Khảo sát và thiết kế Hồ chứa nước Cây Đuốc, xã An Cư, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
--------------------------------------------------------------------------------------------------
L.A. Tuấn, ĐH. Khiêm, C.T. Liêm, N.V. Cẩm, N.V. Sơn (Đại học Cần Thơ)
1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
BÁO CÁO TÓM TẮT
KHẢO SÁT VÀ THIẾT KẾ
HỒ CHỨA NƯỚC CÂY ĐUỐC
XÃ AN CƯ, HUYỆN TỊNH BIÊN, TỈNH AN GIANG
Surveying and designing Cay Duoc reservoir
in An Cu village, Tinh Bien district, An Giang province
Nhóm tác giả:
ThS.
Lê Anh Tuấn
Chủ trì nghiên cứu kiêm Phụ trách tính toán thủy lực
KS. Đặng Hòang Khiêm
Phụ trách tính toán kết cấu
KS. Cáp Thanh Liêm
Phụ trách hành chánh, tài chánh
KS. Nguyễn Văn Cẩm, KS. Nguyễn Văn Sơn
Phụ trách đo đạc
Kiểm tra và duyện dự án:
Sở Thủy lợi tỉnh An Giang
Ban Dân tộc tỉnh An Giang
Sở Tài chánh tỉnh An Giang
- 1992 -
Khảo sát và thiết kế Hồ chứa nước Cây Đuốc, xã An Cư, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
--------------------------------------------------------------------------------------------------
L.A. Tuấn, ĐH. Khiêm, C.T. Liêm, N.V. Cẩm, N.V. Sơn (Đại học Cần Thơ)
2
KHẢO SÁT VÀ THIẾT KẾ HỒ CHỨA NƯỚC CÂY ĐUỐC
XÃ AN CƯ, HUYỆN TỊNH BIÊN, TỈNH AN GIANG
LÊ ANH TUẤN, ĐẶNG HOÀNG KHIÊM, CÁP THANH LIÊM,
NGUYỄN VĂN CẨM, NGUYỄN VĂN SƠN
(Khoa Thuỷ nông và Cải tạo đất, ĐHCT)
Tóm tắt
Xã An Cư, thuộc huyện Tịnh Biên, là một xã miền núi. Đây là một vùng đất nghèo nằm dưới
chân núi Phú Cường. Người dân Khmer ở đây chiếm 90% dân số. Sự kham hiếm nước vào mùa
khô là một trong những vấn đề nghiêm trọng ở vùng này. Dự án đề xuất việc khảo sát và xây
dựng một hồ chứa nước gần chân núi để thu gom nước ngầm trong mùa khô nhằm cung cấp nước
cho xã qua hệ thống ống phân phối.
Việc khảo sát đã được tiến hành để lấy mẫu nước và đất, thực hiện thí nghiệm Augerhole and thí
nghiệm bơm tháo. Hồ chứa được thiết kế với diện tích mặt thoáng của nước là 1.000 m
2
, tương
ứng với dung tích tối đa vào khoảng 2.178 m
3
. Nước được xử lý qua các lớp lọc than, sạn sỏi,…
và được dẫn bằng một hệ thống ống với đường kính 100 mm và dài 2.000 m đến một bể phân
phối lớn. Hồ chứa thỏa mãn nhu cầu nước cho hơn 1.000 người dân với mức cung cấp 60 lít nước
mỗi ngày cho mỗi người.
Tổng kinh phí đầu tư đến chứng 250 triệu đồng Việt Nam cho thời giá năm 1992. Toàn bộ hệ
thống làm việc rất tốt phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày cho cư dân ở đây và do vậy đã cải thiện
dần dần cuộc sống cho người dân Khmer trong khu vực.
Từ khóa: nước uống, khảo sát, thiết kế, hồ chứa nước, hệ thống ống.
Abstract
The An Cu village, located in TinhBien district, is a mountainous area. This is a very poor land
along the foot site of the Phu Cuong Mountain. The Khmer people account for 90% of the
inhabitant. Water shortage in the dry season has been one of the serious problems in this area.
The project has been pointed out to survey and to construct a reservoir nearby the mountain to
collect the underground water in the dry season in order to supply water for village through the
pipeline system.
The survey has been carried out for collecting water and soil samples and doing Augerhole tests
as well as pumping tests. The reservoir was designed with the water surface area of 1,000 m
2
,
correspondingly its maximum volume is about 2,178 m
3
. Water is treated by charcoal, gravel,
small stone, … filting layers and then is conveyed by a pipeline system which has 100 mm in
diameter and 2,000 m in length to a big distribution tank. This reservoir can satisfy the water
requirement of more than 1,000 people with the supplied water amount of 60 litters per day per
capita.
