Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Luyen de theo tung VB Van 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.56 KB, 21 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Luyện đề theo từng văn bản Ngữ văn 9</b>


<i><b>ẹoaứn thuyeàn ủaựnh caự </b></i>



<b> (Huy Cận)</b>


<b>ĐỀ SỐ 1</b>



<b>1. Khơng khí lao động khẩn trương, khỏe khoắn và tươi vui trong bài thơ </b><i><b>Đoàn thuyền đánh</b></i>
<i><b>cá</b></i><b> của Huy Cận.</b>


<b>2. Chép lại theo trí nhớ 4 câu thơ đầu và 4 câu thơ cuối bài </b><i><b>Đồn thuyền đánh cá.</b></i>


<b>a) Phân tích ý nghĩa của hai hình ảnh thơ </b><i><b>Mặt trời xuống biển</b></i><b> và </b><i><b>Mặt trời đội biển</b></i><b>. Bình luận</b>
<b>tính chính xác của hai từ </b><i><b>xuống</b></i><b> và </b><i><b>đội.</b></i>


<b>b) Trong hai đoạn thơ này, tác giả diễn tả tâm trạng của ai ? Đó là tâm trạng gì ?</b>

<b>1. BÀI VĂN (THAM KHẢO)</b>



<i>Đoàn thuyền đánh cá</i> của Huy Cận là một "<i>bài thơ cuộc đời</i>". Bài thơ được sáng tác năm 1958 nhân
một chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Hịn Gai, Cẩm Phả. Thơng qua một đêm đánh cá của đoàn thuyền lớn
trên biển, tác giả ca ngợi kiểu lao động mới mẻ của người lao động tràn đầy lạc quan tin tưởng, làm chủ
thiên nhiên, biển cả bao la. Qua bài thơ ta cảm nhận được khơng khí lao động khẩn trương, hăng say,
nhộn nhịp của miền Bắc thời kì xây dựng CNXH.


Bài thơ mở đầu bằng khung cảnh :


<i>Mặt trời xuống biển như hòn lửa</i>


Giới thiệu một ngày sắp kết thúc, sự vật bắt đầu nghỉ ngơi sau hành trình 12 giờ mệt mỏi. Thế nhưng
với con người làm nghề đánh cá thì lại khác, dấu hiệu <i>mặt trời xuống biển</i> mở ra một sự bắt đầu với


<i>Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơ</i>i. Đánh cá trên biển là công việc nặng nhọc, đầy nguy hiểm. Vậy mà


những người đánh cá "lại" ra khơi với một tinh thần sảng khoái, tràn trề niềm vui, phấn chấn :


<i>Câu hát căng buồm cùng gió khơi</i>


Tiếng hát được nhắc đi nhắc lại nhiều lần như một điệp khúc và nó trở thành âm thanh chủ đạo trong
bài thơ:


<i> </i> <i> - Hát rằng : cá bạc biển Đông lặng</i>
<i>- Ta hát bài ca gọi cá vào</i>


Tác giả miêu tả những con cá, những đàn cá gợi nên bức tranh sinh động về biển cả. Hình ảnh đàn cá
lóng lánh màu sắc như một bức tranh sơn mài.


Giữa khung cảnh mênh mông, rộng lớn, hình ảnh người lao động xuất hiện với tư thế làm chủ thiên
nhiên, biển cả, làm chủ công việc của mình. Hình ảnh thật khỏe khoắn, rắn chắc :


<i>Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng </i>
<i> Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng</i>


Bằng cảm hứng lãng mạn, Huy Cận đã tơ đậm lên hình ảnh những người lao động mới với tầm
vóc ngang tầm vũ trụ và hòa nhập với khung cảnh trời nước bao la :


<i>Thuyền ta lái gió với buồm trăng</i>
<i>Lướt giữa mây cao với biển bằng</i>
<i>Ra đậu dặm xa dò bụng biển</i>
<i>Dàn đan thế trận lưới vây giăng</i>


Trên cái khơng gian bát ngát của <i>trăng, gió, trời, biển</i> ấy<i>, </i>hình ảnh con người mới xuất hiện với chiều
kích của khơng gian. Đó chính là bởi niềm vui hăng say lao động, làm giàu cho Tổ quốc.



Công việc nặng nhọc của người lao động đánh cá đã trở thành bài ca lạc quan, nhịp nhàng cùng thiên
nhiên:


<i>Ta hát bài ca gọi cá vào</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<i>Tiếng hát </i>bay bổng, chứa chan tình cảm. Bóng trăng xơ sóng nước như gõ vào mạn thuyền. Cái hiện
thực đã được bút pháp lãng mạn chắp cánh làm đẹp thêm công việc đánh cá của người lao động. Con
người lao động hồ vào thiên nhiên, cất bo ca giữa thiên nhiên. Bài thơ kết thúc với cảnh rạng đơng
khi đồn thuyền quay trở về:


<i>Câu hát căng buồm cùng gió khơi</i>
<i>Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời</i>
<i>Mặt trời đội biển nhơ màu mới</i>
<i>Mắt cá huy hồng mn dặm phơi</i>


Cuối câu thơ đậm bức tranh sống động, hấp dẫn về thành quả của người lao động. Sau một đêm làm
việc vất vả, mệt nhọc, khẩn trương nay họ đã về bến với hình ảnh <i>mắt cá huy hồng cáphơi</i> dài <i>mn</i>
<i>dặm.</i>


<i> Đồn thuyền đánh cá</i> là khung cảnh lao động đầy khí thế của những con người mới, của cuộc sống mới
những tháng ngày hăng say xây dựng CNXH. Bài thơ là bài ca yêu nghề, yêu đời, yêu cuộc sống, yêu
sự nghiệp xây dựng đất nước của những người lao động. Với bút pháp lãng mạn và cảm hứng khơng
gian quen thuộc, <i>Đồn thuyền đánh cá</i> của Huy Cận là một bài thơ hay của thơ ca hiện đại sau cách
mạng Tháng Tám.


<b>2. BÀI VĂN (THAM KHẢO)</b>



Khổ thơ đầu : <i> </i>


<i>Mặt trời xuống biển như hịn lửa</i>


<i>Sóng đã cài then đêm sập cửa</i>
<i>Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi</i>
<i>Câu hát căng buồm cùng gió khơi</i>


Khổ thơ kết : <i> </i>


<i>Câu hát căng buồm với gió khơi</i>
<i> Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời</i>


<i>Mặt trời đội biển nhơ màu mới</i>
<i>Mắt cá huy hồng mn dặm phơi</i>


<b> a)</b> <i>Đồn thuyền đánh cá</i> là bài thơ nổi tiếng của Huy Cận, lấy cảm hứng từ cuộc sống lao động đánh
cá trên biển Hòn Gai vào cuối những năm 50 của thế kỷ XX. Trong bài thơ này tác giả sử dụng rất
nhiều hình ảnh đẹp, kì vĩ của thiên nhiên, vũ trụ, đặc biệt là hình ảnh "<i>mặt trời xuống biển</i>" và <i>"mặt trời</i>
<i>đội biển</i>" ở khổ thơ đầu và khổ thơ kết. Đây là hai hình ảnh nghệ thuật đặc sắc góp phần làm nên thành
cơng của bài thơ.


"<i>Mặt trời xuống biển</i>" và "<i>Mặt trời đội biển"</i> là hai không gian, thời gian gắn liền với hoạt động
của đoàn thuyền đánh cá. Đoàn thuyền xuất phát khi biển vào đêm, lúc vũ trụ nghỉ ngơi là lúc con
người hoạt động. Đoàn thuyền trở về khi một ngày mới xuất hiện trên biển, con người lao động thật
hăng say, nâng lên tầm vóc vũ trụ.


Từ <i>"xuống</i>" rất chính xác, diễn tả cảnh mặt trời lặn, nhưng là xuống biển, tức là đoàn thuyền
xuất phát từ đảo xa bờ, khơng có bóng dáng đất liền, chỉ có bốn bề là biển mênh mơng. Cịn từ <i>"đội</i>" ở
phần kết cũng rất chính xác vì diễn tả cảnh bình minh trên biển, mặt trời như được mọc lên từ biển,
xuyên qua biển, tạo nên bình minh rực rỡ. Hai hình ảnh này có ý nghĩa diễn tả đoàn thuyền lênh đênh
trên biển, như thách thức biển khơi.


<b> b)</b> Bài thơ <i>Đoàn thuyền đánh cá</i> là tiếng hát lãng mạn, hăng say lao động trên biển. Cái tơi trữ tình


của nhà thơ hịa vào cái ta chung để diễn tả tâm trạng của những con người lao động mới xây dựng miền
Bắc XHCN. Đó là cái chất hào hùng khơng cịn phải cúi mình trước biển khơi. Bài thơ đem đến một
cảm hứng lạc quan, khắc tạc tư thế chiến thắng của con người. Họ lao mình vào biển và đêm trở về
trong ánh hào quang. Họ là những con người làm chủ thiên nhiên, làm nên những kì tích.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<b>1. Hãy chọn một số câu thơ có giá trị nghệ thuật độc đáo trong bài </b><i><b>Đoàn thuyền đánh cá</b></i><b> của Huy</b>
<b>Cận để viết một bài văn có tiêu đề: </b><i><b>Những hình ảnh thơ tráng lệ và lãng mạn</b></i>


<b>2. Viết lời bình cho khổ thơ sau đây :</b>


<i><b>Câu hát căng buồm với gió khơi</b></i>
<i><b>Đồn thuyền chạy đua cùng mặt trời</b></i>
<i><b>Mặt trời đội biển nhơ màu mới</b></i>
<i><b>Mắt cá huy hồng mn dặm phơi.</b></i>


<b>(</b><i><b>Đo</b></i><b>à</b><i><b>n thuyền đánh cá, </b></i><b>Huy Cận)</b>


<b>1.BÀI VĂN (THAM KHẢO)</b>


<i> Đoàn thuyền đánh cá</i> của Huy Cận là bài ca tuyệt đẹp của con người lao động mới hăng say, khỏe
khoắn giữa thiên nhiên kì ảo. Gam màu chủ yếu của <i>bứctranh thơ</i> này là màu sáng lóng lánh. Để rồi,
khi đọc thi phẩm ta cảm tưởng lạc vào đêm hoa đăng chiến thắng trên biển - hào hùng, tráng lệ và lãng
mạn.


Như bao bài thơ khác của Huy Cận, thiên nhiên xuất hiện trong <i>Đoàn thuyền đánh cá</i> thật quen
thuộc : <i>mặt trời, trăng, sao, gió, mây...</i> Tuy nhiên, bằng cái nhìn của thi sĩ XHCN, đi giữa miền Bắc hịa
bình với ngòi bút miêu tả theo phong cách ấn tượng đầy tài năng ở bài thơ này, thiên nhiên đã trở nên
chân thực, sống động mà tráng lệ, rực rỡ kì vĩ, lớn lao mà tinh tế. Bên cạnh hình ảnh thiên nhiên ấy, con
người hiện lên khoáng đạt, lãng mạn, tin yêu cuộc sống và tinh thần hăng hái lao động. Đặt mình vào tư
cách con người lao động trên biển khơi mênh mông, Huy Cận đã lắng nghe được sự hòa hợp tuyệt diệu


giữa thiên nhiên và con người.


Bài thơ miêu tả hành trình ra khơi và trở về trong thắng lợi của đoàn thuyền đánh cá gắn với
hình ảnh mặt trời tráng lệ : <i>"Mặt trời xuống biển như hịn lửa" - "Mặt trời đội biển nhơ màu mới"</i>. Trong
câu thơ đầu tác giả sử dụng hình ảnh ví von vơ cùng biểu cảm, giàu sức gợi và chuẩn xác. Khi mặt trời
xuống biển là lúc có hình dáng quả cầu đỏ sẫm. Những tia sáng phản chiếu dưới mặt nước, lung linh như
hoa lửa. Vẫn mang nét tráng lệ, nhưng khác với hình ảnh mặt trời hồng hơn ở phần đầu bài thơ, hình
ảnh mặt trời ở cuối bài thơ lại là linh hồn của bình minh và đồng hiện cùng với sự cập bến đầy tốt lành
của đồn thuyền đánh cá.


