Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Một số kỹ năng viết phương trình tiếp tuyến của đồ thị hàm số áp dụng với học sinh lớp 12 trung tâm GDNN GDTX thành phố thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 25 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRUNG TÂM GDNN - GDTX THÀNH PHỐ THANH HÓA
----------

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢNG DẠY
VĂN HỌC DÂN GIAN QUA BÀI “ÔN TẬP VĂN HỌC DÂN
GIAN” LỚP 10 Ở TRUNG TÂM GDNN - GDTX TP THANH HÓA

Người thực hiện: Nguyễn Đình Việt
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị cơng tác: Trung tâm GDNN-GDTX TP
SKKN thuộc mơn: Ngữ Văn

THANH HĨA NĂM 2021
1


MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
1. Dạy học theo dự án


1.1. Khái niệm dạy học theo dự án
1.2. Mục tiêu của dạy học theo dự án trong bài ôn tập VHDG
1.3.Công tác chuẩn bị
1.4. Cách thức tiến hành bài dạy có dự án trong tiết ơn tập VHDG
2. Ơn tập dưới dạng tổ chức trò chơi
2.1. Ai nhanh hơn
2.2. Nối dịng ca dao
2.3. Đuổi hình bắt chữ
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo
dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị
Tài liệu tham khảo

Trang
3
4
4
4
4

6
6
7
8
8
8
8
9

10
12
12
14
14
20
23
23
23
25

1. MỞ ĐẦU

2


1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Văn học dân gian có vai trị vơ cùng quan trọng trong việc bồi đắp tâm hồn
con người. Bởi văn học dân gian mang nhiều giá trị sâu sắc, là kho tri thức vô cùng
phong phú về mọi lĩnh vực trong đời sống tự nhiên, xã hội, con người, giáo dục
đạo lí làm người như tơn vinh giá trị con người, tình u thương con người, đấu
tranh khơng ngừng để bảo vệ, giải phóng con người thốt khỏi bất cơng, cường
quyền, thể hiện niềm tin bất diệt về chiến thắng của chính nghĩa và cái thiện, hình
thành những phẩm chất truyền thống tốt đẹp như tình u q hương, đất nước,
lịng tự hào dân tộc, lịng vị tha, đức kiên trung, ngồi ra văn học dân gian cịn có
giá trị thẩm mĩ to lớn, góp phần quan trọng tạo nên bản sắc riêng cho nền văn học
dân tộc. Dạy văn học dân gian là giúp học sinh cảm nhận được những giá trị sâu
sắc ấy.
Qua thực tế giảng dạy bộ môn Ngữ văn ở trung tâm GDNN- GDTX Thành
phố Thanh Hóa, chúng tơi nhận thấy có một thực trạng khá phổ biến là phần lớn

học sinh khơng thích học mơn Ngữ văn nói chung và phần văn học dân gian nói
riêng. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên trước hết phải kể đến những yêu cầu
mang tính đặc thù của bộ mơn. Đó là người dạy văn, học văn cần có một niềm u
thích văn chương, có tâm hồn nhạy cảm, có vốn tri thức phong phú, vốn tiếng Việt
dồi dào. Hơn nữa, hình thức truyền thụ mang nặng tính thuyết giảng đã trở nên đơn
điệu xơ cứng, điều đó tác động khơng nhỏ tới hứng thú học tập, khả năng sáng tạo
của học sinh. Điều đặc biệt, đặc trưng của học sinh GDNN- GDTX lực học yếu,
các em càng khơng có hứng thú với mơn văn vì các em ln cho rằng văn dài, văn
là môn học bài nên “ngán” và “buồn ngủ”! Không ít các bài báo, các cuộc họp của
các nhà quản lí, nhà chun mơn đã được tổ chức nhằm phân tích lý giải ngun
nhân, tìm ra giải pháp để khắc phục. Tuy nhiên thực trạng này vẫn chưa được cải
thiện, đối với các thầy cô giáo trực tiếp đứng lớp đây vẫn là những khó khăn khơng
dễ tháo gỡ.
Văn học dân gian là một bộ phận không thể thiếu của nền văn học Việt Nam,
ở đó các em khơng chỉ được cảm nhận cái hay cái đẹp của văn chương mà các em
còn được giáo dục về đạo đức, nhân cách và những phẩm chất cần có của một con
người. Vì vậy, nâng cao hiệu quả giảng dạy văn học dân gian đặc biệt trong hai tiết
ôn tập văn học dân gian là việc làm thiết thực để nâng cao hứng thú học tập môn
ngữ văn, phần văn học dân gian và đặc biệt là nâng cao nhận thức và nhân cách
của con.
Ý thức được điều này, trong quá trình giảng dạy chúng tơi đã rất cố gắng
trong việc tìm tòi và đưa ra phương pháp và cách thức tạo hứng thú học tập cho
học sinh, giúp các em nắm vững và khắc sâu kiến thức. Vì vậy, chúng tơi mạnh dạn
chia sẻ cùng quý thầy cô kinh nghiệm của mình qua đề tài: Một số biện pháp
3


nâng cao hiệu quả giảng dạy văn học dân gian qua bài “Ôn tập văn học dân
gian” lớp 10 ở trung tâm GDNN- GDTX Thành phố Thanh Hóa.
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.

* Xác định tầm quan trọng của kiến thức về bộ phận văn học dân gian trong
mối quan hệ với các bộ phận văn học khác
* Hướng đến việc nâng cao hiệu quả giảng dạy, nâng cao nhận thức và bồi
đắp tình u tiếng Việt, góp phần gìn giữ vẻ đẹp tâm hồn tính cách văn hóa người
Việt.
* Khẳng định tính khả thi của đề tài thơng qua việc thu thập các thông tin
phản hồi.
1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU.
Đối tượng mà chúng tôi nghiên cứu trực tiếp trong đề tài này là bài học: “Ôn
tập văn học dân gian” (Chương trình chuẩn).
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
Để triển khai nội dung của sáng kiến kinh nghiệm này chúng tôi đã sử dụng
nhiều phương pháp khác nhau nhưng đặc biệt chú trọng: Phương pháp hệ thống,
phương pháp phân tích, kiểm tra đánh giá…
1.5. NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
Trong thực tế giảng dạy hiện nay, phần lớn các giáo viên đều ý thức được
đổi mới phương pháp là một yêu cầu cấp bách và tất yếu, dạy học phải lấy học sinh
làm trung tâm. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà phương pháp đổi
mới dạy học còn gặp nhiều hạn chế dẫn đến bài học không hiệu quả, khơng gây
được hứng thú cho học sinh. Có những giáo viên chú trọng việc phân tích, giải
thích cung cấp kiến thức để học sinh hiểu vấn đề và xa vào thuyết giảng hạn chế
này do tâm lí sợ cháy giáo án vì bài học quá dài mà kiến thức lại nhiều và đặc
trưng của học sinh thường xuyên vừa lười học vừa bị mất căn bản nên các em
không hiểu được vấn đề nếu giáo viên giảng nhanh. Cũng có giáo viên rất tích cực
trong việc đổi mới phương pháp dạy học như sử dụng giáo án điện tử, cho học sinh
thảo luận trên lớp nhưng hiệu quả cũng không cao do học sinh bị rỗng kiến thức,
do không biết cách sử dụng kiến thức liên môn, do bài học có bối cảnh lịch sử cách
xa thế hệ hiện tại nên các em cũng nắm bài rất hời hợt, khơng có chiều sâu.
Trong dạy học nói chung và trong dạy văn nói riêng, hầu hết giáo viên đứng
lớp đều mong muốn những nội dung bài giảng được học sinh ghi nhớ một cách

