Tải bản đầy đủ (.docx) (47 trang)

Phát triển năng lực cho học sinh thông qua một số phương pháp dạy học tích cực trong môn giáo dục công dân cấp THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4 MB, 47 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC................................................................................................................1
PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ..........................................................................................2
1. Lý do chọn đề tài...................................................................................................2
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu.............................................................................3
3. Đối tượng, phạm vi, phương pháp và thời gian nghiên cứu:.................................3
4. Tính mới của đề tài................................................................................................4
PHẦN 2: NỘI DUNG..............................................................................................5
1. Cơ sở lý luận..........................................................................................................5
1.1. Tổng quan về năng lực và phát triển năng lực cho học sinh trung học phổ
thông..........................................................................................................................5
2. Cơ sở thực tiễn......................................................................................................7
2.1. Thực trạng của việc dạy học phát triển năng lực cho học sinh môn Giáo dục
công dân tại các trường THPT.................................................................................7
2.2 Thực trạng của việc phát triển năng lực cho học sinh thông qua dạy học môn
giáo dục công dân tại trường THPT Cửa Lò 2..........................................................8
3. Phát triển một số năng lực thông qua dạy học môn giáo dục công dân cấp THPT.
...................................................................................................................................9
3.1. Phát triển năng lực tự học cho học sinh thơng qua phương pháp thảo luận
nhóm..........................................................................................................................9
3.2. Phát triển năng lực giải quyết vấn đề thông qua phương pháp dự án..............15
3.3. Phát triển năng lực giao tiếp thông qua phương pháp đóng vai:......................23
3.4. Phát triển năng lực hợp tác cho học sinh thơng qua phương pháp trị chơi:...............25
4. Kết quả đạt được..................................................................................................26
PHẦN 3: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.............................................................30
1. Kết luận...............................................................................................................30
2. Kiến nghị.............................................................................................................31
PHỤ LỤC...............................................................................................................33
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................47

1




PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Dạy học theo định hướng phát triển năng lực là xu hướng tất yếu trong cải cách
phương pháp dạy học ở mỗi nhà trường. Do đó, việc đặt ra những yêu cầu đổi mới
về sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ và đào tạo nguồn nhân lực, trở nên cần thiết. Một
trong những định hướng cơ bản của việc đổi mới giáo dục là chuyển từ nền giáo dục
mang tính cổ điển, lối đọc chép xa vời thực tế sang nền giáo dục chú trọng năng lực
thực hành, phát huy tính chủ động sáng tạo của người học đã triển khai mạnh mẽ.
Với định hướng quan trọng trong sự nghiệp đổi mới phương pháp dạy học. Chúng ta
cần phát huy tính tích cực phương pháp tự học, tự nghiên cứu sáng tạo, phát triển
năng lực hoạt động của người học. Đó cũng là xu hướng quốc tế hóa trong cải cách
phương pháp dạy học ở trường THPT hiện nay.
Dạy học theo định hướng phát triển năng lực đó là giúp học sinh có khả năng
thực hiện các hoạt động dựa trên sự huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn kiến
thức, kỹ năng khác nhau để giải quyết vấn đề hay có cách hành xử phù hợp trong
từng hồn cảnh cụ thể. Nghĩa là phải thay đổi quan điểm, mục tiêu dạy học: Từ chỗ
chỉ quan tâm tới việc người học học được gì đến chỗ quan tâm tới việc người học
làm được cái gì qua việc học .
Dạy học theo định hướng phát triển năng lực hình thành và phát triển năng
lượng người học không chỉ chú trọng phát triển các năng lực chung, cốt lõi mà còn
chú trọng phát triển cả năng lực chuyên biệt (môn học). Do đó cần tăng cường gắn
hoạt động trí tuệ với hoạt động thực hành ứng dụng trong thực tiễn. Tăng cường
việc học tập theo nhóm, cộng tác, chia sẻ nhằm phát triển nhóm năng lực xã hội.
Dạy học theo định hướng phát triển năng lực không lấy việc kiểm tra khả năng
tái hiện kiến thức đã học làm trung tâm mà cần chú trọng đánh giá khả năng vận dụng
một cách sáng tạo tri thức trong những tình huống ứng dụng khác nhau.
Trên thực tế, việc đạy học theo định hướng phát triển năng lực đã được triển khai
và thực hiện và đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ. Cùng với việc sử dụng nhiều

phương pháp dạy học mới đã phát huy được tính tính cực chủ động của học sinh, phát
huy được tối đa năng lực của các em như năng lực giả quyết vấn đề, năng lực tư duy
lô gic, năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác, năng lực tự học..., tuy nhiên vẫn còn nhiều
hạn chế. Những hạn chế đó là các năng lực phải được xác định và phân loại cho từng
lớp, điều này rất khó khăn trong q trình áp dụng thực tế. Đánh giá phải có ý nghĩa
và sáng tạo hơn thay về các bài kiểm tra đơn thuần như trước kia. Giáo viên phải liên
tục phải nhận thức được sự tiến bộ của học sinh và do đó phải làm việc vất vả hơn để
có thể giúp học sinh đạt được các chuẩn đầu ra về năng lực.
Trong dạy học môn Giáo dục công dân giáo viên đã tiếp cận theo định hướng
phát triển năng lực và cũng đã thu được những thành quả tốt. Học sinh tích cực chủ
động hứng thú với môn học, học sinh nắm bài tốt biết vận dụng kiến thức để giải
quyết các tình huống thực tiễn, đã phát triển được các năng lực của các em như
2


năng lực: giao tiếp, năng lực hợp tác, năng lực tự học, năng lực giả quyết vấn đề,
năng lực trình bày suy nghĩ ý tưởng, năng lực sáng tạo.... Tuy nhiên do năng lực
giáo viên còn hạn chế, chưa sử dụng nhuần nhuyễn các phương pháp dạy học phù
hợp với từng đối tượng lớp học và cá nhân học sinh, một số giáo viên còn ngại
thay đổi sử dụng các phương pháp dạy học mới. Việc tiếp cận công nghệ thơng tin
cịn hạn chế, nhà trường cịn thiếu thiết bị dạy học như máy chiếu, ti vi nên khơng
có cơng cụ phương tiện để các em tiếp cận phương pháp dạy học mới nhằm phát
huy tối đa năng lực của các em.
Là một giáo viên giảng dạy bộ môn Giáo dục cơng dân tại trường THPT Cửa Lị 2.
Bản thân tôi đã đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển dạy học
trong những năm qua nhằm phát triển các năng lực cho học sinh và đã thu được
những kết quả khả quan. Học sinh tích cực chủ động trong quá trình học tập, học sinh
sáng tạo trong tư duy, suy nghĩ, học sinh mạnh dạn giao tiếp xử lý các tình huống có
vấn đề một cách nhanh nhạy. Tôi đã phát huy được tối đa các năng lực của các em
như: Năng lực tự học, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực giao tiếp, năng lực hợp

tác.... Và đây là những thành công mà tôi đã đạt được. Vì vậy tơi quyết định chọn đề
tài “Phát triển năng lực cho học sinh thông qua một số phương pháp dạy học tích
cực trong mơn giáo dục cơng dân cấp THPT” làm đề tài khoa học trình bày quan
điểm của cá nhân, nhận thức của bản thân về phát triển các năng lực cho học sinh
thơng qua đó góp phần vào sự nghiệp đào tạo năng lực trong giáo dục góp phần hình
thành phát triển ở thế hệ trẻ những phẩm chất năng lực cần thiết của công dân trong
một xã hội công bằng dân chủ văn minh.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục tiêu:
- Góp phần đổi mới phương pháp giảng dạy bộ môn giáo dục công dân (GDCD).
Nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy của giáo viên và rèn luyện cho học sinh phát triển
các năng lực như: năng lực hợp tác, năng lực giao tiếp, năng lực giải quyết vấn đề, năng
lực tự học …
- Thông qua dạy học bộ môn GDCD cung cấp cho học sinh kiến thức, giải
quyết các tình huống trong thực tiễn, giải quyết các vấn đề liên quan đến kiến
thức bài học, giúp các em tự tin trình bày suy nghĩ ý tưởng, các em tích cực chủ
động thể hiện mình, hình thành phát triển các năng lực, rèn luyện kỹ năng tự
học, tự nghiên cứu…
* Nhiệm vụ:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn dạy học cho học sinh trong mơn GDCD.
- Tổ chức các hình thức, phối hợp các phương pháp dạy học thông qua
chương trình GDCD THPT Cửa Lị 2.
3. Đối tượng, phạm vi, phương pháp và thời gian nghiên cứu:
* Đối tượng, phạm vi:
- Học sinh THPT từ năm 2018 – 2019, 2019 – 2020, 2020 - 2021 trong
chương trình GDCD THPT.
3


