Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

Sử dụng các phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy bài 6 công dân với các quyền tự do cơ bản giáo dục công dân 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.74 MB, 41 trang )

PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài.
Dạy và học môn Giáo dục công dân ở nhà trường THPT đã và đang được
Đảng và Nhà nước, Bộ Giáo dục và Đào tạo, các cấp, các ngành, các bậc phụ
huynh, học sinh và đặc biệt là đội ngũ giáo viên trực tiếp giảng dạy bộ môn rất
quan tâm. Người giáo viên trực tiếp giảng dạy bộ môn Giáo dục công dân ở nhà
trường THPT muốn đạt được chất lượng và hiệu quả dạy và học thì phải có ý
tưởng xây dựng, thiết kế và thực hiện có hiệu quả các tiết dạy môn Giáo dục công
dân ở nhà trường THPT phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động lĩnh hội
kiến thức và u thích bộ mơn của học sinh, từ đó làm thay đổi quan niệm khơng
chỉ ở học sinh mà cả một bộ phận không nhỏ giáo viên và phụ huynh học sinh còn
coi đây là một mơn phụ.
Để phát huy được tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh trong học
tập, cũng như hình thành cách ứng xử với các tình huống thực tiễn cuộc sống từ bộ
môn Giáo dục công dân giáo viên cần phải biết cách lôi cuốn học sinh vào những
hoạt động tư duy cần thiết, để học tập, lĩnh hội tri thức và quan trọng hơn là rèn
luyện, giáo dục nhân cách, tình cảm cho học sinh. Để làm được điều này người
giáo viên cần phải đổi mới phương pháp dạy học, phải chuyển từ dạy học theo định
hướng nội dung sang dạy học theo định hướng năng lực. Giáo viên phải biết xây
dựng ý tưởng, sưu tầm những tình huống, các phương pháp dạy học để đưa vào
vận dụng cho nội dung bài học trước khi lên lớp, xác định thật kĩ những nội dung
kiến thức cơ bản, những ý chính, những nội dung quan trọng nhất sẽ được trình
bày trên lớp và có thể đặt ra những tình huống học sinh có thể hỏi. Nhưng trên thực
tế việc sử dụng các phương pháp dạy học tích cực chưa đồng loạt, chỉ có số ít giáo
viên đã sử dụng, còn lại nhiều giáo viên khác vẫn đang dạy kiến thức đơn thuần
trong sách giáo khoa nên hiệu quả chưa cao. Đặc biệt như ở phần pháp luật nói
chung và ở Bài 6 :“Cơng dân với các quyền tự do cơ bản” trong chương trình
GDCD 12 nói riêng, đa số giáo viên dạy chỉ dạy lí thuyết ở sách giáo khoa là chủ
yếu nên chưa phát huy được tính tích cực, chưa rèn luyện phát triển các kĩ năng. Vì
vậy để học sinh được thể nghiệm, được rèn luyện và phát triển các kĩ năng, có khả
năng giải quyết các tình huống nảy sinh trong thực tiễn tơi đã sử dụng các phương


pháp dạy học tích cực trong giảng dạy Bài 6: “Công dân với các quyền tự do cơ
bản” nhằm để phát triển phẩm chất, năng lực của học sinh. Đây cũng là lí do để tơi
chọn đề tài: “Sử dụng các phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy bài 6:
Công dân với các quyền tự do cơ bản - Giáo dục công dân 12”
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Có rất nhiều tác giả đã đưa ra cách để sử dụng các phương pháp dạy học tích
cực vào giảng dạy nhưng chưa nêu rõ các bước đi như thế nào. Với các cách sử
dụng trước đây chưa tạo ra bước đột phá trong các giờ dạy.
3. Mục đích nghiên cứu:
1


Hoàn chỉnh cách sử dụng các phương pháp dạy học tích cực phục vụ cho q
trình dạy học và chia sẻ kinh nghiệm với các đồng nghiệp.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu:
Khách thể nghiên cứu: HS khối 12 ở trường THPT.
Đối tượng nghiên cứu: Các phương pháp dạy học tích cực được sử dụng vào
giảng dạy bài 6 môn Giáo dục công dân 12
5. Nhiệm vụ nghiên cứu:
5.1. Nghiên cứu cơ sở lí luận
Nghiên cứu vai trị của các phương pháp dạy học tích cực trong dạy học .
5.2. Nghiên cứu thực tiễn
Tìm hiểu những khó khăn, vướng mắc của HS khi vận dụng các phương
pháp dạy học tích cực trong các bài học.
Biên soạn tài liệu và tiến hành thực nghiệm sư phạm để đánh giá tính hiệu
quả của đề tài.
6. Kế hoạch nghiên cứu
TT
1


Thời gian

Nội dung công việc

Sản phẩm

- Chọn đề tài sáng Bản đề cương chi tiết.
Tháng 8/2020 đến tháng kiến kinh nghiệm
9/2020
- Đăng ký với tổ CM.
- Đọc tài liệu

2

3

Từ tháng 8/2020
tháng 9 /2020.

Từ tháng 9/2020
tháng 2/2021

- Tập hợp tài liệu lí
đến - Khảo sát thực trạng. thuyết.
- Số liệu khảo sát đã
- Tổng hợp số liệu.
xử lí.
- Trao đổi với đồng - Tập hợp ý kiến đóng
nghiệp để đề xuất góp của đồng nghiệp.
đến biện pháp, các sáng - Kết quả thử nghiệm.

kiến.
- Áp dụng
nghiệm.

thử

4

- Viết báo cáo.
- Bản nháp báo cáo.
Từ tháng 12/2020 đến
- Xin ý kiến của đồng - Tập hợp ý kiến đóng
tháng 02/2021.
nghiệp.
góp của đồng nghiệp.

5

Từ tháng 02/2021 đến - Hồn thiện bản báo - Bản báo cáo chính
3/2021
cáo.
thức.
2


7. Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng phối hợp các phương pháp sau :
7.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lí thuyết
- Phương pháp thu thập các nguồn tài liệu lí luận.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp các nguồn tài liệu đã thu thập.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn

- Điều tra thực trạng sử dụng các phương pháp dạy học tích cực trong dạy
học .
- Trao đổi với GV có nhiều kinh nghiệm sử dụng các phương pháp dạy học
tích cực.
- Thực nghiệm sư phạm: Đánh giá hiệu quả của đề tài.
7.3. Phương pháp thống kê toán học: Xử lí phân tích các kết quả TNSP.
8. Giới hạn của đề tài:
Dừng lại ở việc sử dụng các phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy
Bài 6: “Công dân với các quyền tự do cơ bản ” - GDCD 12