hoàn hảo. Tuy nhiên trên thực tế, đa phần giáo viên lại quan tâm nhiều đến việc
làm thế nào cho học sinh hiểu và dễ ghi nhớ, chứ rất ít quan tâm đến việc làm thế
4


nào giúp học sinh có thể dễ dàng hồi tưởng, tái tạo lại trí nhớ. Vì vậy, nội dung của
bài học thường được ghi chú bằng các kí tự đầu dòng, được diễn đạt một cách rõ
ràng, đầy đủ. Tuy nhiên cách làm này chỉ có thế giúp học sinh hiểu bài, ghi nhớ
(lưu trữ thơng tin) mà ít giúp được cho q trình hồi tưởng (tìm lại thơng tin). Xuất
phát từ thực tế này, tôi thực hiện phương pháp dạy học theo dự án, tức là cho các
em vấn đề và các em tự tìm hiểu, kết hợp với việc sử dụng phương pháp Thuyết
trình, sử dụng những hình ảnh, đối đáp giữa học sinh với học sinh, vấn đáp giữa
học sinh với giáo viên để không chỉ giúp các em chủ động ghi nhớ mà còn giúp các
em dễ dàng hồi tưởng trí nhớ vì bản thân các em đã chủ động tìm hiểu kiến thức.
Tất cả những hoạt động này đều diễn ra một cách thoải mái giống như hình thức
trị chơi tạo khơng khí thoải mái cởi mở phát huy khả năng giao tiếp của học sinh.
Vì vậy, tơi đưa ra biện pháp sau:
* Sử dụng hình ảnh trực quan sinh động để kích thích hứng thú học tập của học
sinh.
* Sử dụng các phương pháp dạy học tích cực để phát huy tính chủ động của học
sinh.

2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
5


2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
Kiến thức lí thuyết là cơ sở là nền tảng cho mọi thực hành. Nếu chúng ta
khơng có kiến thức cơ sở, kiến thức lí thuyết thì sẽ khơng thể thực hành hoặc nếu
có thực hành thì hiệu quả cơng việc cũng không cao, chất lượng không tốt. Bác

từng dạy: hành mà khơng học thì khơng trơi chảy. Như vậy, có nghĩa là dù làm bất
cứ cơng việc gì trước hết chúng ta phải học lí thuyết phải biết được bản chất của
cơng việc, mà muốn biết thì chúng ta phải có kiến thức có hiểu biết về nó. Trong
bất cứ hồn cảnh nào bất cứ cơng việc gì kiến thức lí thuyết cũng là yếu tố quan
trọng có ý nghĩa quyết định hiệu quả cơng việc. Những ai có hiểu biết, có kiến thức
sẽ làm việc có tốt hơn những người khơng có kiến thức, kiến thức sẽ là yếu tố quan
trọng quyết định sự thành công của mỗi con người trong cuộc sống.
Trong học tập cũng như trong cuộc sống, mỡi mơn học đều có một hệ thống
kiến thức lí thuyết nhất định, khác nhau. Kết quả học tập của mỡi mơn học phụ
thuộc vào việc học sinh có nắm được kiến thức lí thuyết hay khơng, có hiểu được
vấn đề hay không? Với môn ngữ văn cũng vậy, kết quả học tập bộ môn Văn không
chỉ phụ thuộc vào khả năng thực hành viết văn, khả năng lập luận hay cách sử
dụng từ ngữ mà còn phụ thuộc vào khả năng lĩnh hội kiến thức cơ bản của văn bản
văn học, thời kì văn học, giai đoạn văn học, bộ phận văn học …. Một người học
văn không thể khơng có kiến thức về bộ phận văn học, giai đoạn văn học, tác phẩm
văn học tức là phải có kiến thức văn chương. Điều này đồng nghĩa với việc muốn
nâng cao kết quả học tập môn ngữ văn, chúng ta một mặt phải hướng dẫn các em
có kĩ năng viết văn, cảm thụ văn chương một mặt rất quan trọng là phải cho các em
kiến thức cơ bản về bộ phận văn học, giai đoạn văn học, khuynh hướng văn học,
tác phẩm văn học có trong chương trình… Muốn làm được điều này khơng cịn
cách nào khác là phải nâng cao chất lượng dạy học bằng việc đổi mới phương pháp
dạy học, làm thế nào phát huy được tính chủ động tích cực chiếm lĩnh làm chủ kiến
thức của các em ngay trong những tiết giảng dạy về tác phẩm văn học.
Khoa học cũng chứng minh rằng, con người nhớ nhanh hay chậm, nhớ lâu
hay nhanh quên là do trí thơng minh của con người,mà trí thơng minh có thể do
bẩm sinh cũng có thể do học tập, rèn luyện mà có. Ai đó đã từng nói sự thành cơng
cần đến 99% cần cù chăm chỉ, chỉ có 1% do trí thơng minh sẵn có. Cha ơng ta đã
từng dạy “ trăm nghe không bằng một thấy, trăm thấy khơng bằng mợt làm”, điều
này có nghĩa là nếu học sinh khơng học, khơng động não khơng tìm tịi mà chỉ dựa
vào trí thơng minh bẩm sinh và những gì nghe được từ thầy cơ thì khơng bao giờ

có kết quả học tập tốt, chưa kể đặc trưng của môn Ngữ văn phải là “văn ôn” và học
sinh thường xun lại càng hạn chế về trí thơng minh. Vậy, muốn học sinh làm
được bài văn nghị luận văn học, văn tự sự hay văn biểu cảm trước hết phải khắc
sâu kiến thức, nắm vững kiến thức cơ bản và có thể tái tạo, hồi tưởng được kiến
thức trong suốt quá trình học tập.
6