- Học sinh tại trường THPT Cửa Lò 2

* Phương pháp nghiên cứu:
- Phân tích tổng hợp hệ thống hóa, khái quá hóa các tài liệu từ sách giáo khoa
GDCD, tài liệu và lý luận dạy học GDCD, tài liệu bồi dưỡng giáo viên môn GDCD
và các tài liệu liên quan đến đề tài.
- Phương pháp điều tra, nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp thống kê theo kết quả điểm số học sinh, các số liệu thu thập
được từ tổng hợp kết quả.
* Thời gian nghiên cứu:
Từ tháng 10/2020 đến tháng 3/2021
4. Tính mới của đề tài
Đề tài đã phát triển cho học sinh các năng lực: Năng lực tự học, năng lực
giải quyết vấn đề, năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác thông qua một số phương
pháp dạy học tích cực trong mơn Giáo dục cơng dân cấp THPT.
+ Đề tài thực hiện được danh ngôn "Nhà giáo khơng phải là người nhồi nhét
kiến thức mà đó là công việc của người khơi dậy ngọn lửa tâm hồn".
+ Đề tài giúp học sinh sáng tạo vào quá trình khám phá lĩnh hội kiến thức tạo
niềm vui hứng khởi trong hoạt động học tập.
+ Đề tài giúp các em phát huy tối đa năng lực, tiềm năng vốn có của bản
thân học sinh.
+ Đề tài giúp cho học sinh khả năng làm việc theo nhóm, thực hiện dự án…
Đề tài có thể áp dụng rộng rãi cho các đối tượng học sinh THPT có nhiều
trình độ khác nhau, có năng lực khác nhau trên địa bàn Thị xã Cửa Lị nói riêng,
tỉnh Nghệ An nói chung.
Áp dụng đề tài, học sinh được chủ động trong quá trình học tập. Học sinh
hiểu rõ được ý nghĩa của các phương pháp dạy học tích cực, sự cần thiết của các
phương pháp dạy học tích cực, ứng dụng kiến thức đã học để áp dụng để giải
quyết các vấn đề trong thực tiễn cuộc sống. Đề tài còn là tài liệu tham khảo quý giá
cho học sinh THPT nói chung.
Qua áp dụng đề tài, giáo viên biết cách thiết kế và tổ chức các hoạt động học
tập của học sinh nhằm định hướng phát triển năng lực chủ động sáng tạo cho học

sinh. Đề tài còn là nguồn tài liệu cho giáo viên trong quá trình giảng dạy hệ thống
kiến thức triết học, đạo đức, kinh tế, chính sách xã hội, pháp luật.

4


PHẦN 2: NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
1.1. Tổng quan về năng lực và phát triển năng lực cho học sinh trung học
phổ thông
1.1.1. Khái niệm năng lực
Nhà giáo Đinh Quang Báo đã đưa ra khái niệm về năng lực (NL) như sau:
“Năng lực là một thuộc tính tích hợp nhân cách, tổ hợp các đặc tính tâm lý của cá
nhân, phù hợp với những yêu cầu của một hoạt động xác định, đảm bảo cho hoạt
động đó có kết quả tốt đẹp”
Theo PGS. TS. Nguyễn Công Khanh: “Năng lực của HS là khả năng làm chủ
những hệ thống kiến thức, kỹ năng, thái độ... phù hợp với lứa tuổi và vận hành (kết
nối) chúng một cách hợp lý vào thực hiện thành công nhiệm vụ học tập, giải quyết
hiệu quả những vấn đề đặt ra cho chính các em”.
Như vậy, có thể nhìn nhận một cách tổng qt, NL luôn gắn với khả năng thực
hiện, nghĩa là phải biết làm chứ không dừng lại ở hiểu. Hành động “làm” ở đây lại gắn
với những yêu cầu cụ thể về kiến thức, kĩ năng, thái độ để đạt được kết quả.
1.1.2. Các loại năng lực
Hiện nay, người ta thường chia năng lực thành năng lực chung, cốt lõi và
năng lực chuyên biệt, trong đó năng lực chung, cốt lõi là năng lực cơ bản cần thiết
làm nền tảng để phát triển năng lực chuyên biệt.
1.1.2.1. Năng lực chung
Năng lực chung là những NL cơ bản, thiết yếu hoặc cốt lõi làm nền tảng cho
mọi hoạt động của con người trong cuộc sống và lao động nghề nghiệp như: NL trí
tuệ, NL về ngơn ngữ và tính tốn, NL giao tiếp, NL vận động. Các NL này được

hình thành và phát triển dựa trên bản năng di truyền của con người, quá trình giáo
dục và trải nghiệm trong cuộc sống; đáp ứng yêu cầu của nhiều loại hình hoạt động
khác nhau. Tùy thuộc vào phương pháp thiết kế chương trình, các nhà nghiên cứu
có 2 cách tiếp cận phát triển chương trình giáo dục phổ thơng, đó là:
- Tiếp cận dựa vào nội dung nghĩa là tập trung chủ yếu vào các chi tiết của
mơn học, có tính chỉ đạo cao, cố định cả về cấu trúc và phân bổ thời gian.
Việc học tập của HS nhấn mạnh vào ghi nhớ và tái tạo kiến thức đã có.
- Tiếp cận dựa vào kết quả đầu ra nghĩa là xác định học sinh cần đạt được hệ
thống những nhóm NL chung ở từng mơn học vào cuối giai đoạn cụ thể. Chương
trình tiếp cận NL thực chất vẫn là cách tiếp cận kết quả đầu ra. Tuy nhiên đầu ra ở đây
tập trung vào hệ thống NL của người học, chú ý đầu ra cần đạt, các NL cần cho cuộc
sống, học tập và tham gia có hiệu quả trong xã hội. Cụ thể là những nhóm NL sau:
+ Nhóm NL làm chủ và phát triển bản thân: NL tự học, NL giải quyết vấn đề,
5


NL tư duy, NL quản lí.
+ Nhóm NL về quan hệ xã hội: NL giao tiếp, NL hợp tác.
+ Nhóm NL công cụ: NL sử dụng công nghệ thông tin và truyền thơng (ICT),
NL sử dụng ngơn ngữ, NL tính toán. Cách tiếp cận đầu ra trả lời cho câu hỏi:
chúng ta muốn học sinh biết những gì và có thể làm được những gì.
1.1.2.2. Năng lực chuyên biệt
NL chuyên biệt là những NL được hình thành và phát triển trên cơ sở các NL
chung theo định hướng chuyên sâu, riêng biệt trong các loại hình hoạt động, cơng
việc hoặc tình huống, mơi trường đặc thù, cần thiết cho những hoạt động chuyên
biệt, đáp ứng yêu cầu hẹp hơn của một hoạt động như toán học, âm nhạc, mĩ thuật,
thể thao... Như vậy, NL chuyên biệt là sản phẩm của một mơn học cụ thể, được hình
thành và phát triển do một lĩnh vực hoặc một mơn học nào đó.
Ví dụ, các NL chuyên biệt của môn giáo dục công dân (GDCD)
+ NL sử dụng ngôn ngữ giáo dục công dân

+ NL thực hành giáo dục công dân
+ NL giải quyết vấn đề thông qua môn giáo dục công dân.
+ NL vận dụng kiến thức giáo dục công dân vào cuộc sống.
1.1.3. Các phương pháp đánh giá năng lực
Theo Leen pil, 2011 thì đánh giá theo năng lực là đánh giá kiến thức, kỹ năng
và thái độ trong bối cảnh có ý nghĩa. Như vậy, đánh giá năng lực được coi là bước
phát triển cao hơn so với đánh giá kiến thức, kỹ năng. Muốn đánh giá học sinh có
năng lực ở một mức độ nào đó, phải tạo cơ hội để các em được giải quyết vấn đề
trong tình huống, bối cảnh mang tính thực tiễn. Khi đó học sinh vừa phải vận dụng
những kiến thức, kỹ năng đã được học ở nhà trường trong nhiều bài, nhiều môn,
vừa phải dùng những kinh nghiệm của bản thân để giải quyết vấn đề được đặt ra.
Qua tìm hiểu, nghiên cứu, chúng tôi đưa ra một số phương pháp đánh giá
năng lực:
- Đánh giá trong quá trình học tập: khả năng tiếp cận tình huống gắn liền
với thực tiễn, có bối cảnh; khả năng huy động kiến thức, giải pháp đề xuất giải
quyết vấn đề.
- Đánh giá bằng bài kiểm tra vận dụng kiến thức.
- Đánh giá bằng những băn khoăn, thắc mắc, giả thiết của học sinh trong quá
trình học tập.
- Đánh giá bằng sản phẩm khoa học công nghệ mà học sinh làm ra.

