Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Tài liệu Tiến bộ công nghệ và kiến trúc công ty docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.37 KB, 8 trang )

Tiến bộ công nghệ và
kiến trúc công ty
Ngô Trung Việt
Từ thủ công sang kĩ nghệ
Nền sản xuất xã hội đã phát triển từ sản xuất thủ công sang sản xuất công nghiệp, theo kĩ nghệ.
Tiến bộ này đạt được là do đưa được tri thức vào việc tổ chức sản xuất xã hội. Đặc điểm chính
của sản xuất thủ công là không phức tạp, chất lượng không đều nhau. Sản phẩm làm ra có thể rất
tốt, chất lượng rất cao, tuỳ người làm, và cũng có thể trung bình, có thể kém. Mặt khác không thể
nhiều người làm chung với nhau, hoặc nếu có nhiều người làm chung thì mỗi người đều cùng làm
một việc giống nhau, như hàng nghìn người đào đất đắp đê chẳng hạn. Như vậy công việc sản
xuất ra sản phẩm thủ công không do nhiều người làm, làm không nhanh và đầu tư ít. Công tác
quản lí trong sản xuất thủ công là đơn giản, thường giới hạn trong phạm vi gia đình hoặc qui mô
nhỏ.
Trái lại, sản xuất kĩ nghệ luôn luôn nhằm những sản phẩm phức tạp, nhằm tạo ra sản phẩm chất
lượng cao nhưng không nhằm chất lượng rất cao, do những cá nhân trung bình làm ra. Kĩ nghệ
nhằm đạt mục đích sản xuất nhanh những sản phẩm phức tạp, nhằm sản xuất tập thể, theo qui
trình chặt chẽ. Quản lí trong sản xuất theo kĩ nghệ đòi hòi vừa có tri thức tổ chức làm việc, vừa có
tri thức tuân thủ qui trình đã định. Kĩ nghệ có khả năng đầu tư cao hơn nhiều so với thủ công để
tạo ra các qui trình làm ra những sản phẩm mới. Kĩ nghệ thực chất được thừa hưởng giai đoạn
lịch sử lâu đời là thủ công, chuyển được kĩ xảo của thủ công thành qui trình sản xuất.
Đặc điểm chung của các hoạt động kĩ nghệ là
mọi người tham dự vào một dự án kĩ nghệ đều
phải có hiểu biết chung về phần công việc của
mình và mối liên hệ với công việc của toàn thể
nhóm. Tất cả đều phải có khả năng đọc các tài
liệu kĩ nghệ và quản lí (bản kế hoạch tổng thể,
biểu đồ công việc găng, bảng phân việc, sơ đồ
Gantt). Hoạt động kĩ nghệ đòi hỏi có mục
tiêu/cột mốc được thiết lập rõ ràng để có thể
đạt tới được trong hoàn cảnh thông thường.
Mặt khác dự án kĩ nghệ chỉ có thể được thực


hiện với một tổ chức có các nhân viên có kĩ
năng. Điều này có nghĩa là cần tập trung
những con người có đủ phẩm chất về chuyên môn vào việc hoàn thành các nhiệm vụ kĩ nghệ. Do
đó phát sinh nhu cầu quản lí phối hợp hoạt động của nhiều người mang các chức năng và chuyên
môn khác nhau.
Tốc độ của thay đổi kĩ thuật đã tạo ra yêu cầu về vốn vượt ra ngoài khả năng các thợ thủ công có
thể cung cấp được. Công nghệ mới cũng yêu cầu việc sản xuất phải được thực hiện tập trung. Tri
thức không thể được áp dụng trong hàng nghìn và hàng chục nghìn xưởng thợ cá nhân riêng lẻ và
trong nghề thủ công của các làng nông thôn. Nó đòi hỏi sự tập trung sản xuất dưới một mái nhà.
Công nghệ mới cũng đòi hỏi cung cấp năng lượng ở qui mô lớn cho các máy móc làm việc.
Nhưng, dù là quan trọng, những nhu cầu năng lượng này vẫn là phụ. Điểm trung tâm của sản xuất
công nghiệp là ở chỗ việc sản xuất gần như trong chốc lát đã chuyển từ việc dựa trên kĩ xảo sang
dựa trên công nghệ. Kết quả là, bên cạnh nhà tư bản, người nắm giữ nguồn vốn và định hướng kế
hoạch phát triển, đã phải có thêm nhà thiết kế để tổ chức các quá trình công nghệ.
Đến năm 1830 xí nghiệp tư bản tư nhân qui mô lớn đã thống trị ở phương Tây. Thêm 50 năm sau,
xí nghiệp tư bản tư nhân đã lan tràn mọi nơi ngoại trừ những góc xa xôi của thế giới như Tây
Tạng. Tất nhiên đã có sự phản kháng cả công nghệ và cả chủ nghĩa tư bản. Đã có các cuộc nổi
dậy, ở Anh chẳng hạn, hay ở Silesia Đức. Nhưng đây là sự phản kháng cục bộ, kéo dài vài tuần
hay nhiều nhất vài tháng, và thậm chí đã không làm chậm lại tốc độ và sự lan rộng của chủ nghĩa
tư bản. Cuộc Cách mạng Công nghiệp, tức là, máy móc và hệ thống xưởng máy, lan nhanh tương
tự mà không gặp mấy phản kháng, nếu có.