The total investment money was about 250 million Vietnamese dongs in the financial year 1992.
The whole system has functioned very well now which is contributing a lot to the daily activities
of the resident and therefore to the Khmer people’s life in the region has been gradually improved
as much.
Keywords: drinking water, survey, design, reservoir, pipeline system.
Khảo sát và thiết kế Hồ chứa nước Cây Đuốc, xã An Cư, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
--------------------------------------------------------------------------------------------------
L.A. Tuấn, ĐH. Khiêm, C.T. Liêm, N.V. Cẩm, N.V. Sơn (Đại học Cần Thơ)
3
I. MỞ ĐẦU
Ở ĐBSCL, mùa khô kéo dài 7 tháng gây một tình trạng căng thẳng về nguồn nước cho dân cư,
đặc biệt ở các khu vực xa sông. Việc tìm kiếm các tài nguyên nước được tập trung nhắm vào các
mạch nước ngầm dưới lòng đất.
An Cư là một xã vùng biên giới Tây Nam Việt Nam, tiếp giáp với Campuchia, thuộc huyện Tịnh
Biên tỉnh An Giang. Đây là một vùng tập trung nhiều người dân tộc Khmer nghèo, canh tác nông
nghiệp là chính, khu vực này nằm cách xa sông, nguồn nước khan hiếm, nước dùng chủ yếu là
nước mưa và các mạch nước nhỏ trong đất. Do nhu cầu sử dụng nước ngày càng trở nên bức
thiết, đặc biệt là vào mùa khô rất gay gắt, việc tìm kiếm nguồn nước được đặt ra. Dựa vào các
dấu vết của một giếng nước nhỏ nằm sát chân núi Cấm, hai đợt khảo sát đo đạc địa hình, địa chất,
đánh giá trữ lượng nước đã được tiến hành. Đợt thứ nhất vào tháng 12-1990, đợt thứ hai kéo dài
từ đầu tháng 3-1991 đến cuối tháng 4-1991. Cả hai đợt đều nhằm chuẩn bị cho việc nghiên cứu
khả năng xây dựng một hồ chứa nhỏ phục vụ cho sinh hoạt cho dân cư ở đây.
Từ xưa đến nay, nhiều tác giả đã bỏ công nghiên cứu các tính chất và qui luật chuyển động của
nước trong đất. Hoogoudt (1936) đã đưa ra phương trình thực nghiệm cho sự quan hệ giữa độ dẫn
thuỷ lực (hydraulic conductivity) và tốc độ dâng mực nước trong một số hố khoan bị rút nước. sự
phân tích của Hooghoudt, sau đó, đã được Kirkham và Bavel (1948) và Ernt (1950), Boast (1971)
phát triển thành phương pháp Augerhole, nguyên lý được trình bày ở [1] và [2]. Các công thức và
quy trình khai thác nước ngầm đã được Atnislav Turek (1971) đúc kết [3], P.Chín (1996) cũng đã
tổng quát hoá vấn đề nước ngầm ở Nam Bộ nói chung [4]. Lý thuyết tính toán kết cấu hồ chứa và
thuỷ lực đường ống cũng đã được nhiều tác giả trong và ngoài nước như nhà xuất bản Thuỷ Lợi
Điện Lực Trung Quốc (1936) [5], Ray Klenslay và Joseph B. Franzini (1983) [6], P.N. Cừ và
T.S. Khiêm (1981) [7], N.C.Cầm (1987) [8]...
Hồ chứa nước Cây Đuốc là một hồ chứa tích tụ nước ngầm tầng mặt lần đầu tiên được khảo sát,
thiết kế và xây dựng ở ĐBSCL.
II. PHƯƠNG PHÁP VÀ NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Đợt khảo sát thực tế tại xã An Cư đã được tổ chức trong tháng 12-1990 và tháng 3-4.1991, các
nghiên cứu và thực nghiệm được thực hiện tại vị trí 2 giếng nước lấy nước lộ thiên nằm dưới
chân núi Phú Cường cách trung tâm xã khảng 2 km. Dưới chân núi Phú Cường có một giếng nhỏ
có đường kính 40 cm được đóng xuống đất bằng một thân cây thốt lốt là loại cây rất phổ biến
trong vùng. Giếng này đã có từ lâu đời. Nước thường xuyên phun lên mặt ruộng kế cận với độ
cao 10 cm, lưu lượng chảy trung bình 5 lít/phút. Phía trên núi cách giếng thốt lốt khoảng 150 m là
một giếng nước lớn hơn được xây bằng xi-măng có đường kính 1,5 m. Có lẽ hai giếng này lấy
chung một mạch nước ngầm. Nước trong mạch ngầm chảy sát mặt đất ở độ sâu khoảng 70 – 80
cm theo chiều sâu. Nguồn nước trong mạch ngầm được cung cấp từ trong lòng núi. Nước chảy
gần như liên tục suốt năm kể cả những tháng mùa nắng mặc dù các khu vực xung quanh hoàn
toàn khô hạn. Chổ lấy nước là điểm khảo sát cho hồ chứa dự kiến sau này.