6


1.1.4. Các năng lực phát triển cho học sinh THPT thông qua môn học GDCD
Những năng lực cốt lõi cần phát triển cho HS THPT là:
- Năng lực tự học
- Năng lực giải quyết vấn đề
- Năng lực sáng tạo
- Năng lực tự quản lý

- Năng lực giao tiếp
- Năng lực hợp tác
- Năng lực sử dụng công nghệ thông tin
- Năng lực sử dụng ngơn ngữ
- Năng lực tính toán.
2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Thực trạng của việc dạy học phát triển năng lực cho học sinh môn
Giáo dục cơng dân tại các trường THPT
Chương trình giáo dục cơng dân cấp THPT được bố trí hợp lý với các bài
học có kiến thức thực tế gắn liền với cuộc sống của mỗi con người, từ triết học,
đạo đức, kinh tế - chính trị, giá trị con người Việt Nam trong thời kỳ cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, các chính sách xã hội, pháp luật, ngồi ra mơn học cịn
tích hợp rất nhiều nội dung xã hội cần thiết cho các cơng dân như: Ngoại khóa,
giáo dục kỹ năng sống, giáo dục mơi trường, giáo dục giới tính, giáo dục dân số,
giáo dục sức khỏe sinh sản vị thành niên, giáo dục phòng tránh HIV/AIDS, giáo
dục phòng chống tham nhũng... Vậy để truyền tải nội dung và phát huy tối đa
năng lực cho học sinh bài học đòi hỏi giáo viên phải đầu tư bài giảng thật sự có
chất lượng, phải biết sử dụng phương pháp dạy học một cách có hiệu quả thì
mới truyền tải được nội dung bài học và phát triển năng lực cho học sinh. Một
số giáo viên khi lên lớp và truyền tải kiến thức cũng đã vấp phải những hạn chế,
khó khăn, kinh nghiệm giảng dạy chưa nhiều, thời gian tích lũy chun mơn cịn
nhiều hạn chế. Vì vậy việc truyền thụ tri thức cho học sinh vẫn cịn nhiều thiếu
sót, nhất là phần liên hệ với cuộc sống, với thực tiễn. Trong sử dụng phương
pháp dạy học vẫn còn sử dụng phương pháp truyền thống như đọc – chép,
thuyết trình. Một số giáo viên cịn thiếu nhiệt tình, tâm huyết với nghề. Điều đó
cũng ảnh hưởng đến việc tiếp cận kiến thức của học sinh.
Trong khi đó, nội dung chương trình giáo dục công dân THPT bao gồm
nhiều kiến thức phức tạp, quỹ thời gian cho một giờ dạy lại có hạn, đồng thời
phải chuyển tải rất nhiều nội dung bài học, khó khăn của thầy và trị là điều
khơng tránh khỏi. Để chuyển tải dung lượng kiến thức một cách có hiệu quả, đòi


7


hỏi đội ngũ thầy cơ giáo phải có tri thức, nhiệt huyết với nghề nghiệp, phải đổi
mới phương pháp dạy học mới hồn thành tốt nhiệm vụ.
Bên cạnh những khó khăn như đã nói ở trên, đối với giáo viên Giáo dục cơng
dân cũng có những thuận lợi như: được tổ chức bồi dưỡng, tập huấn hàng năm nhằm
nâng cao trình độ nhận thức cho giáo viên. Nhà trường cũng tạo những điều kiện nhất
định để giáo viên nâng cao trình độ như mua sắm tài liệu tham khảo, phương tiện
nghe nhìn, nghe báo cáo thời sự, tiếp cận với thực tế xã hội…
Là một giáo viên môn Giáo dục công dân, tôi nhận thấy việc dạy học theo
định hướng phát triển năng lực là một việc làm cần thiết để hình thành các năng
lực cho các em, phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong học tập
cũng như việc áp dụng phương pháp dạy học tích cực vào việc giảng dạy có
hiệu quả. Đã nhiều năm nay, tơi cùng các thành viên trong nhóm chun mơn
mạnh dạn sử dụng các phương pháp dạy học tích cực nhằm phát huy các năng
lực cho học sinh và đã thu được nhiều kết quả khả quan.
Để tìm hiểu thực trạng tôi đã đặt một số câu hỏi sau: Thầy cơ đánh giá như
thế nào về vai trị của việc dạy học theo định hướng phát triển năng lực (rất cần
thiết, cần thiết, khơng cần thiết). Thầy cơ gặp khó khăn gì trong việc hình thành
và phát triển năng lực cho học sịnh? Theo thầy cơ để hình thành và phát triển
năng lực cho học sinh cần sử dụng những phương pháp dạy học nào? Theo thầy
cô năng lực đặc trưng cần hình thành cho học sinh mơn học mình phụ trách là
gì? (năng lực tự học, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực tự kiểm tra đánh giá,
năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác, năng lực sử dụng công nghệ thông tin và
truyền thông, năng lực ngôn ngữ, năng lực tính tốn). Theo thầy cơ đánh giá
năng lực có cần thiết khơng? Theo thầy cơ đánh giá năng lực có mang lại hiệu
quả dạy học khơng? (rất hiệu quả, hiệu quả, không hiệu quả). Qua những câu
hỏi trên tơi đã có được kết quả về dạy học theo định hướng phát triển năng lực.

Tơi rất hài lịng vì kết quả đã được như tơi mong muốn.
2.2 Thực trạng của việc phát triển năng lực cho học sinh thông qua dạy
học môn giáo dục công dân tại trường THPT Cửa Lò 2.
Để phát huy tối đa các năng lực cho học sinh, mỗi giáo viên chúng ta tại các
trường THPT nói chung và các trường THPT Cửa Lị nói riêng phải ln đổi mới
phương pháp giảng dạy, cụ thể hiện nay người giáo viên sẽ phải đặt người học vào
tình huống có vấn đề, vào thực tế cuộc sống, người học trực tiếp thảo luận, quan
sát, giải quyết vấn đề theo cách suy nghĩ của mình, từ đó nắm được kiến thức mới,
không rập khuôn theo khuôn mẫu có sẵn, được bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng
tạo. Và để làm được điều này giáo viên không chỉ đơn giản truyền đạt tri thức mà
còn hướng dẫn các hoạt động và tích cực tham gia các chương trình hoạt động.
Đồng thời giáo viên phải phát huy, khai thác tối đa kinh nghiệm sống của học
sinh, tạo cơ hội cho học sinh bày tỏ quan điểm, ý kiến cá nhân về vấn đề đang học,
khuyến khích các em nêu những thắc mắc trong khi nghe giảng, đặt ra câu hỏi cho
8


thầy, cho bạn trao đổi, tranh luận, tạo nên mối quan hệ hợp tác trong giao tiếp giữa
thầy và trò, giữa trị với trị trong q trình chiếm lĩnh nội dung học tập. Hợp tác
trong học tập sẽ làm tăng hiệu quả học tập, trong hoạt động hợp tác, tính cách,
năng lực của mỗi thành viên được bộc lộ uốn nắn, tình bạn, ý thức tổ chức, tinh
thần tương trợ được phát triển. Sự hợp tác trong học tập sẽ giúp học sinh sẽ quen
dần với sự phân công hợp tác trong lao động xã hội và hình thành năng lực hợp tác
cho người công dân trong một thế giới phát triển.
Với việc mong muốn phát triển các năng lực cho học sinh thơng qua các
phương pháp dạy học tích cực tơi đã tìm tịi và đưa ra một số giải pháp dạy học
tích cực và được minh họa qua các ví dụ cụ thể việc đổi mới dạy học môn Giáo
dục công dân. Mỗi bài giáo dục công dân tôi luôn ứng dụng từng phương pháp phù
hợp để nhằm phát huy tối đa các năng lực cho các em. Dưới đây là một số phương
pháp mà tôi lựa chọn giảng dạy để phát triển một số năng lực cho học sinh THPT.

3. Phát triển một số năng lực thông qua dạy học môn giáo dục công dân
cấp THPT.
Môn giáo dục cơng dân là mơn học có vai trị hết sức quan trọng trong việc
phát triển nhân cách học sinh. Mơn giáo dục cơng dân trong chương trình giáo dục
phổ thơng đóng vai trị to lớn trong việc giáo dục đạo đức, pháp luật kiến thức về
kinh tế, chính trị, xã hội, việc hình thành thế giới quan, nhân sinh quan góp phần
trang bị cho học sinh kỹ năng sống rèn luyện ý thức của người cơng dân góp phần
hình thành và phát triển ở các em những phẩm chất, các năng lực cần thiết của
công dân trong một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Sau đây là những năng
lực mà tôi đã nghiên cứu nhằm giúp học sinh phát huy tối đa các năng lực của các
em trong dạy học bộ môn giáo dục công dân của cá nhân tôi.
3.1. Phát triển năng lực tự học cho học sinh thơng qua phương pháp thảo
luận nhóm.
Năng lực tự học là khả năng xác định được nhiệm vụ học tập một cách tự
giác, chủ động; tự đặt được mục tiêu học tập để đòi hỏi sự nỗ lực phấn đấu thực
hiện; thực hiện các phương pháp học tập hiệu quả; điều chỉnh những sai sót, hạn
chế của bản thân khi thực hiện các nhiệm vụ học tập thông qua tự đánh giá hoặc
lời góp ý của giáo viên, bạn bè; chủ động tìm kiếm sự hỗ trợ khi gặp khó khăn
trong học tập.
Tự học là một nội dung vừa có tính truyền thống vừa có tính thời sự phổ biến
khơng chỉ ở nước ta mà cịn là vấn đề của nhiều nước. Ngay từ xa xưa, Khổng Tử
đã ý thức được tầm quan trọng của việc tự học đối với mỗi con người. Theo ông
học không chỉ ở trường mà còn học ở bạn bè, học ở mọi nơi mọi chổ, học ở mọi
người bằng ý chí và nghị lực và niềm say mê là cách tự học của Khổng Tử. Ông đã
chỉnh lý một số sách cổ kinh điển của nho gia như: Kinh thi, Kinh thư, kinh lễ…
Có được thành tựu này là do ơng ln có tinh thần tự học hỏi, tự bồi dưỡng và
quan trọng hơn là ông biết cách tự học.
9