3


PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1. Cơ sở lí luận:
Đổi mới phương pháp dạy học là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà
nước ta nhằm thực hiện đổi mới giáo dục, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo
dục thế hệ trẻ. Chủ trương này đã thể hiện rõ trong nhiều văn bản quan trọng của
Đảng và Nhà nước.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện
về giáo dục và đào tạo “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo
hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức,
kĩ năng của người học, khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi máy móc.
Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ hội để người học
tự cập nhật và đổi mới tri thức, kĩ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu
trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại
khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền
thông trong dạy và học”.
Luật giáo dục số 38/ 2005/ QH11, Điều 28 khoản 2 nêu rõ: “Phương pháp
giáo dục phổ thơng phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tao của

người học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng
phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kĩ năng vận dụng
kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú trong
học tập của học sinh”.
Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011 -2020 ban hành kèm theo
quyết định 711/ QĐ – TTCP ngày 13/06/2012 của Thủ tướng Chính phủ chỉ rõ:
“Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học và đánh giá kết quả học tập, rèn luyện theo
hướng phát huy tính cực, tự giác, chủ động, sáng tạo và năng lực tự học của người
học”.
Chương trình giáo dục phổ thơng ban hành kèm theo quyết định số
16/2006/QĐ – BGDĐT ngày 05/06/2006 của Bộ trưởng Bộ GD & ĐT đã nêu “
Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với
đặc trưng của môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện của từng lớp hoc,
bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác, rèn luyện kĩ năng,
rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại
niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.
Đất nước trong thời kì Cơng nghiệp hóa, Hiện đại hóa với nền kinh tế
nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải có những con người lao
động chất lượng cao, năng động, sáng tạo, có đủ sức giải quyết các vấn đề đặt ra
trong thực tiễn phát triển đất nước. Vì thế có thể nói đổi mới giáo dục nói chung,
đổi mới phương pháp dạy học nói riêng là một vấn đề cấp bách hiện nay để nâng
cao chất lượng giáo dục, đáp ứng yêu cầu mới của đất nước. Để thích ứng với cơ
chế thị trường, chuẩn bị cho cuộc sống và có việc làm ngày càng tốt hơn, học sinh
4


phải có sự chuyển biến mạnh mẽ về mục đích, động cơ, thái độ học tập. Xã hội
phát triển nhanh đòi hỏi phải đáp ứng yêu cầu:
- Tự học suốt đời
- Năng động sáng tạo

- Tự lực giải quyết vấn đề của cuộc sống
Do vậy, dạy học theo phương pháp thụ động là chưa phù hợp với bản chất
của lao động học tập và chưa đáp ứng được mục tiêu của xã hội hiện đại và phải có
sự đổi mới. Học sinh sẽ ý thức được rằng học tập tốt trong nhà trường là hứa hẹn
một tương lai tốt đẹp, sự thành đạt trong cuộc đời, phấn đấu trong học tập để có
thực lực đạt tới vị trí kinh tế xã hội phù hợp với năng lực của mình. Với một đối
tượng như vậy, địi hỏi nhà trường phải có sự chuyển biến tích cực, sự đổi mới về
nơi dung, phương pháp dạy học – giáo dục.
Rõ ràng việc phát huy tính tích cực, tự giác học tập của học sinh đến mức
độ nào phụ thuộc khá lớn vào phương pháp giảng dạy của giáo viên, cụ thể là
thông qua khâu thiết kế, tổ chức và hướng dẫn của giáo viên. Trên thực tế, bên
cạnh những giáo viên tích cực đổi mới phương pháp dạy học thì vẫn có nhiều giáo
viên không muốn đổi mới hoặc cũng dạy theo hướng đổi mới nhưng cịn mang
nặng tính hình thức, đối phó… Thậm chí nhiều giáo viên cho rằng: Việc phát huy
tính tích cực của học sinh ở mơn GDCD cịn hạn chế là do vị trí của bộ mơn ở
trường THPT bị xem nhẹ, do vậy học sinh chưa thực sự hăng say lo lắng học…
Nhưng hiện nay môn GDCD đã đưa vào thi THPT Quốc gia, môn thi tổ hợp xã
hội nên hoạt động đổi mới phương pháp dạy học ở trường THPT phải chú trọng để
mang lại hiệu quả cao.
Mặt khác, do yêu cầu dạy học theo định hướng phát triển năng lực của học
sinh là học sinh vận dụng được kiến thức, kĩ năng đã học vào giải quyết tình huống
trong cuộc sống, nghề nghiêp nhằm đảm bảo chất lượng đầu ra của việc dạy học,
thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện các phẩm chất nhân cách, chú trọng năng
lực vận dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn nhằm chuẩn bị cho con
người năng lực giải quyết các tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp.
Đồng thời, sử dụng các phương pháp dạy học theo định hướng phát triển
năng lực khơng chỉ chú ý tích cực hóa học sinh về hoạt động trí tuệ mà còn chú ý
rèn luyện năng lực giải quyết vấn đề gắn với những tình huống của cuộc sống,
đồng thời gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động thực hành, thực tiễn. Tăng cường
việc học tập trong nhóm, đổi mới quan hệ Giáo viên – Học sinh theo hướng cộng

tác, nhằm phát triển các năng lực của học sinh.
2. Một số vấn đề chung về dạy học theo định hướng phát triển năng lực.
2.1.

Khái niệm về năng lực:

5


- Năng lực là khả năng vận dụng các kiến thức, kĩ năng, thái độ, niềm tin,
giá trị…vào việc thực hiện các nhiệm vụ trong những hoàn cảnh cụ thể của thực
tiễn.
- Năng lực chung là những năng lực cơ bản, thiết yếu hoặc cốt lõi…làm nền
tảng cho mọi hoạt động của con người trong cuộc sống và lao động nghề nghiệp.
Năng lực chung được hình thành và phát triển từ nhiều môn học.
- Năng lực chuyên biệt là những năng lực được hình thành và phát triển trên
cơ sở các năng lực chung theo định hướng chuyên sâu, riêng biệt. Năng lực chuyên
biệt sẽ được hình thành và phát triển trong mơn học hoạt động giáo dục.
2.2. Chương trình giáo dục định hướng năng lực.
Giáo dục định hướng năng lực nhằm đảm bảo chất lượng đầu ra của việc dạy
học, thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện các phẩm chất nhân cách, chú trọng
năng lực vận dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn nhằm chuẩn bị cho
con người năng lực giải quyết các tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp.
Chương trình này nhấn mạnh vai trò của người học với tư cách chủ thể của quá
trình nhận thức.
Khác với chương trình định hướng nội dung, chương trình dạy học định
hướng phát triển năng lực tập trung vào việc mơ tả chất lượng đầu ra, có thể coi là
“sản phẩm cuối cùng” của quá trình dạy học. Việc quản lí chất lượng dạy học
chuyển từ việc điều khiển “đầu vào” sang điều khiển “đầu ra”, tức là kết quả học
tập của học sinh.

Các năng lực mà mơn GDCD hướng đến:
* Năng lực chung:
- Nhóm năng lực làm chủ và phát triển bản thân:
+ Năng lực tự học
+ Năng lực giải quyết vấn đề
+ Năng lực sáng tạo
+ Năng lực tự quản lí
- Nhóm năng lực về quan hệ xã hội:
+ Năng lực giao tiếp
+ Năng lực hợp tác
- Nhóm năng lực cơng cụ:
+ Năng lực sử dụng công nghệ và truyền thông
+ Năng lực sử dụng ngơn ngữ
+ Năng lực tính tốn.
6


* Các năng lực chun biệt được hình thành thơng qua mơn GDCD:
Mơn GDCD ở trường THPT có vai trị quan trọng trực tiếp trong quá
trình hình thành ý thức chính trị, hành vi đạo đức, pháp luật và lối sống trong đời
sống thực tiễn cho học sinh. Môn học này có đặc điểm là gần gũi, gắn bó mật thiết
với đời sống thực tiễn sinh động của gia đình, nhà trường và xã hội. Đặc điểm này
tạo cho môn GDCD có những lợi thế để giáo viên có thể sử dụng các phương pháp
giảng dạy tích cực nhằm phát triển năng lực cho học sinh. Bên cạnh các năng lực
chung, mơn GDCD cịn cung cấp các năng lực chun biệt sau:
- Tự nhận thức, tự điều chỉnh hành vi phù hợp với pháp luật và chuẩn
mực đạo đức xã hội:
+ Nhận thức được các giá trị đạo đức, truyền thống văn hóa, các quy định
của pháp luật và nhận ra được các yếu tố tác động đến bản thân trong cuộc
sống, học tập.

