Để sử dụng đúng giá cổ phiếu trong phân tích đầu tư
Giá cổ phiếu là thông số đầu vào quan
trọng trong phân tích đầu tư, đối với cả
phân tích cơ bản và kỹ thuật. Giá cổ phiếu
rất dễ thu thập nhưng nếu sử dụng không
đúng sẽ dẫn đến những kết luận thiếu chính
xác.
Về cơ bản, một biến động giá cổ phiếu sẽ làm thay đổi giá trị khoản đầu tư của người sở hữu cổ
phiếu theo một tỷ lệ tương ứng. Nếu không, biến động đó phải được điều chỉnh. Việc điều chỉnh
giá cổ phiếu được tiến hành trong trường hợp số lượng cổ phiếu lưu hành của doanh nghiệp thay
đổi như chia cổ phiếu thưởng, trả cổ tức bằng cổ phiếu, tách, gộp cổ phiếu, phát hành thêm cổ
phiếu. Để minh họa, xét hai ví dụ thực tiễn sau:
Ví dụ 1: SJS trả cổ phiếu thưởng
Dưới đây là giá cổ phiếu SJS trong khoảng thời gian tháng 1/2007 (đơn vị : 1.000 đồng).
Ngày 10/1 11/1 12/1 15/1 16/1 17/1
Giá 694 728 728 190 199 208
Nếu không điều chỉnh, lợi suất cổ phiếu SJS trong ngày 15/1 là (190.000 - 728.000)/728.000 =
-74%. Đây là cách phản ánh biến động giá cổ phiếu của hầu hết các nguồn cung cấp thông tin
chứng khoán ở Việt Nam hiện nay. Thống kê 5 chứng khoán có giá giảm nhiều nhất ngày 15/1 thì
SJS đứng đầu với -74%, trong khi đó giá cổ phiếu niêm yết trên TTGDCK TP. HCM được quy định
chỉ có thể biến động tối đa 5% một ngày. Về thực chất, con số -74% chỉ thể hiện sự thay đổi bề
ngoài của giá cổ phiếu chứ không phản ánh được thay đổi giá trị khoản đầu tư của những người
sở hữu cổ phiếu SJS. Nguyên nhân nằm ở chỗ, ngày 15/1 là ngày không hưởng quyền nhận cổ
phiếu thưởng theo tỷ lệ 1:3. Số lượng cổ phiếu lưu hành của SJS tăng lên 4 lần, giá tham chiếu
trong ngày 15/1 được điều chỉnh bằng cách lấy giá đóng cửa của ngày 12/1 nhân với hệ số điều
chỉnh (728.000 * 0,25 = 182.000). Xét nhà đầu tư mua 1 cổ phiếu SJS vào ngày 12/1 với giá
728.000 đồng và bán lại khoản đầu tư này của mình vào một ngày nào đó sau khi đã nhận được
cổ phiếu thưởng, giả sử với giá 182.000 đồng (bằng với giá tham chiếu của ngày 15/1) thì lợi suất
của nhà đầu tư này bằng 0 vì lúc đó anh ta bán lại 4 cổ phiếu (mua 1, được thưởng 3) với giá
182.000 đồng mỗi cổ phiếu (tổng thu nhập là 728.000 đồng, đúng bằng chi phí bỏ ra). Trong khi
đó, nếu chỉ dựa trên chuỗi giá cổ phiếu thu thập được để xác định lợi suất mà không tính đến việc
thay đổi số lượng cổ phiếu lưu hành của SJS thì nó sẽ là (182.000 - 728.000)/728.000 = -75%. Do
vậy, để xác định chính xác lợi suất của nhà đầu tư từ chuỗi giá cổ phiếu, phải tiến hành điều chỉnh
bằng cách nhân tất cả giá cổ phiếu của SJS từ ngày 12/1 trở về trước với hệ số điều chỉnh giá
tham chiếu là 0,25. Như vậy, giá cổ phiếu SJS ngày 12/1 sẽ là 182.000 đồng, ngày 11/1 là 182.000
đồng, ngày 10/1 là 174.000 đồng… Lợi suất đúng của ngày 15/1 sẽ là (190.000 - 182.000)/182.000
= 4,39% (chứ không phải là -74% như cách công bố hiện nay).