Cách mạng Công nghiệp
Trọng tâm của cách mạng công nghiệp là chế tạo ra máy móc và xây dựng cách phối hợp các máy
móc để làm ra những sản phẩm mới có chất lượng và có năng suất cao. Điều này kéo theo đòi hỏi
phải phát triển tri thức về cách tổ chức ra các xí nghiệp, công ti công nghiệp và đòi hỏi về việc đào
tạo người lao động tham gia làm việc theo qui trình. Vì vậy nếu bề mặt thấy được của cách mạng
công nghiệp là máy móc, thì bề chìm không trực quan của nó chính là cách tổ chức làm việc công
nghiệp và cách đào tạo người lao động.
Kiến trúc tổ chức của các công ti vì vậy

phải được thay đổi và tiến hoá.
Bắt đầu sau năm 1700 - và trong vòng 50
năm ngắn ngủi-công nghệ (technology)
đã được phát minh ra. Từ technology bao
gồm việc phối hợp của téchne, tức là bí
ẩn của kĩ năng kĩ xảo, với logy, tức là tri
thức được tổ chức, có hệ thống, có chủ
định. Từ 250 năm trước đây tri thức bắt
đầu được áp dụng vào công cụ, tiến trình
và sản phẩm và đưa tới điều chúng ta vẫn
gọi là cách mạng công nghiệp. Đây là
điều "công nghệ" được ngụ ý cho hầu hết mọi người, và là điều vẫn được dạy trong các trường kĩ
nghệ.
Phải mất một trăm năm, từ giữa thế kỉ mười tám tới giữa thế kỉ mười chín cho Cách mạng Công
nghiệp trở thành thống trị và mang tính toàn thế giới. Phải mất 70 năm, từ 1880 cho tới cuối Chiến
tranh thế giới II, cho cuộc "xu hướng năng suất" trở thành thống trị và mang tính toàn thế giới. Đã
mất ít hơn 50 năm - từ 1945 tới 1990 - cho "xu hướng quản lí" trở thành thống trị và mang tính
toàn cầu.
Trong một trăm năm - ở pha đầu tiên - tri thức đã được áp dụng vào công cụ, tiến trình, sản phẩm.
Điều này tạo ra cuộc Cách mạng Công nghiệp. Nhưng nó cũng tạo ra những giai cấp mới và cuộc
đấu tranh giai cấp, và cùng với nó là Chủ nghĩa cộng sản. Trong pha thứ hai, bắt đầu từ quãng
1880 và lên tới đỉnh cao quãng chiến tranh thế giới II, tri thức theo nghĩa mới của nó đi vào được
áp dụng vào công việc. Điều này báo hiệu cuộc Cách mạng năng suất mà trong 75 năm đã làm
giai cấp vô sản chuyển thành tư bản lớp trung với lợi tức gần lớp cao.
Đóng góp đầu tiên cần được kể tới là những ý tưởng về tổ chức các công ti theo qui trình của
Adam Smith, trong cuốn sách Sự thịnh vượng của quốc gia - Wealth of Nation (1776). Đây là tài
liệu có ảnh hưởng lớn nhất, nó mô tả tiến hoá từ thời đại nông nghiệp sang thời đại công nghiệp.
Nguyên tắc mà Smith đưa ra là chia các qui trình phức tạp thành các bước đơn giản hơn. Ông ấy
chỉ ra rằng bằng việc công nghệ sẵn có thời đó thì lực lượng lao động kém văn hoá vẫn có thể
được huấn luyện để thực hiện từng bước công việc có tính lặp lại. Smith cũng chỉ ra rằng các

