời đại được đặt ra trước các dân

tộc bị áp bức: Liệu họ có thể đánh bại dược chủ nghĩa thực dân cũ hay không và làm thế nào để
đánh bại được chúng?
Chính trong bối cảnh ấy, cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp của nhân Việt nam
mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ giành thắng lợi đã trở thành đáp án cho câu hỏi đó: “Một
dân tộc dù nhỏ, khi đã đồn kết đứng dậy theo một đường lối đúng đắn, kiên quyết chiến đấu cho
độc lập và tự do, thì có đầy đủ và có khả năng để chiến thắng đội quân xâm lược của bọn đế quốc,
thực dân hung hãn nhất. Chiến tranh xâm lược của đế quốc, thực dân nhất định thất bại, cách mạng
5


Đỗ Thanh Bình

giải phóng dân tộc của các dân tộc nhất định thành công” [5;311-312]. Chiến thắng Điện Biên Phủ
đã mở ra cho các dân tộc bị đế quốc, thực dân đô hộ con đường tiến lên giành độc lập [4;176].
Trước chiến thắng Điện Biên Phủ có một thực tế là thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc như
một hệ thống hồn chỉnh với một chuỗi các mắt xích móc nối liên hoàn các thuộc địa với nhau.
Nhân dân Á, Phi và Mỹ latinh khó có thể thay đổi được thân phận nơ lệ của mình, các cuộc vùng
dậy, tháo bỏ xiềng xích đều khơng thành cơng, các con đường đấu tranh họ tự vạch ra đều đi vào
ngõ cụt, bế tắc. Thế nhưng Điện Biên Phủ đã làm thay đổi tất cả. Điện Biên Phủ đã chặt đứt khâu
yếu nhất trong chuỗi mắt xích nơ lệ đó và kéo theo sự tan rã của hệ thống thuộc địa ở khắp nơi
mà chính quyền thực dân khơng thể nào ngăn cản được. Đúng như nhận xét của Tổng Bí thư đảng
Cộng sản Angiêri – Lascbi Buhali: Chiến thắng Điện Biên Phủ của nhân dân Việt Nam “đã điểm
tiếng chuông báo giờ chết của chủ nghĩa thực dân Pháp không những ở Việt Nam mà cả ở bộ phận
còn lại của khối thuộc địa của nó” [5;327]. Điện Biên Phủ khơng chỉ trở thành “một trong những
trận giao chiến đã thay đổi số phận của thế giới” [6], mà còn “Đánh dấu một chặng đường mới trên
con đường giải phóng của các dân tộc châu Á, châu Phi, châu Mỹ” [7;726]. Nó là “bóng ma” ám
ảnh các nước thực dân, bởi “Nếu để mất Đơng Dương tất sẽ nhanh chóng kéo theo một cuộc vùng
dậy ở Bắc Phi” [5;327] và nhiều nơi khác khi mà ở đó cịn chế độ thực dân.

2.2.


Điện Biên Phủ đã chỉ ra con đường giải phóng và tiếp sức cho các dân tộc
thuộc địa