Tóm lại, giúp học sinh nắm vững kiến thức nói chung và nắm vững kiến
thức về bộ phận văn học dân gian nói riêng là một việc làm rất cần thiết. Và muốn
làm được điều này, giáo viên cần phải kích thích tư duy, cần phải có phương pháp
dạy học phù hợp tăng khả năng tư duy, khả năng cảm nhận của học sinh.
2.2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM.
Qua thực tế giảng dạy bộ môn ngữ văn ở Trung tâm GDNN- GDTX Thành
phố Thanh Hóa, tơi nhận thấy có một thực trạng là các em học sinh rất yếu mơn
văn, ít có khả năng sáng tạo, không phân biệt được đâu là bộ phận văn học dân
gian và đâu là bộ phận văn học viết, lại càng không phân biệt được các thể loại
trong bộ phận văn học dân gian. Nguyên nhân chính là do các em chưa có kiến
thức văn học, đặc biệt là phần văn học dân gian. Sự thiếu hụt kiến thức này do
nhiều yếu tố cấu thành. Trước hết do tính đặc thù của mơn văn, học văn cần có một
niềm yêu thích văn chương, một tâm hồn nhạy cảm, vốn kiến thức phong phú, vốn
tiếng Việt dồi dào, cách sử dụng từ ngữ linh hoạt mà hầu hết học sinh Trung tâm lại
lười đọc, lười rèn. Vì thế các em ít hứng thú với văn học nói chung và văn học dân
gian nói riêng. Những điều này kết hợp với nhau và dẫn đến một hậu quả là học
sinh khơng có kiến thức về văn học dân gian.
Một trở ngại nữa dẫn đến tình trạng rỡng kiến thức văn học và khả năng cảm
thụ văn học dân gian đó là do học sinh ngày nay rất kém hiểu biết về lịch sử xã hội.
Với học sinh ở trung tâm hiện nay, dù đã học lớp 10 nhưng các em hầu như thiếu
kĩ năng giao tiếp, ứng xử, các em hầu như khơng có ý thức về phong tục tập qn.

Thậm chí về lịch sử hình thành của dân tộc được dân gian hóa trong các thể loại
văn học dân gian các em cũng khơng nắm được. Vì vậy, các em không hiểu được
giá trị của tác phẩm văn học dân gian dụng ý của tác giả dân gian được thể hiện
trong tác phẩm. Với tất cả những điều này việc học sinh lười học không nắm được
kiến thức văn học dân gian là điều dễ hiểu và khó tránh khỏi.
Điều đáng nói nữa là dù rất yếu về kiến thức văn học nhưng các em đa phần là
lười học, không chịu học. Sự lười biếng vừa là nguyên nhân vừa là kết quả tất yếu
của việc rỗng kiến thức. Những học sinh càng yếu lại càng nhác học, mà càng lười
biếng thì lại càng rỡng kiến thức. Cũng có một số học sinh chăm chỉ học bài nhưng
kiến thức nhớ được thì khơng nhiều. Việc đọc sách chuẩn bị bài, tìm tịi, học hỏi
của các em là một điều hiếm hoi và xa xỉ. Vì vậy, kiến thức có được chủ yếu là do
những tiết học trên lớp mang lại. Trong khi đó, ở trên lớp, các em lại không tập
trung: hoặc là hoặc ngồi im nhưng không nghe, hoặc nói chuyện riêng, thậm chí
ngủ gục ngay trên bàn học. Cịn giáo viên, phần vì mệt mỏi, phần vì sợ cháy giáo
án, chậm chương trình do bài dài dung lượng kiến thức nhiều cho nên không thể
chú ý hết được từng em, khơng đủ thời gian để có thể giảng kĩ, dạy kĩ. Một số
phương pháp truyền thống (chủ yếu là thuyết giảng), áp đặt, cung cấp kiến thức
7


một chiều từ phía giáo viên khơng tạo được tính chủ động tích cực của học sinh,
khơng gây hứng thú cho người học, giáo viên làm việc thì rất nhiều mà hiệu quả
mang lại không cao mà thường xuyên cháy giáo án. Phải làm thế nào để học sinh
thật sự có hứng thú, tăng cường sự chủ động, tích cực, nâng cao khả năng ghi nhớ
và có khả năng gợi nhớ, tái tạo trí nhớ cho học sinh trong suốt quá trình học tập.
2.3. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Sau đây là những cách thức mà chúng tôi tiến hành để giúp học sinh lớp 10 ở
Trung tâm GDNN- GDTX TPTH nắm vững kiến thức về bộ phận văn học dân gian
thơng qua bài “Ơn tâp văn học dân gian” (Ngữ văn 10), từ đó có thể vận dụng
kiến thức văn học để giáo dục tình yêu quê hương đất nước, ý thức giữ gìn phát

huy bản sắc văn hóa dân tộc.
1. Dạy học theo dự án
1.1. Khái niệm dạy học theo dự án: Học tập theo dự án là một hình thức dạy học
trong đó người học thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, có sự kết hợp giữa lí
thuyết và thực hành. Nhiệm vụ này thực hiện với một ý thức tự giác cao, tự lực lập
kế hoạch thực hiện và đánh giá kết quả. Hình thức làm việc chủ yếu là làm việc
theo nhóm, kết quả làm việc của nhóm có thể giới thiệu được ví dụ như bài viết,
tập tranh ảnh, chương trình hành động cụ thể. Ở phương pháp này, học sinh hoàn
toàn chủ động và giáo viên đóng vai trị là người hướng dẫn, khái qt kiến thức.
Tuy nhiên, với học sinh Giáo dục thường xuyên, mục đích của chúng tơi chỉ dừng
lại ở việc các em sẽ chủ động tích cực trong cơng tác chuẩn bị kiến thức, tích cực
chuẩn bị và xây dựng bài.
1.2. Mục tiêu của dạy học theo dự án trong bài ôn tập văn học dân gian
Trong quá trình dạy, ngay từ bài “Khái quát văn học Việt nam”, “khái quát
văn học dân gian” đến những tác phẩm cụ thể, những câu chyện dân gian cụ thể…
giáo viên cũng đã khái quát và chỉ ra vị trí của văn học dân gian trong nền văn học
dân tộc, các thể loại văn học dân gian, đặc trưng của từng thể loại nhưng có lẽ với
các em đó chỉ là lời nói thống qua rất mơ hồ, thậm chí là viển vơng. Với lối ỷ lại,
đợi chờ khi nào cơ đọc thì chép, cơ viết bảng thì ghi lại, phần lớn các em “khơng
bỏ vào tai”. Cịn nếu chỉ dặn về nhà tìm hiểu thì “xưa như trái đất” vì thầy cơ nào
chả dặn học bài, tìm hiểu bài cịn đọc sách tìm hiểu là một việc làm vô cùng “xa
xỉ”, hiếm hoi. Bởi vậy, dù cố gắng đặt ra câu hỏi dễ, gần gũi thì học sinh cũng
khơng trả lời được và tiết học cũng chỉ là một buổi thuyết giảng cuả giáo viên, một
buổi học trị bị tra tấn. học theo hình thức dự án này sẽ góp phần giải quyết được
những khó khăn trên. Chỉ cần các em bỏ ra một chút thời gian vừa học vừa có thể
vui chơi giải trí mà giáo viên lại có thể tiết kiệm được thời gian, vừa kích thích
được các em học hỏi tìm hiểu. Trong q trình tìm hiểu các em có thêm những
8