bước cấu phần có thể được tổ hợp theo cách khác nhau để tạo ra các qui trình mới.
Cuộc cách mạng Năng suất đã bắt đầu từ năm 1881 do Frederick Winslow Taylor (1856-1915)
nêu ra, người đầu tiên đã áp dụng tri thức để nghiên cứu công việc, phân tích công việc và kĩ nghệ
của công việc. Khẳng định của Taylor là công việc có thể được nghiên cứu, có thể được phân tích,
có thể được phân chia thành một loạt các chuyển động lặp lại đơn giản mà mỗi chuyển động trong
đó phải được thực hiện theo cách đúng riêng của nó, vào thời gian tốt nhất của nó, và với công cụ
đúng riêng của nó
Trong vòng vài năm sau khi Taylor bắt đầu áp dụng tri thức vào công việc, thì năng suất bắt đầu
nâng lên với tỉ lệ 3.5 - 4% mỗi năm - điều có nghĩa là sẽ gấp đôi cứ sau mỗi 18 năm hay tương tự
vậy. Từ khi Taylor bắt đầu, năng suất đã tăng lên năm mươi lần trong tất cả các nước tiên tiến.
Điều này kéo theo nhiều tăng trưởng quan trọng khác: tăng cả theo chuẩn cuộc sống và trong chất
lượng của cuộc sống ở các nước đã phát triển.
Cuốn Bách khoa toàn thư Encyclopédie, được Denis Diderot (1713-1784) và Jean d'Alembert
(1717-1783) soạn giữa năm 1751 và 1772, đã đề cập lần đầu tới cách tổ chức và hệ thống hoá
những tri thức về tất cả các kĩ xảo, và theo cách mà người không có học cũng có thể học được để
thành "nhà kĩ nghệ". Trong Encyclopédie có mô tả cho từng kĩ xảo nhưng không do các nhà thủ
công viết ra. Chúng đã được viết ra bởi "các chuyên gia thông tin": người ngoài các nghề nghiệp
nhưng tiến hành viết ra tài liệu như các nhà phân tích. Họ đã chuyển kinh nghiệm thành tri thức,
việc học nghề thành sách giáo khoa, bí mật thành phương pháp luận, việc làm thành tri thức ứng
dụng. Đây là tinh tuý của điều chúng ta đã đi tới gọi là "Cách mạng Công nghiệp", tức là bằng công
nghệ làm biến đổi xã hội và nền văn minh toàn thế giới.
Trường về kĩ nghệ đầu tiên, Trường Cầu Đường Pháp Ecole des Pont et Chaussées, đã được
thành lập năm 1747. Sau đó quãng 1770 ở Đức có Trường Nông nghiệp đầu tiên và vào năm
1776 Trường Mỏ đầu tiên. Năm 1794 đại học kĩ thuật đầu tiên ra đời, trường Bách khoa Pháp
Ecole Polytechnique đã được thành lập, và cùng với nó, là nghề kĩ sư phát triển.
Nói chung, lĩnh vực mà ý kiến của Taylor có tác động lớn nhất
có lẽ là trong đào tạo huấn luyện. Adam Smith, một trăm năm
mươi năm trước Taylor, đã cho là phải mất ít nhất 50 năm kinh
nghiệm (và có thể còn đến cả thế kỉ) để cho một quốc gia hay
một vùng thu được kĩ năng cần thiết để chế tạo ra sản phẩm

