Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Đề tài: Tìm hiểu một số đặc điểm sinh học của ốc đĩa Nerita balteata Reeve, 1855 tại Quảng Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.77 MB, 35 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam có bờ biển dài hơn 3260 km và có hàng trăm đảo lớn nhỏ là lợi thế
cho phát triển nuôi trồng thuỷ sản, khai thác, du lịch…Trong đó, nghề nuôi trồng
thuỷ sản ở nước ta ngày càng phát triển và trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, cung
cấp hàng thủy sản cho xuất khẩu mang lại nguồn ngoại tệ lớn cho quốc gia. Mặt
khác, nghề NTTS cịn góp phần xố đói giảm nghèo, làm thay đổi đời sống cho
người dân
Trong những năm gần đây nhờ áp dụng những tiến bộ khoa học kĩ thuật mà
ngành nuôi trồng thủy sản thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đang phát triển
một cách nhanh chóng và đa dạng hóa về các đối tượng nuôi. Nhưng cũng vì thế mà
dịch bệnh thuỷ sản do nuôi ồ ạt không quy hoạch của tôm, cá đang đe doạ người
nuôi trồng thuỷ sản, cần có biện pháp nuôi theo hướng thân thiện với môi trường
hơn. Động vật thân mềm được xem như là những đối tượng nuôi rất có tiềm năng
trong nuôi trồng thủy sản và đang thu hút được sự quan tâm của nhiều người. Theo
Đỗ Công Trung và Lê Thị Thúy từ năm 2009 tới nay giá trị xuất khẩu thủy hải sản
của Việt Nam đạt 6,1 tỉ USD trong đó có hơn 30% là các lồi đợng vật thân mềm
như: ốc hương, ốc đĩa, tu hài, nghêu, sò huyết, ngao [10].
Quảng Ninh là một tỉnh ven biển có nguồn lợi hải sản rất lớn, đặc biệt là thân
mềm với khoảng 450 loài khác nhau. Theo Nguyễn Xuân Dục (1999) các đối tượng
thân mềm ở Quảng Ninh chủ yếu là lớp Chân bụng gồm 97 loài, chiếm 49,2%, lớp
Hai mảnh vỏ 96 loài chiếm 48,8%, lớp Chân đào 2 loài chiếm 1%, lớp Nhiều tấm
(Song kinh) 2 loài chiếm 1%. Các loài thân mềm có giá trị kinh tế được khai thác
chủ yếu ở đây là ốc đĩa, hàu, ốc đá, ốc tù và, tu hài[3].
Ốc đĩa (Nerita balteata) là mợt trong những lồi đợng vật thân mềm có giá trị dinh
dưỡng cao, thịt thơm ngon, có hương vị đặc biệt đã trở thành món ăn đặc sản và
được nhiều người yêu thích tại Quảng Ninh. Đặc biệt hiện nay ốc đĩa đã trở thành
một sản phẩm hàng hóa có giá trị cao và được thị trường trong và ngồi nước ưa
cḥng. Tuy nhiên hiện nay sản phẩm của ốc đĩa cung cấp trên thị trường đều do
khai thác hoàn toàn từ tự nhiên do chưa sản xuất nhân tạo cũng như ni thương


phẩm được đối tượng này. Ớc đĩa được khai thác chủ yếu để làm thực phẩm và bán
cho các nhà hàng với giá từ 400.000 – 500.000/kg. Tuy nhiên trong những năm gần


2
đây do tình trạng khai thác quá mức nên sản lượng ốc đĩa đã giảm đi một cách đáng
kể. Đứng trước tình hình đó chúng ta cần có những giải pháp hợp lý để duy trì và tái
tạo nguồn lợi, ổn định môi trường sinh thái biển. Bên cạnh việc quản lý, quy hoạch
vùng khai thác chúng ta cần tập trung vào nghiên cứu các đặc điểm sinh học của
chúng để áp dụng trong việc bảo tồn và phát triển sau này.
Xuất phát từ những nhu cầu thực tiễn trên tôi đã được Khoa Nuôi Trồng Thủy
Sản - Trường Đại học Nha Trang phân cơng thực hiện đề tài:
“Tìm hiểu một số đặc điểm sinh học của ốc đĩa Nerita balteata Reeve, 1855
tại Quảng Ninh”
Sau thời gian thực tập tôi đã thu được một số kết quả, tôi xin phép được trình
bày kết quả trong báo cáo này. Trong quá trình viết báo cáo còn nhiều thiếu sót, rất
mong được sự góp ý của quý thầy cô, các bạn học để bài báo cáo này được hoàn
thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Nha Trang, Ngày 20 tháng 6 năm 2012
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thanh Doanh


3

CHƯƠNG 1: TỔNG LUẬN
1.1. Tình hình nghiên cứu đợng vật chân bụng trên Thế giới và Việt Nam
1.1.1. Tình hình nghiên cứu động vật chân bụng trên Thế giới
Theo McArthur và Harasewych (2003) trong ngành thân mềm thì lớp chân

bụng Gastropoda là phong phú nhất chiếm khoảng 75 – 80% số loài thân mềm hiện
nay bao gồm trên 85.000 loài trong đó có 40.000 loài sống ở nước lợ, mặn. Cũng
theo McArthur hiên nay lớp chân bụng có khoảng 444 loài đã bị tuyệt chủng, 18
loài đã bị tuyệt chủng trong tự nhiên nhưng vẫn cịn trong điều kiện ni nhốt và 69
lồi có nguy cơ bị tuyệt chủng [11].
Đợng vật chân bụng có phân bố địa lý trên toàn thế giới từ vùng hàn đới đến
vùng nhiệt đới, chúng có thể phân bố ở hầu hết các loại địa hình, khí hậu và thích
nghi tốt với các biến động thời tiết khí hậu [18].
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều nghiên cứu về các đối tượng động vật chân
bụng có giá trị kinh tế cao như: ốc hương (Babylonia areolata), bào ngư (Haliotis
diversicolor), ốc nhảy (Strombus canarium).
Patterson và Ayyakkanmu (1995) đã thí nghiệm nuôi thương phẩm ốc hương lồi
B.spirata trong đăng lưới tại vùng của sơng Vellar ở Ấn Đợ. Ớc giống từ nguồn khai
thác ngồi tự nhiên có chiều dài trung bình 2,75cm và khối lượng đạt 6,42g, được thả
với mật độ 38 con/m². Bãi nuôi được đóng cọc, vây lưới nilon có mắt lưới 2,5cm,
chất đáy gồm 75% cát, 19% bùn, 6% sét. Các yếu tố thủy hóa: nhiệt độ nước 29 –
33ºC, độ mặn 30 - 36‰, pH 7- 8,1, oxy hòa tan 3,7 – 5,9mg/l, độ sâu 10 – 114cm,
thức ăn là nghêu, cho ăn với tỷ lệ trung bình 7% khối lượng thân. Kết quả sau 3 tháng
nuôi, ốc tăng trưởng chiều dài là 3,2mm, khối lượng 3,02g. Tỷ lệ sống giảm dần và
chết hồn tồn sau105 ngày ni. Ngun nhân chính theo tác giả là do ốc chưa thích
nghi được với điều kiện mới vào những ngày đầu, ốc thoát ra khỏi đăng nhốt, nước bị
ô nhiễm, gió mạnh gây đục nước, sự lắng đọng của cát và thất thoát do địch hại [14].
Theo Betutu (2005), độ mặn là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến sự phân bố
của ốc nhảy ốc nhảy S. Canarium, theo đó ốc nhảy ưa sống trong vùng có độ mặn