Từ sau năm 1945, các cuộc đấu tranh chống ách thực dân, giải phóng dân tộc của nhân dân
các nước Á, Phi, Mỹ latinh diễn ra quyết liệt, gây cho các nước thực dân những tổn thất không nhỏ.
Mặc dù tổn thất, nhưng chính quyền thực dân cũng khơng chịu nhượng bộ, để rồi trao trả nền độc
lập cho các dân tộc. Trong bối cảnh ấy, chiến thắng của nhân dân Việt Nam ở Điện Biên Phủ đã
chỉ ra cho các dân tộc rằng để buộc chính phủ thực dân ngồi vào đàm phán và kí hiệp định cơng
nhận nền độc lập của các dân tộc thuộc địa, thì các dân tộc ấy phải giáng cho quân đội thực dân, đế
quốc những đòn quyết định như Điện Biên Phủ. Đồng thời, chiến thắng Điện Biên Phủ cũng cảnh
báo chính quyền thực dân rằng, họ đừng bao giờ có ảo tưởng duy trì nền thống trị đối với một dân
tộc mà dân tộc ấy ln mong mỏi hịa bình, độc lập, tự do và không bao giờ cam chịu sống kiếp
ngựa trâu.
Mong muốn độc lập, tự do, nhưng các dân tộc thuộc địa không bao giờ muốn chọn con
đường chiến tranh, vì con đường ấy sẽ dẫn đến tổn thất, họ luôn hướng tới con đường hịa bình,
thơng qua đàm phán để đạt được nền độc lập. Tuy nhiên, trong thực tế tiến trình cuộc đấu tranh
đòi độc lập của các dân tộc thuộc địa, kẻ thù đã buộc họ phải cầm vũ khí khi những thỏa thuận hịa
bình bị kẻ thù đơn phương xé bỏ. Trường hợp Việt Nam là một ví dụ điển hình.
Ngay sau ngày tuyên bố độc lập, thực dân Pháp quay trở lại xâm lược Việt Nam một lần
nữa, Chính phủ và nhân dân Việt Nam kiên quyết bảo vệ nền độc lập vừa mới giành được, nhưng
bằng con đường hịa bình. Việt Nam đã tận dụng và tranh thủ mọi cơ hội hịa bình, tránh một cuộc
chiến tranh với Pháp. Để làm điều đó, Chính phủ Việt Nam đã nhân nhượng Pháp bằng việc kí
Hiệp định sơ bộ ngày 6 - 3 - 1946, sau đó là Tạm ước ngày 14 - 9 - 1946. Sự nhân nhượng đó là có
nguyên tắc và cuối cùng: Nền độc lập phải được giữ vững, toàn vẹn lãnh thổ phải được bảo đảm,
nhân dân phải được sống trong tự do,. . . Nhưng đến cuối năm 1946, thực dân Pháp mở rộng xâm
lược ra toàn bộ nước Việt Nam, họ đã chọn con đường chiến tranh, họ đã buộc nhân dân Việt Nam
phải cầm vũ khí. Vào năm 1953, khi ưu thế trên chiến trường đang có lợi cho Việt Nam, nhưng Chủ
tịch Hồ Chí Minh đại diện cho nhân dân Việt Nam vẫn mong muốn giải quyết mối quan hệ Pháp
– Việt bằng giải pháp hịa bình. Thơng qua nhà báo Thụy Điển, Người thể hiện lập trường: Nếu

Chính phủ Pháp muốn giải quyết cuộc xung đột này bằng biện pháp hịa bình thì phía Việt Nam
sẵn sàng. Tuy nhiên, thực dân Pháp với đội quân khổng lồ, quyết chọn biện pháp quân sự hòng đè
6


Chiến thắng Điện Biên Phủ mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc bị nơ dịch

bẹp ý chí của dân tộc Việt Nam, buộc Việt Nam phải kí hiệp định với những nội dung có lợi cho
họ. Khơng còn con đường nào khác, nhân dân Việt Nam buộc phải tiếp tục cuộc kháng chiến và
cuối cùng làm nên trận Điện Biên Phủ. Thất bại đau đớn ở Điện Biên Phủ, Chính phủ Pháp mới
chấp nhận ngồi vào đàm phán và kí Hiệp định Giơnevơ, cơng nhận nền độc lập, tự do và toàn vẹn
lãnh thổ của Việt Nam, rút hết quân đội về nước.
Sau này trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nhân dân Việt Nam tiếp tục khẳng
định lại giá trị của bài học Điện Biên Phủ (1954). Để buộc Mỹ hải kí Hiệp định Paris vào đầu năm
1973 với những thỏa thuận trước đó, cơng nhận nền độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của
Việt Nam,. . . nhân dân Việt Nam cũng đã phải làm “một Điện Biên Phủ” - “trận Điện Biên Phủ
trên không” vào cuối năm 1972 trên bầu trời Hà Nội và Hải Phòng.
Điện Biên Phủ đã trở thành động từ trong ngôn ngữ của nhiều dân tộc đang đấu tranh cho
tự do. Đó là “dienbienfuer” có nghĩa là đánh cho kẻ địch khơng cịn mảnh giáp như Việt Nam đã
từng đánh Pháp ở Điện Biên Phủ. Sau này, trong những trận đánh lớn của quân giải phóng Angiêri
chống thực dân Pháp được họ gọi là những trận “Điện Biên Phủ” và kiểu đánh đánh tập trung tiêu
diệt một bộ phận lớn sinh lực đối phương đều mang tên “kiểu đánh Điện Biên Phủ” [8;60].
Chiến thắng Điện Biên Phủ đã tiếp cho nhân dân thuộc địa một sức mạnh tinh thần, lịng
dũng cảm, ý chí kiên cường trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù xâm lược. Là bộ phận của cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc thế giới, chiến thắng của nhân dân Việt Nam, của các chiến sĩ ở Điện
Biên Phủ “đã tác động sâu sắc tới không những tinh thần của nhân dân tất cả các nước bị áp bức,
mà cịn của tồn nhân loại” [9;60].Chiến thắng đó “đã gây niềm phấn khởi sâu sắc nhất trong trái
tim của nhân dân Marôc. . . cũng như trái tim của nhân dân châu Phi và toàn thể những người bị
áp bức” [4;174]. Trong một trận đánh không cân sức ở khu rừng Tơlemxem, các chiến sĩ Angiêri
đã hô vang một mệnh lệnh xung trận: “Điện Biên Phủ! Điện Biên Phủ- Angiêri!” và họ đã phá tan