chất lượng cao. Trong Chiến tranh thế giới I nhưng đặc biệt là
trong Chiến tranh thế giới II, Mĩ đã áp dụng một cách có hệ
thống cách tiếp cận của Taylor vào việc huấn luyện con người
trong vài tháng.
Tất cả mọi cường quốc kinh tế ban đầu trong lịch sử hiện đại -
Anh, Mĩ, Đức - đã nổi lên qua quyền lãnh đạo trong công nghệ
mới. Những cường quốc kinh tế thời hậu chiến thế giới II - đầu
tiên là Nhật Bản, rồi đến Hàn Quốc, Đài Loan, Hongkong,
Singapore - tất cả đều mang ơn việc đi lên của mình nhờ cách
huấn luyện của Taylor. Trong những thập kỉ hậu Chiến tranh
thế giới II việc huấn luyện dựa theo Taylor đã trở thành động
cơ thực sự hiệu quả cho việc phát triển kinh tế.
Adam Smith
(1723-1790)
Tiến hoá từ thời đại công nghiệp sang thời đại thông tin
Theo đề nghị Adam Smith nêu ra, các công ty công nghiệp cuối thế kỉ 18 và đầu thế kỉ 19 đã bắt
đầu phát triển mạnh với việc tập trung chủ yếu vào chế tạo các sản phẩm vật lí. Tuy nhiên, thời kì
này cũng chứng kiến việc ứng dụng quan niệm về chế tạo sản phẩm vật lí đó vào các qui trình dựa
trên tri thức như việc cho vay của ngân hàng và áp
dụng các chính sách bảo hiểm. Thay cho các bước chế
tạo, các qui trình cho vay hay qui trình chấp thuận chính
sách bảo hiểm đã được chia thành các bước rời rạc để
được những người khác nhau thực hiện, mỗi người
đều thành thạo trong việc đánh giá từng khía cạnh của
ứng dụng có liên quan. Mỗi bước quy trình đều được
thực hiện theo trình tự xác định: bước này được hoàn
thành trước khi bước tiếp trong trình tự được bắt đầu.
Kết quả là xác định ra qui trình tuần tự.
Khi biểu mẫu ứng dụng đã được lập ra và trở thành
thường lệ để cho từng đương đơn điền vào trong qui

trình chấp thuận, các chi tiết liên quan tới đương đơn
và tình trạng hiện tại của qui trình được các tổ chức ghi
lại trong các cuốn sổ chép tay, còn gọi là sổ đương đơn
hay sổ khách hàng. Từng người đều tham gia vào việc
thực hiện một bước qui trình, ghi lại thông tin được cất
giữ trong từng bản ghi riêng về mọi đương đơn hay
khách hàng, và giai đoạn mà đương đơn đã đạt tới trong qui trình chấp thuận.
Thế kỉ hai mươi chứng kiến việc cải tiến trong các bước qui trình này với việc Henry Ford đưa vào
phương pháp dây chuyền lắp ráp cho việc chế tạo ô tô. Xe được lắp ráp bằng việc cho chạy qua
từng phần của dây chuyền lắp ráp, nơi các cấu phần khác nhau được ghép thêm vào trong từng
bước của qui trình lắp ráp.
Thời kì này cũng chứng kiến việc đưa vào qui trình song song, trong đó hai hay nhiều qui trình có
thể được tiến hành đồng thời, với từng bước qui trình được thực hiện độc lập với các bước qui
trình khác. Ví dụ là việc xây dựng thân ô tô, trong khi động cơ của nó cũng được chế tạo song
song. Từng con đường qui trình song song vậy là độc lập với các con đường qui trình song song
khác, cho tới khi chúng cần hợp tụ lại. Chỉ khi thân xe ô tô được đưa ra khỏi dây chuyển lắp ráp thì
động cơ mới được lắp vào xe.
Đến giữa thế kỉ 19, công ti công nghiệp đã tiến hoá thành chuỗi phức tạp các qui trình thủ công.
Nhịp độ của tiến bộ đã chứng tỏ phần lớn các công ti phải tiến hoá để dùng các qui trình nghiệp vụ
ngày càng tăng độ phức tạp, với sự phát triển nhanh chóng về khối lượng giao tác phải được xử lí
thủ công. Kết quả của việc quan sát tiến hoá này làm cho các công ti thấy mình vẫn vận hành
trong trạng thái hỗn độn thủ công liên tục.
Thế rồi máy tính bước vào khung cảnh này vào nửa sau của thế kỉ 20. Từ cuối những năm 1950 -
qua các năm 1960, 1970 và mãi cho tới ngày nay - chúng ta đã thấy nhiều qui trình thủ công được
tự động hoá bằng máy tính. Các qui trình được tự động hoá, nhưng chúng ta đã lấy các qui trình
thủ công hiện có và rồi tự động hoá chúng về bản chất y hệt như chúng vẫn thế, chẳng mấy thay
đổi. Tức là các qui trình được tự động hoá là để thực hiện theo kiểu các qui trình thủ công vẫn có,
chỉ nhanh hơn và chính xác hơn.
Sự phối hợp và đồng bộ các qui trình này trên nền xử lí thông tin mới đã không được nhìn nhận
theo mức độ toàn công ti. Trong việc làm như vậy, các công ti thực tế đã đi từ hỗn độn thủ công ...