lượng kiến thức mới, kiến thức ấy khơng chỉ có ích cho mơn văn mà cịn có ích
cho các mơn học khác như lịch sử, giáo dục công dân làm tăng vốn hiểu biết về đời
sống xã hội, trau dồi tư tưởng đạo đức tình cảm với quê hương đất nước. Đặc biệt
các em sẽ hiểu biết sâu hơn về các tác phẩm văn học từ đó dễ dàng đón nhận kiến
thức văn học để vận dụng trong quá trình làm văn.
1.3. Công tác chuẩn bị
a. Chuẩn bị từ giáo viên
* Phân nhóm
Cùng với việc chuẩn bị nội dung, đề tài chúng tơi đã thực hiện cơng việc
phân nhóm và lựa chọn đề tài cho từng nhóm. Đây là cơng việc đơn giản dễ làm
nhưng cũng vô cùng cần thiết. Khó khăn cho giáo viên ở chỡ các em mới vào lớp
10 chưa lâu, còn nhiều bỡ ngỡ, và giáo viên chưa thể hiểu hết từng học sinh, chưa
biết được đặc điểm thế mạnh, hạn chế của từng học sinh. Vì vậy, giáo viên phải cân
nhắc, tham khảo lớp trưởng để chia nhóm cho đều sao cho mỡi nhóm đều có học
có khả năng thuyết trình, khả năng sử dụng máy tính…. Trên cơ sở đó chúng tơi
chia lớp thành 5 nhóm, mỡi nhóm từ 8-9 học sinh. Cơng việc phân nhóm được tiến
hành vào 5 phút cuối của tiết 21- tiết (Đặc điểm ngơn ngữ nói và ngơn ngữ viết).
* Giao đề tài và hướng dẫn học sinh.
Thời gian triển khai dự án được diễn ra cùng lúc với cơng việc phân nhóm.
Thời gian thực hiện là hơn một tuần sau khi triển khai dự án (Tuy nhiên, chủ
yếu tập trung ở hai ngày thứ bảy, chủ nhật trong tuần của dự án). Đây là lần đầu
thực hiện dự án lại là học sinh trung tâm chủ yếu là học sinh trung bình, yếu nên
thời gian có dài. Cũng là lần đầu tiên làm dự án cho nên học sinh chắc chắn cịn
nhiều bỡ ngỡ, cịn có tư tưởng ỷ lại không chịu làm cho nên giáo viên chỉ u cầu
các em tìm hiểu thu thập thơng tin, nắm nội dung cơ bản. u cầu cơng việc cuả
mỡi nhóm giáo viên cần in ra và phát cho từng học sinh:
Nhóm 1: Vẻ đẹp của người anh hùng trong sử thi Đam Săn
Nhóm 2: Trong truyền thuyết An Dương vương và Mị Châu, Trọng Thuỷ, Trọng
Thuỷ đáng thương hay đáng giận?
Nhóm 3: Về nhân vật Ơng Bụt trong truyện cổ tích Tấm Cám

Nhóm 4: Đặc sắc nghệ thuật trong hai truyện cười: Tam đại con gà và Nhưng nó
phải bằng hai mày.
Nhóm 5: Về tiếng hát than thân trong ca dao Việt Nam.
* Sau khi giao đề tài, giáo viên cần theo dõi, đôn đốc, kiểm tra đánh giá kết
quả thực hiện của từng học sinh.
9


Thời gian thực hiện dự án là khá dài cho nên giáo viên có thời gian để đơn
đốc kiểm tra việc thực hiện của các em. giáo viên khuyến khích học sinh đánh máy
gửi mail để giáo viên bộ môn kiểm tra tính chính xác của thơng tin. Giáo viên yêu
cầu học sinh làm việc nghiêm túc, trao đổi kĩ lưỡng nếu có vấn đề khúc mắc phải
trao đổi để giáo viên hỗ trợ.
Sau khi nhận được nội dung dự án qua địa chỉ Email, giáo viên kiểm tra
chỉnh sửa sau đó giáo viên sẽ gửi trở lại cho học sinh.
b. Chuẩn bị của học sinh
Họp nhóm để phân cơng nhiệm vụ
Mỡi nhóm có một nhóm trưởng, tùy vào cơng việc của từng nhóm mà phân
chia cơng việc của mỡi thành viên trong nhóm.
Lập kế hoạch cơng việc và thời gian cụ thể để thực hiện nhiệm vụ (giáo viên
giám sát hướng dẫn, đơn đốc)
Sau khi hồn thành cơng việc, học sinh sẽ nộp bài cho giáo viên. Giáo viên
sẽ chọn người trình bày, các học sinh khác có thể bổ sung thậm chí là phản biện.
1.4. Cách thức tiến hành bài dạy có dự án trong tiết ơn tập Văn học dân gian
Đây là bài học gồm hai tiết, giáo viên có thể chia phần trình bày bài học theo
dự án bằng một tiết học. Thay vì giáo viên cho học sinh ôn tập theo hệ thống câu
hỏi trong sách giáo khoa với hai phần: Nội dung ôn tập và Bài tập vận dụng, dạy
học theo dự án giáo viên đã chắt lọc những kiến thức cơ bản để u cầu các nhóm
chuẩn bị trình bày. Các vấn đề học sinh chuẩn bị và thuyết trình (thể hiện nội dung
dự án) hoàn toàn phù hợp với yêu cầu chuẩn kiến thức kĩ năng lại có khả năng khái

quát cao rất phù hợp với bài học ôn tập.
Giáo viên cho 5 nhóm trưởng lên bốc thăm thứ tự trình bày. Thời gian chuẩn
bị “lấy tinh thần” là 1 phút. Sau đó, nhóm sẽ cử đại diện lên trình bày. Phần trình
bày của mỡi nhóm khơng q 5 phút. Trong q trình thuyết trình của học sinh, các
thành viên trong nhóm có thể hỡ trợ. Khuyến khích nhóm trình bày tập thể dưới
dạng diễn xướng dân gian.
Sau khi một nhóm trình bày xong, nhóm khác quyền đặt câu hỏi phản biện
hoặc câu hỏi thắc mắc chưa hiểu chưa thấy được thuyết phục. Nếu học sinh khơng
hỏi thì giáo viên có thể hỏi để kiểm tra quá trình làm việc của các thành viên trong
nhóm và để khắc sâu kiến thức cho các em. Đặc biệt là sau mỡi nội dung thuyết
trình tức là thể hiện dự án giáo viên cần khái quát thành đặc trưng thể loại để các
em nhớ kĩ và biết phân biệt thể loại cũng như dụng ý, ý nghĩa giáo dục của tác giả
dân gian đối với mọi thế hệ mọi tầng lớp trong xã hội.
Giáo viên luôn là người lắng nghe và định hướng, cổ vũ khích lệ để học sinh
mạnh dạn trình bày quan điểm cá nhân. Đồng thời phát huy tính tự chủ sáng tạo
của học sinh. Thông qua tiết học giáo viên dễ dàng nắm bắt tình hình học sinh điều
chỉnh cách dạy và rút kinh nghiệm cho bản thân.
10