Bác Hồ là tấm gương lớn của tự học, Người đã đến với chủ nghĩa cộng sản
bằng con đường tự học và sự tự học của Người gắn chặt với mục tiêu lý tưởng mà
Người đã vạch ra. Đặc biệt, Bác rất chú trọng sự thực hành trong tự học và ln coi
thư viện là trường học lớn của mình. Người dạy“học hỏi là một việc phải tiếp tục
suốt đời”. Suốt đời phải gắn liền lý luận với công tác thực tiễn. Khơng ai có thể tự
cho mình đã biết đủ rồi, đã biết hết rồi. Thế giới ngày càng đổi mới, nhân dân ta
ngày càng tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân
dân”(Bài nói chuyện tại lớp nghiên cứu chính trị khóa I, Trường Đại học Nhân
dân Việt Nam 21. 7. 1956). Người cho rằng tự học chính là sự nỗ lực của bản thân
người học, sự làm việc của bản thân người học một cách có kế hoạch trên tinh thần
tự động học tập.
Tổng hợp các quan điểm của các tác giả, chúng tơi cho rằng có thể phân biệt
các hình thức tự học sau đây:
Thứ nhất, tự học của học sinh (HS) diễn ra dưới sự điều khiển trực tiếp của
giáo viên (GV) với sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật ở trên lớp. Với hình thức
này việc tự học của HS chịu sự định hướng và điều khiển của GV nhằm đạt được
mục tiêu của giờ dạy đã xác định từ trước. Lúc này việc tự học của HS có đầy đủ các
yếu tố: GV, bạn, SGK, tài liệu… Trong môi trường lớp học truyền thống hiệu quả
tự học lúc này phụ thuộc rất nhiều vào nghệ thuật điều khiển của GV, tuy nhiên với
từng HS vẫn có các hoạt động riêng, sự sáng tạo riêng và do đó hiệu quả học tập
cũng rất khác nhau. Kết quả của quá trình tự học này là sự thống nhất biện chứng
giữa sự hướng dẫn của GV và sự tự giác học tập của HS.
Thứ hai, tự học của HS diễn ra ngoài phạm vi lớp học nhằm đáp ứng yêu cầu
của môn học đã được học trong nhà trường. Với hình thức này, HS chỉ có tài liệu
liên quan đến các môn học dưới sự hướng dẫn trước của GV. Tuy nhiên, HS phải
tự tổ chức việc học tập của mình ở nhà nhằm ơn tập, hệ thống hóa, làm các bài tập,
rèn luyện các kỹ năng, kỹ xảo… theo yêu cầu của GV, đáp ứng chính các yêu cầu
của bản thân người học nhằm lĩnh hội tri thức các môn học.
Thứ ba, tự học nhằm đáp ứng yêu cầu hiểu biết riêng, bổ sung và mở rộng,
nâng cao các kiến thức trong chương trình đào tạo ở nhà trường, thậm chí họ có thể

tìm hiểu về những tri thức không quy định nhằm mở mang hiểu biết của mình. Với
hình thức này người học hồn toàn chủ động lựa chọn kiến thức cần bổ sung, lựa
chọn tài liệu cần đọc, tự mình sắp xếp các tri thức học được vào hệ thống tri thức
mà mình đang có. Đây là mức độ tự học rất cao vì HS tự mình tổ chức tồn bộ các
hoạt động của q trình tự nhận thức của mình. Từ đó cho thấy năng lực tự học của
học sinh trung học phổ thơng (HS THPT) có những đặc trưng sau:
Người học phải tự đề ra cho mình phương pháp học từ đầu cho đến kết thúc
q trình học và đóng vai trị mấu chốt bằng sự hứng thú, tham gia tích cực và có
trách nhiệm trong suốt q trình học. Trong tự học tính độc lập, chủ động càng có
vai trị quan trọng và được coi là công cụ đắc lực khơng có gì thay thế giúp cá nhân
tích lũy kinh nghiệm, tri thức khoa học, hoàn thiện nhân cách.
10


Học sinh ln phải rèn luyện cho bản thân có ý thức tự giác trong học tập và
hứng thú đối với các kiến thức mà mình đang tiếp thu. Điều này sẽ giúp người học
tham gia tích cực và biết tiếp tục quá trình học bằng cách tạo ra một hình thức phù
hợp với tính cách của mình. Như vậy, khi thực sự trở thành chủ thể học cũng có
nghĩa là người học đã tự giác xác định được động cơ, mục đích học tập. Người học
tiến hành việc học dựa trên trách nhiệm cá nhân và sự điều khiển của ý chí thì hoạt
động học trở thành q trình tự học, tự giác chủ động, có phong cách và phương
pháp cá nhân.
Trong hoạt động tự học khả năng lựa chọn cao, rộng rãi về cả nội dung,
phương pháp và hình thức tổ chức học tập. Sự lựa chọn này luôn hướng đến sự phù
hợp giữa người học và điều kiện bên ngồi.
Tự học mang tính cá nhân rất cao, tự học phải dựa trên chính tiềm năng của
người học và dựa trên ý thức trách nhiệm của người học. Mỗi người có một
phương pháp học tập khác nhau, cách tổ chức học tập khác nhau và ý chí cá nhân
khác nhau nên hiệu quả tự học cũng khác nhau.
Trong q trình tự học, HS ln tự chủ, năng động và sáng tạo, biết học hỏi

và đánh giá, biết so sánh và đối chiếu, biết kiểm nghiệm và xử lý tình huống. Quan
trọng hơn là HS phải biết tự tìm cho mình một cách tự chiếm lĩnh tài liệu. Song
song với việc phát huy tối đa nội lực của học sinh trong q trình tự học, vai trị
của GV vơ cùng quan trọng. Nếu như việc tự học ngoài xã hội, người học có quyền
chọn kiến thức để tự học và tự học một cách tự do. Thì tự học trong nhà trường có
tính chất định hướng, GV có trách nhiệm hướng dẫn các em từ cách tự mình
nghiên cứu SGK đến việc điều chỉnh kiến thức mà các em thu nhận được để có
được lượng kiến thức chính xác nhất. Qua đó, GV hình thành và phát triển năng
lực tự học cho HS với những cách suy nghĩ, tìm tịi để có thể tự đặt vấn đề, tự giải
quyết vấn đề và tự nghiên cứu. Những định hướng của GV cịn có tác dụng phát
huy tính năng động, tự giác và lịng say mê học hỏi trong q trình học tập của HS.
Như vậy, tự học của HS THPT khơng địi hỏi mức độ cao như tự học của các
nhà nghiên cứu, mà chủ yếu dựa vào bài học cụ thể trong SGK, những tài liệu có
liên quan đến bài học để đối chiếu, so sánh, mở rộng làm cho q trình nhận thức
của HS mang tính chủ động và có tính chất nghiên cứu. Mục đích tự học của HS
THPT giúp các em hiểu sâu sắc, trọn vẹn bài học bằng chính năng lực của mình và
biết vận dụng kiến thức thành kinh nghiệm của bản thân.
Để tăng cường hứng thú của học sinh và nâng cao năng lực tự học của các
em, tôi đã tổ chức cho các em làm việc theo nhóm và kết hợp với thảo luận lớp
* Biện pháp tiến hành:
Bước 1: GV chia lớp học thành các nhóm, tùy theo số lượng HS có thể chia
thành 3 hoặc 4 nhóm, mỗi nhóm gồm 6 – 7 HS có năng lực học tập khơng đồng đều.
Bước 2: GV giao câu hỏi cho mỗi nhóm, tùy theo mục tiêu của bài học mà
GV đưa ra chủ đề cho các nhóm nhằm làm xuất hiện tình huống có vấn đề ở HS.
11


Bước 3: GV quy định thời gian thảo luận, mục tiêu thảo luận của các nhóm.
Bước 4: Tổ chức cho HS làm việc theo nhóm để giải quyết các nhiệm vụ học
tập đã đề ra.