Hình ảnh bao qt bài thơ cho ta cảm giác về vũ trụ bao la thơ mộng. Đó là mối quan hệ tương
hợp giữa con người với thiên nhiên trong lao động, với <i>mặt trời</i> tráng lệ, với đêm trăng huyền ảo, với
mây trời, sóng nước và với <i>cá</i> - sinh lực, tinh lực của biển.


Những hình ảnh thơ tráng lệ và lãng mạn trong bài chủ yếu là những hình ảnh miêu tả trực tiếp
thiên nhiên nhưng đã gián tiếp làm rõ vẻ đẹp khỏe khoắn, khoáng đạt, tinh thần lao động hăng say,
nhiệt tình của con người. Chúng ta hãy đọc những vần thơ :


... Câu hát căng buồm cung gió khơi
... Thuyền ta lái gió với buồm trăng
... Ta hát bài ca gọi cá vào


... Đêm thở : sao lùa nước Hạ Long


Hàng loạt các hình ảnh thiên nhiên hiện ra cùng với hoạt động và tiếng hát của con người cùng
đưa con thuyền lao động tiến vào trùng dương. Trăng, sao, điểm tô cho bức vẽ con người xông pha vào
đại dương bao la thêm phơi phới hơn. Nhịp điệu lao động của con người đã mang nhịp thiên nhiên, vũ
trụ một cách nhịp nhàng, hài hòa. Trong bài thơ : <i>trời, mây, biển cả</i> được tráng lệ hóa để mang hồn lao
động, con người lao động được cao cả hóa để mang tầm vũ trụ.



</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<b>2. BÀI VĂN (THAM KHẢO)</b>


<i>Đồn thuyền đánh cá</i> là bài thơ nổi tiếng của Huy Cận sau Cách mạng Tháng Tám, được in trong
tập thơ "<i>Trời mỗi ngày lại sáng</i>". Đây là bài thơ có kết cấu độc đáo : đoàn thuyền đánh cá xuất phát khi
đêm xuống trên biển và trở về khi bình minh đón chào một ngày mới trên biển. Cả bài thơ là bức tranh
lao động lung linh sáng đẹp trên biển, vừa là tiếng hát lạc quan của những chủ nhân biển khơi.


Khổ thơ cuối khép lại bài thơ bằng âm hưởng của tiếng hát vui say lao động vẫn ngân nga trong
lòng người :


<i>Câu hát căng buồm với gió khơi </i>
<i> </i> <i>Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời</i>
<i> </i> <i>Mặt trời đội biển nhô màu mới</i>
<i> </i> <i>Mắt cá huy hồng mn dặm phơi</i>


Câu đầu tiên của khổ thơ này được lặp lại gần như nguyên vẹn câu thứ tư của khổ thơ đầu bài
thơ, chỉ thay chữ "<i>cùng</i>" bằng chữ "<i>với</i>", nhưng đã tạo ra cảm giác tuần hoàn. C<i>âu hát căng buồm</i> đưa
thuyền đi thì giờ đây vẫn<i> câu hát căng buồm</i> lại đưa thuyền về. Và bây giờ đoàn thuyền đã trở về trong
một tư thế mới "<i>chạy đua cùng mặt trời</i> ". Màu nắng chan hòa làm thành quả lao động thêm rực rỡ. Hình
ảnh <i>mắt cá huy hồng mn dặm phơi</i> là sự kết hợp giữa màu sắc của mắt cá sống động, long lanh và
ánh sáng chan hòa của mặt trời. Câu thơ kết là hay nhất bởi cách dùng chữ thật tài tình :<i> Mặt trời đội</i>
<i>biển nhơ màu mới - Mắt cá huy hồng mn dặm phơi</i>. Huy Cận miêu tả chính xác chuyển động của mặt
trời, chuyển động từ từ, ban đầu là ánh sáng hừng lên, sau đó mặt trời nhơ lên kết thúc một đêm. Khổ
thơ này tạo tương xứng với mặt trời xuống biển - đoàn thuyền ra khơi ở đầu bài thơ. Và thành quả tốt
đẹp (mắt cá huy hồng mn dặm phơi) chính là cao trào của bài ca lao động.


<i> Đoàn thuyền đánh cá</i> của Huy Cận là bài ca ngợi ca lao động, ngợi ca biển trời quê hương giàu đẹp
cùng những chủ nhân của đất nước. Sự hài hòa giữa con người, thiên nhiên, tấm lòng, tình cảm của nhà
thơ trong một trí tưởng tượng phong phú đã giúp thơ gây được sức hấp dẫn, ấn tượng về cuộc sống mới
và con người mới.



<i><b> </b></i>

<i><b>Bếp lửa</b></i>

<b> của Bằng Việt</b>



<b>ĐỀ SỐ 3</b>



<b>1. Phân tích bài thơ </b><i><b>Bếp lửa</b></i><b> của Bằng Việt</b>


<b>2. Bằng một bài văn ngắn, hãy viết cảm nhận của em về hình ảnh người bà trong bài thơ </b><i><b>Bếp lửa.</b></i>


<b>1. BÀI VĂN THAM KHẢO</b>


<i>Anh đi anh nhớ q nhà</i>


<i>Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương</i>


Đó là tâm trạng của những người xa quê. Những cái bình thường quen thuộc hàng ngày tưởng
chừng như chẳng có gì đáng nhớ nhưng đến khi xa rồi mới biết chẳng thể nào quên. Nhưng nỗi nhớ quê
ấy ở mỗi người có những sắc thái cảm xúc khác nhau. Có khi là hình ảnh dung dị một <i>bát canh rau</i>
<i>muống, một chén cà dầm tương,..</i>. Có khi lại là một <i>ánh trăng quê... </i>Còn riêng với Bằng Việt, trong
những năm tháng du học ở Liên xô, nhà thơ nhớ da diết <i>bếp lửa</i> của bà :


<i>Một bếp lửa chờn vờn sương sớm</i>
<i>Một bếp lửa ấp iu nồng đượm...</i>


Cảm xúc về <i>bếp lửa</i> của Bằng Việt bắt đầu từ đây. Chúng ta hãy cùng đọc và khẽ ngâm lên từng
lời thơ để hòa nhập hồn mình bâng khng theo dịng cảm xúc đang trào dâng của tác giả.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

có nhau. Bà kể chuyện những ngày ở Huế, <i>bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học,</i> bà dặn cháu <i>viết thư</i>
<i>cho bố</i> ở chiến khu, bà sớm chiều nhen bếp lửa... Lời kể sao mà tha thiết thế ! Nó gợi trong lịng người
bao niềm xúc động sâu xa. Làm sao quên được : <i>Những năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi</i>. Bà đã dặn


cháu :


<i>Bố ở chiến khu, bố còn việc bố</i>
<i>Mày có viết thư chớ kẻ này kể nọ</i>
<i>Cứ bảo nhà vẫn được bình yên</i>


Hình ảnh người bà hiện lên trong lời thơ ấy đẹp làm sao ! Bà lúc nào cũng sẵn sàng chịu đựng.
Bà là thế đấy! Suốt một đời tận tụy vì con, vì cháu. Nhưng khơng chỉ có thế. Vượt lên trên tình thương
ấy, bà còn là người làm việc âm thầm, lặng lẽ, biểu lộ ý thức trách nhiệm của mình với Tổ quốc. Bà đã
cùng chịu đựng gian khổ, cùng chia sẻ hi sinh cho cuộc kháng chiến này. Càng lớn khôn, tác giả càng
nhận thức rõ tấm lịng cao q của bà. Người đã lận đận <i>biết mấy nắng mưa</i> để nhen nhóm trong lịng
đứa cháu u q của mình ngay từ tuổi thơ một tình cảm rộng lớn hơn tình bà cháu thơng thường, đó là


<i>một ngọn lửa chứa chan niềm tin dai dẳng</i> đối với đất nước, con người :


<i>Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm</i>


<i>Nhóm niềm thương u khoai sắn ngọt bùi</i>
<i>Nhóm nồi xơi gạo mới sẻ chung vui</i>
<i>Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ</i>
<i>Ơi kì lạ và thiêng bếp lửa</i>


Hình ảnh <i>bếp lửa</i> được lặp lại nhiều trong bài thơ có giá trị tu từ độc đáo. Đây là hình ảnh tả thực
trong cuộc sống đời thường. Song, đối với người đi xa quê hương lại là một dấu ấn khó phai mờ - Bởi vì
chính bên cạnh bếp lửa hồng ấy, hình ảnh người bà<i>, "chập chờn trong sương sớm</i>" in đậm tâm trí tác giả
từ tuổi nhỏ. Nhờ bếp lửa mà thời ấu thơ của tác giả êm đềm, ấm áp như những câu chuyện cổ tích mà
bà thường hay kể. Bếp lửa và người bà chính là nguồn sáng tâm hồn, ni dưỡng tình cảm thương u
cho người cháu.


Điều đáng nói nhất về bài thơ chính là ý nghĩa tượng trưng của hình tượng bếp lửa. Đó là ngọn


lửa niềm tin, ngọn lửa tình yêu, ngọn lửa của tâm hồn dân tộc đã nhóm lên trong tâm hồn trẻ thơ những
cảm xúc và suy nghĩ chân tình, đẹp đẽ. Hình ảnh bếp lửa trong quá khứ, trong hiện tại đan cài vào nhau,
nâng cảm xúc và tư duy nhà thơ bay bổng dạt dào, hướng về gia đình, về nguồn cội, về quê hương đất
nước. Sức hấp dẫn của bài thơ chính là ở đó. Với giọng thơ ân tình tha thiết, nhà thơ hồi tưởng những
năm tháng cùng bà "<i>nhóm lửa".</i> Hình ảnh <i>chim tu hú kêu trên những cánh đồng xa</i> gợi lên khơng khí của
một buổi sớm tinh mơ, vắng vẻ, quạnh hiu... Cùng với hình ảnh <i>chim tu hú</i>, hình ảnh bà cũng hiện lên lụi
cụi, vất vả. Các vần nối tiếp nhau để diễn tả cảm xúc ấy : <i>Xa, nhà, Huế, thế, về..</i>. tạo âm hưởng kéo dài
liên tục không dứt. Nhạc điệu buồn, tha thiết, trầm lặng thể hiện nỗi nhớ nhung bà :


<i>Giờ cháu đi xa có ngọn khói trăm tàu</i>
<i>Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả</i>
<i>Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở</i>
<i>Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa ?</i>


Chính tình bà cháu cao đẹp và thiêng liêng kì diệu đã nhen nhóm trong lịng nhà thơ niềm tin
u cuộc sống, con người, tình yêu quê hương đất nước. Đây là một bài thơ dạt dào cảm xúc. Tác giả đã
khéo léo sử dụng cách gieo vần, láy điệp từ và những hình ảnh có sức liên tưởng độc đáo tạo nên giá trị
cho bài thơ. Ta cảm nhận được tấm lòng biết ơn, nỗi nhớ nhung của nhà thơ giành cho bà yêu dấu của
mình. <i>Bếp lửa</i> đã khơi dậy trong ta một tình cảm cao đẹp đối với gia đình, q hương, đất nước. Đặc biệt
là lịng biết ơn sâu nặng đối với bà.


<b>2.BÀI VĂN THAM KHẢO</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Bẳng Việt đã đem đến một biểu tượng tình bà u cháu vơ cùng sâu nặng. Đó là những tháng
năm xa chỉ cịn trong kí ức, mẹ cha bận công tác, giữa thời bom đạn, bà chăm chút, yêu thương dạy bảo
cháu nên người. Bà là nguồn sống gia đình, là những gì tảo tần, nhẫn nại, giàu niềm tin, hết lòng yêu
thương, chăm lo, chi chút cho cháu và gia đình. Bà là ngọn lửa của tình thương hạnh phúc con cháu. Bà
khơi dậy và làm bùng lên khát vọng. Hành động nhóm bếp khơng chỉ là hình ảnh đời thường ấm áp mà
chính là ngọn lửa của sự sống. Khi viết những dòng thơ <i>Bếp lửa</i>, tác giả đang ở xa Tổ quốc và đã trưởng
thành. Đây là một bài thơ thật sự sâu sắc về tình yêu đất nước, quê hương trong hình ảnh dung dị của bà.