Sau khi nhóm 1 trình bày xong các nhóm khác nhận xét phản biện sau đó
giáo viên khái quát: Khi trình bày về “Vẻ đẹp của người anh hùng trong sử thi
Đăm săn” chúng ta phải hiểu Sử thi đề cập đến những vấn đề có ý nghĩa lớn đối
với cuộc sống cộng đồng. Sử thi là tác phẩm tự sự dân gian có quy mơ lớn hình
tượng nghệ thuật hồnh tráng, hào hùng câu văn trùng điệp, ngơn ngữ trang trọng
giàu hình ảnh. Vẻ đẹp ủa người anh hùng Đăm săn là vẻ đẹp của sức mạnh, lòng
dũng cảm (khi chiến đấu với Mtao Mxay), vẻ đẹp của con người trọng danh dự,
gắn bó với hạnh phúc gia đình và thiết tha với cuộc sống phồn thịnh bình yên của
thị tộc.
Sau khi nhóm 2 trình bày xong các nhóm khác nhận xét phản biện sau đó

giáo viên khái quát: Truyền thuyết thường kể về những sự kiện và nhân vật lịch sử
theo quan điểm đánh giá của dân gian. Vậy trong truyện truyền thuyết An Dương
vương và Mị Châu, Trọng Thuỷ, Trọng Thuỷ đáng thương hay đáng giận? (Học
sinh có thể trình bày đáng thương hoặc đáng giận tùy khả năng nhận thức của các
em. Ở trường hợp này học sinh đã lựa chọn vừa đáng thương vừa đáng giận) Giáo
viên khái quát: Trọng Thủy đáng trách vì đã lợi dụng lòng tin của Mị Châu để ăn
cắp nỏ thần, làm mất nước Âu Lạc, An Dương Vương đi xuống biển, Mị Châu bị
cha chém. Trọng Thủy đã khiến cho “nước mất, nhà tan, tình yêu tan vỡ”. Trọng
Thủy khơng chỉ có lỡi với Mị Châu,An Dương Vương mà cịn có lỡi với đất nước
Âu Lạc…! Trọng Thủy đáng thương vì Trọng Thủy khơng hẳn là người xấu mà
Trọng Thủy là người quá đề cao chữ hiếu (hiếu thuận mù qng), rút cuộc Trọng
Thủy cũng khơng được gì: mất vợ, mất gia đình, sống trong dằn vặt ân hận cuối
cùng thì lao xuống giếng mà chết!
Sau khi nhóm 3 trình bày xong các nhóm khác nhận xét phản biện sau đó
giáo viên khái qt: Truyện cổ tích thường kể về những con người bình thường bất
hạnh trong xã hội thể hiện tinh thần nhân đạo, lạc quan của người lao động. Cốt
truyện cổ tích và hình tượng nhân vật đều được hư cấu rất nhiều và có sự tham gia
của các yếu tố kifaor mà phổ biến nhất là hình ảnh ơng Bụt. Vì vậy hình tượng
nhân vật Ơng Bụt có vai trị vơ cùng to lớn trong truyện cổ tích nói chung và trong
truyện cổ tích Tấm Cám nói riêng. Ơng Bụt là hình tượng hồn tồn hư cấu, ông
Bụt xuất hiện mỗi lần Tấm bị bắt nạt (ăn hiếp), mỡi lần Tấm gặp khó khăn để giúp
đỡ, để bênh vực để đem lại công bằng dân chủ hạnh phúc cho những người lao
động nghèo khổ trong xã hội xưa. Hình tượng ơng Bụt cịn thể hiện triết lí sống của
cha ơng ta: Ở hiền gặp lành, cái thiện sẽ chiến thắng cái ác.
Sau khi nhóm 4 trình bày xong các nhóm khác nhận xét phản biện sau đó giáo viên
khái quát: Truyện cười là tác phẩm tự sự dân gian ngắn, có kết cấu chặt chẽ, kết
thúc bất ngờ, kể về những sự việc xấu, trái tự nhiên trong cuộc sống, có giá trị gây
cười nhằm phê phán, giải trí. Đặc sắc nghệ thuật trong hai truyện cười: Tam đại
11



con gà và Nhưng nó phải bằng hai mày: Trong Tam đại con gà có kết cấu chặt
chẽ - chỉ xoay quanh một mâu thuẫn gây cười là dốt – giấu dốt, mọi chi tiết đều
hướng vào mục đích gây cười. Cách vào truyện tự nhiên tự nhiên, kết thúc bất ngờ.
Thủ pháp “nhân vật tự bộc lộ”: cái dốt của nhân vật tự hiện ra, tăng dần theo mạch
phát triển của truyện cho đến đỉnh điểm là lúc kết thúc. Ngôn ngữ giản dị nhưng
rất tinh, nhất là ở phần kết sử dụng yếu tố vần điệu để tăng tính bất ngờ và yếu tố
gây cười. Nhưng nó phải bằng hai mày tạo tình huống gây cười: thầy lí xử kiện
“giỏi có tiếng”. Cải lót năm đồng là yên tâm mình thắng. Nhưng Cải bất ngờ bị
thua, phải đến phút cuối mới biết Ngơ lót tiền nhiều gấp hai mình. Xây dựng được
những cử chỉ và hành động gây cười như trong kịch câm, mang nhiều nghĩa. Chơi
chữ “phải” là từ chỉ tính chất được dùng kết hợp với từ chỉ số lượng tạo sự vơ lí
(trong xử kiện) nhưng lại hợp lí (trong quan hệ thực tế giữa các nhân vật).
Sau khi nhóm 5 trình bày xong các nhóm khác nhận xét phản biện sau đó
giáo viên khái quát: Ca dao là thể loại trữ tình dân gian diễn tả đời sống tâm hồn,
tư tưởng tình cảm của nhân dân lao động. Thường được thể hiện bằng thơ lục bát
với ngơn ngữ và hình ảnh gần gũi. Tiếng hát than thân trong ca dao Việt Nam
thường là tiếng nói của người phụ nữ. Họ là những con người có giá trị đẹp người
đẹp nết nhưng lại khơng được coi trọng và hoàn toàn bị lệ thuộc vào người đàn
ông. Tiếng hát trong ca dao than thận thường sử dụng biện pháp tu từ so sánh ẩn dụ
và mô típ mang tính biểu tượng: tấm lụa đào, hạt mưa sa, củ ấu gai, giếng nước...
và thường mở đầu bằng mơ típ “Thân em như”.
Phần khái qt của giáo viên cũng chính là yêu cầu cần đạt của một bài
thuyết trình (kết quả của quá trình thực hiện dự án). Vì vậy khơng nhất thiết giáo
viên phải khái qt hết nếu như phần chuẩn bị của học sinh đã thực sự đầy đủ.
Giáo viên cần chú cách thuyết trình và phản biện của học sinh (phần nhận xét của
các nhóm khác) để tiết học thực sự hiệu quả. Lưu ý, đây là bài học hai tiết nên
phần thuyết trình có thể kéo dài quá 45 phút nhưng không quá 60 phút.
2. Ơn tập dưới dạng tổ chức trị chơi
2.1. Ai nhanh hơn