GV khuyến khích tinh thần tích cực tham gia của HS, tạo điều kiện để HS có thể
chia sẻ, trao đổi, thảo luận để thống nhất ý kiến chung với các thành viên trong nhóm.
GV giám sát q trình làm việc của các nhóm đồng thời có thể tham gia hợp
tác với một số nhóm bất kỳ khi cần thiết.
Bước 5: Đại diện các nhóm lên trình bày nội dung của nhóm mình và tổ chức
thảo luận trước tồn lớp. Các thành viên khác của nhóm hoặc các nhóm bạn bổ sung.
Bước 6: GV nhận xét, đánh giá kết quả của từng nhóm, nhắc nhở tinh thần,
thái độ làm việc, sự sáng tạo của các nhóm trong q trình tiến hành thảo luận, sau
đó hệ thống hóa, khái quát hóa kiến thức bài học.
Như vậy qua phần thảo luận nhóm trên đã nâng cao được tinh thần tự học của
các em, phát huy được tính tích cực sáng tạo chủ động của các em, thiết lập được
mối quan hệ học sinh với học và học sinh với giáo viên
Điều kiện để thực hiện biện pháp này
- Chủ đề đưa ra thảo luận phải hấp dẫn, lôi cuốn, chủ đề khơng q đời thường.
- HS phải có sự chuẩn bị ở nhà ít nhất một tuần, có xây dựng đề cương trước
giờ học.
- GV phải là người có chun mơn sâu, có năng lực tổ chức, điều khiển, chỉ
đạo lớp học để có thể đóng vai trị là người trọng tài khoa học. Giáo án phải được
thiết kế theo một quy trình cơng nghệ dạy học, theo kỹ thuật tổ chức nhóm. GV
phải nắm vững trình độ của HS để phân nhóm cho hợp lý.
- GV trình bày mục tiêu tiết học như là mục tiêu của nhóm, đồng thời tạo
được sự liên thơng giữa các thành viên của nhóm.
- Khuyến khích HS chia sẻ những ý tưởng, tài liệu, nguồn thông tin cho nhau,
GV chỉ là người cố vấn, người tổ chức, người điều khiển.
- GV phải giám sát quá trình làm việc của các thành viên trong nhóm và sự
cộng tác giữa các thành viên, có hỗ trợ khi cần thiết.
- GV phải có những nhận xét, đánh giá chung về kết quả làm việc của các
nhóm và cá nhân, khen ngợi nhóm hoặc cá nhân có thành tích tốt trong q trình
thảo luận.
* Ví dụ: Bài 9: “ Nhà nước xã hội chủ nghĩa”, phần 3) Trách nhiệm của công

dân trong việc tham gia xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- GV tổ chức hoạt động nhóm:
- Nội dung thảo luận:
12


- Câu 1: Theo em mỗi công dân cần phải làm gì để xây dựng và bảo vệ Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa?
- Câu 2: Em có suy nghĩ gì về trách nhiệm của mình trong việc tham gia xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
- Câu 3: Em sẽ làm gì khi thấy người khác vi phạm pháp luật?
- Yêu cầu HS dự kiến. HS hoạt động nhóm, vừa giải quyết, vừa đưa ra thơng
điệp, rút ra bài học cho bản thân. Các nhóm nhận xét lẫn nhau. Các nhóm có thể
lần lượt đặt ra các tình huống và u cầu một nhóm bất kì giải quyết. Trong q
trình hoạt động nhóm học sinh sẽ cùng nhau chia sẻ, phối hợp thực hiện thơng qua
đó hình thành, phát triển năng lực cho học sinh.
- Với câu hỏi 1 học sinh sẽ tự suy nghĩ cần phải làm gì để xây dựng và bảo vệ
nhà nước pháp quyền chủ nghĩa. Học sinh sẽ suy nghĩ và trao đổi giải đáp câu hỏi
đó là: Gương mẫu thực hiện và tuyên truyền vận động mọi người thực hiện tốt
đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
- Với câu hỏi 2 suy nghĩ về trách nhiệm của mình trong việc tham gia xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là: Học sinh cùng thảo luận
và đưa ra đáp án là tích cực tham gia các hoạt động: Xây dựng củng cố, bảo vệ
chính quyền, giữ gìn trật tự an tồn xã hội.
- Với câu hỏi 3 em sẽ làm gì khi thấy bạn mình vi phạm pháp luật: Học sinh
cùng trao đổi thảo luận và đưa ra đáp án: Phê phán đấu tranh với những hành vi vi
phạm pháp luật.
Vậy qua phương pháp thảo luận nhóm đã hình thành năng lực tự học cho các
em, các em cùng nhau trao đổi bàn bạc và đưa ra kết luận đúng với kiến thức bài học.
* Ví dụ: Khi dạy bài 3: “Quy luật giá trị trong sản xuất và lưu thơng hàng

hóa” ở phần 2 tác động của quy luật giá trị GDCD THPT, tơi chia lớp thành 4
nhóm như sau:
- Nhóm 1: Giả sử là 1 chủ doanh nghiệp sản xuất hàng hóa. Em sẽ có những
chiến lược nào để nâng cao chất lượng sản phẩm, thu nhiều lợi nhuận?
- Nhóm 2: Dựa vào sự lên xuống của giá cả hàng hóa thị trường, điều tiết sản
xuất lưu thơng hàng hóa như thế nào? Cho ví dụ.
- Nhóm 3: Tại sao quy luật giá trị có sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội?
Người kinh doanh và nhà nước cần làm gì đẻ giảm thiểu tình trạng đó?
- Nhóm 4: Là 1 công dân, em vận dụng quy luật giá trị như thế nào để có ý
nghĩa trong cuộc sống?
Nhóm 1 cùng thảo luận nhóm để đưa ra kết quả: Để nâng cao chất lượng sản
phẩm, thu nhiều lợi nhuận, đứng vững và chiến thắng trên thương trường thì cần
phải tìm cách cải tiến kỹ thuật, nâng cao tay nghề người lao động hợp lý hóa sản
xuất, thực hành tiết kiệm .v.v làm cho giá trị hàng hóa cá biệt thấp hơn giá trị xã
13


hội của hàng hóa.
Nhóm 2: Dựa vào sự lên xuống của hàng hóa trên thị trường, điều tiết sản
xuất và lưu thơng hàng hóa như thế nào? Nhóm 2 cùng bàn bạc trao đổi và đưa ra
kết luận: Sự điều tiết sản xuất và lưu thông là sự phân phối lại các yếu tố tư liệu
sản xuất và sức lao động từ ngành sản xuất này sang ngành sản xuất khác, phân
phối lại nguồn hàng từ nay sang nơi khác, từ mặt hàng này sang mặt hàng khác
theo hướng từ nơi có lãi ít hoặc khơng có lãi sang nơi có lãi nhiều thơng qua sự
biến động của giá cả hàng hóa trên thị trường.
Nhóm 3: Trả lời câu hỏi tại sao quy luật giá trị có sự phân hóa giàu nghèo
trong xã hội? Người kinh doanh và nhà nước cần làm gì để giảm thiểu tình trạng
đó? Học sinh cùng bàn bạc, thảo luận để đưa ra kết quả: Quy luật giá trị phân hóa
giàu nghèo trong xã hội vì: Trong nền sản xuất hàng hóa, điều kiện sản xuất của
từng người khơng hồn tồn giống nhau, khả năng đổi mới kỹ thuật, cơng nghệ và

hợp lý hóa sản xuất khác nhau, tính năng động và nắm bắt nhu cầu của thị trường
khác nhau nên giá trị cá biệt của từng người khác nhau nhưng quy luật giá trị lại
đối xử như nhau. Vì vậy khơng tránh khỏi một số người có giá trị hàng hóa cá biệt
thấp hoặc bằng so với giá trị xã hội của hàng hóa nên có lãi, mua sắm thêm tư liệu
sản xuất, đổi mới kỹ thuật. Ngược lại nhiều người sản xuất khác, do điều kiện sản
xuất không thuận lợi, năng lực quản lý sản xuất, kinh doanh kém, gặp rủi ro, nên
họ bị thua lỗ, dẫn đến phá sản. Hiện tượng này dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo.
Người kinh doanh và nhà nước cần phải vận dụng quy luật giá trị như: Thứ
nhất đối với nhà nước đó là nhà nước phải đổi mới nền kinh tế, thực hiện chế độ 1
giá 1 thị trường thống nhất trong cả nước và mở cửa với thị trường nước ngoài.
Nhà nước phải ban hành và sử dụng pháp luật, các chính sách kinh tế, chính sách
xã hội để điều tiết thị trường phát huy mặt tích cực, hạn chế sự phân hóa giàu
nghèo và những tiêu cực xã hội.
Đối với người kinh doanh cần phải phấn đấu giảm chi phí sản xuất và nâng
cao chất lượng hàng hóa để bán được nhiều hành thu nhiều lợi nhuận. Vận dụng
tác động điều tiết của quy luật giá trị, kịp thời điều chỉnh chuyển đổi cơ cấu sản
xuất, chuyển đổi cơ cấu mặt hàng và ngành hàng sao cho phù hợp với nhu cầu của
khách hàng trên thị trường trong nước và quốc tế. Áp dụng các biện pháp đổi mới
kỹ thuật và công nghệ hợp lý hóa sản xuất.
Nhóm 4: Là cơng dân học sinh em vận dụng quy luật giá trị như thế nào để có
ý nghĩa trong cuộc sống: Giảm chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng hàng hóa,
nắm bắt nhanh biến động giá cả thị trường.
Kết luận: Như vậy học sinh tham gia thảo luận nhóm, trao đổi với nhau, bàn
bạc đưa ra kết luận các tác động của quy luật giá trị dựa vào năng lực tự học, bàn
bạc, trao đổi của các em. Nhờ việc thảo luận giữa các thành viên trong nhóm mà
kiến thức thu được của HS bớt phần chủ quan, phiến diện, làm tăng thêm tính
khách quan, khoa học. Qua việc hợp tác giữa các HS mà kiến thức trở nên sâu sắc,
14