4
26-32ppt. Các yếu tố sinh thái khác thích hợp trong điều kiện sống của ốc nhảy như
ơxy hịa tan (DO) từ 4,5-6,5, nhiệt độ từ 26-300C và pH từ 7,5-8.
Theo Abbott (1960) thì các loài trong giống ốc nhảy Strombus thường thì con

đực nhỏ hơn con cái. Ốc nhảy S. canarium cũng như mợt số lồi ốc khác thường đẻ
vào thời điểm trăng tròn (Syamsul et al, 1998). Thêm vào đó, sự có mặt của vật ăn
thịt (predators) cũng làm ảnh hưởng đến tăng trưởng của ốc non. Degodo và CTV
(2002) cho rằng ốc con loài S. gigas lớn chậm hơn và có vỏ nặng hơn trong môi
trường sống có mặt vật dữ (ví dụ Mực) so với khi vắng mặt chúng. Các yếu tố vô
sinh như độ sâu và loại nền đáy cũng được coi là những nhân tố có ảnh hưởng đến
tốc độ sinh trưởng của ốc (Mc Carthy, 2007).
Tại Thái Lan, trung tâm nghiên cứu và chuyển giao công nghệ thuộc trường
đại học Chulalongkorn thực hiện thành công mô hình nuôi ghép ốc hương B.
areolata và cá chẽm Lates calcarifer. Kết quả cho thấy không có sự khác biệt về tốc
độ tăng trưởng của ốc hương nuôi đơn và nuôi ghép với cá chẽm. Tốc độ tăng
trưởng trung bình của ốc hương về chiều dài và khối lượng sau 7 tháng là
0,51g/tháng và 3,3mm/tháng, khối lượng trung bình sau khi thu hoạch là 6,9g, năng
suất ốc thu hoạch là 10,45 tấn/ha, tỷ lệ sống 43,9%, hệ số thức ăn 4,47 [12].
Syamsul (2005) đã sản xuất giống ốc nhảy S. canarium bằng phương pháp sốc
nhiệt. Ốc bố mẹ thành thục ngoài tự nhiên được thu và cho vào những giỏ nhựa mà
ở đáy có phủ 1 lớp lưới được treo trong bể xi măng có sục khí. Kết quả ốc đã đẻ
trứng dính vào lớp lưới, trứng ốc nằm trong một chuỗi sợi và cuộn thành từng búi,
một cá thể có thể đẻ 10 – 20 búi trong 1 lần đẻ tương đương với khoảng 5.000 –
7.000 trứng. Sau 61,5 giờ ấp ốc nở thành ấu trùng bơi tự do trong khối nước, tỉ lệ nở
khá cao từ 90 – 95% [6]. Theo Sengagau và CTV (2005) đã nghiên cứu sự ảnh
hưởng của độ mặn đến tỷ lệ nở của ốc nhảy S. canarium, các mức độ mặn là 0, 5,
10, 15, 20, 25, 30 và 32‰ và kết quả cho thấy ở mức 30‰ cho tỷ lệ sống cao nhất.
Patchee và CTV (1998) đã công bố kết quả ương nuôi ấu trùng ốc nhảy S.
canarium, từ giai đoạn Veliger đến con giống cấp 1. Theo tác giả, mật độ ương nuôi
ấu trùng Veliger phù hợp nhất từ 50 – 200 con/L, ở mật độ 50 con/l nuôi trong thùng
nhựa 40L đạt tỷ lệ sống cao nhất là 97,7% [6].


5

Chaitanawisuty và CTV (2001) đã nghiên cứu so sánh sự tăng trưởng, hệ số
chuyển đổi thức ăn (FCR), tỷ lệ sống khi nuôi ốc hương B. areolata bằng cá tươi và
thức ăn chế biến theo hai công thức khác nhau với mức protein là 35% và 45%. Hệ
thống nuôi thí nghiệm là các thùng chứa có kích thước 1,5 x 0,5 x 0,5m, được bố trí
nước biển chảy liên tục (300 -500l/giờ) và có sục khí, đáy thùng có phủ lớp cát thô
dày 5 cm , nhiệt độ nước trong khoảng từ 28 - 30ºC, độ mặn 28 - 29‰. Thức ăn chế
biến sử dụng trong thí nghiệm được phối trộn từ các thành phần: bột cá, dầu mì, bột
lúa mì, gluten và hỗn hợp các vitamin. Thí nghiệm theo dõi trong 6 tháng cho thấy
tỷ lệ tăng trưởng về mặt kích thước và khối lượng của ốc hương cho ăn bằng thức
ăn tự nhiên và cho ăn bằng thức ăn chế biến với mức protein 35% và 45% tương
ứng là 4,31; 3,48; 3,91 mm/tháng và 1,62; 1,17; 1,18 g/tháng. Hệ số FCR đối với 3
nghiệm thức là 1,38; 1,53; 1,54, tỷ lệ sống tương ứng là 100%, 95% và 96%. Số liệu
thống kê cho thấy không có sự sai khác về tỷ lệ tăng trưởng và FCR giữa 3 nghiệm
thức sự dụng thức ăn tươi và sử dụng thức ăn chế biến với mức protein 35% và
45%. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy việc sử dụng thức ăn chế biến để nuôi ốc
hương trong thời gian thử nghiêm 180 ngày đã cho tỷ lệ ốc sinh trưởng cao (3,84 –
3,98 mm/tháng), FCR thấp (1,53) và tỷ lệ sống cao (95 – 96%). Từ đó tác giả cho
rằng có thể sử dụng thức ăn chế biến để nuôi ốc hương, tuy nhiên cần có nhiên cứu
thêm để xác định chính xác mức protein trong khẩu phần thức ăn phù hợp nhất cho
tăng trưởng và hệ số chuyển đổi thức ăn [15].
1.1.2. Tình hình nghiên cứu đợng vật chân bụng ở Việt Nam
Hiện nay, Việt Nam có khoảng 70.000 loài thuộc lớp chân bụng đang hiện hữu.
Trong đó có khoảng 45.000 loài sống dưới nước tại tất cả các thủy vực nước mặn,
lợ, ngọt. Từ tình hình và kết quả nghiên cứu về các thành phần loài đã biết cho thấy
sự đa dạng và phong phú của các lồi tḥc lớp chân bụng ở Việt Nam.
Nghề nuôi động vật thân mềm ở nước ta nói chung đang phát triển mạnh và đóng
góp đáng kể vào kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản, điển hình là ốc hương, tu hài, bào
ngư, trai ngọc... Tuy nhiên, các nghiên cứu về sinh học sinh sản, sản xuất giống
nhân tạo để cung cấp nguồn giống ổn định và có chất lượng cao các đối tượng thuộc
lớp chân bụng cho người nuôi chưa thật sự phát triển. Ở nước ta, nghiên cứu về các

lồi đợng vật chân bụng chỉ mới phát triển và tập trung vào một số đối tượng như:


6
ốc hương, bào ngư, ốc nhảy.
Theo Nguyễn Thị Xuân Thu và CTV (2002) đã nghiên cứu cho sinh sản nhân
tạo thành công trên ốc hương Babilona areorata, các khâu như nuôi vỗ ốc hương bố
mẹ, cho sinh sản nhân tạo, ương nuôi ấu trùng, nghiên cứu thức ăn cho ấu trùng ốc
hương được nghiên cứu một cách khá tỉ mỉ và kết quả đã được ứng dụng vào thực tế
sản xuất khá hiệu quả. Tác giả đã nghiên cứu và đưa ra quy trình kỹ thuật nuôi ốc
hương thương phẩm với các hình thức: Nuôi trong bể xi măng với mật độ thích hợp
từ 100 – 150con/m², tỷ lệ sống đạt từ 99,4 – 100%, hệ số thức ăn trung bình là 2,9 –
3,2. Nuôi ốc hương trong ao đất với mật độ từ 30 – 50con/m², đạt kích cỡ thương
phẩm sau 5 -6 tháng nuôi, tỷ lệ sống đạt trên 70%. Nuôi trong đăng lồng với mật độ
2000 – 3000con/m², đạt kích cỡ thương phẩm sau 5 – 6 tháng nuôi, tỷ lệ sống từ 63
– 93,8% [8]. Quy trình công nghệ sản xuất giống ốc hương cũng được nghiên cứu
và chuyển giao áp dụng ở nhiều địa phương. Thay vì phụ tḥc hồn tồn vào
nguồn giống tự nhiên như trước đây, thì nay đã chủ động được nguồn giống bằng
việc cho đẻ nhân tạo hàng loạt. Nghề nuôi ốc hương thương phẩm và sản xuất giống
nhân tạo ốc hương ở các tỉnh miền Trung bắt đầu rộ lên như là một nghề mang lại
lợi nhuận cao. Nhiều người đã đổ xô nuôi loại đặc sản biển này. Nhưng đến cuối
năm 2002 và đầu năm 2003 là giai đoạn cực kỳ khó khăn đối với nhiều hộ nuôi ốc
hương. Dịch bệnh trên ốc hương bùng phát ở nhiều vùng nuôi làm ốc chết hàng
loạt. Nhiều hộ nuôi bắt đầu chán ngán, diện tích nuôi ốc hương sụt giảm đáng kể từ
152.000 m² (năm 2002) xuống còn 80.000 m² (năm 2003) và kết quả này dẫn đến
sản lượng của ốc cũng giảm theo (năm 2003 là 70 tấn so với 200 tấn năm 2002) [8].
Theo kết quả nghiên cứu của Hoàng Thị Châu Long và CTV (2004), ốc nhảy S.
canarium khi mới nở có chiều dài khoảng 275µm, khi biến thái thành ấu trùng bò lê
chiều cao tăng lên thành 685µm đạt tốc đợ tăng trưởng tuyệt đối là 27, 3µm/ngày,
tăng trưởng nhanh hơn so với ốc hương Babilonia areolata cùng giai đoạn là

26,5µm/ngày. Ấu trùng bị lê tiếp tục ương nuôi sau 40 ngày đạt kích thước 6,0mm
chiều dài, ốc nuôi thương phẩm sau 105 ở mật độ 120 con/m2 ngày có thể đạt
57,6mm chiều dài và trọng lượng 25g.
Thái Ngọc Chiến và CTV (2005), nghiên cứu thử nghiệm nuôi ốc hương kết
hợp với hải sâm, rong sụn và vẹm xanh. Thử nghiệm được thực hiện với hình thức


7
nuôi đăng (100m²/đăng), mật độ 500con/m², tỷ lệ ghép giữa ốc hương, hải sâm, vẹm
xanh và rong sụn là 8: 2: 90: 15 (theo khối lượng). Kết quả cho thấy các yếu tố môi
trường nước ở đăng nuôi ghép có xu hướng ổn định ở mức thấp hơn so với đăng
nuôi đơn. Tốc độ sinh trưởng về khối lượng của ốc hương ở cả hai mô hình đều
nhanh, trung bình đạt 1,96 – 2,1%/ngày [2].
Nguyễn Thị Xuân Thu và CTV (2005) đã đưa ra các chỉ têu kinh tế – kỹ thuật
cho mô hình nuôi ốc hương thâm canh: đối với nuôi ốc hương trong đăng lồng biển,
năng suất đạt 3,8 – 5,2kg/m², tỷ lệ sống 74 – 90%, mật độ nuôi 450 – 600con/m²,
thời gian nuôi 4 -5 tháng, kích cỡ ốc thả giống là 7000 – 8000con/kg, kích cỡ ốc thu
hoạch là 120 – 160con/kg. Nuôi ốc hương trong ao, năng suất đạt 4,5 –
8,8tấn/ha/vụ, tỷ lệ sống 73 – 88%, mật độ nuôi 60 – 150con/m², thời gian nuôi 4 – 5
tháng, kích cỡ ốc giống thả là 7000 – 8000con/kg, kích cỡ ốc thu hoạch là 120 –
150con/kg. Nuôi trong bể xi măng, năng suất 3,1 – 11,3kg/m², mật độ 500 –
2000con/m², tỷ lệ sống 88 – 93,5%, thời gian nuôi 7 tháng, kích cỡ ốc thả 10.000 –
12.000con/kg, kích cỡ ốc thu hoạch là 140 – 180con/kg[9].
Theo Dương Văn Hiệp (2008) khi nghiên cứu một số đặc điểm sinh học và khả
năng sản xuất giống ốc nhảy S. canarium tại Quảng Ninh thì kết quả như sau: Qúa
trình phát triển của ấu trùng Veliger ốc nhảy kéo dài trong khoảng 20 ngày ương, độ
mặn và mật độ thích hợp nhất cho sự phát triển của ấu trùng lần lượt là 30ppt và
400 con/lít. Trong khi đó độ mặn và mật độ thích hợp nhất cho sự phát triển của ấu
trùng spat và ốc giống lần lượt là 30ppt và 4con/cm2 và 30ppt và 400con/m2.
1.3. Tình hình nghiên cứu ớc đĩa trên Thế giới và Việt Nam

1.3.1. Tình hình nghiên cứu ớc đĩa trên Thế giới
Những nghiên cứu về ốc đĩa Nerita trên thế giới bắt đầu từ khá sớm nhưng
không nhiều và thường tập trung vào các đặc điểm phân loại và phân bố để phục vụ
cho việc khai thác và sử dụng ốc đĩa trong tự nhiên.
 Vị trí phân loại:
Theo Frey và Vermeij (2008) ốc đĩa có vị trí phân loại như sau:
Ngành:

Mollusca

Lớp:

Gastropoda

Lớp phụ: Prosobranchia


8
Bợ:

Archaegastropoda
Họ:

Neritidae
Giống:
Lồi:

Nerita
Nerita balteata (Reeve, 1855)