vòng vây của quân Pháp, bảo toàn lực lượng. Cũng từ đây từ “Anma” (nghĩa là “Tiến lên”) được
thay bằng từ “Điện Biên Phủ”trong các cuộc chiến đấu.
Không chỉ tiếp sức cho nhân dân thuộc địa bằng sức mạnh tinh thần,. . . mà Điện Biên Phủ
còn củng cố niềm tin của các dân tộc này vào thắng lợi cuối cùng trong cuộc đấu tranh chính nghĩa
của mình [10;221]. Chiến thắng Điện Biên Phủ không chỉ là “ngọn roi làm thức tỉnh các dân tộc
thuộc địa” [4;173] mà nó cịn “làm tăng gấp bội nhiệt tình và lịng tin tưởng của những người đã
lao vào cuộc chiến đấu” [4;174].
Chiến thắng Điện Biên Phủ không chỉ đem lại những bài học, những kinh nghiệm hay cổ
vũ cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa chống thực dân, mà cuộc chiến đấu của Quân đội
nhân dân Việt Nam ở Điện Biên Phủ nói riêng và cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống
thực dân Pháp nói chung đã góp phần bồi dưỡng một đội ngũ các chiến sĩ tiên phong trong cuộc
đấu tranh này, trước hết là ở châu Phi. Những người lính châu Phi (như ở Angiêri, Marốc, Mali,
Tuynidi,. . . ) trong quân đội Pháp bị đưa sang chiến trường Đông Dương, họ trực tiếp giáp trận với
các chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam, thậm chí nhiều người trong số họ bị bắt làm tù binh
ở chiến trường Việt Nam, ở Điện Biên Phủ, họ đã mục kích được tinh thần chiến đấu dũng cảm,
mưu trí, nắm bắt được kinh nghiệm chiến đấu của các chiến sĩ Việt Nam. Những người lính này
khi được hồi hương họ liền trở thành những chiến sĩ nòng cốt và tiên phong đấu tranh chống lại
quân đội thực dân ở nước mình. Như ơng Mađâyra Câyta, Trưởng đồn đại biểu Chính phủ nước
Cộng hòa Mali sang thăm Việt Nam (10 - 1961), khẳng định: “Những đồng bào của chúng tôi bị
bọn thực dân Pháp mang sang đây, sau khi được tiếp xúc với các chiến sĩ Việt Nam trong các trại
tù binh và hiểu rõ các đồng chí, đã giác ngộ về hồn cảnh của mình. Vì thế mà số đơng những
đồng bào của chúng tôi, khi về nước đã đứng cạnh các đồng chí trong cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc” [4;176].

7


Đỗ Thanh Bình

2.3.