Ví dụ 2: SAM phát hành thêm cổ phiếu với giá ưu đãi
Giá cổ phiếu SAM trong khoảng thời gian tháng 5/2007 được trình bày trong bảng dưới đây (đơn
vị : 1.000 đồng)
Ngày 09/5 10/5 11/5 14/5 15/5
Giá 215 210 215 190 185
Ngày 14/5 là ngày không hưởng quyền mua cổ phiếu SAM phát hành thêm theo tỷ lệ 5:1 với giá
20.000 đồng/cổ phiếu.
Trong đó:
PI: giá phát hành; Pt-1: giá đóng cửa ngày 11/5; N: tỷ lệ CP cũ/CP mới). Như vậy, giá tham chiếu
của ngày không hưởng quyền (14/5) là:
0,848 * 215.000 = 182.000 đồng. Giá cân bằng của một quyền mua là: 215.000 - 182.000 = 33.000
đồng.
Xét nhà đầu tư mua 10 cổ phiếu SAM ngày 11/5 và xác định lợi suất của nhà đầu tư này cho đến
một thời điểm nào đó sau ngày không hưởng quyền trong 3 trường hợp dưới đây, giả sử giá cổ
phiếu vào thời điểm đó bằng với giá tham chiếu của ngày 14/5 là 182.000 đồng:
- Trường hợp 1: nhà đầu tư dùng hết quyền để mua cổ phiếu mới thì số cổ phiếu mới nhà đầu tư
mua được là 2. Tổng số tiền bỏ ra đầu tư là: (10 * 215.000) + (2 * 20.000) = 2.190.000 đồng. Giá trị
khoản đầu tư vào ngày xác định lợi suất là: 12 * 182.000 = 2.184.000 đồng. Lợi suất xấp xỉ bằng 0.
- Trường hợp 2: nhà đầu tư dùng 5 quyền để mua 1 cổ phiếu mới và bán 5 quyền còn lại. Tổng số
tiền bỏ ra đầu tư là: 10 * 215.000 + 20.000 = 2.170.000 đồng. Giá trị khoản đầu tư vào ngày xác
định lợi suất là: (11 * 182.000) + (5 * 33.000) = 2.167.000 đồng. Lợi suất xấp xỉ bằng 0.
- Trường hợp 3: nhà đầu tư không mua cổ phiếu mới mà bán lại cả 10 quyền. Tổng số tiền bỏ ra
đầu tư là: 10 * 215.000 = 2.150.000 đồng. Giá trị khoản đầu tư vào ngày xác định lợi suất là: (10 *
182.000) + (10 * 33.000) = 2.150.000 đồng. Lợi suất bằng 0.
Như vậy, nếu giá cổ phiếu không biến động so với giá tham chiếu của ngày không hưởng quyền
thì lợi suất của người sở hữu cổ phiếu SAM luôn bằng 0. Trong khi đó, nếu sử dụng chuỗi giá cổ
phiếu SAM nói trên để xác định lợi suất mà không tính đến việc SAM phát hành cổ phiếu mới thì
nó sẽ là: (182.000 - 215.000)/215.000 = -15%. Do vậy, để xác định chính xác lợi suất của nhà đầu
tư từ chuỗi giá cổ phiếu, phải tiến hành điều chỉnh bằng cách nhân tất cả giá cổ phiếu của SAM từ
ngày 11/5 trở về trước với hệ số điều chỉnh giá tham chiếu là 0,848.