 Phân bớ:
Ớc đĩa phân bố chủ yếu ở vùng biển nhiệt đới và cận nhiệt đới [13][16]. Theo
Frey và Vermeij (2008), giống Nerita bao gồm khoảng 70 loài ốc có phân bố chủ
yếu tại vùng triều dọc theo các bờ biển vùng nhiệt đới. Trên thế giới chúng phân bố
chủ yếu ở các nước vùng cận nhiệt đới như: Trung Quốc, Australia, Malaixia,
Singapore, Mỹ [16]. Hurtado và CTV (2007) đã nghiên cứu về qui luật phân bố của
hai lồi N.scabricosta và N. funiculata tḥc giống Nerita có phân bố tại Thái Bình
Dương. Theo đó, đây là hai loài ốc có vùng phân bố chính tại các bãi đá vùng triều
tại vùng nhiệt đới phía đông Thái Bình Dương, trong đó loài N. scabricosta xuất
hiện tới vùng phía nam của Êcuado cịn lồi N. funiculata có phân bố mở rộng tới
Pêru. Giới hạn phân bố về phía bắc của hai loài này là từ vịnh California tới phía
ngồi của bán đảo Baja tḥc Thái Bình Dương. Mặc dù có cùng khu vực phân bố
và đều là loài ăn thực vật với thức ăn chính là các loại tảo đáy, nhưng chúng có
nhiều điểm khác nhau về hình thái học, trữ lượng và môi trường sống[15].
Theo Tan và Clements (2008) sau 10 năm nghiên cứu về các loài động vật chân
bụng phân bố tại Singapore, đã công bố tại quốc gia này có 19 lồi ốc tḥc họ ốc
đĩa Neritidae, trong đó có 11 loài phân bố đặc trưng trên các loại cây tại vùng rừng
ngập mặn và các bãi đá, bờ kênh vùng nước lợ. Tất cả các loài trong họ ốc đĩa đều
là những loài thụ tinh trong, trứng trước khi đẻ được đi qua một hệ thống phức tạp
có tác dụng đóng gói tạo thành các bọc nhờ đó trứng được đẻ ra nằm trong bọc
trứng bám trên vật bám. Tuy nhiên, đặc điểm sinh sản của các loài ốc khác nhau là
khác nhau phụ thuộc vào đặc điểm của cơ quan sinh dục như: cơ quan dự trữ tinh
trùng của con cái và cấu tạo cơ quan sinh sản của con đực (Tan và Chou, 2000). Đa
số các loài ốc trong giống Nerita sau khi nở từ bọc trứng đều biến thái thành ấu
trùng veliger và trải qua giai đoạn sống trôi nổi trong khoảng thời gian từ vài tuần
đến một tháng (Frey và Vermeij, 2008)[15].


9
Ốc đĩa N. balteata được xác định có phân bố nhiều xung quanh các gốc cây

trong vùng rừng ngập mặn tại các vùng triều cửa sông, đầm, phá, đặc biệt chúng
phân bố với mật độ cao tại các bờ kè, ghềnh đá trong các kênh mương, bờ đê của
các vùng biển nhiệt đới.

Tan và Clements (2008) đã nghiên cứu đặc điểm phân bố, hình thái học và giải
phẫu đối với loài ốc đĩa N. balteata, theo đó ốc đĩa N. balteata thường sống ở độ
sâu từ 5-20m nước với chất đáy là bùn cát hay tại các bãi triều đá, đê chắn sóng,
rừng ngập mặn cây thân cây và rễ cây như sú, vẹt [17].
 Đặc diểm hình thái cấu tạo:
Về hình thái cấu tạo ngoài, theo Fred (1993) thì tất cả các loài trong họ ốc đĩa
Neritidae đều có kích thước nhỏ hoặc trung bình, vỏ dày chắc chắn, các đường xoắn
ốc trên vỏ thưa và ngắn hơn so các đường xoắn ốc trên miệng vỏ. Chúng có nắp vỏ
cấu tạo bằng đá vôi, là bộ phận bảo vệ cho khối thân mềm bên trong [16].
Ốc đĩa cũng giống như các loài trong lớp chân bụng (Gastropoda) cơ thể chia
làm 3 phần: đầu, chân, nội tạng.
Phần đầu: Đầu phát triển, có một đôi xúc tu, có mắt ở gốc, giữa hai xúc tu là miệng.
Phần chân: Chân nằm dưới đầu, khá phát triển và đối xứng hai bên, bàn chân rộng.
Phần nội tạng: Bao gồm các cơ quan chức năng sau: Cơ quan hô hấp, cơ quan
bài tiết, cơ quan cảm giác, hệ thần kinh, hệ tuần hoàn, hệ tiêu hóa, cơ quan sinh dục.
 Đặc điểm dinh dưỡng
Dinh dưỡng của ốc đĩa thay đổi theo từng giai đoạn phát triển của cơ thể. Giai
đoạn phát triển trong bọc trứng, ấu trùng dinh dưỡng chủ yếu bằng noãn hoàng,
hoạt đợng của cơ quan tiêu hố chỉ bắt đầu khi ấu trùng veliger nở ra. Ở giai đoạn
này ấu trùng có khả năng ăn lọc các loài tảo đơn bào kích thước nhỏ như
Nannochloropsis oculata, Chaetoceros mulleri, Chlorella sp, hoạt động liên tục của
hai cánh tiêm mao không chỉ giúp ấu trùng bơi mà còn tạo dòng nước đưa thức ăn
vào miệng. Sau một tuần nở ra, ấu trùng có thể ăn các loài tảo có kích thước lớn hơn
như Platymonas sp. Giai đoạn biến thái là thời gian ấu trùng hồn thiện cơ quan tiêu
hố để thích nghi với đời sống đáy và phương thức ăn lọc.
1.3.2. Tình hình nghiên cứu ốc đĩa ở Việt Nam



10
Ở nước ta, ốc đĩa phân bố chủ yếu ở các vùng rừng cây ngập mặn tại Quảng Ninh
và một số tỉnh phía Nam. Tại Quảng Ninh, ốc đĩa có giá trị kinh tế rất cao, giá bán tại
các nhà hàng hiện nay khoảng 400-500 ngàn đồng/kg. Trong những năm gần đây nhu
cầu tiêu thụ nợi địa của lồi thuỷ sản này rất lớn. Chính vì vậy, ngư dân đã chạy theo
lợi nhuận khai thác ốc đĩa quá mức dẫn đến nguồn lợi đang bị suy giảm một cách
nghiêm trọng, hiện nay ốc đĩa chỉ có ở những hòn đảo xa bờ thuộc Vân Đồn, Cẩm Phả,
Cô Tô hay các bãi rừng ngập mặn như Đồng Rui, Tiên Yên, bãi Sú Hà Phong, Hạ
Long, Hải Hà... Trước tình hình đó, một số ngư dân ở Quảng Ninh đã tiến hành thả
ni ốc đĩa thương phẩm xung quanh các hịn đảo xa bờ nhưng cịn mang nặng tính tự
phát và khơng ổn định bởi phụ tḥc hồn tồn vào nguồn giống tự nhiên.
Do ốc đĩa là đối tượng mới nên hiện nay ở nước ta vẫn chưa có công trình khoa
học nào nghiên cứu về đối tượng này.