Phong trào giải phóng dân tộc thế giới sau chiến thắng Điện Biên Phủ

Hệ thống thuộc địa của thực dân Anh và Pháp sau Chiến tranh thế giới thứ hai vẫn lớn nhất.
Các thuộc địa của Anh bao gồm khoảng 60 vùng lãnh thổ và đảo với diện tích 30 triệu km2 và
1151 triệu dân (tức là chiếm 1/4 dân số thế giới tính đến cuối năm 1980). Trong khi ấy, diện tích
thuộc địa của thực dân Pháp là 12,5 triệu km2 với 130 triệu dân (con số của năm 1980), trong đó
có tới 9/10 thuộc địa của Pháp ở châu Phi bao gồm 32 lãnh thổ. So với diện tích thuộc địa ở châu
Phi, Đơng Dương nhỏ hơn nhiều nhưng lại là thuộc địa nền móng của thực dân Pháp. Các nước
thực dân khác, như Hà Lan, Bỉ, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha,... có ít thuộc địa hơn.
Cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam mà đỉnh cao là chiến
dịch Điện Biên Phủ và thắng lợi của nó đã tác động vào hai đối tượng chủ yếu trên thế giới: Chính
quyền các nước thực dân và các dân tộc bị áp bức. Xét cho cùng, cả hai tác động đó đều góp phần
cởi trói các dân tộc thuộc địa khỏi gông cùm nô lệ ở những mứ độ khác nhau. Trước hết, chiến
thắng Điện Biên Phủ đã buộc các chính phủ thực dân phải thay đổi chính sách thuộc địa để tránh
phải đối mặt cuộc nổi dậy của các dân tộc để rồi “nhận một Điện Biên Phủ” giống như Chính phủ
Pháp đã chuốc lấy ở Việt Nam.
Để giữ lại các thuộc địa, lại tránh được sự phản kháng của người dân mà hậu quả của nó
là những “Điện Biên Phủ” như ở Việt Nam, thực dân Anh đã khôn khéo lập ra Khối thịnh vượng
chung và sớm cho một số nước thuộc địa được hưởng quyền tự trị hoặc độc lập nằm trong khuôn
khổ Khối thịnh vượng chung, như Ấn Độ, Pakixtan, Xu Đăng, Gana,. . .
Còn thực dân Pháp, sau Điện Biên Phủ, tuy vẫn cố bám lấy thuộc địa, nhưng cũng không
thể thống trị giống như trước kia được nữa. Từ Liên hiệp Pháp (Union Francaise) trước năm 1954,
đến năm 1958, được thay bằng Cộng đồng Pháp (Communaute Francaise) với qui chế tôn trọng
quyền của các dân tộc và quyền tự trị cao hơn. Sau đó, trước phong trào đấu tranh giải phóng dân
tộc lên cao, Pháp buộc phải công bố “Quyền tự trị” hoặc trao trả độc lập cho nhiều nước châu Phi,
trước tiên là các nước Bắc Phi (như Tuynidi, Ma rốc)
Đối với các dân tộc bị áp bức bởi chủ nghĩa thực dân, Điện Biên Phủ đã đột phá một lỗ hổng
rất to cho các dân tộc naỳ trong cuộc đấu tranh để đi tới độc lập và tự do. Và các dân tộc đó “đến
lượt mình lại giáng thêm những địn chết điếng vào chủ nghĩa đế quốc” (T.B.Đen, đại biểu cơng

đồn Ghinê). Cuộc chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam ở Điện Biên Phủ đã dẫn tới một
“phản ứng dây chuyền” chống thực dân trong các nước thuộc địa. Một cao trào giải phóng dân tộc
sau Điện Biên Phủ đã bùng lên.
Từ năm 1945 đến trước chiến thắng Điện Biên Phủ (1954), phong trào giải phóng dân tộc
trên thế giới chưa phát triển mạnh mẽ và đều khắp. Nhiều cuộc đấu tranh chống thực dân cịn bị
dìm trong bể máu bởi chính sách vũ lực của đội quân xâm lược. Nhưng từ sau Chiến thắng Điện
Biên Phủ, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc thế giới dâng cao bởi sự khích lệ, cổ vũ của
chiến thắng này. Hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân, trước hết là những “sân sau” của Pháp
nối tiếp nhau sụp đổ. “Lời tiên đoán trước đây của Thống chế Đơlat là nếu để mất Đơng Dương tất
cả sẽ nhanh chóng kéo theo một cuộc vùng dậy ở Bắc Phi, đã được chứng minh cụ thể” [11;21].
Trước hết, chính quyền thuộc địa của ở Angiêri phải đối mặt với cuộc kháng chiến của nhân
dân nước này, bởi “chưa đầy sáu tháng sau (sau Điện Biên Phủ - ĐTB), nhân dân Angiêri đã nổi
dậy” [11;21]. Nối tiếp cuộc chiến đấu của nhân dân Angiêri là những cuộc vùng lên của các dân
tộc khác ở Á, Phi, Mỹ Latinh. Có thể thấy “Khắp nơi ở châu Phi từ Angiêri đến Marốc, từ Công
Gô đến Nigiêria, cuộc chiến đấu giành độc lập dân tộc đã được tấm gương Điện Biên Phủ cổ vũ”
[12]. Các quốc gia giành độc lập nối tiếp nhau ra đời. Nếu như giai đoạn từ năm 1945 đến trước
chiến thắng Điện Biên Phủ mới chỉ có khoảng 20 nước Á, Phi, Mỹ latinh giành được độc lập, thì
giai đoạn từ năm 1954 đến cuối những năm 60 của thế kỉ XX có khoảng 40 quốc gia thoát khỏi
8