sang hỗn độn được tự động hoá! Các công ti đã cố gắng che giấu sự hỗn độn được tự động hoá
này dưới vẻ ngoài canh tân, tiến bộ. Trong suốt giữa những năm 1990, phần lớn các công ti có thể
giới hạn các hỗn độn được tự động hoá vào khu vực hậu văn phòng (back office). Họ thể hiện
mình ra thế giới bên ngoài qua hình ảnh của một tiền văn phòng (front office) điềm đạm, có điều
khiển.
Nhưng việc chấp nhận nhanh chóng Internet vào nửa cuối của những năm 1990 đã đẩy sự hỗn
độn hậu văn phòng của các công ti hiện ngay lên bậu cửa trước của họ: qua các website của họ.
Khách hàng có thể thăm viếng các công ti này bằng một cú nháy chuột. Nhưng họ nhanh chóng
rời bỏ công ti bằng cú nháy chuột tiếp khi họ không tìm được cái họ cần.
Lí do họ bỏ đi không phải bởi vì điều các qui trình được tự động hoá không thể làm được; thay vì
thế, họ bỏ đi bởi vì các qui trình đã không cung cấp điều khách hàng cần. Hệ thống của các công ti
được xây dựng trước hết nhắm vào việc hoàn thành các qui trình nội bộ theo kiểu cổ điển, không
nhằm lấy khách hàng làm trung tâm để đáp ứng. Điều này thường tạo ra các qui trình dư thừa và
dữ liệu dư thừa, mà theo định nghĩa, là không được tích hợp, phi tích hợp theo con mắt của người
ngoài. Như vậy, bằng việc tự động hoá phần lớn các công ti đã tiến hoá từ các qui trình thủ công
không tích hợp sang các qui trình tự động hoá phi tích hợp.
Tuy nhiên vấn đề còn tồi tệ hơn thế! Phần lớn các qui trình được tự động hoá ngày nay đều giả
thiết rằng công nghệ của quá khứ vẫn còn áp dụng được. Các qui trình thủ công mà họ đã tự động
hoá đều yêu cầu các khuôn mẫu phải dựa trên giấy tờ vật lí, được gửi qua bưu điện, hay về sau
thì gửi qua fax. Cho nên thành phần được tự động hoá tương ứng của họ phải dựa trên các khuôn
mẫu cũng được in ra để gửi bưu điện hay fax. Ở nơi nhận, dữ liệu trong các khuôn mẫu này phải
được gõ lại một cách thủ công để đưa vào hệ thống có liên quan - với công việc thủ công, với
nhân viên phụ để làm việc vào lại dữ liệu, với chậm trễ, sai lỗi và với chi phí thêm.
Vấn đề là ở chỗ các hệ thống tự động hoá giả thiết việc trao đổi tương hỗ là thông qua các mẫu in
và việc đưa vào lại thông tin theo kiểu thủ công hàng tuần hay ngày, nay tỏ ra không thích hợp khi
bị yêu cầu trao đổi bằng các mẫu điện tử, bỏ qua việc đưa vào lại thủ công.
Ngày nay chúng ta có các công ti của thế kỉ 21 sử dụng công nghệ thế kỉ 21, vậy mà hầu hết các
công ti vẫn dùng các quy trình nghiệp vụ không tích hợp của thế kỉ 18.
Các qui trình nghiệp vụ - được thiết kế nguyên gốc dựa trên các nguyên tắc mà Adam Smith nêu
ra năm 1776 - đã không tiến hoá để tận dụng ưu thế của công nghệ chúng ta có ngày nay. Đây là

vấn đề nghiệp vụ; không phải là vấn đề công nghệ. Nó đòi hỏi các quyết định nghiệp vụ. Nó đòi hỏi
các tri thức chuyên gia nghiệp vụ. Đây là chất liệu căn bản cho việc tích hợp nghiệp vụ?

×