11
CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng, thời gian và địa điểm nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu
Tên khoa học: Nerita balteata Reeve, 1855
Tên tiếng việt: Ốc đĩa, ốc đẽ
2.1.2. Thời gian nghiên cứu
Từ ngày 20/02/2012 đến 02/06/2012
2.1.3. Địa điểm nghiên cứu
Tỉnh Quảng Ninh
2.2. Nợi dung nghiên cứu:
Tìm hiểu một số đặc điểm sinh học của ốc Đĩa Nerita balteata Reeve, 1855
tại Quảng Ninh


Đặc điểm
hình thái
cấu tạo
ngoài

Đặc điểm
phân bố

Vị trí,
số
lượng, bãi
phân bố

Điều kiện
mơi
trường,
nền đáy

Hình
thái cấu
tạo ngồi

Các chỉ
tiêu kích
thước,
khối luợng

Kết luận và đề xuất ý kiến
Hình 2.1: Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu

2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp thu thập số liệu

Đặc điểm
hình thái
cấu tạo
trong

Hình dạng,
vị trí cơ
quan nội
tạng


12
Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp: số liệu được thu thập thông qua tìm hiểu
và tiếp thu ý kiến của giáo viên hướng dẫn, cán bộ kỹ thuật và quá trình thực
nghiệm tại cơ sở thực tập….
Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp: số liệu thứ cấp được thu thập từ các tài
liệu, giáo trình, các báo cáo đã công bố của các cơ quan, ban ngành liên quan…
2.3.2. Phương pháp điều tra
Địa điểm điều tra: tại các địa phương của tỉnh Quảng Ninh có ốc đĩa phân bố
(Hạ Long, Cẩm Phả, Vân Đồn, Hải Hà, Móng Cái):
- Phỏng vấn người khai thác: phỏng vấn 10 người/địa phương.
- Phỏng vấn người thu mua hải sản 3 người/địa phương.
- Điều tra thực địa trong 1 đợt (mỗi điểm điều tra 3 ngày) để xác định các chỉ
tiêu về đặc điểm phân bố của ốc đĩa:
+ Vị trí, số lượng các bãi có ốc đĩa phân bố.
+ Điều kiện môi trường bãi phân bố: độ mặn, nhiệt độ, pH...
+ Đặc điểm nền đáy của bãi phân bố: loại chất đáy, mợt số lồi sinh vật đáy (đợng

vật thân mềm, rong biển, cỏ biển, cây ngập mặn) đặc trưng có phân bố cùng ốc đĩa.
+ Xác định mật độ (con/m2) và định lượng (g/m2) của ốc đĩa tại các bãi phân bố.
- Xây dựng phiếu điều tra theo yêu cầu, mục đích của nội dung nghiên cứu :
+ Vị trí, số lượng bãi phân bố.
+ Điều kiện môi trường nơi ốc phân bố.
+ Sản lượng, kích cỡ ốc khai thác.
+ Mùa vụ khai thác.
+ Phương pháp khai thác.
2.4. Các phương pháp phân tích mẫu và cơng thức tính toán
2.4.1. Phương pháp thu thập mẫu vật
Mẫu ốc đĩa để phân tích các đặc điểm sinh sản được thu ngẫu nhiên từ Quảng
Ninh, tiến hành thu thập mẫu vật 1 lần/tháng, thu 40 cá thể/lần. Tổng số mẫu là 200
mẫu qua 5 tháng được thu từ tháng 1/2012 đến tháng 5/2012.
2.4.2. Phương pháp phân tích mẫu vật
- Quan sát hình thái cấu tạo ngoài: quan sát hình thái cấu tạo ngoài, chụp hình
và ghi chép lại các đặc điểm.


13
- Giải phẫu và quan sát hình thái cấu tạo trong: Đập vỡ vỏ, gỡ riêng phần nội
tạng ghim lại trên bàn sáp và đánh dấu riêng từng con sau đó chụp hình quan sát và
ghi chép lại.
- Khảo sát các điều kiện sinh thái, môi trường phân bố của ốc đĩa tại Quảng Ninh:
+ Xác định một số yếu tố môi trường:
 pH: Đo bằng test pH với độ chính xác 0,3.
 Độ mặn : Đo bằng tỷ trọng kế với độ chính xác 1 ppm.
 Nhiệt độ : Đo bằng nhiệt kế thủy ngân với độ chính xác 0,1°C.
- Xác định các chỉ tiêu kích thước và khối lượng
 Xác định các chỉ tiêu kích thước bằng thước kẹp Veniver calliper với độ
chính xác 0,1mm.

 Chiều cao (H) (mm): Đo từ đỉnh đến tận cùng mương trước.
 Chiều rộng (R) (mm): Đo chỗ rộng nhất của tầng thân và vuông góc với
chiều cao vỏ.
 Chiều dài (L) (mm): Đo từ đỉnh vỏ đến mép ngoài miệng vỏ.
- Xác định các chỉ tiêu khối lượng bằng cân điện tử (Sartorious BP 110S) độ
chính xác 0,001g.
 Chiều dài (L) (mm): Đo từ đỉnh vỏ đến mép ngoài miệng vỏ.
 Khối lượng toàn thân (Wtt) (g): Cân nguyên mẫu khi ráo nước.
 Khối lượng thân mềm (Wtm) (g): Tách vỏ, lấy phần thân mềm thấm khô
nước và đem cân.
 Khối lượng vỏ (Wv) (g): Cân riêng phần vỏ.
2.5. Phương pháp tính toán
Phương pháp xác định độ béo theo công thức của Barber (1998):
Độ béo (%) = Wtt/Wtm x 100
Trong đó: Wtt: khối lượng toàn thân (g).
Wtm: khối lượng thân mềm (g).
2.6. Phương pháp xử lý số liệu
Các số liệu được ghi chép và xử lý bằng phần mềm Microsoft Excel 2007. Các
giá trị được trình bày dưới dạng giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn (TB±SD).


14
- Công thức giá trị trung bình :
+ Giá trị trung bình :
Trong đó : : Giá trị trung bình của mẫu
Xi: giá trị của mẫu lần thứ i
n: số lượng mẫu

+ Độ lệch chuẩn:
Trong đó:


S=

: Giá trị trung bình của mẫu
Xi: giá trị của mẫu lần thứ i
n: số lượng mẫu

-

Công thức hệ số tương quan:
Với -1 < R < 1

Cov =
Trong đó:

: Độ lệch chuẩn của X
: Độ lệch chuẩn của Y

=

=
+ Đánh giá mức độ tương quan giữa X và Y:
R² < 0,16: không tương quan
0,16 < R² < 0,49: tương quan yếu
0,49 < R² < 0,64: tương quan khá
0,64 < R² < 0,81: tương quan chặt chẽ
0,81 < R² < 1: tương quan rất chặt chẽ


15

CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Đặc điêm phân bố của ốc đĩa tại Quảng Ninh
3.1.1. Điều kiện tự nhiên tỉnh Quảng Ninh (thêm trích dẫn TLTK)