Mục đích: Sau hơn một tiết học căng thẳng với những “ tranh luận” mang tính
“cân não” thì việc tìm hiểu kiến thức tổng hợp về Văn học dân gian thông qua các
câu trả lời nhanh giống như những phút giải lao “hạ nhiệt, thay đổi khơng khí”, rất
có lợi cho các em về mặt tinh thần tâm thế và đặc biệt đây lại là kiến thức cơ bản.
Trò chơi này giúp các em khắc sâu kiến thức!
Hình thức: Đây là phần thi trả lời nhanh, các em được giáo viên phát cho mỗi
em một phiếu học tập khi nghe xong câu hỏi, các em có 10- 15 giây (tùy câu hỏi)
để trả lời vào phiếu học tập. Sau khi đã hồn thành gói câu hỏi trả lời nhanh giáo
12


viên sẽ công bố đáp án và học sinh sẽ tự chấm chéo cho nhau. Học sinh nào có kết
quả cao sẽ được khen và thậm chí là được điểm cộng.
Nội dung:
Câu 1: Văn học dân gian tồn tại lưu hành theo phương thức nào?
Trả lời: Truyền miệng
Câu 2: Văn học viết là sáng tác …, văn học dân gian là kết quả của quá trình sáng
tác…
Trả lời: cá nhân, tập thể
Câu 3: Văn học dân gian có những thể loại nào?
Trả lời: 12 thể loại: Thần thoại, Truyền thuyết, Sử thi, Cổ tích, truyện
thơ, Ca dao, Tục ngữ, câu đố,Vè, sân khấu dân gian, Truyện cười,
Câu 4 : Vì… nên Văn học dân gian có tính dị bản.
Trả lời : Phương thức truyền miệng
Câu 5: Tìm câu tục ngữ phù hợp với nội dung truyện cười Tam đại con gà?
Trả lời: Xấu hay làm tốt, dốt hay nói chữ.
Câu 6: Trong truyện Tấm Cám vật nào được coi là dấu hiệu kết nối nhân duyên
giữa nhà vua với Tấm?
Trả lời: Chiếc giày và miếng trầu
Câu 7: Truyện Cười có những tiểu loại nào?

Trả lời : Truyện khôi hài và truyện trào phúng
Câu 8 : Trong truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thuỷ, khi theo
Rùa vàng xuống biển, An Dương vương đã cầm theo vật gì?
Trả lời : Sừng tê bảy tấc
Câu 9: Truyền thuyết khác truyện cổ tích ở điểm nào?
Trả lời: Có cốt lõi là sự thật lịch sử
Câu 10: Trong truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thuỷ, khi An
Dương Vương tới bờ biển cầu cứu xứ Thanh Giang, Rùa Vàng hiện lên mặt nước
đã nói điều gì?
Trả lời: Rùa vàng nói: Kẻ ngồi sau lưng chính là giặc đó
Câu 11: Sử thi Ơ-Đi-Xê có bao nhiêu câu và được chia thành mấy khúc?
Trả lời: 12110 câu và chia thành 24 khúc ca
13


Câu 12: Hiểu như thế nào về từ phải trong truyện Nhưng nó phải bằng hai mày
Trả lời: Chỉ số tiền phải hối lộ
Câu 13: Truyện cổ tích thường sử dụng nhiều chi tiết quan trọng mang tính…
Trả lời: Kì ảo
Câu 14: Ca dao được phân loại như thế nào?
Trả lời: Ca dao than thân, ca dao yêu thương tình nghĩa, ca dao hài
hước
Câu 15: Cô gái dân gian Việt Nam trong một bài ca dao đã ước dịng sơng rộng
bao nhiêu?
Trả lời: Rộng một gang
2.2. Nối dòng ca dao
Mục đích: Đây là phần trọng tâm trong phần Bài tập ứng dụng trong bài Ôn
tập văn học dân gian. Giáo viên giúp học sinh củng cố và biết, nhớ, thuộc nhiều ca
dao để thấy được giá trị của thể loại văn học dân gian này trong nền văn học dân
tộc.

Hình thức: Giáo viên cho 2 mơ típ ca dao có mở đầu bằng từ Thân em,
chiều chiều, và một số bài ca dao nói về hình ảnh chiếc khăn, chiếc áo.
Thời gian cho phần chơi này là 10-15 phút, 5 đội chơi tương đương với 5 nhóm đã
thực hiện bài học dự án. 5 nhóm sẽ cử một bạn lên bốc thăm xem nhóm nào được
đọc trước. Lưu ý, khơng đọc lại những bài ca dao đã học, không đọc lại những bài
ca dao mà nhóm bạn hoặc bạn trong ngóm mình đã đọc trước đó. Tất cả các thành
viên trong nhóm đều được quyền đọc ca dao theo quy định. Nhóm nào đọc được
nhiều hơn nhóm ấy chiến thắng. Giáo viên và các bạn trọng lớp sẽ là trọng tài phân
giải tránh ăn gian (không được sử dụng tài liệu ngồi tập soạn)
2.3. Đuổi hình bắt chữ
Mục đích: Trị chơi giúp các em phản ứng nhanh trước các bức tranh để huy
động kiến thức về văn học dân gian.
Hình thức: sau khi xem tranh các em trả lời vào phiếu học tập (Phiếu học tập
giáo viên phát), đây là trò chơi nhẹ nhàng giúp các em thư giãn sau những phút
căng thẳng của 2 tiết học liên tiếp, tạo sự thoải mái phấn khích cho những tiết học
sau.
Nội dung: các bức tranh
Giáo viên sẽ sử dụng máy tính và máy chiếu, chiếu các bức tranh, trong khoảng
thời gian từ 10-15 giây các em phải gọi tên được một tác phẩm dân gian.
14