bền vững, dễ nhớ. Nhờ khơng khí thảo luận sơi nổi, cởi mở nên những HS nhút
nhát trở nên bạo dạn hơn, các em học được cách trình bày ý kiến của mình, biết
lắng nghe, có phê phán ý kiến của bạn, từ đó HS dễ hịa nhập, tạo cho các em sự tự
tin, hứng thú trong học tập. Ngoài ra học tập theo nhóm cịn giúp các em phát triển
ý thức làm việc tập thể, phát huy trí tuệ tập thể, phát huy tính tích cực học tập,
năng lực tự học, năng lực tổ chức, quản lý, tự quản của HS. Tạo điều kiện để mỗi
HS có cơ hội trải nghiệm thành công hay thất bại của bản thân mình để từ đó có
những biện pháp khắc phục những hạn chế phát huy những những điểm mạnh vốn
có.
Như vậy tổ chức dạy học cho HS làm việc theo nhóm để phát triển năng lực
cho các em là giải pháp nhằm bảo đảm q trình học tập diễn ra tích cực và hiệu
quả. Thơng qua làm việc theo nhóm làm cho việc học của HS trở nên mềm mại,
linh hoạt, khơng máy móc, rập khn. Đồng thời sử dụng tối đa các nguồn lực dạy
học và tạo không gian hoạt động đa dạng, dễ thay đổi, nâng cao khả năng hợp tác
giữa GV với HS, giữa HS với HS. Với biện pháp này sẽ có tác dụng tạo mơi
trường học tập đa thông tin cho HS, tạo cơ hội giúp HS tự nghiên cứu, tự bộc lộ để
thể hiện năng lực và kết quả nghiên cứu của cá nhân. Tự kiểm tra, đánh giá kết quả
học tập và nghiên cứu, đồng thời có tác dụng giúp HS phát triển hài hịa nhân cách
của mình. Thơng qua mơi trường học tập hợp tác, HS không chỉ học được tri thức,
kinh nghiệm, thái độ mà còn học được các kỹ năng thực hành, kỹ năng hợp tác,
cộng tác, học cách tương tác. Ngồi ra học tập theo nhóm cịn giúp HS phát triển ý
thức làm việc tập thể, phát huy trí tuệ tập thể, phát huy tính tích cực học tập, năng
lực tự học của HS như năng lực tổ chức, quản lý, tạo điều kiện để HS trải nghiệm
thành công hay thất bại của mình.
3.2. Phát triển năng lực giải quyết vấn đề thông qua phương pháp dự án.
* Dạy học phát triển năng lực giải quyết vấn đề: Là giáo viên tạo ra những
tình huống gợi vấn đề, điều khiển học sinh phát hiện vấn đề, hoạt động tự giác, tích
cực chủ động, sáng tạo đề giải quyết vấn đề, thơng qua đó mà kiến tạo tri thức, rèn
luyện kĩ năng và đạt được những mục tiêu học tập khác.Nét đặc trưng, chủ yếu của
dạy học giải quyết vấn đề là sự lĩnh hội tri thức diễn ra thông qua việc tổ chức cho

HS hoạt động giải quyết vấn đề (GQVĐ). Sau khi GQVĐ, HS hình thành kiến thức
mới, kĩ năng mới, thái độ mới.
Dạy học giải quyết vấn đề không phải là phương pháp dạy học riêng biệt
mà là một tập hợp nhiều phương pháp dạy học liên kết chặt chẽ với nhau và
tương tác với nhau.
Một trong những mục đích cốt yếu của hình thức dạy học này là giúp học
sinh phát triển các khả năng: khả năng phát hiện và trình bày vấn đề, khả năng tìm
kiếm cách giải quyết vấn đề, khả năng tổ chức quá trình giải quyết vấn đề, khả
năng kiểm tra đánh giá kết quả và phương pháp tiến hành giải quyết vấn đề... Nói
cách khác, nó cũng cung cấp cho học sinh những tri thức phương pháp.
15


Trong đổi mới giáo dục ở hầu khắp các nước trên thế giới, họ rất quan tâm
đến bồi dưỡng năng lực giải quyết vấn đề cho học sinh thông qua các môn học, thể
hiện qua nội dung SGK và PPDH.
Phương pháp dạy học phát triển năng lực giải quyết vấn đề là một vấn đề
được nhiều người quan tâm. Phương pháp dạy học này phát huy được tính tích cực,
chủ động sáng tạo của học sinh, phù hợp với yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện
giáo dục nước ta hiện nay.
Ở Việt Nam, đổi mới giáo dục theo định hướng được chỉ ra trong những nghị
quyết hội nghị BCH TW Đảng, như sau: “Cuộc cách mạng về phương pháp giáo
dục hướng vào người học, rèn luyện và phát triển khả năng suy nghĩ, khả năng giải
quyết vấn đề một cách năng động, độc lập, sáng tạo ngay trong q trình học tập ở
nhà trường phổ thơng. Áp dụng những phương pháp giáo dục hiện đại để bồi
dưỡng năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề.”
Ở trường THPT, mơn GDCD là mơn học có tính khái qt cao, mang đặc thù
riêng của mơn học có nhiều tiềm năng để bồi dưỡng, phát triển năng lực giải quyết
vấn đề. Trong dạy học GDCD, mỗi khái niệm, quy luật, nội dung mơn học đều có
một vai trị và ý nghĩa nhất định trong việc phát triển năng lực giải quyết vấn đề,

phát triển trí tuệ cho học sinh. Không chỉ dừng lại ở những khái niệm đạo đức,
pháp luật mà cịn có ý nghĩa rất lớn trong việc định hướng hành động, giải quyết
vấn đề cho học sinh.
* Năng lực giải quyết vấn đề là khả năng của học sinh nhận ra các mâu thuẫn
nhận thức trong các vấn đề học tập hoặc các vấn đề trong cuộc sống, và tìm ra
được phương pháp để giải quyết mâu thuẫn, vượt qua các khó khăn, trở ngại. Từ
đó tiếp thu được kiến thức, kĩ năng mới hoặc giải quyết các vấn đề trong thực tiễn.
Giải quyết vấn đề: Hoạt động trí tuệ được coi là trình độ phức tạp và cao nhất về
nhận thức, vì cần huy động tất cả các năng lực trí tuệ của cá nhân.Để GQVĐ, chủ thể
phải huy động trí nhớ, tri giác, lý luận, khái niệm hóa, ngơn ngữ, đồng thời sử dụng cả
cảm xúc, động cơ, niềm tin ở năng lực bản thân và khả năng kiểm sốt được tình thế
(Theo Nguyễn Cảnh Toàn – 2012 (Xã hội học tập – học tập suốt đời)).
Năng lực GQVĐ là sự tổng hòa của các năng lực sau: năng lực nhận thức,
năng tư duy sáng tạo, năng lực hợp tác làm việc nhóm, năng lực tự học, năng lực
vận dụng kiến thức vào cuộc sống.
Trong q trình dạy học mơn GDCD, phần “Cơng dân với pháp luật”, nếu GV
vận dụng các phương pháp dạy học tích cực và có sự đầu tư thỏa đáng chuẩn bị
cho mỗi tiết học sẽ giúp HS có thể phát triển được những năng lực cần thiết trong
xã hội hiện đại, đặc biệt là năng lực giải quyết vấn đề.
Trong q trình dạy học tơi vận dụng dạy học giải quyết vấn đề để nhằm phát
triển năng lực giải quyết vấn đề cho học sinh
*Vận dụng dạy học giải quyết vấn đề để hình thành năng lực cho học sinh
16


Dạy học giải quyết vấn đề là quan điểm dạy học nhằm phát triển năng lực tư
duy, khả năng nhận biết, giải quyết vấn đề. Học sinh được đặt trong một tình huống
có vấn đề, đó là tình huống chứa đựng mâu thuẫn nhận thức, thông qua giải quyết
vấn đề, giúp học sinh lĩnh hội tri thức, kĩ năng và phương pháp nhận thức.
Các tình huống có vấn đề là những tình huống khoa học chun mơn, cũng có