Hình 3.1: Bản đồ tỉnh Quảng Ninh
* Vị trí địa lí :
Quảng Ninh có toạ độ địa lí khoảng từ 106°26' - 108°31' kinh độ Đông và từ
20°40' - 21°40' vĩ độ Bắc.
Phía tây giáp tỉnh Lạng Sơn và tỉnh Bắc Giang, phía đông giáp vịnh Bắc Bộ,
phía tây nam giáp tỉnh Hải Dương và Thành phố Hải Phòng, phía bắc giáp
huyện Phịng Thành và thị trấn Đơng Hưng (tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc) với cửa
khẩu Móng Cái và Trinh Tường. Đường biên giới với Trung Quốc dài 132,8 km
Biển Quảng Ninh có hơn 2.000 hòn đảo, chiếm 2/3 số đảo cả nước (2078/2779),
trong đó có 1.030 đảo có tên. Tổng diện tích các đảo là 619,913 km².
* Địa hình, thở nhưỡng:
Quảng Ninh có 80% diện tích là địa hình đồi núi, tập trung ở phía Bắc. Một phần
năm diện tích ở phía Đông Nam tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng. Quảng Ninh còn
có rất nhiều đảo lớn nhỏ ven biển, là nơi tập trung nhiều loài hải sản có giá trị kinh tế.
Địa hình đáy biển Quảng Ninh, không bằng phẳng, độ sâu trung bình là 20 m.
Có những lạch sâu là di tích các dòng chảy cổ và có những dải đá ngầm làm nơi
sinh trưởng các rạn san hơ rất đa dạng. Các dịng chảy hiện nay nối với các lạch sâu


16
đáy biển còn tạo nên hàng loạt luồng lạch và hải cảng trên dải bờ biển khúc khủy
kín gió nhờ những hành lang đảo che chắn, tạo nên một tiềm năng cảng biển và giao
thông đường thuỷ rất lớn.
Vùng biển Quảng Ninh giáp vịnh Bắc Bộ, một vịnh lớn nhưng kín lại có nhiều
lớp đảo che chắn nên sóng gió không lớn như vùng biển Trung Bộ. Nét riêng biệt ở
đây là hiện tượng sinh "con nước" và thuỷ triều lên cao nhất vào các buổi chiều các

tháng mùa hạ, buổi sáng các tháng mùa đông những ngày có con nước cường.
Trong vịnh Bắc Bợ có dịng hải lưu chảy theo phương bắc nam kéo theo nước lạnh
lại có gió mùa đông bắc nên đây là vùng biển lạnh nhất nước ta.
* Điều kiện khí hậu:
- Nhiệt đợ khơng khí: theo số liệu quan trắc của Trạm Khí tượng thuỷ văn, nhiệt độ
trong năm của vùng biển Quảng Ninh dao động từ 16 đến 28,2oC, nhiệt độ trung bình
là 23oC. Mùa đông là thời điểm nhiệt độ xuống thấp nhất (kéo dài từ tháng 12 đến
tháng 3 năm sau), nhiệt độ trung bình từ 16 đến 17,5oC. Thời điểm nhiệt độ cao nhất là
các tháng mùa hè (từ tháng 6 đến tháng 8) nhiệt độ trung bình từ 27,9 đến 28,2oC.
- Nhiệt độ nước biển: nhiệt độ nước biển ở tầng mặt trung bình năm biến động
trong khoảng 22 – 24oC. Đạt giá trị cao vào các tháng mùa hè (từ tháng 5 đến tháng
10) với giá trị trung bình khoảng 28 oC. Vào các tháng mùa đông (tháng 12 đến
tháng 3 năm sau), nhiệt độ thấp hơn với giá trị trung bình khoảng 17,8oC.
- Độ pH: độ pH của Quảng Ninh dao động trong khoảng 7,4 đến 8,5. pH trung
bình của nước tầng mặt là 7,8 - 8,1, trong đó đạt giá trị cao nhất là 8,58 thấp nhất là
7,4. Giá trị pH của nước tầng mặt thường cao hơn nước tầng đáy.
- Độ mặn: độ mặn ở Quảng Ninh biến động rõ rệt theo 2 mùa chính trong năm.
Vào mùa khô (từ tháng 11 đến tháng 5 năm sau): độ mặn thường đạt giá trị cao và
tương đối ổn định, trong khoảng 30-31,4 ‰. Trong khi đó khoảng thời gian từ tháng
6 đến tháng 10 là thời điểm mùa mưa, độ mặn của nước biển có giá trị thấp, dao động
trong khoảng từ 21 đến 30 ‰, trung bình khoảng 24,5 ‰ và có sự phân tầng rõ rệt.
- Biên độ thuỷ triều: Chế độ thủy triều của vùng biển Quảng Ninh chịu ảnh
hưởng trực tiếp của chế độ nhật triều vịnh Bắc Bộ, biên độ dao động thủy triều lớn
nhất đạt 4,8m, trung bình là 3.6m. Triều cạn xảy ra vào thời điểm sáng sớm trong
mùa hè và buổi tối trong mùa đông.


17
- Các đặc điểm về điều kiện tự nhiên của vùng biển Quảng Ninh là cơ sở khoa
học để xây dựng các công thức nhiệt độ, độ mặn trong các thí nghiệm và xác định

được thời gian thích hợp để tiến hành điều tra khảo sát các bãi phân bố của ốc đĩa
tại Quảng Ninh.
3.1.2. Đặc điểm phân bố của ốc đĩa
Kết quả điều tra cho thấy ốc đĩa phân bố rải rác trong vùng triều, trên các thân
cây của vùng rừng ngập mặn, hay tại các bãi đá, ghềnh ven bờ. Ốc đĩa phân bố ở tất
cả các vùng ven biển thuộc tỉnh Quảng Ninh, nhưng tập trung chủ yếu tại vùng ven
biển phường Hồng Hà, phường Hà Tu thành phố Hạ Long, huyện Hải Hà, thành phố
Móng Cái, Thành phố Cẩm Phả. Tại Quảng Ninh ốc đĩa được thu mua từ 2 nguồn
chính đó là từ người dân địa phương và thị trường miền Nam chuyển ra. Tuy nhiên
hai loại ốc này có đặc điểm hình thái cấu tạo ngồi khơng hồn tồn giống nhau và
chỉ lồi ốc đĩa có phân bố tự nhiên ở vùng biển Quảng Ninh mới được thị trường ưa
chuộng với giá cao.
Theo khảo sát cho thấy một số bãi có ốc đĩa phân bố loại chất đáy chủ yếu là đá
(xung quanh các đảo xa bờ) hay bùn cát (trong vùng rừng ngập mặn). Nơi có nền đáy là
cát sỏi hay cát pha lẫn vỏ động vật thân mềm không thấy có sự xuất hiện của ốc đĩa.
Kết quả điều tra thực địa cho thấy thành phần sinh vật đáy nơi ốc đĩa phân bố như sau:
-

Các lồi đợng vật thân mềm như: hầu, ốc đá, ốc vặn…

-

Các loài cỏ biển như: rong tóc, cỏ lá bạc..

-

Các loài cây rừng ngập mặn: sú, vẹt, mắm..

-


Các lồi đợng vật khác như giun đất, sái sùng.