Lợn cưới áo mới

15


Tam đại con gà

16



Nhưng nó phải bằng hai mày

17


Khăn thương nhớ ai

18


Thầy bói xem voi

19


2.4. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
GIÁO DỤC, VỚI BẢN THÂN, ĐỒNG NGHIỆP VÀ NHÀ TRƯỜNG.
Sau khi thực hiện kết hợp các phương pháp dạy học tích cực như trên, chúng
tơi đã thực sự thấy hiệu quả. Dù các phương pháp này không mới nhưng việc kết
hợp chúng lại với nhau như vậy đã phù hợp với học sinh của trung tâm GDNNGDTX Thành phố Thanh Hóa , bước đầu đã giải quyết được ý thức học tập của các
em, các em có ý thức hơn trong học tập và đã nắm vững kiến thức về văn học dân
gian và đặc trưng của văn học dân gian.
Khi áp dụng phương pháp dạy học như trên về phía giáo viên, chúng tơi
nhận thấy việc giảng dạy văn học sử trở nên nhẹ nhàng hơn, tiết kiệm thời gian,
không lo cháy giáo án, không lo học sinh “khơng biết gì”. Trước đây, phần văn học
dân gian với học sinh “quen mà lạ” vì các em chưa nắm được bản chất và đặc
trưng cũng như giá trị của văn học dân gian. Nhưng giờ đây, sau quá trình học tập
tiếp cận từng thể loại từng tác phẩm và đặc biệt là sau hai tiết ôn tập phần văn học

dân gian chúng tơi khơng cần giải thích nhiều tự các em đã tìm hiểu và nắm rõ về
nó.
Nếu trước đây, với cách dạy truyền thống, truyền thụ một chiều chúng tơi
ln thấy mệt mỏi vì phải nói nhiều, mà hiệu quả bài học không cao, học sinh
không tập trung, khi thực hiện phương pháp tích cực này tiết học trở nên sơi nổi,
cuốn hút hấp dẫn khơng cịn khơ khan, đơn điệu. Chỉ cần lịng u nghề, chịu khó
đầu tư, chịu hiểu những khó khăn của học sinh thì chúng ta sẽ có thể thay đổi tình
hình, biến những tiết học khô khan mệt mỏi thành niềm vui hứng khởi của cả cơ và
trị. Chính sự nhiệt tình của các em cũng là động lực của chúng tôi để chúng tôi
làm việc hiệu quả hơn, hăng say và tận tụy hơn.
Khi sử dụng những phương pháp tích cực này các em cũng hứng thú hơn,
chủ động và tích cực hơn. Một số học sinh rụt rè, lầm lì ít nói đã có thái độ khác
hẳn so với đầu năm. Các em giám nói giám trình bày quan điểm thái độ của mình
một cách tự giác. Khoảng cách giữa thầy và trò và những áp lực của buổi học đã có
nhiều cải thiện.
Đặc biệt, kết quả học tập của các em đối với mơn văn đã có nhiều cải thiện.
Tỷ lệ học sinh hiểu bài tăng lên rõ rệt: Ở lớp 10A, năm học 2020- 2021 có 42 học
sinh (Tại thời điểm thực hiện bài học), tỷ lệ hiểu bài như sau:
Mức độ

Rất hiểu

Hiểu

Bình
thường

Ít

Khơng

hiểu bài

Số học sinh

13/42

20/42

6/42

3/42

0

Tỷ lệ

31%

47,6%

14,3%

7,1%

0
20


Sau khi khảo sát 42 học sinh lớp 10A, các em đều khẳng định rất hứng thú với các
phương pháp mà chúng tơi đã lựa chọn.

Mức độ

Rất thích
thú

Thích thú

Bình
thường

Ít

Khơng thích
thú

Số HS

42/42

0

0

0

0

Tỉ lệ %

100%


0

0

0

0

Qua quá trình chấm bài và điều tra học sinh 10A, chúng tôi nhận thấy hầu hết
các em hài lịng với phương pháp của giáo viên bộ mơn. Hầu hết, các em đều
khẳng định hình thức học và ôn tập theo phương pháp này khiến tiết văn không
còn uể oải, mệt mỏi lo sợ nữa mà thoải mái và hiểu bài hơn rất nhiều.
Để chứng minh cho điều này, chúng tôi đã so sánh kết quả của hai lớp 10D và
10C trong đó 10C là lớp đối chứng, 10D là lớp thực nghiệm.
Khi xếp lớp, Ban giám đốc đã xếp đồng đều về điểm số, sỹ số học sinh và tỷ
lệ nam nữ. Như vậy về cơ bản hai lớp 10C và 10D là tương đương.
Thực tế trong bài kiểm tra đề chung số 1, tỷ lệ điểm số của hai lớp như sau:
TRƯỚC KHI DẠY THỰC NGHIỆM
Kết quả bài viết số 1 (kiểm tra đề chung lần 1)
Giỏi

Khá

Trung
bình

Lớp 10C
(55 hs)


3/55 9 /55
=
=
5,4% 16,3%

Lớp 10D
(54 hs)

0

Tỉ lệ % Yếu
trên TB
Kém

Tỷ lệ %
dưới TB

33/55
=
60%

47/ 55
=
81,7%

10/ 55
=
18.2%

10/ 55


12/54 24/54
=
=
22,2% 44,4%

36/54
=

19/54
=
33,3%

19/54

66,6%

=
18.2%

= 33,3%

- Qua bảng trên, chúng ta có thể thấy học lực (ở môn Ngữ văn) của hai lớp này
không tương đương nhau. Lớp 10D khơng có học sinh giỏi mơn Văn, trong khi lớp
10C có 3 học sinh chiếm 5,4%. Tỷ lệ trên trung bình của 10D 66,6% trong khi 10C
là 81,7%. Chênh lệch tỉ lệ phần trăm trên trung bình là 15,1%. Như vậy, trước khi
tiến hành thực nghiệm học sinh lớp 10C có chất lượng mơn Ngữ văn cao hơn so
với lớp 10D.
21



Sau khi thực nghiệm kết quả như sau: kết quả được thực nghiệm qua bài
kiểm tra bài kiểm tra bài viết số 2.
Đề bài: Sau khi tự tử ở giếng Loa thành, Trọng Thuỷ đã tìm gặp Mị Châu. Hãy
tưởng tượng và kể lại câu chuyện đó
KẾT QUẢ
Kết quả của bài viết số 2 cho thấy, lớp thực nghiệm đã tiến bộ rõ rệt và có
kết quả tốt hơn lớp đối chứng.
Điểm số
Điểm Điểm Điểm Trên
giỏi
khá
TB
TB
Lớp đối
chứng
(10C)
Lớp thực
nghiệm
(10D)