+ Nhận thức được các yếu tố tác động đến bản thân, có cách ứng xử phù
hợp với các tình huống trong cuộc sống, học tập.
+ Tự đánh giá, điều chỉnh hành vi phù hợp với pháp luật và chuẩn mực
đạo đức xã hội.
- Tự chịu trách nhiệm và thực hiện trách nhiệm công dân với cộng đồng
đất nước:
+ Đặt kế hoạch và nhiệm vụ phấn đấu cho mục tiêu của mình.
+ Nhận ra và tự chịu trách nhiệm trong các hồn cảnh và cơng việc cụ thể.
+ Ý thức được quyền và nghĩa vụ của mình, tự giác thực hiện trách nhiệm
cơng dân với gia đình, cộng đồng, đất nước.
- Giải quyết các vấn đề đạo đức, pháp luật, chính trị, xã hội.
+ Tự đánh giá, tự điều chỉnh những hành động chưa hợp lí của bản thân
trong học tập và trong cuộc sống hằng ngày.
+ Chủ động tham gia hợp tác giải quyết các vấn đề đạo đức, pháp luật,
chính trị, xã hội.
3. Cơ sở thực tiễn:
3.1. Thực trạng phương pháp giảng dạy môn GDCD nói chung
Mơn GDCD là một mơn khoa học mà lượng kiến thức khơng ít, mang tính
chất khái qt hóa, trừu tượng hóa, tổng hợp cao nhưng nó gắn liền với thực tiễn
đời sống hằng ngày, tác động trực tiếp, thường xuyên đến suy nghĩ và hành động
của học sinh. Vì vậy địi hỏi giáo viên trong q trình giảng dạy phải làm cho
những tri thức khái quát hóa, trừu tượng, lí luận mang đậm nét gắn liền với thực
tiễn thơng qua phương pháp dạy học tích cực.
7


Để đảm bảo việc đổi mới phương pháp dạy nói chung và đổi mới phương
pháp giảng dạy bộ môn GDCD nói riêng, chúng ta phải đảm bảo được các yêu cầu
sau:
3.1.1. Đối với yêu cầu chung:

- Dạy học tiến hành thông qua việc tổ chức các hoạt động học tập của học
sinh.
- Dạy học kết hợp giữa học tập cá thể với học tập hợp tác; giữa hình thức
học cá nhân với học nhóm, lớp.
- Dạy học thể hiện mối quan hệ tích cực giữa giáo viên và học sinh, giữa học
sinh với học sinh.
- Dạy học chú trọng đến việc rèn luyện các kĩ năng, năng lực, tăng cường
thực hành và gắn với nội dung bài học với cuộc sống thực tiễn.
- Dạy học chú trọng đến việc rèn luyện phương pháp tư duy, năng lực tự học,
tự nghiên cứu, tạo niềm vui, thái độ tự tin trong học tập cho học sinh.
- Dạy học chú trọng đến việc sử dụng có hiệu quả phương tiện, thiết bi dạy
học được trang bị hoặc giáo viên tự làm, đặc biệt ứng dụng công nghệ thông tin.
- Dạy học chú trọng đến việc đa dạng hóa nội dung, các hình thức, cách thức
đánh giá và tăng cường hiệu quả việc đánh giá.
3.1.2. Yêu cầu đối với giáo viên
- Thiết kế giáo án bao gồm các hoạt động của giáo viên và hoạt động của
học sinh theo những mục tiêu cụ thể của mỗi tiết, mỗi bài học của môn Giáo dục
công dân mà học sinh cần đạt được, thiết kế hệ thống câu hỏi, tình huống và bài tập
để định hướng cho học sinh hoạt động.
- Thiết kế giáo án, tổ chức, hướng dẫn học sinh thực hiện các hoạt động học
tập với các hình thức đa dạng, phong phú có sức hấp dẫn phù hợp với đặc trưng bài
học, với đặc điểm và trình độ học sinh, với điều kiện cụ thể của lớp, của trường và
của địa phương.
- Tổ chức các hoạt động trên lớp để học sinh hoạt động cá nhân hoặc theo
nhóm như: nêu vấn đề cần tìm hiểu, tổ chức các hoạt động tìm tịi, phát hiện nội
dung kiến thức từ đó hình thành kĩ năng, kĩ xảo và thái độ cho học sinh.
- Định hướng điều chỉnh các hoạt động của học sinh để học sinh nắm được
chính xác các khái niệm kiến thức của mơn Giáo dục cơng dân từ đó nắm được nội
dung, ý nghĩa và trách nhiệm của nhà nước và của cơng dân.
- Động viên, khuyến khích tạo cơ hội và điều kiện cho học sinh được tham

gia một cách tích cực, chủ động, sáng tạo vào quá trình khám phá lĩnh hội kiến
thức.
8


- Thiết kế bài giảng và hướng dẫn học sinh thực hện các dạng câu hỏi, bài
tập phát triển tư duy và rèn luyện kĩ năng, hướng dẫn học sinh có thói quen vận
dụng kiến thức đã học vào giải quyết các vấn đề thực tiễn.
- Sử dụng các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học một cách hợp lí,
hiệu quả, linh hoạt, phù hợp với nội dung, ý nghĩa bài học, phù hợp với đặc điểm
và trình độ học sinh, thời lượng dạy học và các điều kiện dạy học cụ thể của nhà
trường và địa phương.
- Tạo điều kiện để học sinh vận dụng nhiều hơn kiến thức của mình để giải
quyết một số vấn đề có liên quan đến đời sống thực tiễn ở địa phương.
3.1.3. Yêu cầu đối với học sinh
Để đạt được mục tiêu lấy người học làm trung tâm thay cho lấy người dạy
làm trung tâm thì người học phải thực hiện và đạt được các yêu cầu sau:
- Tích cực suy nghĩ, chủ động tham gia các hoạt động học tập để tự khám phá
và lĩnh hội kiến thức, rèn luyện kĩ năng, xây dựng mục đích, phương pháp học tập,
thái độ, động cơ và hành vi đúng đắn.
- Tích cực thực hành vận dụng kiến thức đã học để phân tích, đánh giá, giải
quyết các tình huống và các vấn đề đặt ra từ thực tiễn, xây dựng và thực hiện các
kế hoạch học tập phù hợp với khả năng và điều kiện.
- Mạnh dạn trình bày và bảo vệ ý kiến, quan điểm cá nhân, tích cực thảo
luận, tranh luận, đặt câu hỏi cho bản thân, giáo viên dạy và cho bạn bè.
- Biết tự đánh giá và đánh giá các ý kiến, quan điểm, các sản phẩm hoạt động
học tập của bản thân và bạn bè. Như vậy, trong tình hình cụ thể hiện nay việc đổi
mới phương pháp giảng dạy nói chung và đổi mới phương phương pháp giảng dạy
mơn Giáo dục cơng dân nói riêng phải giúp cho học sinh:
+ Phát huy tính tích cực, tự giác, sáng tạo của người học.