Hình 3.2: Các lồi đợng vật đáy phân bố cùng ốc đĩa trong rừng ngập mặn


18
3.1.3 Điều kiện môi trường tại bãi phân bố của ốc đĩa
Các thông số điều kiện môi trường tại các bãi phân bố của ốc đĩa được thể hiên
qua bảng sau:
Bảng 3.1: Các yếu tố môi trường tại bãi phân bố ốc đĩa
Địa điểm
T.p Hạ Long
Huyện Hải Hà
T.p Cẩm Phả
T.p Móng cái
Trung bình

Nhiệt đợ (°C)

Đợ mặn S‰

pH

25 – 36

25 – 27

8,0 – 9,0

30,5 ± 7,78


26 ± 1,41

8,5 ± 0,71

22 – 35

25 - 29

7,5 – 8,5

28,5 ± 9,19

27 ± 2,83

8 ± 0,71

25 – 38

27 - 32

7,5 – 8,5

31,5 ± 9,19
25 – 40

29,5 ± 3,54
25 - 32

8 ± 0,71

7,5 – 8,5

32,5 ± 10,61

28,5 ± 4,95

8 ± 0,71

30,75 ± 1,71

27,75 ± 1,55

8,13 ± 0,25

Qua bảng 3.1 ta thấy ốc đĩa có thể thích nghi trong điều kiện nhiệt độ dao động
khá cao, vì Quảng Ninh mang khí hậu điển hình của miền Bắc, năm có 4 mùa rõ rệt
vào mùa đông nhiệt độ có thể xuống dưới 10°C hay có thể lên trên 40°C vào mùa
hè, khoảng dao động nhiệt độ giữa ngày và đêm là khá lớn. Tuy nhiên, khi nhiệt độ
biến động một cách đột ngột hoặc quá lớn ốc đĩa sẽ “ngủ đông”, chúng sẽ thu mình
vào trong vỏ và đóng kín nắp vỏ để tránh những ảnh hưởng bất lợi của điều kiện
môi trường và đương nhiên trong khoảng thời gian này chúng không di chuyển để
bắt mồi và do đó quá trình sinh trưởng sẽ chậm lại. Trong khi đó, độ mặn và pH khá
ổn định vì ở đây ít chịu ảnh hưởng của nguồn nước ngọt nội địa vì vậy nên các sinh
vật ở đây cũng thường là những lồi ít chịu sự biến đợng của mơi trường.
So sánh với ốc nhảy S. canarium, các yếu tố sinh thái thích hợp cho ốc nhảy
sinh trưởng và phát triển như nhiệt độ: 26 - 30ºC, độ mặn 26 - 32‰, pH: 7,5 – 8
(Dương Văn Hiệp, 2009) hoặc đối với ốc hương B. areolata theo nghiên cứu của
Nguyễn Thị Xuân Thu (2002) thì ngưỡng nhiệt độ thích hợp cho sinh trưởng và
phát triển là 27 - 28ºC, độ mặn là 34 - 35‰, pH là 7,5 – 8. Như vậy ta có thể thấy
hầu như tất cả các lồi tḥc lớp chân bụng đều có ngưỡng thích ướng với các yếu



19
tố môi trường là tương tự như nhau, tuy nhiên chúng vẫn có sự khác do sự khác
nhau về vùng phân bố.
3.1.4. Mùa vụ, sản lượng và kích cỡ khai thác, thu mua ốc đĩa
Kết quả điều tra cho thấy tại Quảng Ninh có thể khai thác ốc đĩa quanh năm
nhưng mùa vụ khai thác chính là từ tháng 4 đến tháng 10 hàng năm vì thời tiết các
tháng còn lại là các tháng mùa lạnh nên việc khai thác trở nên khó khăn, vào thời
gian này ốc sống vùi sâu trong các hang hốc để trú đông nên việc khai thác ốc rất
khó khăn. Vào các tháng còn lại trong năm khi thời tiết mát mẻ ngư dân đi khai thác
rất nhiều và sản lượng ốc bắt được cũng nhiều hơn.
Vào các tháng mùa hè ngư dân khai thác ốc đĩa dựa theo con nước. Một tháng có
khoảng từ 5-6 con nước và mỗi con nước kéo dài trong vịng từ 3-4 ngày, mỡi con
nước người dân thu được từ 3-4kg/người. Trung bình 1 tháng người dân thu được từ
15-20kg/người.
Sau khi đánh bắt ốc đĩa được bán tại các nhà hàng, chợ với giá từ 300 - 500 ngàn
đồng/kg tùy vào loại ốc.

Hình 3.3: Bến tập trung tàu thuyền của ngư dân khai thác ốc đĩa
So với các nghề khai thác khác hải sản khác, khai thác ốc đĩa là một nghề phụ mới
xuất hiện gần đây của người dân ven biển Quảng Ninh. Phương tiện khai thác thô
sơ, kỹ thật khai thác đơn giản. Chính vì đầu tư cho khai thác ốc đĩa là không cao
nhưng giá trị ốc đĩa lại cao hơn rất nhiều so với các loại ốc khác nên vào mùa vụ
khai thác nhiều ngư dân hoạt động trong các nghề khác như lặn, câu, lưới kéo…


20
cũng chuyển sang khai thác ốc đĩa rất đông. Sự tăng nhanh số lượng người và
phương tiện khai thác trong những năm trước chính là nguyên nhân làm cho sản

lượng ốc đĩa giảm sút. Chính vì vậy trong những năm gần đây tuy giá thành của ốc
đĩa trên thị trường rất cao nhưng số lượng người dân tham gia khai thác ốc đĩa đã
giảm đi nhiều vì sản lượng ốc đĩa ngồi tự nhiên cịn rất ít, khai thác rất khó khăn.
Sản lượng và kích cỡ ốc khai thác được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 3.2: Sản lượng và kích cỡ ốc đĩa khai thác
Địa điểm

Sản Lượng
(kg/năm)

Mùa vụ
(Tháng)

Kích cỡ
(Loại)

Giá thành
(Ngàn đồng/kg)

Hạ Long

1575 - 2100
1838 ± 2,14

T4- T10

Loại 2, 3

350-500


Cẩm Phả

1120 – 1470
1295 ± 1,75

T4- T10

Loại 1, 2, 3

350-500

Hải Hà

2100 – 2800
2450 ± 4,17

T4- T10

Loại 3

300-500

Qua điều tra cho thấy số hộ dân tham gia khai thác ốc đĩa giảm đi đáng kể,
lượng ốc đĩa khai thác được rất ít và kích cỡ khai thác ốc đĩa ở mức trung bình,
lượng ốc giống gần như không có. Vì vậy nếu không có biện pháp bảo vệ một cách
hợp lý thì nguồn ốc đĩa trong vùng sẽ bị cạn kiệt và khó hồi phục.

Hình 3.4: Điều tra tình hình khai thác ốc đĩa



21

Hình 3.5: Tỷ lệ % ốc đĩa khai thác tại các vùng khảo sát
Qua hình 3.5 ta thấy, Hải Hà là huyện có sản lượng ốc đĩa khai thác được nhiều
nhất (51,28%) so với 3 điểm điều tra do đây là địa phương có diện tích rừng ngập
mặn khá lớn và người dân chủ yếu sống bằng nghệ khai thác và nuôi trồng thủy sản
vì vậy vào mùa khai thác ốc đĩa thì số lượng người đi khai thác ốc cũng nhiều hơn
các địa phương khác.
3.2. Đặc điểm hình thái cấu tạo ngoài của ớc đĩa N. balteata
Ớc đĩa có dạng hình trứng, được bao bọc bởi một lớp vỏ mỏng nhưng chắc
chắn, cơ thể gắn bên trong vỏ bởi cơ trục. Một vỏ cuộn cơ thể gồm chân đầu và nội
tạng. Phần đầu của ốc đĩa rất phát triển, trước đầu có một đôi xúc tu, trong quá trình
phát sinh quay quanh uốn vặn làm nang, nội tạng không đối xứng hai bên. Chân đối
xứng hai bên, mặt chân rộng, vị trí chân nằm ở mặt bụng, xoang miệng rất phát
triển, trong xoang miệng có lưỡi sừng.