Bà ta cũng như mẹ ta không ra chiến trường, lập nên chiến công lừng lẫy nhưng là nơi giữ gìn cội nguồn
bền chắc cho mỗi chúng ta khi bay cao, bay xa.


Hồi ức về những người thân yêu bao giờ cũng sinh động, ta càng rời xa tuổi thơ thì kỉ niệm càng
thân thiết, gần gũi, cảm động. <i>Bếp lửa</i> là một hồi ức tuyệt đẹp về bà, nhắc nhở mỗi người về một tình
yêu thân thiết trong tâm hồn và trái tim những người Việt Nam yêu nước.


<i><b>Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ </b></i>



<b> của Nguyễn Khoa Điềm</b>


<b>ĐỀ SỐ 4</b>



<b>1. Phân tích hình ảnh người mẹ trong bài thơ </b><i><b>Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ</b></i><b> của Nguyễn</b>
<b>Khoa Điềm</b>


<b>2.</b> <b> Phân tích đoạn thơ :</b>


<i><b>Em Cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi</b></i>
<i><b>...</b></i>
<i><b>Lưng đưa nôi và tim hát thành lời</b></i>


<b>(Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ)</b>


<b>1.BÀI VĂN THAM KHẢO</b>


<i> “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ”</i> được Nguyễn Khoa Điềm sáng tác vào ngày 25 tháng
3 năm 1971, là một trong số những bài thơ hay của ông. Nổi bật trong bài là hình ảnh người mẹ Tà Ôi
như là biểu tượng về người mẹ Việt Nam anh hùng. Đó là một con người rất mực thương con nhưng cũng
vô cùng yêu nước. Dường như đứa con u q và đất nước thân thương ni con nên người và đánh giặc
giải phóng q hương là những gì trọng đại nhất cao quí nhất của người mẹ này trong những năm đất


nước phải gồng mình chống đế quốc Mĩ xâm lược.


Bài thơ đồng thời là lời hát ru. Tác giả ru em Cu Tai ngủ ngoan (đồng thời miêu tả hình ảnh người
mẹ). Người mẹ trong bài ru em ngủ ngoan nhưng đó là lời ru thầm, lời ru trong tim <i>(Lưng đưa nôi và tim</i>
<i>hát thành lời</i>). Lời ru của tác giả và lời ru của người mẹ nối tiếp nhau, đan cài, hoà quyện vào nhau làm
nên những khúc hát ru vừa đằm thắm, dịu dàng, vừa trầm tư, sâu lắng. Vì kết cấu bài thơ như những
khúc hát ru nên bài thơ cứ trở đi trở lại một số khúc giống nhau như những nét nhạc chủ đạo trong một
bài hát. Bài thơ có ba khúc ru. Mỗi khúc hát ru là một đoạn thơ. Ở đoạn thơ thứ nhất, người mẹ ru con
khi địu con <i>trên lưng</i> và <i>giã gạo nuôi bộ đội</i>. Giấc ngủ của em <i>nghiêng nghiêng</i> theo <i>nhịp chày</i>, thấm mồ
hôi lao động vất cả của mẹ. Người mẹ Tà Ôi thương con nhất mực không lúc nào chịu rời con đã lấy


<i>lưng làm nôi</i> và đôi <i>vai gầy làm gối</i> cho con. Và lời ru con của mẹ cất lên bên cối gạo giữa sàn nhà cũng
chính là lời tâm sự, lời tự nhủ, lời mẹ thầm nói với chính mình. Lịng u con của mẹ gắn liền với tình
thương yêu bộ đội :


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Ước mơ của người mẹ nối liền với giấc mơ của con và cùng hội tụ lại trong tình thương yêu sâu sắc
những anh bộ đội. Trong đoạn thơ thứ hai, bà mẹ Tà Ôi địu con đi tỉa bắp trên núi Ka Lưi. Tình thương
u và niềm hi vọng vơ bờ của người mẹ đối với đứa con được thể hiện bằng lời và những hình ảnh độc
đáo :


<i>“Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi</i>
<i>Mặt trời của mẹ con nằm trên lưng</i>.”


Trong câu thơ trên hình ảnh mặt trời là một hình ảnh thực. Mặt trời đem lại ánh sáng, sự sống cho
cây cỏ, làm cho cây cỏ thêm tươi tốt, như cây ngơ bắp to, hạt mẩy. Hình ảnh mặt trời ở câu thơ sau là ẩn
dụ. Tác giả so sánh ngầm Cu Tai là <i>mặt trời của mẹ. </i>Coi con như mặt trời thì quả là lịng mẹ u q con
vơ hạn, mong đợi ở con rất nhiều. Đó là ánh sáng, là nguồn sống, là niềm vui, là niềm hạnh phúc, là tất
cả tương lai của mẹ. Hai câu thơ, hai hình ảnh tơn nhau lên, đối ý với nhau, đã làm nổi bật tình thương
yêu sâu sắc và niềm hi vọng lớn lao của người mẹ đối với đứa con. Lời ru của người mẹ Tà Ôi ngân nga
trong trái tim mẹ khi mẹ địu con đi tỉa bắp vẫn hướng về đứa con thơ yêu quí của mình. Lịng thương


u con của mẹ trong hồn cảnh này gắn liền với tình thương yêu dân làng - những người dân lao động
nghèo đói :


<i>“Mẹ thương A Kay, Mẹ thương làng đói</i>
<i>Con mơ cho mẹ hạy bắp lên đều</i>
<i>Mai sau con lớn phát mười Ka Lưi”.</i>


Trong đoạn thơ thứ ba, người mẹ địu con trong tư thế đang <i>“chuyển lán”, “đạp rừng</i>”. Bà mẹ băng
rừng, địu con trên lưng đưa con đi <i>“để giành trận cuối</i>”. Lòng yêu con của mẹ đến đây gắn liền với lòng
yêu nước : “<i>Mẹ thương A Kay mẹ thương đất nước</i>”. Người mẹ gửi gắm vào giấc mơ của con niềm khao
khát được gặp Bác Hồ và mong đất nước được độc lập tự do :


<i>“Con mơ cho mẹ được gặp Bác Hồ</i>
<i>Mai sau con lớn thành người tự do”.</i>


Tiếng hát ru con của người mẹ Tà Ơi khơng phải được cất lên bên cánh võng hay trên giường ấm
nệm êm trong phòng ngủ. Tiếng hát ru ấy ngân lên trong trái tim của mẹ khi mẹ địu con giã gạo, tỉa bắp
trên núi, khi mẹ <i>“chuyển lán”, “đạp rừng</i>” hoặc trên đường ra chiến trường để giành trận cuối. Như vậy,
bà mẹ Tà Ôi là một người mẹ lao động, trực tiếp sản xuất, phục vụ cho chiến đấu của toàn dân tộc. Tình
thương con, thương bộ đội, thương dân làng, thương đất nước hồ quyện vào nhau trong tấm lịng của
một người mẹ miền núi yêu nước trong những năm tháng chống Mĩ khó khăn, gian khổ.


Theo lời ru (và cũng là tình yêu thương của mẹ), theo bước chân của người mẹ Tà Ơi, khơng gian
cũng được mở rộng dần: từ sân (khi mẹ giã gạo) đến ngọn núi Ka Lưi (khi mẹ đi tỉa bắp) rồi đến những
rừng những suối khi mẹ chuyển lán đạp rừng. Và ước mơ, khát vọng của người mẹ gửi gắm qua lời hát
ru tha thiết, nặng tình nặng nghĩa ấy cũng mỗi lúc một lớn dần : “<i>Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần</i>”
đến “<i>Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều</i>”... Từ mong muốn “<i>Mai sau con lớn vung chày lún sân</i>” đến “<i>Mai</i>
<i>sau con lớn phát mười Ka Lưi</i>” cuối cùng cũng bùng lên thành một khát vọng cháy bỏng “<i>Mai sau con</i>
<i>lớn làm người tự do</i>”. Tinh thần, không khí sục sơi của đất nước trong những năm tháng đánh Mĩ đã đi
vào lời hát ru của những bà mẹ. Cuộc chiến tranh nhân dân khiến cả đến những bà mẹ miền núi có con


nhỏ vào cuộc chiến đấu hi sinh, gian khổ. Biết bao em bé đã “<i>lớn trên lưng mẹ</i>” đi <i>“đến chiến trường</i>”
và trong số họ khơng ít những người đã thành những anh hùng dũng sĩ. Qua những khúc hát ru với những
điệp khúc đã trở đi trở lại nhưng vẫn có sự biến hố phát triển, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện thật sinh
động, ám ảnh đầy sức mạnh nghệ thuật về tình mẹ con và khát vọng mãnh liệt độc lập tự do của tồn
dân tộc


<b>2. BÀI VĂN THAM KHẢO</b>


Nhà thơ Nguyễn Duy đã viết :


<i>Ta đi trọn kiếp con người</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Lời ru của mẹ chính là nguồn năng lượng tinh thần để giúp mỗi chúng ta trưởng thành nên người.
Bởi thế cảm xúc về lời ru của mẹ đã đi vào nghệ thuật và thơ ca. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm cũng
xuất phát từ truyền thống này nhưng có sự sáng tạo rất mới với <i>Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng</i>
<i>mẹ.</i>


Bài thơ được viết năm 1971 in trong tập "<i>Đất và khát vọng</i>". Cảm xúc bao trùm bài thơ là tình
cảm chân thành của tác giả về hình ảnh người mẹ dân tộc Tà Ơi với tình thương con, thương bộ đội, yêu
đất nước.


Đoạn thơ mở đầu chính là lời hát ru của tác giả nói về hình ảnh mẹ giã gạo ni bộ đội và rất yêu
thương con :<i> </i>


<i>Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi</i>
<i>...</i>
<i>Lưng đưa nôi và tim hát thành lời</i>


Mở đầu là điệp khúc ngọt ngào tha thiết: <i>Em Cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi/ Em ngủ cho ngoan đừng</i>
<i>rời lưng mẹ.</i>Tác giả vỗ về em Cu Tai ngủ bởi vì : <i>mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội, nhịp chày nghiêng giấc</i>


<i>ngủ em nghiêng.</i> Tiếng ru con ngủ "nghiêng" theo nhịp chày làm cho giấc ngủ của em cũng "nghiêng"
theo. Con cũng đang chia sẻ theo cơng việc của người mẹ. Vì sự nghiệp chung của tồn dân tộc kháng
chiến chống Mĩ.


Đặc biệt hình ảnh mẹ được diễn tả chân thật và xúc động.


<i>Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi</i>
<i>Vai mẹ gầy nhấp nhơ làm gối</i>
<i>Lưng đưa nôi và tim hát thành lời</i>


Hàng loạt các hốn dụ : <i>mồ hơi, vai, lưng, má, tim</i>, được sử dụng rất đắt thể hiện trái tim yêu
thương mênh mông của người mẹ nghèo. Đặc biệt là các hình ảnh "mẹ nơi đưa”. Vai mẹ là gối, lưng mẹ
là nôi để con lớn lên, tim mẹ dạt dào tình mẫu tử hát thành lời. Đó là tiếng hát từ trái tim, từ cảm xúc
yêu thương con và tình yêu đất nước của người mẹ.


Qua đoạn thơ thứ nhất, khúc hát ru của tác giả, ta thấy được tình cảm chân thành của người mẹ nghèo
vất vả, lam lũ nhưng thương con, yêu nước. Người mẹ Tà Ôi đã trở thành biểu tượng của đất nước.