+ Chuyển trọng tâm từ hoạt động của thầy sang hoạt động của trò
+ Hướng tới hoạt động chủ động, chống thói quen học tập thụ động, học sinh
tích cực chiếm lĩnh kiến thức và kĩ năng thu thập, xử lí trình bày trao đổi thông tin
thông qua các hoạt động học tập do giáo viên tổ chức hướng dẫn.
+ Tăng cường hoạt động theo nhóm và học tập cá nhân
+ Giảm trình bày lí thuyết, tăng thực hành vận dụng vào thực tiễn.
3.2. Thực trạng dạy bài 6 “Công dân với các quyền tự do cơ bản” – GDCD
12
Bài 6 “Công dân với các quyền tự do cơ bản”, GDCD 12 thuộc phần pháp luật
nên kiến thức đòi hỏi chuẩn xác nhưng lại gắn với thực tiễn cuộc sống. Việc áp
dụng các phương pháp dạy học tích cực đang trở thành một phong trào sâu rộng
trong nghành giáo dục nước ta nói chung và trong hệ thống các trường THPT nói
9


riêng.Trong rất nhiều giải pháp đưa ra nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng dạy học
hiện nay thì các phương pháp dạy học tích cực cũng được xem là phương pháp
quan trọng.
Đối với trường THPT Cát Ngạn đã có kế hoạch cụ thể trong việc trang bị kiến
thức, phương pháp daỵ học tích cực cho đội ngũ giáo viên. Trường đã cử giáo viên
đi tập huấn phương pháp dạy học tích cực và giáo viên đã áp dụng phương pháp
mới tại trường lớp. Qua các lớp đã áp dụng giúp giáo viên nắm vững các phương
pháp và từ đó có kế hoạch trong việc nghiên cứu soạn bài nâng cao chất lượng dạy
và học, gắn giữa lí luận với thực tiễn, học đi đơi với hành ngay trong q trình
giảng dạy cho học sinh. Mỗi giáo viên trường THPT Cát Ngạn đã nhận thức đúng
yêu cầu của việc đổi mới phương pháp dạy và học, không ngừng nâng cao chất
lượng giảng dạy cho học sinh. Lãnh đạo nhà trường, các tổ chức đoàn thể đã động
viên mỗi người nêu cao tính tự giác, tích cực để khắc phục những khó khăn về
phương tiện, cơ sở vật chất, vượt qua những trở ngại về tâm lí do thói quen truyền
thống từ những cách làm cũ thầy đọc trò ghi, vững tin vào quá trình đổi mới để

nâng cao chất lượng , hiệu quả dạy và học.
Trường THPT Cát Ngạn đã đề ra nhiều giải pháp đồng bộ nhằm không ngừng
nâng cao chất lượng giảng dạy . Một trong những giải pháp quan trọng để nâng cao
chất lượng đào tạo của nhà trường là đổi mới phương pháp giảng dạy. Thế mạnh
của trường hiện nay là có đội ngũ giáo viên trẻ, nhiệt huyết, có năng lực được đào
tạo cơ bản, có tác phong sư phạm tốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng. Bên cạnh đó
nhà trường cịn trang bị về cơ sở vật chất phục vụ cho công tác giảng dạy như:
Phịng học có đầy đủ phương tiện để phục vụ hiệu quả cho việc dạy học, máy
chiếu, ...tạo điều kiện phục vụ nhu cầu giảng dạy bằng giáo án điện tử cho tất cả
các giáo viên của trường. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng các phương pháp dạy
học tích cực để giảng dạy bài 6 “Cơng dân với các quyền tự do cơ bản” GDCD 12 gặp những thuậ lợi và khó khăn như sau:
* Về thuận lợi:
Thứ nhất, Đa số giáo viên trong nhà trường đã nhận thức được sự quan trọng
và tính cấp thiết về việc đổi mới phương pháp dạy học.
Thứ hai, hiện nay bộ môn giáo dục công dân được đưa vào môn thi tốt nghiệp
THPT Quốc gia môn tổ hợp xã hội nên phần lớn đã được chú trọng, học sinh phần
nào ý thức được và lo lắng cho việc học, nhà trường đẫ tổ chức và cử giáo viên
tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng phương pháp dạy học mang trình độ chuyên
môn cao.
Thứ ba, Giáo viên đã áp dụng các phương pháp dạy học tích cực vào q trình
soạn bài và lên lớp.
Thứ tư, Giáo viên đã sử dụng kết hợp cả phương tiện dạy học truyền thống và
phương tiện hiện đại để nâng cao chất lượng giờ dạy.
10


Thứ năm, cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học của nhà trường ngày càng hiện
đại, đáp ứng yêu cầu giảng dạy cho giáo viên.
Thứ sáu, trong điều kiện công nghệ thông tin phát triển học sinh được nâng cao
hiểu biết trên nhiều lĩnh vực.

* Khó khăn:
Thứ nhất, do thói quen thụ động trong q trình dạy và học từ trước.
Thứ hai, do đầu vào của học sinh thấp, nhiều học sinh vẫn chưa coi trọng môn
GDCD.
Thứ ba, Một số lớp học năng lực của học sinh không đồng đều nên nhiều học
sinh dường như ở ngoài cuộc.
Thứ tư, Một số giáo viên trẻ, kinh nghiệm chưa nhiều.
Thứ năm, trang thiết bị của nhà trường đang từng bước được hoàn thiện, tuy
nhiên vẫn chưa thể đáp ứng đầy đủ và đồng bộ .
* Thực trạng của vấn đề khi chưa áp dụng sáng kiến:
Từ trước đến nay khi dạy môn GDCD tôi cũng như các đồng nghiệp thường
sử dụng phương pháp dạy học truyền thống như vấn đáp, thuyết trình...... khi tiến
hành các bước cụ thể qua các hoạt động. Sau khi tiến hành các bước đó giáo viên
đã phát phiếu thăm dò và đưa ra câu hỏi tự luận sau khi học xong bài 6“ Công dân
với các quyền tự do cơ bản” với cách dạy truyền thống tôi đã nêu câu hỏi như
sau:
Qua bài 6: Công dân với các quyền tự do cơ bản em đã hiểu và vận dụng như
thế nào trong đời sống?
Kết quả đạt được qua hai lớp mà tôi đã sử dụng phương pháp truyền
thống qua kết quả thăm dị đó là: lớp 12D và Lớp 12E gồm 45 học sinh như
sau:
Bảng 1:
Nội dung
Số học sinh u thích mơn GDCD

12D – 12E
47%

Số học sinh nắm vững kiến thức


54.5%

Số học sinh biết cách vận dụng thực tiễn

41.5%

Số học sinh biết cách xử lí các tình huống thực tế

28%

Bảng 2:
11


Loại

Số em

Tỷ lệ %

Giỏi

0

0%

Khá

12


35%

TB

25

50%

Yếu

7

15%

4. Một số kinh nghiệm sử dụng phương pháp dạy học tích cực dể dạy Bài 6:
“ Công dân với các quyền tự do cơ bản” – GDCD 12 theo định hướng phát
triển năng lực.
4.1. Yêu cầu khi dạy bài 6: Công dân với các quyền tự do cơ bản.
Ở bài 6: Công dân với các quyền tự do cơ bản.
Gồm có hai phần:
- Phần 1: Các quyền tự do cơ bản của công dân.
- Phần 2: Trách nhiệm của Nhà nước và công dân trong việc bảo đảm và thực hiện
các quyền tự do cơ bản của công dân.
Học xong bài 6 học sinh cần nắm được
1. Về kiến thức.
- Học sinh nêu được khái niệm, nội dung, ý nghĩa của một số quyền tự do cơ
bản của cơng dân.
- Học sinh trình bày được trách nhiệm của Nhà nước và công dân trong việc bảo
đảm và thực hiện các quyền tự do cơ bản của công dân.
2. Về kĩ năng.