thể là tình huống gắn với thực tiễn. Trong thực tế dạy học hiện nay, dạy học giải
quyết vấn đề chủ yếu chú trọng đến các vấn đề khoa học, ít chú ý đến các vấn đề
thực tiễn. Đó chính là lý do tại sao học sinh cảm thấy môn học thiếu tính thực tế,
khơng ý nghĩa và dẫn đến tình trạng lúng túng trong việc giải quyết các tình huống
gặp phải trong cuộc sống dù đã được trang bị về mặt kiến thức.
Cấu trúc q trình giải quyết vấn đề có thể mô tả qua các bước cơ bản sau đây:
Bước 1: Nhận biết vấn đề: phân tích tình huống, nhận biết, trình bày vấn đề
Bước 2: Tìm các phương án giải quyết: so sánh với các nhiệm vụ đã giải
quyết, tìm các cách giải quyết mới.
Bước 3: Quyết định phương án giải quyết: Phân tích các phương án, đánh giá
các phương án.
Bước 4: Kết thúc giải quyết vấn đề
Giáo viên cần đặt ra cho người học những tình huống cần phải giải quyết
nhằm giúp học sinh áp dụng lý thuyết và kiến thức học được để ra quyết định. Giáo
viên phân tích tình huống đặt ra để học sinh biết cách áp dụng những gì đã học vào
cuộc sống của người học sau này.
* Tôi đã sử dụng phương pháp dạy học dự án nhằm phát triển năng lực giải
quyết vấn đề cho học sinh:
Dạy học theo dự án là một phương pháp dạy học tích cực, bản chất của
phương pháp này đã tạo nên một sự thay đổi lớn về vai trò của người dạy và
người học.
Khi sử dụng phương pháp dạy học theo dự án giáo viên cần lưu ý một số
điểm sau đây:
- Phải xác định đúng chủ đề: Vì nếu khơng xác định đúng chủ đề thì nội
dung của dự án tiến triển theo 2 hướng bất lợi: Một là, khơng có nhiệm vụ
nghiên cứu vì chủ đề quá đơn giản; hai là, nhiệm vụ quá khó vượt khả năng và
điều kiện cho phép.
- Địi hỏi giáo viên phải có năng lực tổ chức và quản lý học sinh trong hoạt
động, nhất là hoạt động nhóm.
- Giáo viên phải quan tâm đến nguồn tư liệu tham khảo của chủ đề dự án, trang

thiết bị cần thiết và địa điểm phù hợp cho hoạt động của giáo viên và học sinh.
- Việc thực hiện dự án ít nhiều liên quan đến kinh phí (in ấn, chi phí trong
17


quá trình thu thập tài liệu...) vì vậy giáo viên phải thường xun bám sát, điều
chỉnh tránh lãng phí, khơng cần thiết.
Dạy học theo dự án là một hoạt động học tập nhằm tạo cơ hội cho học sinh
tổng hợp kiến thức từ nhiều lĩnh vực, áp dụng một cách sáng tạo vào thực tế
cuộc sống. Đồng thời củng cố kiến thức và xây dựng các kỹ năng hợp tác, giao
tiếp và học tập độc lập, chuẩn bị hành trang cho học sinh học tập suốt đời và đối
mặt với các thử thách trong cuộc sống.
Ngoài việc lựa chọn kiến thức phù hợp, để thành cơng phương pháp này
cịn địi hỏi người giáo viên phải có kinh nghiệm trong việc tổ chức, hướng dẫn
cho học sinh các hoạt động khoa học để theo đúng định hướng, mục tiêu đề ra.
Thông thường khi thực hiện dạy học theo dự án, giáo viên phải tuân thủ các
bước sau đây:
Bước 1: Xác định chủ đề và mục đích của dự án:
Giáo viên và học sinh cùng nhau đề xuất ý tưởng, xác định chủ đề và mục
đích của dự án. Cần tạo ra một tình huống xuất phát, chứa đựng một vấn đề,
hoặc đặt một nhiệm vụ cần giải quyết, trong đó liên hệ với hoàn cảnh thực tiễn
xã hội và đời sống. Cần chú ý đến hứng thú của người học cũng như ý nghĩa xã
hội của đề tài. Giáo viên có thể giới thiệu một số hướng đề tài để học sinh lựa
chọn và cụ thể hoá. Trong một số trường hợp, ý tưởng về việc xác định đề tài có
thể xuất phát từ phía học sinh. Giai đoạn này cịn được mô tả thành hai giai đoạn
là đề xuất ý tưởng và thảo luận về ý tưởng.
Bước 2: Xây dựng kế hoạch thực hiện:
Trong giai đoạn này học sinh với sự hướng dẫn của giáo viên xây dựng đề
cương cũng như kế hoạch cho việc thực hiện dự án. Trong việc xây dựng kế
hoạch cần xác định những công việc cần làm, thời gian dự kiến, vật liệu, kinh

phí, phương pháp tiến hành và phân cơng cơng việc trong nhóm.
Bước 3: Thu thập thông tin:
Hướng dẫn học sinh các cách thu thập thông tin như: Quan sát, phỏng vấn,
tra cứu mạng, thư viện, bảo tàng, Sách báo, tạp chí....và các mối quan hệ khác
trong cuộc sống.
Bước 4: Thực hiện dự án:
Các thành viên thực hiện công việc theo kế hoạch đã đề ra cho nhóm và cá
nhân. Trong giai đoạn này học sinh thực hiện các hoạt động trí tuệ và hoạt động
thực tiễn, thực hành, những hoạt động này xen kẽ và tác động qua lại lẫn nhau.
Kiến thức lý thuyết, các phương án giải quyết vấn đề được thử nghiệm qua thực
tiễn. Trong q trình đó sản phẩm của dự án và thông tin mới được tạo ra.
Bước 5: Trình bày sản phẩm dự án:

18


Kết quả thực hiện dự án có thể được viết dưới dạng thu hoạch, báo cáo, bài
báo... Trong nhiều dự án các sản phẩm vật chất được tạo ra qua hoạt động thực
hành. Sản phẩm của dự án cũng có thể là những hành động phi vật chất, chẳng
hạn việc biểu diễn một vở kịch, việc tổ chức một sinh hoạt nhằm tạo ra các tác
động xã hội. Sản phẩm của dự án có thể được trình bày giữa các nhóm học sinh,
có thể được giới thiệu trong nhà trường, hay ngoài xã hội.
Bước 6: Đánh giá dự án:
Giáo viên và học sinh đánh giá quá trình thực hiện và kết quả cũng như
kinh nghiệm đạt được. Từ đó rút ra những kinh nghiệm cho việc thực hiện các
dự án tiếp theo. Kết quả của dự án cũng có thể đuợc đánh giá từ bên ngoài.
Việc phân chia các giai đoạn trên đây chỉ mang tính chất tương đối. Trong
thực tế chúng có thể xen kẽ và thâm nhập lẫn nhau. Việc tự kiểm tra, điều chỉnh
cần được thực hiện trong tất cả các giai đoạn của dự án. Với những dạng dự án
khác nhau có thể xây dựng cấu trúc chi tiết riêng phù hợp với nhiệm vụ dự án. Giai

đoạn 4 và 5 cũng có thể mơ tả chung thành một giai đoạn.
Ví dụ: Chương trình GDCD lớp 12, tôi tổ chức, hướng dẫn học sinh thực hiện
các nhiệm vụ theo dạy học dự án ở Bài 6: Công dân với các quyền tự do cơ bản.
Bài học này với thời lượng thiết kế là 4 tiết, với các kiến thức trọng tâm là:
Khái niệm, nội dung, ý nghĩa các quyền tự do cơ bản của công dân bao gồm:
Quyền bất khả xâm phạm về thân thể của cơng dân, quyền được pháp luật bảo hộ
về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm và danh dự, quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở,
quyền đảm bảo an tồn, bí mật thư tín, điện thoại, điện tín, quyền tự do ngôn luận;
Trách nhiệm của Nhà nước và công dân trong việc bảo đảm và thực hiện các quyền
tự do cơ bản của công dân. Khi dạy học bài này chúng ta khơng đặt ra mục đích
tìm hiểu tất cả các quyền tự do cơ bản của công dân, mà chỉ tìm hiểu một số quyền
tự do quan trọng đầu tiên đối với mỗi công dân. Đây là những kiến thức mở rộng
chung, bao trùm, có nội dung pháp lý phong phú thuộc nhiều lĩnh vực nên việc sử
dụng phương pháp dạy học theo dự án là một thuận lợi. Tôi tiến hành cụ thể như
sau: (thực hiện từ bước 1 đến bước 4 trước 2 tuần).
Bước 1: Xác định chủ đề và mục đích của dự án
Giáo viên nêu mục đích, yêu cầu, các bước tiến hành, nhiệm vụ chính cho
học sinh, sau đó cùng thống nhất chủ đề thực hiện dự án. Giáo viên có thể đưa
ra một số gợi ý về ý tưởng thực hiện cho học sinh tham khảo từ đó động viên,
khơi gợi tính sáng tạo, tò mò, khả năng tự học của các em.
Chủ đề dự án của bài 6 là công dân với các quyền tự do cơ bản, giáo viên nêu
mục đích yêu cầu về mặt nội dung, hình thức học sinh phải đạt được trong dự án.
Có thể các nhóm tự chọn cho mình một nội dung phù hợp để thực hiện hoặc giáo
viên sẽ giao nhiệm vụ cho từng nhóm. Việc thống nhất nội dung, hình thức thực
hiện trong dự án phải vừa đảm bảo tính bao quát, vừa đảm bảo trọng tâm của bài
học. Bên cạnh đó, giáo viên khuyến khích học sinh đưa ra các ý tưởng để dự án
19