<b>ĐỀ SỐ 5</b>



<b>1. Viết về những kỉ niệm sâu sắc với bà kính u trong đó có sử dụng yếu tố nghị luận.</b>
<b>2. Từ hai câu thơ :</b>


<i><b>Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi</b></i>
<i><b> Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng</b></i>


<b>Hãy viết một bài văn với nhan đề : </b><i><b>Mặt trời của mẹ</b></i>


<b>1. BÀI VĂN THAM KHẢO</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

<b>2. BÀI VĂN THAM KHẢO</b>


<i>Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ</i> được Nguyễn Khoa Điềm sáng tác năm 1971, là một
tượng đài bằng thơ khắc hoạ hình ảnh người mẹ Việt Nam anh hùng trong chống Mĩ cứu nước. Tình yêu
nước thiết tha, tình mẹ con ruột thịt sâu nặng tạo nên sức hấp dẫn của bài thơ và một trong những câu
thơ trong đó đã làm rung động hàng triệu trái tim bạn đọc :


<i>“Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi</i>
<i>Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng”.</i>


Điều lí thú ở đây là cách tư duy rất cụ thể của bà mẹ Tà Ôi. Trong suy nghĩ của mẹ, mặt trời là
của bắp và con là mặt trời của mẹ. Những cây bắp đang lớn lên từng ngày trên nương rộng lớn kia là
nhờ cơng sức của mẹ, nhờ có nguồn sáng, hơi ấm vô tận nhận được hàng ngày từ mặt trời tự nhiên. Còn
em Cu Tai, đứa con bé bỏng, nhưng lại là nguồn sáng, nguồn năng lượng to lớn khơng thể thiếu được
của đời mẹ. Nhờ có đứa con ngủ yên trên lưng này, mà với sức vóc dù nhỏ yếu, mẹ vẫn lao động hăng
say, vẫn giã gạo, để nuôi bộ đội. Ta hiểu những hạt gạo nuôi quân trắng trong nhờ nhịp chày của mẹ đã
góp phần khơng nhỏ vào chiến cơng của các chiến sĩ ngồi mặt trận. Rồi cũng nhờ có em Cu Tai ngủ
ngoan khơng rời lưng mẹ, mà <i>dù lưng núi thì to, lưng mẹ thì nhỏ,</i> mẹ vẫn kiên trì gieo tỉa để những hạt
bắp mọc xanh núi Ka Lưi.


Phép tu từ so sánh và tu từ ẩn dụ khiến cho hình ảnh thơ hiện lên thật giản dị mà cũng thật giàu ý
nghĩa. Trên cái nền xanh của cây bắp mênh mông lưng núi ngút ngàn, lồng lộng một người mẹ lưng địu
con đang lao động say sưa. Trên cao là mặt trời toả sáng, trên lưng mẹ là gương mặt đứa con cũng đang
ngời sáng trong giấc ngủ say sưa.


Hình ảnh <i>mặt trời của mẹ</i> sẽ mãi đi vào thơ ca như biểu tượng nghệ thuật về tình mẫu tử, về người
mẹ - chiến sĩ trong những tháng năm chống Mĩ cứu nước.


<i><b> </b></i>




<i><b> Ánh trăng của Nguyễn Duy</b></i>


<b>ĐỀ SỐ 6</b>



<b>Từ bài thơ </b><i><b>Ánh trăng</b></i><b> của Nguyễn Duy hãy viết về những suy tư của người lính sau chiến</b>
<b>tranh.</b>


<b>BÀI VĂN THAM KHẢO</b>


Cuộc kháng chiến đã qua đi, người lính trong chiến tranh giờ đây đã về với cuộc sống hàng ngày.
Sự bận rộn hôm nay khiến người ta quên lãng quá khứ. Nhưng có một lúc nào đó trong đời thường
những kỉ niệm chiến tranh lại như những thước phim quay chậm hiện về. Nguyễn Duy gửi tới bạn đọc
thi phẩm “<i>Ánh trăng</i>” cũng chính là gửi tới bạn đọc thông điệp : Không nên sống vô tình, phải biết thủy
chung nghĩa tình cùng quá khứ.


<i>“Hồi nhỏ sống với đồng</i>
<i>Với sông rồi với bể</i>
<i>Hồi chiến tranh ở rừng</i>
<i>Vầng trăng thành tri kỉ”.</i>


Hình ảnh những <i>đồng, sơng, bể, rừng</i> nguyên sơ, thuần hậu trong khổ thơ đầu này là nơi đã nuôi
dưỡng, che chở cho tuổi thơ và năm tháng chiến tranh, cả một quãng đường dài sống trong tình thương
u, gắn bó với thiên nhiên, với những miền quê ấy, <i>vầng trăng thành tri kỉ</i>. Trăng như mái nhà, như
người bạn thân thiết của tâm hồn. Ở đó tâm hồn tình cảm con người cũng đơn sơ thuần phác như chính
thiên nhiên. Trăng và người đã tạo nên mối giao tiếp, giao hoà thủy chung tưởng như khơng bao giờ có
thể qn được.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Khi chiến tranh kết thúc. Người lính trở về bị hấp dẫn bởi đô thị, với <i>ánh điện, cửa gương</i>, những
ánh sáng nhân tạo đã làm họ quên đi ánh sáng tự nhiên hiền dịu của trăng. Cuộc sống hiện đại với
nhiều tiện nghi đã làm cho con người thờ ơ, vô tình với những ngày gian khổ, cùng đồng đội, đồng chí
chung một chiến hào mà <i>trăng</i> là biểu tượng.



<i> “Vầng trăng đi qua ngõ</i>
<i>Như người dưng qua đường”</i>.


Từ hình ảnh vầng trăng “<i>tri kỉ</i>”, vầng trăng tình nghĩa trở thành <i>người dưng</i> <i>qua đường,</i> Nguyễn
Duy đã diễn tả được cái đổi thay của lòng người, cái lãng quên, dửng dưng cùng thời gian “xa mặt cách
lòng” đến phũ phàng. So sánh thật thấm thía: “<i>như người dưng qua đường</i>”.


Cũng như dịng sơng có khúc phẳng lặng êm đềm, cũng có khúc ghềnh thác dữ dội. Cuộc đời vốn
cũng nhiều biến động. Ghi lại một tình huống, cuộc sống nơi thị thành của những con người từ rừng về
thành phố, Nguyễn Duy đặt con người vào bối cảnh.


<i>“Thình lình đèn điện tắt</i>
<i>Phòng buynh đinh tối om</i>
<i>Vội bật tung cửa sổ</i>


<i>Đột ngột vầng trăng tròn”.</i>


Khi ánh trăng nhân tạo vụt tắt, bóng tối bao trùm khắp khơng gian thì vầng trăng xuất hiện khiến
con người ngỡ ngàng trước ánh trăng thân thương của tuổi thơ trên những nẻo đường ta sống và trong
cuộc chiến gian khổ, ác liệt. Cuộc sống hiện đại làm cho lòng người thay đổi... Trước người bạn vơ tình
ấy, trăng chẳng nói, chẳng trách khiến người lính cảm thấy có cái gì <i>rưng rưng</i>. Ánh trăng soi chiếu
khiến người ta nhận ra độ lệch của nhân cách mình.


<i>“Trăng cứ trịn vành vạnh</i>
<i>Kể chi người vơ tình</i>
<i>Ánh trăng im phăng phắc</i>
<i>Đủ cho ta giật mình”.</i>


Ánh trăng trước sau vẫn vậy mộc mạc, giản dị và thủy chung. Trăng lặng lẽ trịn đầy một cách


trong sáng, vơ tư, mặc cho thời gian trôi, mặc cho bạn bầu xưa ai đó quay lưng dù trong quá khứ vốn là
tri kỉ. Nhưng trăng cũng khơi gợi niềm xúc động, đánh thức lương tâm ở con người. Cái giật mình được
diễn tả trong khổ thơ <i>“vô ngôn”</i> thể hiện sự thức tỉnh đáng quí này. Qua bài thơ, Nguyễn Duy đã khám
phá ra vẻ đẹp không bao giờ kết thúc của lương tri. Dường như cuộc sống mới đầy đủ hơn khiến cho con
người lãng quên ánh trăng. Hành trình đi tìm những hạt ngọc ẩn dấu trong tâm hồn con người khơng bao
giờ ngơi nghỉ và việc hồn thiện mình của chính mỗi con người cũng khơng phải một sớm một chiều.


Cuộc đấu tranh hướng thiện âm thầm mà khốc liệt, nó địi hỏi lịng dũng cảm của con người.
Người lính năm xưa đã dành trọn quá khứ soi mình trong hiện tại để đấu tranh loại bỏ sự vơ tình vô
nghĩa của bản thân, hướng tới sự cao cả, tốt đẹp.


“<i>Ánh trăng</i>” là bài thơ khơng qn về q trình hướng thiện, q trình hồn thiện mình của mỗi
con người trong cuộc sống hơm nay.


<b>ĐỀ SỐ 7</b>



<b>1. Phân tích bài thơ </b><i><b>Ánh trăng</b></i><b> của Nguyễn Duy để cảm nhận được bài học sâu sắc mà tác giả muốn</b>
<b>gửi gắm.</b>


<b>2. Viết lời bình cho đoạn thơ sau :</b>


<i><b>Ngửa mặt lên nhìn mặt</b></i>
<i><b>...</b></i>
<i><b> </b></i> <i><b>Đủ cho ta giật mình </b></i>


<b>(</b><i><b>Ánh trăng,</b></i><b> Nguyeãn Duy)</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Nguyễn Duy thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
Nguyễn Duy nổi tiếng với các bài thơ như : “<i>Tre Việt Nam</i>”, “<i>Hơi ấm ổ rơm</i>”, ... Hiện nay, Nguyễn Duy
vẫn tiếp tục sáng tác, ông viết đều những bài thơ tài hoa, đậm chất suy tư.



<i>“Ánh trăng”</i> (1978) là một trong những bài thơ của Nguyễn Duy được nhiều người ưa thích bởi tình
cảm chân thành, sâu sắc, tứ thơ bất ngờ, mới lạ.


Hai khổ thơ đầu, tác giả nhắc đến những kỉ niệm đẹp :


<i>“Hồi nhỏ sống với đồng.</i>
<i>Với sông rồi với bể</i>
<i>Hồi chiến tranh ở rừng</i>
<i>Vầng trăng thành tri kỉ”.</i>


Trăng gắn bó với tác giả ngay từ thời thơ ấu. Trăng gắn với đồng ruộng, dịng sơng, biển cả. Dù ở
đâu, đi đâu trăng cũng gắn bó với người. Nhưng phải đến khi ở rừng, nghĩa là lúc tác giả sống trên tuyến
đường Trường Sơn xa gia đình, quê hương vầng trăng mới trở thành “<i>tri kỉ</i>”. Trăng với tác giả là đôi bạn
không thể thiếu nhau. Trăng chia ngọt, sẻ bùi, trăng đồng cam cộng khổ.


Tác giả khái quát vẻ đẹp của trăng, khẳng định tình u thương q trọng của mình với trăng :


<i>“Trần trụi với thiên nhiên</i>
<i>Hồn nhiên như cây cỏ</i>
<i>Ngỡ không bao giờ qn</i>
<i>Cái vầng trăng tình nghĩa”.</i>


Trăng có vẻ đẹp vơ cùng bình dị, một vẻ đẹp khơng cần trang sức, đẹp một cách vơ tư, hồn nhiên
nên trăng hồ vào thiên nhiên, hồ vào cây cỏ. “Vầng trăng tình nghĩa”, bởi trăng từng chia ngọt, sẻ
bùi, đồng cam cộng khổ, bởi trăng là người bạn, tri âm, tri kỉ.


Ấy mà có những lúc tác giả tự thú nhận là mình đã lãng quên cái “<i>vầng trăng tình nghĩa</i>” ấy :


<i>“Từ hồi về thành phố</i>


<i>Quen ánh điện, cửa gương</i>
<i>Vầng trăng đi qua ngõ</i>
<i>Như người dưng qua đường”.</i>


Trước đây, tác giả sống <i>với sông, với bể, với rừng</i> bây giờ môi trường đã thay đổi. <i>Từ hồi về thành</i>
<i>phố </i>đời sống cũng thay đổi theo :<i>“quen ánh điện, cửa gương”. “Ánh điện”, “cửa gương</i>” tượng trưng cho
cuộc sống sung túc, tiện nghi, sang trọng ... dần dần “<i>cái vầng trăng tình nghĩa</i>” ngày nào bị lãng quên.
“<i>Vầng trăng</i>” ở đây tượng trưng cho những tháng năm gian khổ, cho tình bạn, tình đồng chí hình thành từ
những tháng năm ấy. Trăng bây giờ thành<i> “người dưng</i>”... Con người ta thường hay đổi thay như vậy.
Bởi thế đời vẫn thường nhắc nhau : “<i>ngọt bùi nhớ lúc đắng cay</i>”. Ở thành phố vì quen với “<i>ánh điện,</i>
<i>cửa gương</i>” quen với cuộc sống đầy đủ tiện nghi nên người đã không thèm để ý đến “<i>Vầng trăng</i>” - con
người, mảnh đất từng là tri kỉ một thời.