Chiến thắng Điện Biên Phủ mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc bị nơ dịch

ách thực dân. Phần lớn các nước giành được độc lập này ở châu Phi và trong khoảng 40 quốc gia
đó thì có 32 nước là thuộc địa của Pháp. Trong giai đoạn từ đầu những năm 70 trở về sau, hệ thống
thuộc địa của chủ nghĩa thực dân tiếp nối tiếp nhau tan rã và nó hồn tồn bị thanh tốn vào những
năm cuối cùng của thế kỉ XX.

3.


Kết luận

Một trong những sự kiện quan trọng hàng đầu, để lại dấu ấn sâu đậm trong thế kỉ XX là các
dân tộc thuộc địa đã hồn thành cuộc đấu tranh giải phóng khỏi ách thực dân, hệ thống thuộc địa
của chủ nghĩa thực dân từng tồn tại trong 5 thế kỉ đã bị thanh toán. Chiến thắng Điện Biên Phủ
là một dấu mốc trọng đại không chỉ của dân tộc việt Nam mà cịn là mốc vàng lịch sử trong cuộc
đấu tranh thốt khỏi ách nô lệ của các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Nó đã góp phần khơng nhỏ
cùng cuộc đấu tranh của nhân dân Á, Phi và Mỹ latinh kết liễu chế độ thực dân – vết nhơ của lịch
sử nhân loại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] 1960. Hồ Chí Minh: Toàn tập. Nxb Sự thật, Hà Nội.
[2] Nguyễn Quốc Hùng, 1999. Quan hệ quốc tế từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay (1945
– 1996). Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[3] Đubinxki, 1972. Viễn Đông trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Nxb Khoa học Matxcova.
[4] Bùi Đình Thanh, Ngô Tiến Chất, 1963. Âm mưu của đế quốc Pháp – Mỹ trong chiến dịch Điện
Biên Phủ. Nxb Sử học, Hà Nội
[5] Tiếng sấm Điện Biên Phủ. Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 1974.
[6] Tạp chí Người quan sát mới (Pháp) ngày 8 – 4 – 1983.
[7] Chiến thắng Điện Biên Phủ - Mốc vàng lịch sử, chân lí thời đại. Nxb Quân đội Nhân dân, Hà
Nội, 2004.
[8] Angiêri kháng chiến, Hà Nội, 1960 .
[9] Thế giới bàn về Việt Nam, tập 2, Hà Nội, 1978.
[10] Võ Nguyên Giáp, 2001. Điện Biên Phủ - Điểm hẹn lịch sử. Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
[11] J. Lanien, 1957. Tấn bi kịch Đông Dương. Paris.
[12] CH. Haroche, 1978. Hậu quả quốc tế của chiến thắng. Sưu tập chuyên đề: Thế giới bàn về
Việt Nam, tập III. Viện Thông tin Khoa học Xã hội, Hà Nội.
ABSTRACT
The Dien Bien Phu victory unfolded a path of emancipation for oppressed nations
In this paper it is shown that the Dien Bien Phu victory has unfolded a path of emancipation
for oppressed nations: the victory has proved that small colonies can triumph over colonialism

if they act together and under a correct policy. Dien Bien Phu not only enlightened the
liberation path, it also supported and gave strength to colonial people everywhere in their struggle
for independence. Since the end of 1954, a tremendous wave of revolutionary movement for
independence burst forth pervasively and successfully thanks to the impact of the Dien Bien Phu
victory.
Keywords: Dien Bien Phu victory, oppressed nations, emancipation, colony, colonialism.

9



×