- Biết thực hiện các quyền tự do về thân thể và tinh thần của công dân.
- Phân biệt những hành vi thực hiện đúng và hành vi xâm phạm quyền tự do về
thân thể và tinh thần của cơng dân.
3.Về thái độ.
Có ý thức bảo vệ quyền tự do cơ bản của mình và tơn trọng quyền tự do cơ bản
của người khác.
4. Về phẩm chất, năng lực
- Phẩm chất:

Thông qua việc giảng dạy sẽ góp phần hình thành, phát triển cho học sinh
các phẩm chất như:
Trung thực: Nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của pháp luật về quyền tự
do cơ bản của công dân.
12


Trách nhiệm: Tôn trọng các quyền tự do cơ bản của người khác
Năng lực: Giúp học sinh có kỹ năng phân tích được quyền tự do cơ bản của
bản thân cũng như của người khác. Năng lực tự học và tự chủ, năng lực giao tiếp
và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo. Khả năng điều chỉnh hành vi,
năng lực phát triển bản thân, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.
Kỹ năng hợp tác khi thảo luận, hợp tác những vấn đề liên quan về quyền tự
do cơ bản của công dân.
Đây là một bài học quan trọng, nhằm giúp học sinh hiểu được quyền tự do cơ
bản của công dân và biết vận dụng phù hợp vào thực tiễn trong từng mối quan hệ
khi mình tham gia. Đồng thời rèn luyện cho học sinh biết cách ứng xử cho phù hợp
với quy định của pháp luật. Muốn đạt được điều đó địi hỏi giáo viên phải biết cách
sử dụng tình huống và kết hợp các phương pháp dạy học tích cực trong quá trình
truyền thụ kiến thức cho học sinh. Nhưng trong thực tế một số giáo viên vẫn sử
dụng phương pháp dạy học truyền thống như: đàm thoại, thuyết trình...Vì vậy để

thay đổi suy nghĩ, nhận thức của các em học sinh và cũng để chia sẻ với các đồng
nghiệp, tôi mạnh dạn nêu lên một số kinh nghiệm của mình về sử dụng một số
phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy bài 6: “Công dân với các quyền tự do
cơ bản” – GDCD 12.
4.2: Một số kinh nghiệm sử dụng phương pháp dạy học tích cực dể dạy Bài
6: “Công dân với các quyền tự do cơ bản” – GDCD 12 theo định hướng phát
triển năng lực.
Để dạy tốt Bài 6: “ Công dân với các quyền tự do cơ bản” – GDCD 12 tôi đã
sử dụng kết hợp các phương pháp dạy học khác nhau, trong đó có một số phương
pháp chủ đạo, đó là: Phương pháp đóng vai, phương pháp thảo luận nhóm, phương
pháp động não, tình huống, trị chơi.
4.2.1. Kinh nghiệm sử dụng phương pháp đóng vai:
Phương pháp đóng vai là phương pháp tổ chức cho người học thực hành, “làm
thử” một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định. Đây là phương
pháp dạy học nhằm giúp học sinh suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách tập
trung vào một sự kiện cụ thể mà họ quan sát được. Việc “diễn” khơng phải là phần
chính của phương pháp này mà điều quan trọng là sự thảo luận sau phần diễn ấy.
Quy trình thực hiện của phương pháp này là:
- Giáo viên nêu chủ đề, chia nhóm và giao tình huống, yêu cầu đóng vai cho
từng nhóm.
- Trong đó quy định rõ thời gian chuẩn bị, thời gian đóng vai của mỗi
nhóm.
- Các nhóm thảo luận chuẩn bị đóng vai.
- Lớp thảo luận nhận xét.
13


- Giáo viên kết luận.
Phương pháp đóng vai có những ưu điểm là: học sinh được rèn luyện, thực
hành những kĩ năng ứng xử và bày tỏ thái độ trong mơi trường an tồn trước khi

thực hành trong thực tiễn, gây hứng thú và chú ý cho học sinh, tạo điều kiện làm
phát triển óc sáng tạo của học sinh, khích lệ sự thay đổi thái độ, hành vi của học
sinh theo hướng tích cực, có thể thấy ngay tác động và hiệu quả của lời nói hoặc
việc làm của các vai diễn.
Bên cạnh những ưu điểm phương pháp đóng vai có những hạn chế sau: Nếu
học sinh đóng vai khơng hiểu rõ vai của mình (lạc đề) thì sẽ khơng thu được kết
quả như mong muốn, có khi kết quả ngược lại, nếu khơng có yếu tố hóa trang hoặc
đạo cụ thì sẽ giảm hiệu quả của giờ học, khơng gây được hứng thú của học sinh.
Người đóng vai ít có kinh nghiệm và khả năng diễn đạt sẽ làm cho lớp học khơng
tập trung hoặc rối nhiễu.
Vì vậy để phát huy ưu điểm, hạn chế nhược điểm của phương pháp này tại
Bài 6: “Công dân với các quyền tự do cơ bản” tơi có một số kinh nghiệm sau:
+ Tình huống đóng vai phải là những chủ đề phù hợp với nội dung tri thức
của bài, của môn GDCD, phù hợp với tâm lí lứa ruổi, trình độ học sinh và điều
kiện, hồn cảnh lớp học, tình huống nên để mở, không cho trước “kịch bản” lời
thoại.
+ Phải dành thời gian phù hợp cho các nhóm đóng vai (khơng q 2 phút),
người đóng vai phải hiểu rõ vai của mình trong bài tập đóng vai đê khơng lạc đề.
+ Mặt khác để tránh mất nhiều thời gian, giáo viên yêu cầu các nhóm tự
chuẩn bị ở nhà, sau đó lên lớp trình bày. Khi các nhóm tự chuẩn bị ở nhà nghĩa là
các em cũng đã chuẩn bị bài mới, giáo viên hướng dẫn học sinh để giải quyết tình
huống tốt thì phải đọc trước kiến thức nào, sau đó vận dụng vào để có cách ứng xử
phù hợp. Các vai nên để học sinh tự xung phong và phân cơng nhau, giáo viên
khích lệ những em nhút nhát cùng tham gia.
Ví dụ ở phần 1c: Quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của công dân:
Để dạy phần này có nhiều phương pháp dạy học khác nhau: Có giáo viên thì
đặt các câu hỏi trực tiếp để khai thác kiến thức. Với phương pháp đó bản thân tôi
thấy chưa phát huy được năng lực của học sinh, tiết học nhàm chán, với tôi để dạy
phần này nhằm phát huy được năng lực của học sinh tôi đã sử dụng phương pháp
đóng vai.

Có thể tùy từng giáo viên hoặc học sinh lựa chọn cách đóng vai khác nhau.
Nhưng với tôi, tôi đã chọn 2 học sinh một người đóng bạn ở một phịng trọ, một
người đóng Bạn đến chơi diễn ra cảnh người bạn đến chơi không thấy bạn mình ở
trong phịng nhưng vẫn tự vào phịng và xem trộm tin nhắn điện thoại của bạn.

14


Giáo viên cho 2 học sinh xung phong đóng vai hai người bạn giáo viên nên
chọn 2 học sinh có khả năng diễn đạt tốt và mạnh dạn trước đông người.
Để phương pháp đóng vai có hiệu quả, giáo viên nên cho học sinh chuẩn bị
trước một tuần và yêu cầu mỗi học sinh chuẩn bị phong thái có thể đóng ln trên
lớp, chuẩn bị một số đạo cụ, lời thoại để đóng vai.
Giáo viên nên giành thời gian phù hợp cho học sinh đóng vai cảnh tự ý vào
phịng người khác và xem trộm tin nhắn của bạn (Khoảng 1-2 phút).
Các em tiến hành đóng vai
Chỉ từ 1-2 phút các em thể hiện khá thành công
Qua hoạt động này tôi nhận thấy: Lớp học hào hứng hứng hơn, học sinh
được rèn luyện tính tự giác, mạnh dạn, tự tin, ngại e thẹn, phát triển được các năng
lực:
+ Năng lực sáng tạo: Học sinh nhìn và nghe lời thoại, diễn xuất của bạn diễn.
+ Năng lực tự quản lí: Học sinh biết quản lí thời gian khi diễn xuất (khơng
q 2 phút).
+ Năng lực tự học: Học sinh tự suy nghĩ, tự học và rèn luyện, tự biết cách
ứng xử và thái độ của mình trước các quyền tự do cơ bản.
+ Năng lực giao tiếp: Rèn luyện cho học sinh tính mạnh dạn, tự tin, khả năng
giao tiếp, khả năng diễn đạt trước đám đông và khả năng hiểu biết về quyền bất
khả xâm phạm về chỗ ở của cơng dân.
Tóm lại: Với phương pháp này học sinh sẽ được rèn luyện tính mạnh dạn, tự
tin, khả năng giao tiếp và khả năng diễn đạt trước đám đông. Học sinh được trải