Phải đến lúc toàn thành phố mất điện :


<i>“Phòng buyn đinh tối om</i>
<i>Vội bật tung cửa sổ</i>


<i>Đột ngột vầng trăng tròn”</i>


“<i>Vầng trăng</i>” xuất hiện thật bất ngờ. Khoảnh khắc ấy, phút giây ấy... người lính năm xưa mới
bàng hoàng thức tỉnh. Bao nhiêu kỉ niệm xưa bỗng ùa về làm "Con người này" cứ “<i>rưng rưng</i>” nước
mắt.


<i>“Ngửa mặt lên nhìn mặt</i>
<i>Có cái gì rưng rưng..."</i>
<i>"... Ánh trăng im phăng phắc</i>


<i>Đủ cho ta giật mình...”.</i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

của tình bạn, tình đồng đội trong những tháng năm “<i>khơng thể nào quên</i>”. Tượng trưng cho "mảnh đất
nuôi ta thành dũng sĩ”.


“<i>Ánh trăng</i>” của Nguyễn Duy đã gây được nhiều xúc động đối với độc giả bởi cách diễn đạt bình
dị như lời tâm sự, lời tự thú, lời tự nhắc chân thành. Giọng thơ trầm tĩnh sâu lắng. Tứ thơ bất ngờ mới
lạ ,“<i>Ánh trăng</i>” còn mang ý nghĩa triết lí về sự thuỷ chung khiến cho người đọc phải “<i>giật mình</i>” suy
nghĩ, nhìn lại chính mình để sống đẹp hơn, nghĩa tình hơn.


<b>2.BÀI VĂN THAM KHẢO</b>


Hàng ngàn năm nay, vầng trăng đã hiện diện trong thơ. Trăng như một biểu tượng thơ mộng gắn
với tâm hồn thi sĩ. Nhưng có một nhà thơ cũng viết về trăng, khơng chỉ tìm thấy ở đấy cái thơ mộng, mà
cịn gửi gắm những nỗi niềm tâm sự mang tính hàm nghĩa độc đáo. Đó là trường hợp bài thơ <i>Ánh trăng</i>


của Nguyễn Duy viết năm 1978 tại thành phố Hồ Chí Minh.


Khác với những bài thơ thời chiến tranh mà con người chỉ có một lí tưởng là chiến đấu và sẵn
sàng hi sinh cho Tổ quốc, con người khơng có điều kiện để sống cho những gì thuộc về riêng tư, hay
chuyện đời thường. Đọc bài thơ này ta nhận ra cái điều mới lạ ấy. Bước từ chiến tranh sang thời bình,
con người bắt đầu có những toan tính, những ham muốn được hưởng thụ. Nguyễn Duy mượn vầng trăng
và người lính nói về một sự thay đổi trong lòng người.


Vầng trăng trong thời tuổi thơ và chiến tranh gắn bó đẹp là vậy thế mà do hoàn cảnh, con người
đã lãng quên để rồi từ trong sâu thẳm tâm hồn, con người phải day dứt. Hai khổ kết bài thơ là một sự
thức tỉnh, một bài học làm người.


<i>Trăng cứ tròn vành vạnh</i>
<i>...</i>
<i>Đủ cho ta giật mình</i>



Vầng trăng vẫn đẹp và trịn đầy như biểu tượng bao dung, nghĩa tình của nhân dân khơng địi hỏi
được đền đáp. Nhưng trăng cũng "im phăng phắc" với ánh mắt nghiêm nghị, thái độ nghiêm khắc.
Khiến tình cảm người lính trong giây lát đã lãng quên quá khứ, trong sa ngã đời sống đã tự vấn lương
tâm mình, tự sám hối với lịng mình. Cái <i>rưng rưng</i> muốn bật khóc và cái <i>giật mình</i> tỉnh ngộ là tấm lịng
chân thực của người lính vốn cao đẹp khơng thể khác.


Với ý nghĩa này, <i>Ánh trăng</i> mang tính chất triết lí sâu sắc, có tác dụng cảnh tỉnh những ai dễ lãng
quên quá khứ tốt đẹp. Cần biết sống thủy chung, nghĩa tình.


Sau chiến tranh "<i>Thời tơi sống biết bao câu hỏi lớn/ Câu trả lời thật không dễ dàng chi"</i>. <i>Ánh trăng</i> của
Nguyễn Duy giúp mỗi người tìm được câu trả lời thấm thía trong cái<i> "giật mình", "rưng rưng</i>" ấy.


<i><b> </b></i>



<i><b> Đồng chí của Chính Hữu</b></i>


<b>ĐỀ SỐ 8</b>



<b>1. Phân tích bài thơ </b><i>Đồng chí</i> của Chính Hữu
<b>2. Phân tích đoạn thơ : </b>


<i>Khơng có kính rồi xe khơng có đèn</i>
<i> </i> <i>Khơng có mui xe thùng xe có xước</i>
<i> </i> <i>Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước</i>
<i> </i> <i>Chỉ cần trong xe có một trái tim</i>


(<i>Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính </i>- Phạm Tiến Duật)


<b>1. BÀI VĂN THAM KHẢO</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

chiến đấu ấy, Chính Hữu, một nhà thơ - chiến sĩ đã xúc động viết bài thơ <i>Đồng chí</i>. Với lời thơ chân


chất, tràn đầy tình cảm, bài thơ đã để lại bao cảm xúc trong lòng người đọc.


Cả bài thơ thể hiện rõ tình đồng đội keo sơn gắn bó giữa những người chiến sĩ quân đội nhân dân
trong cuộc sống chiến đấu gian khổ. Họ là những người xuất thân từ nhân dân lao động chỉ quen việc
"<i>cuốc cày"</i> ở những vùng quê nghèo khác nhau, vì có chung tấm lịng u nước, họ đã gặp nhau từ xa lạ
bỗng trở thành thân quen. Chính Hữu đã kể về những con người ấy bằng lời thơ thật xúc động :


<i>Quê hương anh nước mặn đồng chua</i>
<i>Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá</i>
<i>Anh với tôi đôi người xa lạ</i>


<i>Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau</i>


Họ đều xuất thân từ những vùng đất khô cằn, nghèo khổ "<i>nước mặn đồng chua</i>", <i>"đất cày lên sỏi</i>
<i>đá"</i>. Từ "<i>xa lạ"</i> gặp nhau. Thật là thú vị, nhà thơ khơng nói hai người xa lạ mà là <i>"đơi người xa lạ</i>", vì
thế ý thơ được nhấn mạnh, mở rộng thêm. "Hai người" cụ thể quá. Đôi người là từng "đôi" một - nhiều
người. Trong đơn vị quân đội ấy, ai cũng thế. Hình ảnh những con người <i>chẳng hẹn quen nhau</i> nói lên
một sự thật. Những con người vốn xa lạ khi tham gia kháng chiến, đã cùng nhau chiến đấu, cùng nhau
chịu đựng gian khổ, chung lưng đấu cật bên nhau. Vì thế họ trở thành thân nhau, hiểu nhau, thương nhau
và gọi nhau là <i>"đồng chí".</i>


<i> Súng bên súng, đầu sát bên đầu</i>
<i> Đêm rét chung chăn thành đơi tri kỉ</i>
<i> Đồng chí</i>


Tình cảm ấy thật thân thương, thật tha thiết. Giọng thơ đang liền mạch nhẹ nhàng, thủ thỉ tâm tình,
bỗng ngắt nhịp đột ngột. Từ <i>Đồng chí</i> lại được tách ra làm câu riêng, một đoạn riêng. Với cấu trúc thơ
khác thường ấy tác giả đã làm nổi bật ý thơ. Nó như một nốt nhấn của bản nhạc, bật lên âm hưởng gây
xúc động lòng người. Câu thơ chỉ có một từ <i>Đồng chí </i>- một tiếng nói thiêng liêng. Đồng chí - một tiếng
reo, một sự cảm kích chất chứa nhiều đổi thay trong quan hệ tình cảm.



Tình cảm ấy lại đựơc biểu hiện cụ thể trong cuộc sống chiến đấu kể cho nhau nghe chuyện quê nhà.
Chuyện <i>"Ruộng nương anh gửi bạn thân cày", "Gian nhà khơng mặc kệ gió lung lay",</i> cả chuyện <i>"Giếng</i>
<i>nước gốc đa nhớ người ra lính"</i>... Từ những tâm tình ấy, ta hiểu, các anh chiến sĩ mỗi người đều có một
quê hương, có những kỉ niệm thân thiết gắn bó với quê nhà và khi ra đi họ mang theo hình bóng q
hương. Các miền q tuy khác nhau nhưng đều có những nét gần q nhau. Các anh cùng chia sẻ ngọt
bùi, cùng chịu gian khổ bên nhau. Trong gian lao vất vả họ tìm được niềm vui, niềm hạnh phúc trong
mối tình đồng chí. Làm sao các anh có thể quên được những lúc <i>ướt mồ hôi</i>, cùng chịu với nhau <i>từng cơn</i>
<i>ớn lạnh</i>. Cuộc sống bộ đội nghèo vất vả nhưng không thiếu niềm vui. Dẫu <i>áo anh rách vai, quần tơi có</i>
<i>vài mảnh vá...</i> dẫu trời có <i>buốt giá</i> thì miệng vẫn cười tươi. Tình cảm chân thành tha thiết ấy khơng diễn
tả bằng lời mà lại thể hiện bằng cách <i>nắm lấy bàn tay</i>. Thật giản dị và cảm động. Không là vật chất của
cải, không là lời hoa mĩ phô trương. Những người chiến sĩ biểu hiện tình đồng chí "tay trong tay". Chính
đơi bàn tay nắm chặt đã nói lên tất cả ý nghĩ thiêng liêng cao đẹp của mối tình đồng chí.


<i> </i> <i> Đêm nay rừng hoang sương muối</i>
<i> </i> <i> Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới</i>


<i> Đầu súng trăng treo</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Bằng ngơn ngữ cơ đọng, hình ảnh chân thực gợi tả có sự khái quát cao. Bài thơ là niềm xúc động
về tình cảm cách mạng của người lính trong chiến đấu chống kẻ thù chung. Nhà thơ đã xây dựng hình
ảnh thơ từ những chi tiết thực của cuộc sống đời thường của người chiến sĩ, không phô trương, khơng
lãng mạn hóa, thi vị hóa. Chính những nét thực đó tạo nên sự thành cơng của tác phẩm. Bài thơ đánh
dấu một bước ngoặt mới trong phương pháp sáng tác và cách xây dựng hình tượng người chiến sĩ trong
thơ thời kì chống Pháp.


<b>2. BÀI VĂN THAM KHẢO</b>


Phạm Tiến Duật là một trong những gương mặt xuất sắc của thơ ca Việt Nam thời chống Mĩ cứu
nước. Ông được gọi là <i>"Viên ngọc Trường Sơn của thơ ca</i>" bởi đã mang cả hào khí thời đại cùng dãy


Trường Sơn vào thơ. Đặc biệt mảng thơ về người lính lái xe của thi sĩ đã để lại ấn tượng thật thú vị. Đó
là những "<i>Vết xe lăn"</i> nóng bỏng trong những bài thơ trên đường ra trận thời chống Mĩ.