Điểm yếu, Dưới TB
kém

Số HS

3

17


33

53

2

2

Tỉ lệ
%

5,4

30,9

60

96,6

3,4

3,4

Số HS

7

13

19


39

3

3

Tỉ lệ
%

16,7

31

45,2

92,9

7,1

7,1

Với bài viết số 2 này, tỉ lệ học sinh trên trung bình của lớp đối chứng là
96,6%, của lớp thực nghiệm là 92,9%. Như vậy, tưởng chừng như lớp đối chứng
lại hơn hẳn lớp thực nghiệm nhưng không. Chúng ta so sánh với bài viết số 1: nếu
ở bài số 1 lớp đối chứng hơn lớp thực nghiệm tới 15,1% thì sau khi tác động của
phương pháp dạy học mới tỷ lệ ấy chỉ còn là 3,7% khoảng cách rút ngắn là 11,4%.
Đây là một con số có ý nghĩa, bước đầu cho thấy sự tác động của chúng tơi là
có kết quả.
Như vậy, qua hai bài kiểm tra chúng tôi thấy, lớp thực nghiệm có sự tiến bộ

hơn hẳn lớp đối chứng. Đặc biệt là đã có sự phân hóa học sinh rất tốt. Chứng tỏ
những cố gắng trong đổi mới giảng dạy của chúng tơi đã bước đầu có hiệu quả và
đã nâng cao được hiệu quả giảng dạy môn ngữ văn ở lơp 10. Đặc biệt là phần văn
học dân gian. Đây là niềm tin yêu là động lực để chúng tôi tiếp tục đổi mới phương
pháp và sẽ áp dụng cho những khóa tiếp theo.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận.
Khơng có phương pháp nào là tối ưu, hay tuyệt đối, chỉ có những phương
pháp khi vận dụng phù hợp sẽ mang lại hiệu quả. Tùy thuộc vào tình hình chung
của từng đối tượng học sinh, từng điều kiện cơ sở vật chất để mỗi giáo viên bằng
22


tình u nghề, lịng tận tụy và tình u thương đối với học sinh sẽ đưa ra những
cách thực hiện phù hợp khác nhau. Chắc chắn có nhiều thầy cơ có những cách thức
thực hiện và nhiều kinh nghiệm khác hay hơn nữa, hiệu quả hơn nữa nhưng với
học sinh của chúng tơi cách thực hiện này cũng đã ít nhiều có hiệu quả thay đổi
thái độ và ý thức học tập của các em.
Thực tế tình hình ở trung tâm GDNN- GDTX Thành phố Thanh Hóa hiện
nay, cách thực hiện này của chúng tôi đã tiết kiệm khá nhiều thời gian, và tránh
được tình trạng “rối”, khi học sinh không biết phân biệt giữa văn học dân gian và
văn học viết, không nắm rõ về đặc trưng thể loại của từng thể loại của văn học dân
gian. Tôi mạnh dạn áp dụng một số phương pháp cách thức giúp tiết học trở nên
sinh động, hấp dẫn, các em chủ động lĩnh hội kiến thức và bước đầu đã có kết quả
khả quan.
Trong giảng dạy, việc mạnh dạn thực hiện những phương pháp mới là điều
vô cùng quan trọng và cần thiết. Chúng ta không nên cố chấp cứng nhắc cho rằng
“Mình đã tối ưu”, tuy nhiên trong quá trình đổi mới phương pháp cũng không nên
quá cứng nhắc quá cầu kì mà nên nhìn thẳng vào thực tế của đối tượng học sinh, cơ
sở vật chất của Trung tâm để có những cách thức cho phù hợp. Do năng lực cịn

hạn chế, kinh nghiệm giảng dạy chưa nhiều. Vì vậy, chắc chắn cịn nhiều thiếu sót
chưa nhận được sự đồng tình từ phía q thầy cơ, chúng tơi rất mong nhận được sự
góp ý của q thầy cơ để tôi làm tốt hơn và thực sự đem đến những điều tốt nhất
cho học sinh.
3.2. Kiến nghị.
Trong sinh hoạt tổ chuyên môn, giáo viên nên thường xuyên trao đổi kinh
nghiệm dạy học từng kiêu bài, từng thể loại, từng bài dạy, để cùng học tập, rút kinh
nghiệm và áp dụng trong thực tế.
Áp dụng đối với những sáng kiến kinh nghiệm có tính khả thi, mang lại hiệu
quả cao trong giảng dạy.
Thanh Hóa, ngày 19 tháng 5 năm 2021
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết
khơng sao chép nội dung của người khác.
NGƯỜI VIẾT

Nguyễn Đình Việt

23


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên), Lã Nhâm Thìn- Trần Đăng Suyền (Đồng
chủ biên phần Văn), Bùi Minh Toán (Chủ biên phần Tiếng Việt), Lê A (Chủ biên
phần Làm văn), Lê Ngun Cẩn, Nguyễn Thái Hịa, Đỡ Kim Hồi, Nguyễn Xn
Nam, Đồn Đức Phương, Trần Nho Thìn, Trịnh Thị Thu Tiết, Hà Bình Trị, Đồn
Thị Thu Vân, Vũ Dương Quỹ, Ngữ văn 10, tập một, NXB Giáo dục, 2010.

2.


Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên), Lã Nhâm Thìn- Trần Đăng Suyền (Đồng
chủ biên phần Văn), Bùi Minh Toán (Chủ biên phần Tiếng Việt), Lê A (Chủ biên
phần Làm văn), Lê Ngun Cẩn, Nguyễn Thái Hịa, Đỡ Kim Hồi, Nguyễn Xn
Nam, Đồn Đức Phương, Trần Nho Thìn, Trịnh Thị Thu Tiết, Hà Bình Trị, Đồn
Thị Thu Vân, Vũ Dương Quỹ, Sách giáo viên Ngữ văn 10, tập một, NXB Giáo
dục, 2010.

3.

Vũ Quốc Anh, Nguyễn Hải Châu, Nguyễn Khắc Đàm, Bùi Minh Đức, Nguyễn
Duy Kha, Trần Đăng Nghĩa, Bùi Xuân Tân, Bùi Minh Toán, Nguyễn Thị Hồng
Vân, Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Ngữ văn lớp 10, NXB
Giáo dục Việt Nam, 2010.

4.

Nguyễn Kim Phong (chủ biên), Đặng Tương Như- Đào Công Vĩnh, Kĩ năng
đọc hiểu văn bản Ngữ văn 10, Nhà xuất bản Giáo dục, 2009
24


5.

Nguyễn Văn Đường (chủ biên), Thiết kế bài giảng Ngữ văn 10,Nhà xuất bản
Hà Nội, 2007

25



×