nghiệm, được làm, được thể hiện bản thân. Tuy nhiên thơng qua hoạt động này tơi
thấy có một số hạn chế như: Việc diễn có hấp dẫn thu hút được sự chú ý của người
xem hay không là tùy thuộc vào năng lực của học sinh; Học sinh cịn e thẹn nên
khi diễn chưa được lưu lốt, trơi chảy.
4.2.2. Kinh nghiệm sử dụng phương pháp động não:
Phương pháp động não là phương pháp dạy học trong đó nội dung bài học
không được cấu trúc thành bài chặt chẽ, cho trước, tất cả học sinh trong lớp trong
một thời gian ngắn phải đưa ra ý kiến, ý tưởng, giả định của mình về một vấn đề
nào đó.
Quy trình thực hiện của phương pháp này là:
+ Giáo viên nêu câu hỏi hoặc vấn đề cần được tìm hiểu trước lớp hoặc
trước nhóm, khích lệ học sinh phát biểu và đóng góp ý kiến càng nhiều càng tốt.
+ Liệt kê tất cả mọi ý kiến lên bảng hoặc lên giấy to không loại trừ một ý
kiến nào, trừ trường hợp trùng lặp.
15


+ Phân loại ý kiến
+ Làm sáng tỏ những ý kiến chưa rõ ràng.
+ Tổng hợp ý kiến của học sinh, giáo viên hỏi xem có thắc mắc hay bổ
sung gì khơng.
Với phương pháp này có ưu điểm: Tích cực hóa hoạt động học tập của học
sinh, tạo mơi trường học tập sôi nổi, học sinh cùng nhau xây dựng nhận thức mới,
thúc đẩy học sinh linh hoạt, sáng tạo trong khi giải quyết vấn đề.
Bên cạnh đó phương pháp động não có những hạn chế sau: Nếu giáo viên
yêu cầu quá cao thì sẽ làm cho học sinh bị ức chế, tự ti không thu được kết quả tốt.
Ngược lại nếu yêu cầu ở mức độ thấp không cần động não nhiều thì học sinh
khơng phát huy hết tính năng động sáng tạo trong tư duy.
Để phát huy ưu điểm khắc phục hạn chế của phương pháp này giáo viên cần
lưu ý:

* Phương pháp này đặc biệt phù hợp với các vấn đề ít nhiều đã quen thuộc
trong thực tế cuộc sống của học sinh.
* Có thể sử dụng phương pháp này cho cả câu hỏi có phần kết đóng và phần
kết mở.
* Các ý kiến phát biểu ngắn gọn, bằng một từ hay một câu thật ngắn.
* Tất cả các ý kiến đều cần được giáo viên hoan nghênh, chấp nhận mà không
nên phê phán, nhận định đúng hay sai ngay.
* Cuối giờ thảo luận, giáo viên nên nhấn mạnh kết luận này là kết quả của sự
tham gia chung của tất cả học sinh.
Trong bài này tôi sử dụng phương pháp động não ở các phần sau:
Ví dụ khi dạy phần 1c: Thế nào là quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của
công dân? Tôi sử dụng một số câu hỏi sau:
* Sau khi cho học sinh đóng vai xong, tơi đã sử dụng một số câu hỏi:
Câu hỏi 1: Tình huống diễn ra giữa hai bạn vừa rồi phản ánh điều gì? Em có
thể tháo gỡ thắc mắc cho bạn Oanh được không?
Câu hỏi 2: Theo em những nơi nào được gọi là chỗ ở của công dân?
Câu hỏi 3: Như thế nào là quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của công dân?
Sau khi học sinh trả lời, giáo viên nhận xét và rút ra kết luận:
Chỗ ở của công dân được nhà nước và mọi người tôn trọng, không ai được
tự ý vào chỗ ở của người khác nếu không được người đó đồng ý. Chỉ trong trường
hợp được pháp luật cho phép và phải có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền mới được khám xét chỗ ở của một người. Trong trường hợp này thì việc
16


khám xét cũng không được tiến hành tùy tiện mà phải tuân theo đúng trình tự, thủ
tục do pháp luật quy định.
Ví dụ phần 1c: Nội dung quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của công dân
tôi sử dụng một số câu hỏi sau:
Câu hỏi 1: Nội dung quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của công dân được

thể hiện như thế nào?
Câu hỏi 2: Về nguyên tắc, không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác
nếu khơng được người đó cho phép. Tự tiện vào chỗ ở của người khác là vi phạm
pháp luật. Có khi nào pháp luật cho phép khám xét chỗ ở của cơng dân khơng? Đó
là những trường hợp nào?
Câu hỏi 3: Nhà nước đảm bảo quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của cơng
dân có ý nghĩa như thế nào?
(Sau đó chiếu cho học sinh xem sơ đồ quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của
cơng dân)
Ví dụ ở trong bài này tơi cịn sử dụng thêm một số câu hỏi nâng cao, câu hỏi
liên hệ như sau:
Câu hỏi 1: Trong gia đình em Quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở được thể
hiện như thế nào?
Câu hỏi 2: Nếu chỗ ở của em bị xâm phạm em sẽ xử lí như thế nào?
Câu hỏi 3: Ở địa phương em có xảy ra hiện tượng xâm phạm chỗ ở của công
dân không?
Sử dụng phương pháp động não ở bài này nhằm phát triển các năng lực
của học sinh là:
- Năng lực sáng tạo: Học sinh sẽ phát huy được tính sáng tạo của mình.
- Năng lực tự quản lí: Trong một thời gian ngắn học sinh đưa ra câu trả lời của
mình một cách nhanh nhất và ngắn gọn, đầy đủ.
- Năng lực sử dụng ngôn ngữ: Học sinh biết lựa chọn ngơn ngữ phù hợp, ngắn
gọn, chính xác.
- Năng lực tự học: Học sinh tự suy nghĩ, tự học và tự bộc lộ khả năng của
mình.
- Năng lực giao tiếp: Rèn luyện cho học sinh tính mạnh dạn, tự tin, khả năng
giao tiếp, khả năng diễn đạt trước đám đông.
- Năng lực tự nhận thức, tự điều chỉnh hành vi phù hợp với pháp luật và chuẩn
mực đạo đức xã hội: Học sinh tự biết đâu là quyền và nghĩa vụ của mình trong việc
bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở.