Trong số những vần thơ thơng minh, dí dỏm về người lính lái xe này của Phạm Tiến Duật, phải kể
đến <i>Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính.</i>


Bài thơ được viết năm 1969, in trong tập "<i>Vầng trăng - Quầng lửa</i>". Hình tượng thơ hết sức độc đáo :
những chiếc xe không kính băng băng ra trận bất chấp hồn cảnh khắc nghiệt của chiến tranh. Để cuối
bài thơ, tác giả đưa ra một ý tưởng thật bất ngờ - đó là "<i>trái tim cầm lái": </i>


<i>Khơng có kính rồi xe khơng có đèn</i>
<i> </i> <i>Khơng có mui xe thùng xe có xước</i>
<i> </i> <i>Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước</i>
<i> </i> <i>Chỉ cần trong xe có một trái tim</i>


Ở phần đầu bài thơ, Phạm Tiến Duật đã giải thích rất đơn giản mà sắc sảo : <i>"Khơng có kính khơng</i>
<i>phải vì xe khơng có kính" </i>bởi vì :<i> "Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi".</i> Chiến tranh bom đạn tàn phá, xe
khơng kính chắn gió vẫn ra trận thanh thản mà ung dung. Hai câu đầu khi kết, tác giả một lần nữa tả
hình dáng của chiếc xe quân sự thời chống Mĩ :


<i>Không có kính rồi xe khơng có đèn</i>
<i>Khơng có mui xe thùng xe có xước</i>


Đã khơng kính - <i>gió, bụi, mưa tn</i> vào buồng lái, khó khăn chồng chất hơn khi xe lại <i>khơng có đèn</i>,
rồi <i>khơng có mui xe thùng xe có xước</i>. Một hình ảnh thực qua bao trận chiến. Người lái xe phải huy động
mọi giác quan, năng lực để lái xe trong hiểm nguy. Tất cả đều vượt qua bởi :


<i>Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước</i>
<i>Chỉ cần trong xe có một trái tim</i>



Đây là chủ đề sâu thẳm của bài thơ. Đây mới là điều hệ trọng và thiêng liêng mà cả bài thơ đầy
giọng "ngang tàng", lạc quan chưa hé lộ. Nhà thơ đã nói đúng tinh thần thời đại : <i>Xẻ dọc Trường sơn đi</i>
<i>cứu nước - Mà lòng phơi phới dậy tương lai </i>(Tố Hữu). Cả nước lên đường đánh Mĩ vì Miền Nam ruột
thịt. Vậy là trái tim đã giúp những người lính vượt qua gian khổ trên những chiếc xe <i>khơng kính, khơng</i>
<i>đèn, khơng mui xe...</i> Trái tim rực lửa căm thù giặc và nóng bỏng yêu thương đồng bào Miền Nam ấy
chính là vẻ đẹp sâu thẳm của tâm hồn Việt Nam thời đánh Mĩ, là trái tim nhân hậu, thủy chung của cả
dân tộc .


Thơ là thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp. Phạm Tiến Duật đã thể hiện thành công
tâm hồn thế hệ trẻ Việt Nam yêu nước trong những năm tháng đánh Mĩ hi sinh gian khổ mà vĩ đại của
dân tộc ta.


Chiến tranh đã lùi xa mãi mãi, nhưng những "<i>dấu xe trên dãy Trường Sơn</i>" của những chiếc xe
độc đáo một thời góp phần làm nên kì tích trong thơ Phạm Tién Duật sẽ cịn đánh thức tâm hồn chúng
ta<i>.</i>


<b>ĐỀ SỐ 9</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

<b>1. BÀI VĂN THAM KHẢO</b>


<b>Hình ảnh Đầu súng trăng treo của Chính Hữu.</b>


<i>Đầu súng trăng treo</i> là câu kết bài thơ <i>Đồng chí</i>, cũng là một biểu tượng đẹp về người chiến sĩ
thời kì đầu kháng chiến chống Pháp. Trong đêm phục kích giữa rừng, bên cạnh hình ảnh thực là súng, là
nhiệm vụ chiến đấu tạo nên con người chiến sĩ thì cái mộng, cái trữ tình là trăng. Hình ảnh trăng tạo nên
con người thi sĩ. Hình ảnh chiến sĩ, thi sĩ hài hịa với nhau trong cuộc đời người lính cách mạng. Hai hình
ảnh tưởng là đối lập đặt cạnh nhau tạo ra ý nghĩa hồ hợp vơ cùng độc đáo. Súng là chiến đấu, gian
khổ, hi sinh là hiện thực. Cịn trăng là tượng trưng cho hịa bình, gợi lên sự đẹp đẽ, thơ mộng, dịu dàng
là lãng mạn. Người lính cầm súng để bảo vệ hịa bình, khát khao hịa bình, khơng ngại gian khổ, hi sinh
nhưng xét về phương diện tinh thần, tình cảm thì đây chính là cuộc chiến mang vẻ đẹp của chính nghĩa,


của lịng yêu nước. Súng và trăng : cứng rắn và dịu hiền, chiến sĩ và thi sĩ, có người cịn gọi đây là một
cặp <i>đồng chí</i>.


Chính Hữu đã thành cơng với hình ảnh <i>Đầu súng trăng treo </i>- một biểu tượng thơ giàu sức gợi cảm.
Tác giả đã từng nói : "<i>Trong chiến dịch nhiều đêm có trăng đi phục kích giặc trong đêm trước mắt tơi chỉ</i>
<i>có ba nhân vật : Khẩu súng, vầng trăng và người bạn chiến đấu. Ba nhân vật quện với nhau tạo ra hình</i>
<i>ảnhđầu súng trăng treo"</i>


<i> Đầu súng trăng treo</i>, đã trở thành một biểu tượng đẹp của người lính cách mạng Việt Nam : Hiện thực
và lãng mạn, chiến sĩ và thi sĩ.


<b>Hình ảnh trăng của Nguyễn Duy</b>


<i>Ánh trăng</i> của Nguyễn Duy với hình ảnh trăng khơng chỉ là vẻ đẹp thiên nhiên đất nước mà cịn
gắn bó với tuổi thơ, với những ngày kháng chiến gian khổ. Vầng trăng mà mỗi chúng ta khơng bao giờ
có thể qn và đừng vơ tình lãng qn.


Hình ảnh trăng bắt đầu gắn với cuộc sống bình thường của con người và vầng trăng thời chiến
tranh. Đầy ắp những kỉ niệm về vầng trăng trải rộng trên một thiên nhiên bao la <i>với sông, với đồng, với</i>
<i>bể</i>. Thời chiến tranh máu lửa vầng trăng đã thành tri kỉ với người lính. Vầng trăng là biểu tượng đẹp của
những năm tháng nghĩa tình ngỡ khơng bao giờ có thể qn.


Thật đáng sợ là sự thay đổi của lòng người. Từ ở rừng, sau chiến thắng về thành phố, được sống
cuộc sống tiện nghi : ở <i>buyn đinh</i>, quen <i>ánh điện, cửa gương...</i> Và <i>vầng trăng tri kỉ, nghĩa tình</i> đã bị
người tri kỉ xưa <i>lãng quên, dửng dưng</i>. Trăng được nhân hóa, <i>lặng lẽ</i> đi qua đường, như <i>người dưng</i>,
chẳng còn ai nhớ, chẳng ai hay.


Bất ngờăngời gặpmột tình huống của nhịp sống thị thành : <i>thình lình đèn điện tắt</i>. Vầng trăng xưa
xuất hiện, vẫn trịn, vẫn đẹp, vẫn thủy chung với người. Nước mắt <i>rưng rưng</i> của ngưịi lính, cái <i>giật</i>
<i>mình</i> của người lính trước sự im lặng của trăng xưa hiện về nơi thành phố hơm nay là một biểu tượng


nghệ thuật mang tính hàm nghĩa độc đáo. Đó là sự bao dung, độ lượng, nghĩa tình, thủy chung của nhân
dân, sự trong sáng mà khơng hề địi hỏi được đền đáp. Đây chính là phẩm chất cao đẹp của nhân dân
mà tác giả muốn ngợi ca, tự hào.


Cũng là thông điệp hãy biết nhớ về quá khứ tốt đẹp, không nên sống vơ tình. Đó chính là ý nghĩa
sâu sắc của hình ảnh <i>trăng</i> trong bài thơ của Nguyễn Duy tự nhắc nhủ mình và muốn gửi gắm.


<b>ĐỀ SỐ 10</b>



<i><b>1. Vẻ đẹp của người lính trong khổ cuối bài thơ Đồng chí của Chính Hữu.</b></i>


<i><b>2. Từ hiểu biết về bài Đồng chí của Chính Hữu, em hãy viết một đoan văn theo luận đề :</b></i>
<i><b>Đồng chí mang một vẻ đẹp của thời đại mới.</b></i>


<b>1. BÀI VĂN THAM KHẢO</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

ơng. Cả bài thơ thể hiện rõ tình đồng đội, đồng chí gắn bó keo sơn của những chiến sĩ quân đội nhân
dân trong thời kì kháng chiến chống Pháp.


Bài thơ mở đầu bằng những câu thơ mộc mạc, giản dị, chân chất khi tác giả giới thiệu về quê hương
của các anh bộ đội. Các anh mỗi người một quê - những vùng quê nghèo khó - song đã về đây để cùng
tham gia kháng chiến, cùng chịu đựng gian khổ, chung lưng đấu cật bên nhau


Cuộc sống người lính vất vả biết bao nhiêu. Nào : <i>Áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá..</i>. Lại nữa,
những đêm trời rét chỉ có một mảnh chăn mỏng hay những cơn sốt rét rừng hành hạ... Vượt lên trên tất
cả những khó khăn đó để "<i>Thương nhau tay nắm lấy bàn tay</i>". Chính đơi tay nắm chặt ấy đã nói lên ý
nghĩa thiêng liêng, cao đẹp của tình đồng đội, của ý chí quyết tâm đánh giặc


Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh đặc sắc :



<i>Đêm nay rừng hoang sương muối</i>
<i>Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới</i>
<i>Đầu súng trăng treo</i>


Ba câu thơ là bức tranh đẹp về tình đồng chí, đồng đội của người lính, là biểu tượng đẹp về cuộc
đời người chiến sĩ. Trong bức tranh trên, nổi bật là ba hình ảnh gắn kết với nhau : <i>Người lính, khẩu súng,</i>
<i>vầng trăng</i> giữa cảnh rừng hoang sương muối phục kích giặc. Sức mạnh của tình đồng đội đã giúp họ
vượt lên tất cả những khắc nghiệt của thời tiết và mọi gian khổ, thiếu thốn. Tình đồng chí đã sưởi ấm
lịng họ. Hình ảnh <i>Đầu súng trăng treo</i> là hình ảnh đẹp nhất vì nó vừa là hình ảnh thực vừa là hình ảnh
tượng trưng


Tác giả Chính Hữu đã từng nói : "<i>Đầu súng trăng treo, ngồi hình ảnh, bốn chữ này cịn có nhịp</i>
<i>điệu như lắc của một cái gì lơ lửng chơng chênh trong sự bát ngát. Nó nói lên một cái gì lơ lửng ở rất xa</i>
<i>chứ không phải là buộc chặt, suốt đêm vầng trăng ở bầu trời cao xuống thấp dần và có lúc như treo lơ</i>
<i>lửng trên đầu mũi súng. Những đêm phục kích chờ giặc, vầng trăng như một người bạn</i>" Đó là hình ảnh
thực của cuộc kháng chiến, của những người lính khi chờ giặc tới.


Ngồi tả thực, hình ảnh "<i>Đầu súng trăng treo"</i> cịn mang ý nghĩa tượng trưng. Đó là sự kết hợp giữa
bút pháp hiện thực và lãng mạn, vừa thực, vừa mơ, vừa xa vừa gần, vừa mang tính chiến đấu, vừa mang
tính trữ tình. Vừa chiến sĩ vừa thi sĩ. Đây là hình ảnh tượng trưng cho tình cảm trong sáng của người
chiến sĩ. Mối tình đồng chí đang nảy nở, vươn cao, tỏa sáng từ cuộc đời chiến đấu. Hình ảnh thơ thật độc
đáo, gây xúc động bất ngờ, thú vị cho người đọc. Nó nói lên đầy đủ ý nghĩa cao đẹp của mục đích lí
tưởng chiến đấu và tình nghĩa thiêng liêng của anh bộ đội Cụ Hồ.


Với nhịp chậm, giọng thơ hơi cao, ba câu thơ cuối của bài một lần nữa khắc họa chân thực mà
sâu sắc về hình ảnh người lính trong thời kì kháng chiến chống Pháp.