Hình 3.6: Ốc đĩa N. balteata


22
3.2.1. Vỏ và nắp vỏ
Ốc đĩa N. balteata có hình trứng vỏ dày khá chắc chắn, dạng xoắn ốc, đỉnh vỏ
thoái hóa có dạng hình tù. Da vỏ có những phiến vân màu nâu đậm, vàng nhạt,
chiều rộng bằng 2/3 chiều dài. Mặt trong có màu vàng nhạt, ở đỉnh vỏ có màu trắng
đục hay vàng nhạt, đối với ốc nuôi đỉnh vỏ có màu xanh rêu. Có hai tầng xoắn ốc,
một đường suture màu đen dày hơn vân, mép trong miệng vỏ có màu vàng nhạt, có
từ 4-5 răng cưa, mép ngoài miệng vỏ có từ 19-20 răng cưa. Vỏ cuộn theo chiều kim
đồng hồ, có cấu tạo vừa bằng chất sừng vừa bằng đá vôi, nắp vỏ cứng, dạng sừng,
khi gặp nguy hiểm chúng thu mình lại bên trong lớp vỏ để bảo vệ cơ thể.
- Đỉnh vỏ: là điểm xuất phát đầu tiên của vỏ, có màu trắng tới vàng, màu xanh

rêu, đỉnh vỏ dạng tù, bẹt.
- Tầng thân: là tầng dưới cùng cũng là tầng to nhất chứa chân và đầu, có màu
nâu đậm.
- Tháp vỏ: Ốc đĩa có hai tầng tháp hay còn gọi là tầng xoắn ốc, tầng dưới cùng là
tầng thân có dung tích lớn nhất, các tầng trên càng tiến gần về đỉnh vỏ thì càng nhỏ.
- Đường suture: Ranh giới giữa hai tầng xoắn ốc, đường suture nông có màu đen
và dày hơn vân.
- Đường xoắn ốc: Trên mỗi tầng xoắn ốc là các đường (gờ) chạy song song với
đường suture, càng lớn lên về mặt kích thước càng dễ quan sát, lúc đầu có màu vàng
nâu nhạt, khi trưởng thành có màu đậm hơn, ốc đĩa có từ 25 – 27 đường xoắn ốc.
- Trục vỏ: Trong quá trình quay quanh uốn vặn vỏ xoay quanh một trục kéo dài
từ đỉnh vỏ đến miệng vỏ.
Nắp vỏ của ốc đĩa có cấu tạo từ lớp sừng, do đoạn cuối của chân phân tiết ra, có
nhiệm vụ bảo vệ phần thân mềm bên trong. Nắp vỏ hình chữ D, có những chấm nhỏ
trên mặt, có màu nâu tới xanh nhạt.
Mép trong miệng vỏ: Là mép kề với trục vỏ, có màu vàng nhạt và có từ 4-5 răng cưa.
Mép ngoài miệng vỏ: Đối diện với mép trong miệng vỏ, có từ 19-20 răng cưa,
màu vàng nhạt.


23

6

1

3
4

2


5

7

Hình 3.7: Hình thái cấu tạo ngoài ốc đĩa
1. Đỉnh vỏ, 2. Vân phóng xạ, 3. Đường xoắn ốc, 4. Mép ngoài miệng vỏ
5. Nắp vỏ, 6. Mép trong miệng vỏ, 7. Trục vỏ
3.2.3. Hình thái cấu tạo của đầu
Đầu phát triển, ở phía trước chân, có hình hơi dẹp và có một đôi xúc tu có thể co
giãn được. Vị trí của mắt ở gốc của xúc tu, xúc tu có thể co ra hay thụt vào tùy vào
phản ứng của ốc. Khi di chuyển đầu chui ra khỏi vỏ, xúc tu và mắt làm nhiệm vụ cơ
quan cảm giác và thị giác, chúng ít di chuyển, mỗi khi gặp tác động mạnh chúng thu
mình vào trong lớp vỏ bảo vệ để đề phòng kẻ thù ăn thịt, vì di chuyển chậm nên lớp
vỏ là nơi bảo vệ an tồn nhất đối với chúng.
3.2.4. Hình thái cấu tạo của chân
Chân nằm ở mặt bụng của cơ thể đế chân có bề rợng lớn để thích ứng điều kiện
bị lê trên mặt đáy và bám dính vào thân cây hay tảng đá, ghềnh, thác.
Giữa chân có các nếp nhăn dọc, chia chân thành hai phần lúc di chuyển thì hai bộ
phận này thay đổi động tác cho nhau giúp di chuyển linh hoạt hơn.


24
3
1
4

2
5


Hình 3.8: Hình thái cấu tạo chân ốc đĩa
1. Xúc tu, 2.Đầu, 3.Đường suture, 4.Mắt, 5.Chân

3.2.5. Hình thái cấu tạo của màng áo
Màng áo của ốc đĩa khá phát triển bao bọc các bộ phận thân mềm ngoại trừ đầu
và chân, các lỗ bài tiết, sinh dục trực tiếp đổ ra ngồi. Xoang màng áo là mơi trường
trao đổi khí và vận chuyển thức ăn, thức ăn được lọc qua ống xiphon, qua xoang
màng áo rồi đến các cơ quan tiêu hóa. Cặn bám trên mang, chân và màng áo được
đưa ra ngồi nhờ hoạt đợng thu vào đợt ngợt của chân và đầu. Chức năng chính của
màng áo là tiết ra vỏ, tuy nhiên chúng còn có chức năng cảm giác và có thể bọc
phần thân co vào khi gặp điều kiện môi trường bất lợi hay khi gặp kẻ thù. Ngồi ra
màng áo cịn có tác dụng điều khiển lượng nước vào xoang cơ thể và hô hấp.
Màng áo

Hình 3.9: Hình thái cấu tạo màng áo của ốc đĩa


25
3.3. Hình thái cấu tạo trong của ớc đĩa
Cấu tạo trong của ốc đĩa được thể hiện ở hình sau.

2

3

4

6

5


7

1

1

2

3

4
6

7

8
8
9

10

1
0

9

Hình 3.10: Hình thái cấu tạo trong của ốc đĩa
1. Tuyến tiêu hóa, 2. Ống dẫn sinh dục, 3. Mép màng áo, 4. Mang, 5. Ṛt ngắn, 6.
Màng áo, 7. Ớng xiphon, 8. Xúc tu, 9. Chân, 10. Nắp vỏ

Cấu tạo trong của ốc đĩa bao gồm các cơ quan, bộ phận sau:
3.3.1. Cơ quan hô hấp
Mang là các cơ quan hô hấp chính của ốc đĩa nằm trong xoang màng áo phía
trước tâm nhĩ. Phần mép màng áo phía trước cuộn lại tạo thành ống xiphon hút
nước vào mang, sau đó nước được đẩy ra ngoài qua xoang màng áo
Hai bên trục của mang có nhiều là mang mỏng dạng lược, bao gồm nhiều sợi
mang nằm kề nhau kết lại tạo thành tấm mang phẳng hình tam giác. Là loài có hai
mang nhưng mang ốc đĩa phát triển không đều nhau, mang bên trái phát triển hơn
mang bên phải.

Hình 3.11: Cấu tạo mang của ốc đĩa


×