17


- Năng lực tự chịu trách nhiệm và tực hiện trách nhiệm cơng dân với cộng đồng,
đất nước.
Tóm lại: Thơng qua hoạt động này tôi nhận thấy: Các em đã thể hiện tính sáng
tạo của mình, biết độc lập suy nghĩ, nêu lên chính kiến của mình, tạo mơi trường
học tập sôi nổi, học sinh cùng nhau xây dựng nhận thức mới, thúc đẩy học sinh
linh hoạt, sáng tạo trong khi giải quyết vấn đề. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn cịn
những hạn chế đó là câu hỏi đặt ra không được áp đặt trong sách giáo khoa, để học
sinh trả lời những câu hỏi mà giáo viên nêu ra sẽ mất nhiều thời gian ảnh hưởng
đến các hoạt động khác.
4.2.3. Kinh nghiệm sử dụng phương pháp thảo luận nhóm:
Phương pháp thảo luận nhóm là phương pháp dạy học trong đó nhóm lớn
(lớp học) được chia thành các nhóm nhỏ đê tất cả các thành viên trong lớp đều
được làm việc, được bàn bạc, trao dổi về một chủ đề cụ thể và đưa ra ý kiến chung
của nhóm mình về vấn đề đó.
Phương pháp thảo luận nhóm được sử dụng nhằm giúp cho mọi học sinh
tham gia một cách chủ động vào quá trình học tập, tạo cơ hội cho các em có thể
chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm, ý kiến để giải quyết vấn đề có liên quan đến nội
dung bài học , tạo cơ hội cho các em được giao lưu, học hỏi lẫn nhau, cùng hợp
tác, giải quyết những nhiệm vụ chung.
* Quy trình thực hiện:
- Giáo viên có thể giới thiệu chủ đề thảo luận
- Chia nhóm, giao nhiệm vụ cho mỗi nhóm, quy định thời gian và phân
cơng vị trí làm việc cho mỗi nhóm.
- Các nhóm thảo luận, giải quyết nhiệm vụ được giao.
- Đại diện từng nhóm trình bày kết quả thảo luận của nhóm. Các nhóm
khác quan sát, lắng nghe, chất vấn, bình luận và bổ sung ý kiến.
- Giáo viên tổng kết và nhận xét.

* Với phương pháp này có những ưu điểm sau: Nhờ khơng khí thảo luận
cởi mở nên học sinh, đặc biệt là các em học sinh nhút nhát trở nên bạo dạn hơn,
các em được học cách trình bày ý kiến của mình, biết lắng nghe có phê phán ý kiến
của bạn, từ đó giúp học sinh dễ hịa nhập vào cộng đồng nhóm, tạo cho các em sự
tự tin, hứng thú trong học tập và sinh hoạt. Giúp kiến thức của các em bớt chủ
quan, phiến diện hơn và sâu sắc, bền vững, dễ nhớ hơn. Vốn hiểu biết và kinh
nghiệm xã hội của học sinh thêm phong phú, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng hợp tác của
học sinh được phát triển.
* Bên cạnh những ưu điểm trên phương pháp thảo luận nhóm cịn có một số
hạn chế sau: Ý kiến nhóm có thể bị phân tán hoặc mâu thuẫn gay gắt với nhau.
18


Một số học sinh nhút nhát hoặc vì một lí do nào đó khơng tham gia vào hoạt động
chung của nhóm. Thời gian có thể bị kéo dài, lớp ồn ào, ảnh hưởng đến lớp khác.
Để phát huy ưu điểm, khắc phục hạn chế trên giáo viên cần phải:
+ Giáo viên phải chia lớp thành các nhóm, số lượng các lớp tùy thuộc vào
từng bài dạy, từng yêu cầu mà giáo viên đặt ra. Có nhiều cách chia nhóm:
Chia theo tổ, chia theo tên thứ tự, chia theo bàn, theo tổ.
+ Chủ đề yêu cầu học sinh thảo luận phù hợp nội dung bài học. Giáo viên
nêu câu hỏi thảo luận ở dạng tình huống, phân tích, chứng minh,... Tránh
trường hợp học sinh chép lại nội dung sách giáo khoa đã trình bày.
+ Cách trình bày kết quả thảo luận nhóm để cho các nhóm tự chọn: Như
bằng lời, bằng tiểu phẩm, bằng tranh vẽ, hoặc bằng văn bản viết...
+ Mỗi nhóm bầu một nhóm trưởng điều hành chung và thư kí để ghi chép.
+ Giáo viên quy định thời gian thảo luận, thời gian trình bày, giáo viên phải
theo dõi hoạt động của mỗi nhóm, khuyến khích và giúp đỡ khi cần thiết.
+ Cần quy định rõ thời gian thảo luận nhóm và trình bày kết quả thảo luận
cho mỗi nhóm.
+ Giáo viên cần tạo cơ hội cho học sinh tham gia vào các nhóm khác nhau

với các bạn khác nhau để các em có thể tương tác, học hỏi lẫn nhau. Các
thành viên phải hướng vào nhau khi trao đổi, chia sẻ, thảo luận.
+ Học sinh cần tự đánh giá kết quả hoạt động của nhóm mình và đánh giá
hoạt động của các nhóm khác.
* Ví dụ về kinh nghiệm sử dụng phương pháp thảo luận nhóm để dạy
mục 1c: Nội dung quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của công dân.
Ở phần này kết hợp với phương pháp đóng vai đã nêu ở trên tơi sử dụng
phương pháp thảo luận nhóm để dạy mục 1c: Nội dung quyền bất khả xâm phạm
về chỗ ở của công dân trong vòng 20 phút và làm như sau:
Giáo viên chia lớp thành 3 nhóm theo vị trí chỗ ngồi.
Quy định thời gian thảo luận 4 phút
Giáo viên cho học sinh tái hiện lại tình huống mà các bạn vừa đóng vai:
Tình huống: Linh đến nhà Oanh chơi:
Vừa đến cổng: Linh gọi: Oanh ơi! Oanh ơi! (Khơng có tiếng trả lời). Linh tự đẩy
cổng đi vào trong. Tiếp tục gọi: Oanh ơi! Oanh Ơi! (Vẫn khơng có ai lên tiếng).
Linh tự đẩy cửa vào phòng và tự ý lấy điện thoại ra trước cửa ngồi xem tin nhắn
của Oanh. Đúng lúc đó Oanh bước vào cậu đang làm gì thế hả? Linh giật mình. Tớ
…Tớ.
Oanh: Sao cậu lại tự ý vào phòng tớ lại còn xem tin nhắn của tớ nữa? Cậu thật là…
19


Linh: Có sao đâu bạn bè với nhau phịng cậu tớ vào khi nào mà chẳng được, cịn
tin nhắn thì có gì mà phải dấu diếm. Bạn bè với nhau mà.
Oanh: Cậu làm như vậy là vi phạm pháp luật đấy.
Linh: Vi phạm là vi phạm thế nào cậu giải thích mình nghe xem.
Oanh: Ờ thì vi phạm…
Oanh: các bạn có thể giải thích hộ mình khơng?
Giáo viên nêu câu hỏi thảo luận ở dạng đề chung cho cả bốn nhóm, các
nhóm suy nghĩ, thảo luận và đưa ra cách giải quyết.

Câu hỏi thảo luân: các em giải thích hộ cho bạn Oanh?
(Giao câu hỏi cho 3 nhóm trả lời)
Lưu ý: Nhóm nào đưa ra được đáp án thuyết phục thì nhóm đó sẽ chiến
thắng.
Các nhóm tiến hành thảo luận:
Hình ảnh các nhóm tiến hành thảo luận
Hình ảnh các nhóm tiến hành thảo luận
Sau khi thảo luận xong các nhóm sẽ lên treo sản phẩm của nhóm mình lên
bảng, nhóm trưởng các nhóm sẽ lần lượt lên trình bày kết quả của nhóm mình.