Tình cảm đồng chí, đồng đội là tình cảm thiêng liêng cao đẹp nhất của những người lính. Đó là
sức mạnh giúp họ vượt qua tất cả mọi khó khăn trở ngại, mọi thiếu thốn để chiến thắng kẻ thù. Bài thơ



<i>Đồng chí</i> đặc biệt là ba câu kết như một lời nhắn nhủ với mọi người : Hãy biết nâng niu và gìn giữ
những tình cảm đẹp trong cuộc sống, phải biết kính trọng những người lính


<b>2. BÀI VĂN THAM KHẢO</b>


Vẻ đẹp của thời đại mới trong hình tượng thơ ở đây là tình đồng chí, đồng đội gắn với giai cấp của
người lính. Cả bài thơ khai thác đời sống nội tâm, tình cảm của người lính. Vẻ đẹp của bài thơ <i>Đồng chí</i>


là vẻ đẹp đời sống tâm hồn người lính, nơi phát ra vầng ánh sáng lung linh nhất là tình đồng chí đồng
đội : "<i>Thương nhau tay nắm lấy bàn tay</i>". Chỉ cần thương nhau tay nắm lấy bàn tay là đủ hơi ấm để
chống chọi với cái rét run người nơi đại ngàn. Những đêm <i>rừng hoang sương muối</i>... Trong cái cầm tay
nhau ấy, hình ảnh đất nước và tinh thần đồn kết giai cấp được diễn đạt thật cao đẹp, cô đọng và thuyết
phục. Chính tình cảm cao đẹp và lí tưởng sáng ngời "Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới" đó mà những
người lính được nâng lên tầm cao khái quát trong đó có sự hài hịa giữa hiện thực và lãng mạn, trữ tình.


<i>Đầu súng trăng treo</i> mang ý nghĩa sâu sắc cho tinh thần thời đại.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

<b> của Phạm Tiến Duật </b>


<b>ĐỀ SỐ 11</b>



<i><b>Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính</b></i><b> của Phạm Tiến Duật đã cho thấy hành trang mang theo con</b>
<b>đường ra trận là trái tim yêu nước. Ý kiến của em ?</b>




<b>BAØI VĂN THAM KHẢO</b>


Phạm Tiến Duật là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ những năm kháng chiến
chống Mĩ. Bản thân là anh bộ đội Trường Sơn, tác giả cảm thơng và hiểu rõ tâm tình người lính, nhất là
người chiến sĩ vận tải dọc Trường Sơn chở vũ khí, quân trang từ hậu phương lớn ra tiền tuyến lớn. Cùng


với thế hệ thanh niên hăng hái "<i>Xẻ dọc trường sơn đi cứu nước / Mà lòng phơi phới dậy tương lai" </i>Phạm
Tiến Duật mang niềm vui hăm hở của tuổi trẻ ra chiến trường. Nhà thơ đã tạo cho mình một giọng điệu
thơ rất lính : khỏe khoắn, tự nhiên, tràn đầy sức sống, tinh nghịch tươi vui mà giàu suy tưởng. <i>Bài thơ về</i>
<i>tiểu đội xe khơng kính</i> là tác phẩm tiêu biểu nhất của giọng thơ ấy, của hồn thơ ấy.


Kết cấu của bài thơ là hành trình của con đường ra trận. Hành trình đó có những lúc dãi dầu nắng
mưa, có những ngày vượt suối băng đèo và có tiếng reo cười trong tình thân chan hịa đồng đội, trong
một mái ấm gia đình giữa đất trời bao la. Kết cấu đó trước hết thể hiện qua số lượng chữ trong câu :
Mở đầu chặng đường hành qn là những khó khăn. Vì vậy khổ 1, câu thơ đầu dài ra 10 chữ và kết
thúc bằng thanh trắc - hoàn toàn trái quy luật phối thanh bình thường của thơ vần nhịp. Nó là điệu nói :


<i>Không có kính không phải vì xe không có kính</i>


Ba câu tiếp theo, khó khăn dần rút lại, tạo nên sự ung dung phong thái đỉnh đạc với số lượng chữ
rút dần xuống và đằm lại về thanh điệu : 8 - 6 - 6, bằng - bằng - trắc.


Hai câu thơ cuối khổ, thanh bằng chiếm tỉ lệ nhiều hơn, khoảng 2/3. Chính sự thắng thế của
thanh bằng đã tạo nên sự thanh thản, ung dung cho khổ thơ mặc dù kết thúc của nó lại là thanh trắc.
Chính thanh trắc này lại mở đường cho xe đi tới : <i>Nhìn thẳng.</i>


Năm khổ thơ tiếp theo, số lượng câu chữ trở lại bình thường, hốn đổi đều đặn ở hai kiểu kết hợp
: 7- 8- 8- 7- và 7- 7- 8- 7. Đường ra trận đẹp lắm, nên xe khơng kính cứ chạy băng băng, người lái xe đã


<i>nhìn thấy</i>, <i>nhìn thấy </i>và <i>thấy</i>. Thấy <i>gió xoa mắt đắng, thấy con đường chạy thẳng vào tim</i>. Quan trọng
nhất, thấy được nụ cười rạng rỡ của nhau. Ấy cũng chính là thấy được lịng dũng cảm tiềm ẩn đằng sau
những câu đùa vui và hành động tếu táo :


<i>Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới</i>
<i>Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi</i>



Khổ thơ có một sự thay đổi đặc biệt so với toàn bài ở số lượng chữ trong câu thơ : 8- 8- 8- 8. Bốn
câu thơ 32 chữ chia đều nhau thanh điệu bằng trắc ở bốn chữ cuối và trở lại kiểu phối âm bình thường
bằng- trắc- trắc- bằng. Câu kết của bài thơ mở rộng bằng sự phối hợp, luyến láy. Bằng trắc tạo ra sự
khẳng định vừa điềm tĩnh vừa kiên nghị :


<i><b>Chỉ cần trong xe có một trái tim</b></i>


Đây là câu thơ mấu chốt của cả khổ thơ và cả bài thơ. Hóa ra tất cả khó khăn thử thách ở phía trên kia
chẳng là gì cả, dù cho bom rơi, pháo thả, dù xe không kính, dù đường ra mặt trận có khi đồng nghĩa với
cái chết thì người lính lái xe ra trận cũng ln cảm thấy bình n, an tồn bởi vì <i>có một trái tim</i>. Đó là
trái tim biết thức vì Miền Nam, biết khát khao chân lí, hịa bình. Hành trang ra trận cần biết bao một trái
tim như thế.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

nhưng vẫn mang đậm bản sắc của thơ ca dân tộc, nối tiếp truyền thống của thơ ca cách mạng viết về
anh bộ đội trong hai cuộc trường chinh cứu nước vĩ đại của dân tộc ở thế kỉ XX.


<b>ĐỀ SỐ 12</b>



<b>Hình ảnh người lính trong hai bài thơ </b><i><b>Đồng chí</b></i><b> của Chính Hữu và </b><i><b>Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính</b></i>


<b>của Phạm Tiến Duật</b><i><b>.</b></i>


<b>BÀI VĂN THAM KHẢO</b>
<i>Lớp cha trước lớp con sau</i>


<i>Đã thành đồng chí chung câu quân hành </i>


(Tố Hữu)


Trải qua ba mươi năm chiến tranh vệ quốc vĩ đại, dân tộc ta đã làm nên kỳ tích hào hùng : đánh thắng


thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Có thể nói, nhân vật trung tâm của thời đại đã làm nên huyền thoại, đó
là anh bộ đội Cụ Hồ.


Hình tượng anh bộ đội Cụ Hồ đã trở thành cảm hứng đẹp trong thơ ca hiện đại. Trong số những bài thơ
viết về đề tài này phải kể đến <i>Đồng chí</i> của Chính Hữu và <i>Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính </i>của Phạm
Tiến Duật. Hai bài thơ gắn với hai giai đoạn kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ sẽ giúp chúng ta cảm
nhận đầy đủ hơn về hình ảnh người lính.


Chính Hữu sinh năm 1926. Năm 1946 ơng nhập ngũ, là lính trung đồn Thủ đơ. Đầu năm 1948 bài
thơ <i>Đồng chí</i> ra đời khi ơng là chính trị viên đại đội. Phạm Tiến Duật sinh năm 1941, năm 1964 gia nhập
quân đội, hoạt động trên tuyến đường Trường sơn. <i>Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính</i> sáng tác năm 1969.
Hai nhà thơ thuộc hai thế hệ thi nhân nối tiếp nhau trong cuộc trường chinh của dân tộc. Hai thi phẩm
mà chúng ta đề cập tới đều trong số những tác phẩm tiêu biểu của mỗi giai đoạn văn học thể hiện thành
công hình ảnh người chiến sĩ, sẽ cịn sống mãi với thời gian.


Đọc <i>Đồng chí</i>, cảm nhận chung của chúng ta là, người lính cách mạng trong kháng chiến chống
Pháp xuất thân từ nơng dân. Hình ảnh họ được Chính Hữu mơ tả chân thực, giản dị mà cao đẹp. Khác
với khuynh hướng lãng mạn anh hùng mang dáng dấp tráng sĩ trượng phu của thơ ca đầu chống Pháp,
cảm hứng của Chính Hữu trong <i>Đồng chí</i> hướng về chất thực của đời sống, khai thác cái đẹp và chất thơ
trong cái "đời thực" của cuộc chiến đấu và người chiến sĩ. Cái đẹp trong khó khăn, thiếu thốn và nhất là
cái đẹp trong tình đồng chí, đồng đội, thắm thiết, sâu nặng :


<i>Quê hương anh nước mặn đồng chua</i>
<i>làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá</i>
<i>Tôi với anh đôi người xa lạ</i>


<i>Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau</i>
<i>Súng bên súng đầu sát bên đầu</i>
<i>Đêm rét chung chăn thành đơi tri kỉ</i>
<i>Đồng chí !</i>



Đoạn mở đầu này có bảy dịng, theo ba cặp và cuối cùng dồn lại ở một từ : <i>Đồng chí</i>. Một sự lí giải
tình đồng chí của nguời lính. Đó là xuất phát từ sự giống nhau ở cảnh ngộ, xuất thân từ nghèo khó, là
cùng chung mục đích, lí tưởng, nhiệm vụ, chia sẻ gian lao (<i>Súng bên súng đầu sát bên đầu/ Đêm rét</i>
<i>chung chăn thành đôi tri kỉ..</i>.) Một chữ <i>chung</i> khiến những người vốn xa lạ thành <i>đôi tri kỉ</i> và cao hơn là
thành đồng chí.


Người xưa đánh giá tình bạn cao nhất bằng tri kỉ. Chính Hữu nhìn thấy ở anh bộ đội Cụ Hồ một tình
cảm cịn sâu sắc hơn, gắn bó hơn - tình đồng chí. Tình cảm này khơng phải chỉ vì sự cảm thơng sâu xa
tâm tư, nỗi lòng của nhau mà là cái chung lớn lao.


Tất cả diễn đạt bằng lời không đủ, bao nhiêu lời thân thương, trìu mến nhất cũng trở thành sáo
rỗng, không chuyên chở nổi sức nặng cảm động giữa những người lính, người đồng đội. Vì thế đoạn thơ
thứ hai có 10 dịng vẫn theo từng cặp tương ứng để cuối cùng dồn lại một hành động thay cho muôn lời :
"<i>Thương nhau tay nắm lấy bàn tay"</i>. Tình đồng chí giữa những người lính vệ quốc, nói như Chính Hữu :


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

<i>Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi</i>
<i>Áo anh rách vai</i>


<i>Quần tôi có vài mảnh vá</i>
<i>Miệng cười buốt giá</i>
<i>Chân khơng giày...</i>


Là tình cảm của cha ông thuở mới nổi dậy chống Pháp hồi giữa thế kỉ XIX truyền lại. Tình của
những <i>dân ấp, dân lân</i>, "V<i>iệc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy tay vốn quen làm - Tập khiên, tập súng,</i>
<i>tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó"</i> (<i>Văn tế nghĩa sỹ Cần Giuộc </i>- Nguyễn Đình Chiểu). Những con người
ấy vốn dĩ không đi vào cuộc chiến đấu cam go, thiếu thốn này bằng óc lãng mạn. Nhưng cuộc chiến đấu
trên chiến hào bảo vệ Tổ quốc đã khiến họ thành oai hùng, lãng mạn. Bức tượng đài cuối bài thơ là sự
phát triển tất yếu từ tình đồng chí :



<i>Đêm nay rừng hoang sương muối</i>
<i>Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới</i>
<i>Đầu súng trăng treo</i>


Đó là cuộc đời thực của những người lính nơng dân nghèo khổ nơi : <i>nước mặn đồng chua, đất cày lên</i>
<i>sỏi đá, áo rách vai, quần vài mảnh vá, chân không giày</i>... được tình cảm cách mạng cao đẹp tạc thành
dáng hình mới.