Phương pháp nghiên cứu theo trình tự như hình 1.
Khảo sát và thiết kế Hồ chứa nước Cây Đuốc, xã An Cư, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
--------------------------------------------------------------------------------------------------
L.A. Tuấn, ĐH. Khiêm, C.T. Liêm, N.V. Cẩm, N.V. Sơn (Đại học Cần Thơ)
4
Hình 1: Tiến trình nghiên cứu và thực hiện công trình
Thí nghiệm bơm tháoLấy mẫu nước, đất
Phòng thí nghiệm
Phân tích
mẫu nước
Điều tra nhu cầu nước thực tế,
thu thập dữ liệu bản đồ....
Khảo sát ngoài đồng
Thí nghiệm Augerhole
Tính toán
Phân tích
mẫu đất
Định hệ số
thấm của đất
Định lưu lượng thấm
đơn vị
Thiết kế định hình hồ chứa Tính toán thuỷ lực đường ống
Phân tích số liệu
Thảo luậncác phương án kỹ thu
ật
Lập dự toán công trình
Thuyết minh kết quả
Duyệt dự án
Thi công công trình
Vận hành khai thác quản lý
Khảo sát và thiết kế Hồ chứa nước Cây Đuốc, xã An Cư, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
--------------------------------------------------------------------------------------------------
L.A. Tuấn, ĐH. Khiêm, C.T. Liêm, N.V. Cẩm, N.V. Sơn (Đại học Cần Thơ)
5
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
III. 1. Chất lượng nước
Mẫu nước được lấy từ giếng nước thốt lốt ngày 12-12-1990 và phân tích có kết quả như sau
Bảng 1: Kết quả phân tích hoá học thành phần của nước
Độ pH 7,25
Cặn không tan 65.80 mg/l
Độ cứng toàn phần 0,66 mg/l
III.2. Thành phần hạt
Các hố khoang nằm trong phạm vi 30 m phía trên giếng thốt lốt, khoan đến độ sâu 2 m thì gặp
tầng đất khá cứng, mẫu đất lấy lên cho thành phần hạt sau (qua phương pháp rây sàng).
Bảng 2: Kết quả phân tích thành phần hạt qua khu vực khảo sát
Thành phần hạt theo tỉ lệ (%) Rây Đường kính hạt
(mm)
Độ sâu 0-100cm Độ sâu 100-200cm
2 > 2 18.02 99.99 % 16.58 99.90 %
1 1 - 2 19.24 81.97 % 23.64 83.32 %
0.5 0.5 - 1 24.44 62.73 % 27.28 59.68 %
0.25 0.25 - 0.5 18.18 38.29 % 18.28 18.28 %
0.1 0.1 - 0.25 11.52 20.11 % 8.73 8.73 %
0.05 0.05 - 0.1 5.66 8.58 % 3.01 3.01 %
Đáy < 0.05 2.93 2.93 % 2.38 2.38 %
20 -2 mm 18.02 16.58
2 - 0.05 79.04 80.94
< 0.05 2.93 2.38
PHÂN LOẠI ĐẤT Cát lẫn sạn sỏi Cát lẫn sạn sỏi
Bảng 3: Kết quả tính toán đánh giá độ đồng nhất của thành phần hạt
Độ sâu (cm) D
10
(10%)
(mm)
D
60
(60%)
(mm)
e Đánh giá độ đồng nhất
0 - 100 0.0561 0.472 8.414 Đất không đồng nhất
100 - 200 0.0764 0.507 6.636 Đất không đồng nhất
III. 3. Độ dẫn thuỷ lực của đất
Thí nghiệm ngoài đồng (bằng phương pháp Augerhole và Piezometer) tại vị trí 30 m phía trên
giếng thốt lốt (tháng 12-1990) đã được thực hiện nhằm xác định độ dẫn thuỷ lực (có giá trị dẫn
K), bán kính ảnh hưởng và lượng trữ nước trong đất. Các thí nghiệm được lập lại theo 5 tuyến
quanh giếng (tháng 4-1991).
Hố khoan (r = 4 cm) cho biết:
- Chiều sâu mặt nước là 0.7m dưới mặt đất.
- Chiều dày tầng chứa nước khảo sát là 1.3m.
- Bán kính ảnh hưởng đối với giếng rút nước là 16m