20


21


22


Giáo viên kết luận: Như vậy qua hoạt động vừa rồi, các em đóng vai trị là
một chun gia pháp luật trong vấn đề quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của cơng
dân. Sau đó giáo viên xem xét nhóm nào đưa ra cách giải quyết thuyết phục nhất
và cho điểm từng nhóm.
Giáo viên giữ lại kết quả của nhóm thuyết phục nhất để phân tích. Giáo viên
đặt một số câu hỏi khai thác kiến thức học sinh.
Câu hỏi 1: Em có nhận xét như thế nào về cách làm việc của các nhóm trên?
HS trả lời…
Câu hỏi 2: Trong cuộc sống của các em có khi nào xảy ra những hiện tượng
như ở trong tình huống trên?
HS trả lời…

Câu hỏi 3: Nếu là em trong trường hợp trên em sẽ làm như thế nào?
HS trả lời…
Hoạt động trên nhằm giúp học sinh nắm được những kiến thức cơ bản sau:
Nội dung 1:
+ Theo quy định của pháp luật, cá nhân, tổ chức tự tiện vào chỗ ở của người khác,
tự tiện khám chỗ ở của công dân là vi phạm pháp luật.
+ Không ai được tự tiện vào chỗ ở của người khác.
Nội dung 2:
Pháp luật cho phép khám xét chỗ ở của công dân trong các trường hợp sau:
+ Trường hợp thứ nhất: Khi có căn cứ để khẳng định, chỗ ở, địa điểm của người
nào đó có cơng cụ, phương tiện để thực hiện tội phạm hoặc có đồ vật, tài liệu liên
quan đến vụ án.
+ Trường hợp thứ hai: Việc khám chỗ ở, địa điểm của người nào đó được tiến hành
khi cần bắt người đang bị truy nã hoặc người phạm tội đang lẩn tránh ở đó.
=> Tuy nhiên, việc khám xét khơng được tiến hành tùy tiện mà phải theo đúng
trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.
Sử dụng phương pháp thảo luận nhóm ở phần này mục đích nhằm phát
triển năng lực của học sinh là:
+ Năng lực giao tiếp: Hình thành năng lực giao tiếp giữa GV – HS, HS – HS.
Tạo tính mạnh dạn, tự tin, khả năng giao tiếp tốt hơn.
+ Năng lực sử dụng ngôn ngữ: Rèn luyện khả năng trình bày trước lớp.
+ Năng lực nhận thức và tự điều chỉnh hành vi của mình phù hợp với pháp luật
và chuẩn mực đạo đức của xã hội. Học sinh nhận thức được quyền và nghĩa vụ của
bản thân khi tham gia bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của công dân.
23


+ Năng lực sáng tạo: Học sinh đưa ra nhiều giải pháp để xử lí các tình huống
nảy sinh.
+ Năng lực giải quyết vấn đề: Giáo viên đặt vấn đề cho học sinh giải quyết theo

nhóm.
+ Năng lực hợp tác: Học sinh hợp tác với nhau để làm việc tốt hơn.
Như vậy thông qua hoạt động này tôi nhận thấy học sinh thể hiện mình như
một tư vấn viên pháp luật đưa ra những giải pháp giúp cho các quyền bất khả xâm
phạm của ciing dân được sáng rõ nên các em làm việc tích cực, trao đổi sơi nổi,
các em đã vận dụng vào trong chính cuộc sống của mình tốt hơn, lớp học trở nên
sơi nổi hơn, thúc đẩy tinh thần đồn kết và tính hợp tác giữa các học sinh với nhau.
Tuy nhiên phương pháp này chỉ lôi kéo được những học sinh khá giỏi và hứng thú
với mơn học, sẽ có một số em ngồi cuộc không hiểu nội dung kiến thức.
4.2.4. Kinh nghiệm sử dụng tình huống:
Phương pháp tình huống là một phương pháp dạy học, trong đó học sinh
tự lực nghiên cứu một tình huống thực tiễn và giải quyết các vấn đề của tình huống
đặt ra.
Tình huống là một hồn cảnh thực tế, trong đó chứa đựng những mâu thuẫn
xung đột. Người ta đưa ra một quyết định trên cơ sở cân nhắc các phương án giải
quyết khác nhau. Tình huống cũng có thể là một hồn cảnh gắn với câu chuyện có
cốt truyện, nhân vật, có chứa đựng xung đột, có tính phức tạp được viết ra để
chứng minh một vấn đề hay một số vấn đề của cuộc sống thực tế. Tình huống trong
dạy học là tình huống thực hoặc mơ phỏng tình huống thực, được cấu trúc hóa
nhằm mục đích dạy học.
*Cách tiến hành
Các bước nghiên cứu tình huống có thể là:
- Học sinh đọc (hoặc xem hay nghe) tình huống thực tế và suy nghĩ về nó.
- Giáo viên đưa ra một hay nhiều câu hỏi hướng dẫn liên quan đến tình huống.
-Thảo luận tình huống thực tế.
- Thảo luận vấn đề chung hay các vấn đề được minh chứng bằng thực tế.
* Yêu cầu sư phạm
- Tình huống có thể dài hay ngắn, tùy từng nội dung vấn đề.- Tình huống phải
được kết thúc bằng một loạt các vấn đề hoặc câu hỏi như: Bạn nghĩ điều gì sẽ xảy
ra tiếp theo? Bạn sẽ làm gì nếu bạn là nhân vật A? Nhân vật B?....Vấn đề này có

thể đã được ngăn chặn như thế nào? Lúc này cần phải làm gì để hạn chế tính trầm
trọng của vấn đề?
- Vấn đề trả lời các câu hỏi này phải được dùng để khái quát một tình huống rộng
hơn, khái quát hơn.
24


- Tình huống cần liên hệ với kinh nghiệm hiện tại cũng như tình huống cuộc sống,
nghề nghiệp trong tương lai của người học.
- Tình huống có thể diễn giải theo cách nhìn của người học và để mở nhiều hướng
giải quyết.
- Tình huống cần chứa đựng mâu thuẫn, vấn đề và có thể có liên quan đến nhiều
phương diện.
- Tình huống cần vừa sức với học sinh và có thể giải quyết trong điều kiện cụ thể.
- Tình huống cần có nhiều cách giải quyết khác nhau. Trong việc giải quyết các
tình huống thực tiễn, khơng phải bao giờ cũng có những giải pháp duy nhất đúng.
- Đơi khi, nghiên cứu tình huống có thể được thực hiện trên video hay một băng
đĩa mà không phải dựa trên dạng chữ viết.
Cấu trúc của một bài tập tình huống gồm có 2 phần: nội dung tình huống và
những u cầu đưa ra để giải quyết tình huống.
Áp dụng phương pháp tình huống trong dạy học cho phép giáo viên sử dụng
một cách linh hoạt. Tình huống được dùng trong quá trình thuyết giảng hay để
phục vụ giờ thảo luận như là trọng tâm của bài học.
* Với phương pháp này có những ưu điểm sau:
+ Nâng cao tính thực tiễn của mơn học.
+ Nâng cao tính hứng thú và chủ động sáng tạo của học sinh trong quá trình
học tập.
+ Nâng cao kĩ năng việc làm nhóm, kĩ năng phân tích, giải quyết vấn đề, khả
năng trình bày, bảo vệ và phản biện trước ý kiến đám đông.
+ Giáo viên trong vai trò là người dẫn dắt sẽ tiếp thu được nhiều kinh

nghiệm và những cách nhìn từ phía học sinh để làm phong phú bài giảng và điều
chỉnh nội dung tình huống nghiên cứu.
* Bên cạnh những ưu điểm trên phương pháp tình huống cịn có một số hạn
chế sau:
+ Giáo viên mất nhiều thời gian để tìm kiếm, chọn lọc các tình huống thực
tế, sát với tình hình và liên quan đến bài giảng cho học sinh.
+ Đòi hỏi những kĩ năng phức tạp hơn trong giảng dạy, như cách tổ chức lớp
học, bố trí thời lượng, cách đặt câu hỏi, tổ chức và khuyến khích học sinh thảo
luận, dẫn dắt mạch thảo luận, phản biện.
+ Chỉ lôi cuốn được những học sinh học lực khá giỏi và có hứng thú với
mơn học.
Để dạy tốt bài 6: Cơng dân với các quyền tự do cơ bản - GDCD 12 tơi đã sử
dụng các dạng tình huống khác nhau đó là: Tình huống đơn giản, Tình huống phức
tạp.
25


×