Nếu <i>Đồng chí</i> là hình ảnh của anh lính nơng dân chưa biết chữ thời kì đầu kháng Pháp thì người lính
trong <i>Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính</i> là một hóa thân khác. Họ là những thanh niên học sinh đã qua 20
năm dưới mái trường Miền Bắc đi chiến đấu, giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước. Người chiến sĩ
trong <i>Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính,</i> cũng như <i>Đồng chí</i> vẫn cùng bốn phương hội tụ, nhưng với tất cả
sự trong sáng, hồn nhiên, vô tư. Họ, những người chiến sĩ lái xe, những chiếc xe từ trong bom đạn : <i>đã</i>
<i>về đây họp thành tiểu đội</i> : <i>Không có kính rồi xe khơng có đèn, khơng có mui xe... </i>Bởi vì<i> : Bom giật bom</i>
<i>rung kính vỡ đi rồi.</i> Nên phải chịu bao gian khổ : <i>gió, bụi, mưa</i> xối xả song :


<i>Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước</i>
<i>Chỉ cần trong xe có một trái tim</i>


Tình đồng chí, đồng đội trong bài thơ của Phạm Tiến Duật có cái tên chung là <i>ta,chúng ta</i>. Tất cả đều
là đồng chí : trẻ, khỏe, dũng cảm bất chấp nguy hiểm. <i>Khơng có kính khơng phải vì xe khơng có kính /</i>
<i>bom giật bom rung kính vỡ đi rồi</i>. Nhưng : <i>Ung dung buồng lái ta ngồi/ Nhìn đất nhìn trời nhìn</i>
<i>thẳng.../Bụi phun tóc trắng... cười ha ha / Mưa tuôn... mau thôi / Gặp bè bạn... kính vỡ rồi /</i> Họ khơng cần
nhiều tìm hiểu, không cần phải đồng cảnh ngộ, với họ <i>từ trong bom rơi... họp thành tiểu đội</i>. Nếu hình
ảnh người chiến sĩ trong bài <i>Đồng chí</i> là một bức tượng đài : <i>Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới/ Đầu súng</i>
<i>trăng treo</i> thì người lính trong thơ Phạm Tiến Duật là một phù điêu những khuôn mặt trai trẻ, hồn nhiên.


<i>Đồng chí</i> của Chính Hữu và <i>Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính</i> của Phạm Tiến Duật là hai tiêu điểm trong
các tiêu điểm của hình tượng người lính - Anh bộ đội Cụ Hồ mà thơ ca dựng lên từ 30 năm chiến đấu
gian khổ đến ngày toàn thắng 1975.



<b>Truyện ngắn Làng của Kim Lân </b>


<b>ĐỀ SỐ 13</b>



<b>Diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai trong truyện ngắn </b><i><b>Làng</b></i><b> của Kim Lân (chủ yếu từ</b>
<b>khi ông nghe tin làng theo giặc chở đi).</b>


<b>BÀI VĂN THAM KHẢO</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

Là một người nông dân suốt cuộc đời sống ở quê, gắn bó máu thịt với từng nếp nhà, thửa ruộng...,
vì giặc ngoại xâm ơng Hai phải đi tản cư nhưng lịng vẫn khơng thơi đau đáu về q, ông bày tỏ nỗi
nhớ, tình yêu quê của mình trong những câu chuyện hàng ngày.


Cũng vì quá yêu làng, tự hào về làng, ơng lại càng chua xót, tủi khổ hơn khi nghe cái tin làng ông
làm Việt gian theo Tây mà chính ơng nghe được từ miệng những người tản cư dưới xi lên. Tin đó q
đột ngột khiến ông Hai sững sờ “<i>cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng</i>
<i>như đến khơng thở được...”.</i> Trong điều kiện, hồn cảnh lúc này, ông không thể biết được tin này thực hư
ra sao. Nhưng những người tản cư đã kể quá rành rọt, họ còn khẳng định “<i>vừa ở dưới ấy lên</i>”, làm ông
không thể không tin, nên càng khiến ông đau buồn, khổ sở. Tin ấy không chỉ làm cho ơng cảm thấy đau
về thể xác mà cịn xâm chiếm, ám ảnh , day dứt tinh thần. Tiếng cười nói xơn xao của đám người mới
tản cư lên ấy vẫn cứ dõi theo “<i>Cha mẹ tiên sư nhà chúng nó !... Cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho</i>
<i>mỗi đứa một nhát!”</i> khiến ông đau đớn, xấu hổ <i>“cúi gằm mặt xuống mà đi”.</i>


Về đến nhà, ông nằm vật ra giường, nhìn lũ con, cảm thấy tủi thân, nước mắt cứ giàn ra. <i>“Chúng</i>
<i>nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư ? chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi ư ?...”</i> Tin hay khơng
tin ? Ơng ngờ ngợ như lời mình nói không được đúng lắm ? Nhưng rồi nghĩ rằng “<i>người ta hơi đâu bịa ra</i>
<i>những chuyện ấy</i>”. Suốt cả ngày sau, ông không dám đi đâu, chỉ quanh quẩn trong gian nhà chật hẹp,
lắng tai nghe ngóng động tĩnh bên ngồi. “<i>Một đám đơng túm lại, ơng cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói</i>
<i>xa xa, ơng cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, người ta đang bàn tán</i>
<i>đến “cái chuyện ấy...”.</i> Tác giả đã diễn tả rất cụ thể nỗi ám ảnh nặng nề, biến động dữ dội trong nội tâm


nhân vật, sự sợ hãi ám ảnh tâm trạng ông Hai.


Càng yêu làng, tự hào về làng, thì khi làng theo Tây càng tỏ nỗi đau, nỗi nhục ở ông Hai. Cái đau,
cái nhục ấy cũng chính là lịng u làng, yêu nước của ông Hai. Bao nhiêu ý nghĩ ghê rợn nối tiếp bời
bời trong đầu óc ơng, đẩy ông Hai vào tình huống phải lựa chọn “<i>hay là quay về làng </i>?”, “<i>về làng tức là</i>
<i>bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ</i>”. Tình yêu quê và tình yêu Tổ quốc xung đột dữ dội trong lịng ơng. Cuối
cùng ơng đã lựa chọn <i>“Khơng thể được ! Làng thì u thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù</i>”.
Đối với người nơng dân thuần phác ấy, tình u nước rộng lớn, hướng về kháng chiến, cụ Hồ đã bao
trùm lên tình u q.


Nỗi lịng đó của ơng được trút vào những lời thủ thỉ tâm sự với đứa con nhỏ: <i>“Thế con có thích về</i>
<i>làng Chợ Dầu khơng?”; “Thế con ủng hộ ai ?”...</i> Phải chẳng, cũng chính là lời ơng Hai tự nhủ với mình,
tự giãi bày nỗi lịng. Ơng Hai bày tỏ nỗi lịng sâu xa, chân thành của người nông dân với quê, với Tổ
quốc, với cách mạng mà biểu tượng là Cụ Hồ.


Tình yêu làng, lòng tin ở làng, cùng với nỗi day dứt, đau khổ lo lắng đã được giải toả ở tình huống
cuối cùng của câu chuyện. Đó là việc ơng chủ tịch làng Dầu lên cải chính cái tin làng Dầu đi làm Việt
gian. Bao sung sướng, hạnh phúc, tự hào về làng trở về với ông Hai. Trên khuôn mặt buồn thiu mọi
ngày bỗng rạng rỡ lên. Mặc dù biết Tây nó đốt cả nhà mình mà ơng khơng xót xa. Cái dáng vẻ <i>“lật</i>
<i>đật”</i> đi đâu cũng múa tay lên mà khoe tin ấy, tưởng như khơng bình thường nhưng hồn tồn chân thực.
Ơng Hai đã qn sự mất mát riêng để tự hào sung sướng trong vẻ đẹp, sức mạnh chung của quê hương
đất nước. Tình yêu làng của ơng đã mở rộng hồ trong tình u nước.


Thành công của Kim Lân là diễn tả diễn biến tâm lý cụ thể ở một con người - ông Hai, mang tình cảm
chung của người nơng dân Việt Nam đối với làng, với nước. Bên cạnh đó, truyện để lại ấn tượng trong
lịng người đọc bởi chính cảm xúc, khát khao, vui buồn của nhà văn, tạo dư âm vang vọng cho tác
phẩm.


<b>ĐỀ SỐ 14</b>




<i><b>Vẻ đẹp tâm hồn người nông dân Việt nam trong truyện ngắn “Làng” của Kim Lân</b><b>.</b></i>


a) Đảm bảo bài viết là một văn bản nghị luận văn học hồn chỉnh có bố cục rõ ràng, hợp lí ; có cách
diễn đạt trong sáng, gãy gọn, gợi cảm ; khơng mắc lỗi diễn đạt và chính tả.


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

c) Phân tích, đánh giá được vẻ đẹp tâm hồn của ơng Hai - người nông dân Việt Nam, trong truyện
ngắn “Làng".


- Xác định vẻ đẹp tâm hồn chính là vẻ đẹp của tình yêu làng quê, tình yêu đất nước, trung thành
với cách mạng, kháng chiến của ông Hai.


- Trước cách mạng, ơng Hai là người ln gắn bó, tự hào về làng chợ Dầu q ơng, tuy nhiên
tình cảm đó cịn có những hạn chế do chưa được giác ngộ. Bên cạnh niềm tự hào chính đáng về quê
hương giàu đẹp, được biểu hiện qua thói khoe làng của ơng (nêu được dẫn chứng và phân tích). Đặc biệt
ơng cịn khoe về cái sinh phần viên tổng đốc làng ông, điều này khi được giác ngộ ông thấy chỉ đáng
thù nó vì nó đã làm cho ơng và dân làng ông khổ.


- Sau cách mạng, lịng u làng của ơng Hai tiếp tục được phát triển, hồ nhập với lịng u
nước, yêu cách mạng, trung thành với kháng chiến, với lãnh tụ :


+ Khi buộc phải xa làng đi tản cư vì hiểu đi tản cư cũng là kháng chiến, ơng Hai luôn nhớ về
làng và càng hay khoe làng nhưng ông đã khoe khác (học sinh nêu được dẫn chứng và phân tích các dẫn
chứng ấy, chú ý thái độ khi khoe làng và nội dung lời khoe của ông Hai).


+ Ơng Hai vơ cùng đau khổ, tủi hổ khi đột ngột nghe tin làng ông theo giặc từ người đàn bà tản
cư ở dưới xi lên. Phân tích diễn biến tâm lí của ơng Hai được tác giả miêu tả hết sức cụ thể nhưng
tinh tế từ lúc mới nghe tin, lúc trở về nhà.


+ Phân tích được nỗi ám ảnh nặng nề đã biến thành nỗi sợ hãi trong ông Hai.



+ Trong lúc lâm vào tình thế đau khổ, bế tắc cùng cực ông Hai càng bộc lộ lòng yêu làng, yêu
nước của mình.


Khi nghe tin làng theo giặc trong ông diễn ra cuộc xung đột nội tâm sâu sắc: làng thì yêu thật
nhưng làng theo Tây thì phải thù. Tình yêu nước rộng lớn hơn, bao trùm tình yêu làng, tuy nhiên dù xác
định như vậy ông vẫn không dứt bỏ tình cảm với làng, và điều này càng làm ông đau khổ. (dẫn chứng
và phân tích).


Khi mụ chủ nhà biết tin, rơi vào tình thế cùng đường, ơng càng bộc lộ rõ tình u đất nước. Ơng
khơng biết đi đâu, ơng cũng khơng muốn trở về làng vì về làng là chịu quay lại làm việt gian cho thằng
Tây... Chú ý phân tích làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn của ông Hai với tư cách công dân bằng cách so sánh
đối chiếu với người nông dân trước cách mạng ; chú ý phân tích đoạn đối thoại và độc thoại nội tâm hết
sức chân thực thể hiện một cách cảm động tình yêu làng quê - yêu đất nước, trung thành với cách mạng,
kháng chiến của ông Hai.


+ Ơng Hai vơ cùng sung sướng, hạnh phúc khi nghe tin cải chính. Ơng trở lại vui vẻ, linh hoạt
như xưa, lại đi khoe cái tin ấy khắp mọi nơi cùng với tin nhà ông bị giặc đốt trụi.


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×