Các ví dụ trên thể hiện những sự kiện đơn lẻ dẫn đến việc phải điều chỉnh giá cổ phiếu. Trong
phân tích đầu tư, thường phải sử dụng những chuỗi giá cổ phiếu dài trong quá khứ. Khi đó, có thể
có nhiều sự kiện kế tiếp nhau hoặc cùng thời điểm dẫn đến phải điều chỉnh giá cổ phiếu, việc thu
thập thông tin và điều chỉnh trở nên phức tạp hơn. Ở các nước phát triển, đây là công việc của
những doanh nghiệp chuyên kinh doanh thông tin tài chính. Ví dụ, trong cơ sở dữ liệu Datastream
của Thomson Financial, giá cổ phiếu đều đã được điều chỉnh. Người sử dụng chỉ cần tải dữ liệu
và tiến hành tính toán, phân tích. Ở nước ta hiện nay, phân tích đầu tư chủ yếu dựa trên số liệu
“thô” về giá cổ phiếu (chưa được điều chỉnh). Điều này có thể dẫn tới những kết quả không chính
xác. Ví dụ, hệ số Bêta thể hiện tương quan giữa lợi suất thị trường và lợi suất của cổ phiếu. Nếu
lợi suất được xác định không chính xác do giá cổ phiếu không được điều chỉnh, có thể dẫn tới
những sai lệch khi ước tính Bêta. Một trường hợp khác rất phổ biến hiện nay là việc sử dụng giá
cổ phiếu không được điều chỉnh trong phân tích kỹ thuật. Ví dụ, khi nhấn vào biểu đồ phân tích kỹ
thuật của SJS trên hầu hết các website cung cấp dịch vụ này, có thể nhận thấy giá cổ phiếu ngày
15/1 là một đường thẳng đứng, giảm từ 728.000 đồng xuống 190.000 đồng. Biến động giá không
được điều chỉnh này làm thay đổi các chỉ số phân tích kỹ thuật như Momentum, RSI, dải
Bollinger… ảnh hưởng đến quyết định đầu tư khi dựa vào những chỉ số này. Tuy nhiên, như đã
phân tích ở trên, việc giá cổ phiếu SJS giảm từ 728.000 đồng xuống 190.000 đồng là vì số lượng
cổ phiếu lưu hành tăng lên 4 lần do chia cổ phiếu thưởng chứ nó không làm thay đổi giá trị doanh
nghiệp và giá trị khoản đầu tư của người sở hữu cổ phiếu SJS với một tỷ lệ tương ứng. Biến động
giá SJS đúng với bản chất trong trường hợp này là giá tăng từ mức 182.000 đồng (giá tham chiếu)
lên 190.000 đồng vào ngày giao dịch không hưởng quyền.
Các phân tích trên cho thấy, vai trò quan trọng của việc có được một cơ sở dữ liệu “chuẩn hóa” về
giá cổ phiếu. Trong thập niên 60 của thế kỷ trước, việc hình thành cơ sở dữ liệu về giá cổ phiếu
được “chuẩn hóa” đã làm phát sinh cả một ngành nghiên cứu thực nghiệm về thị trường chứng
khoán ở Mỹ sau đó. Ở Việt Nam hiện nay, phân tích đầu tư cũng như nghiên cứu khoa học gặp
nhiều khó khăn do thiếu một cơ sở dữ liệu như vậy. Nếu sử dụng dữ liệu “thô”, tính chính xác của
kết quả thu được có thể bị hạn chế. Nếu tự thu thập thông tin một cách thủ công để điều chỉnh giá
cổ phiếu, người phân tích hoặc nghiên cứu lại phải làm thêm một công việc phụ tốn nhiều công
sức. Cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam, nhu cầu sử dụng dữ liệu
“chuẩn hóa” về giá cổ phiếu sẽ càng tăng mạnh. Có lẽ, đây cũng là cơ hội tốt cho những ý tưởng
kinh doanh loại hàng hóa thông tin này ở Việt Nam trong tương lai không xa.
TS. Nguyễn Việt Dũng Khoa Tài chính - Ngân hàng, Đại học Ngoại thương
Admin (Theo
Đầu tư Chứng khoán Online
)