được thực hiện một cách sinh động, phong phú, phù hợp và có chất lượng. Sau khi

thảo luận, giáo viên và học sinh thống nhất:
Chủ đề dự án: Công dân với các quyền tự do cơ bản
Mục đích dự án: Tìm hiểu các quyền cơ bản của cơng dân, qua đó liên hệ
thực tiễn và rút ra bào học cho bản thân.
Bước 2: Xây dựng kế hoạch thực hiện
Đây là bước quan trọng, tất cả các thành viên trong nhóm cùng tham gia
xây dựng và xác định:
- Mục tiêu cần hướng tới
- Nhiệm vụ phải làm
- Sản phẩm dự kiến
- Cách triển khai thực hiện hoàn thành dự án
- Thời gian thực hiện và hồn thành.
Bước 3: Thu thập thơng tin:
Học sinh có thể tiếp cận thơng tin bằng nhiều hình thức khác nhau như sách
báo, mạng, các địa chỉ tư vấn pháp luật..., ngồi ra tơi ln động viên học sinh tích
cực, mạnh dạn gặp gỡ, học hỏi các kiến thức pháp luật liên quan tại các địa chỉ uy
tín trên địa bàn như sở Tư pháp, Tịa án... thu thập thông tin về:
Quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân : Tham khảo chương 2,
3, 5 Bộ Luật dân sự.
Quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân
phẩm của cơng dân: Tham khảo Điều 121 Bộ luật hình sự; Điều 122 Bộ luật
hình sự ; Điều 104 Bộ luật hình sự...
Bước 4: Thực hiện dự án:
Trong quá trình thực hiện dự án, mặc dù học sinh làm việc độc lập nhưng
giáo viên vẫn phải duy trì thơng tin hai chiều, vừa để giải quyết khó khăn,
vướng mắc nếu có, đồng thời động viên, khích lệ tinh thần cho các nhóm. Khi
thực hiện dự án ở bài 6 học sinh cơ bản thực hiện được nhiệm vụ về mặt nội
dung nhưng hơi lúng túng trong chọn phương pháp trình bày sản phẩm sắp tới.
Ban đầu, hầu hết các nhóm đều chọn thuyết trình là chính nhưng nhờ sự giúp
đỡ, tư vấn kịp thời của giáo viên mà các nhóm đã có những ý tưởng trình bày

sáng tạo hơn như xây dựng tiểu phẩm, quay video, xây dựng tình huống giả
định...Vậy, để các sản phẩm của dự án có chất lượng thì người giáo viên cần đặc
biệt quan tâm tới bước thực hiện dự án để giúp học sinh điều chỉnh, bổ sung và
hoàn thiện một các tốt nhất.
Với cách tổ chức và hướng dẫn cho học sinh trong phương pháp dạy học
dự án như trên, tôi nhận thấy rằng đây là một sự thay đổi mạnh mẽ trong cách
20


dạy và học hiện nay, người giáo viên là người hướng dẫn, quan sát, chỉ đạo quá
trình học của học sinh, còn học sinh thực sự được tham gia vào quá trình tự học,
chủ động trong tìm hiểu kiến thức.
Dạy học theo dự án đã và đang là một phương pháp dạy học tích cực, hiện
đại, phù hợp với xu thế phát triển. Ngoài việc giúp cho người học chủ động, tích
cực trong việc tiếp cận kiến thức thì nó cịn hình thành và hồn thiện thêm một số
kĩ năng cơ bản, cần thiết cho người học. Chính vì lẽ đó mà dạy học theo dự án
đang được cả giáo viên và học sinh tiếp nhận một cách tích cực.
Việc trình bày sản phẩm là nhiệm vụ cuối cùng nhưng xét về mặt ý nghĩa
thì đây là nội dung mang tính quyết định cho sự thành cơng phương pháp dạy
học theo dự án.
Sản phẩm của dự án là những bài báo cáo, những kết quả thu thập được của
học sinh trong suốt quá trình tìm hiểm, thực nghiệm. Sản phẩm phải có bản in,
ngồi ra khuyến khích học sinh sử dụng thêm cơng nghệ thơng tin hiện đại để
tăng tính sinh động và phong phú.
Việc đánh giá kết quả của dự án gồm các mặt sau:
+ Nội dung (tiêu chí) :giá trị của sản phẩm ...?
+ Bài học rút ra sau khi tiến hành dự án? (kiến thức, kĩ năng, thái độ,...)
+ Thái độ, ý thức làm việc tập thể như thế nào?
+ Sự thoải mái và tích cực tham gia ở mức độ nào?
+ Điều gì cần tiếp tục phát huy ở những lần sau?

+ Điều gì cần thay đổi? Những điểm nào cần được cải thiện?
Một vấn đề đặt ra là làm thế nào để học sinh báo cáo được hết các sản phẩm
và báo cáo có hiệu quả? Đây là một khó khăn khiến nhiều giáo viên phải lúng
túng bởi bài báo cáo sản phẩm của học sinh không chỉ đơn thuần là đọc lại những
kết quả đã thu thập được mà nhiều khi còn phải đi kèm những băng hình, video,
phóng sự, tranh ảnh...nên giáo viên phải có kinh nghiệm trong việc sắp xếp,
hướng dẫn, định hình nhiều phương án để học sinh tiến hành báo cáo thuận lợi và
có hiệu quả. Trong thực tế một số giáo viên tiến hành các bước của dự án đầy đủ,
khoa học nhưng khi tiến hành báo cáo sản phẩm lại khơng thành cơng vì bị ảnh
hưởng bởi thời gian, ý thức học sinh, phương pháp trình bày, ý kiến phản biện...
Với tôi, khi cho học sinh tiến hành báo cáo sản phẩm của bài 6: Công dân
với các quyền tự do cơ bản - GDCD 12 tôi tiến hành như sau:
- Trước 2 đến 3 ngày: Nhắc nhở học sinh lần cuối hồn thiện và chuẩn bị
các cơng việc cần thiết cho tiết báo cáo như: sản phẩm, máy tính xách tay, máy
chiếu, tranh ảnh...
- Trong tiết báo cáo:
21


+ Nhóm báo cáo chuẩn bị sãn sàng về cả nội dung, hình thức, sắp xếp vị trí
ngồi cho các nhóm cịn lại một cách hợp lý và phù hợp với ý tưởng đã đưa ra.
+ Nhóm có màn khởi động, giới thiệu từ 2 đến 3 phút (Có thể giới thiệu tên
nhóm, các thành viên của nhóm thơng qua hị, vè, bài hát, những hình ảnh minh
họa sinh động, các bài nhảy dân vũ...) nhằm mục đích tạo hứng thú và thu hút sự
quan tâm của mọi người, đồng thời để các nhóm thể hiện bản sắc, năng khiếu
riêng. Đây là một sự khởi đầu rất hấp dẫn và hiệu quả.
+ Nhóm tiến hành báo cáo sản phẩm: Sản phẩm bài 6 của các nhóm được chia
làm 2 loại: thứ nhất là bài báo cáo, bản thu hoạch ghi lại tất cả các hoạt động, thể
hiện các sản phẩm của nhóm in trên giấy A4, đảm bảo về mặt hình thức gồm nội
dung các quyền cơ bản của cơng dân, các tình huống, các ví dụ được khai thác từ

các nguồn khác nhau, là những phân tích, đánh giá, đối chiếu giữa kiến thức bài
học với những tư liệu tìm hiểu thêm, là những điều chỉnh bổ sung của những điều
Luật liên quan. Điều đặc biệt trong bài báo cáo là các em đã có những chia sẻ thực
tế của bản thân, những cảm xúc, suy nghĩ khi tham gia hoạt động nhóm trong q
trình thực hiện dự án; thứ 2 là bản PowerPoint trình chiếu. Trong bản trình chiếu sẽ
giúp học sinh thể hiện được các tiểu phẩm, video, các clip phỏng vấn... sinh động
mà bản in không thể hiện hết được. Vì điều kiện thời gian nên giáo viên khơng cần
cho học sinh trình bày bản in mà chỉ trình bày sản phẩm trên PowerPoint. Trong
quá trình trình bày của nhóm, giáo viên bao qt và nhắc nhở học sinh kịp thời để
tiết học đảm bảo mục tiêu đề ra.
Trong tiết báo cáo sản phẩm, học sinh chủ động trong các hoạt động như: sử
dụng CNTT, bố trí sơ đồ ngồi cho các nhóm, tự chuẩn bị các thiết bị phụ trợ đi
kèm như loa máy tính, thiết bị điện... Những việc tưởng chừng như nhỏ nhặt này
nhưng lại rất quan trọng, nếu thiếu đi một trong các chi tiết trên thì tiết trình bày bị
gián đoạn. Theo kinh nghiệm tổ chức, trước lúc phần trình bày nội dung giáo viên
khuyến khích nhóm học sinh có màn chào hỏi trong khoảng một đến hai phút. Với
những động tác dí dỏm hay những biểu hiện đặc trưng của từng nhóm sẽ tạo nên
màu sắc riêng, tạo khơng khí vui nhộn, hấp dẫn cuốn hút sự tập trung.
Khi học sinh tiến hành báo cáo, giáo viên phải bao quát hết các hoạt động đang
diễn ra: nội dung báo cáo; ý thức của tập thể lớp; tinh thần, thái độ của các nhóm, nếu
cần giáo viên phải đưa ra những ý kiến, nhắc nhở, điều chỉnh kịp thời.
+ Sau khi nhóm kết thúc báo cáo, giáo viên cho các nhóm còn lại nhận xét, bổ
sung về nội dung của dự án và phương pháp trình bày, hiệu quả của dự án.
Qua thực tiễn áp dụng, tôi nhận thấy rằng đây là giai đoạn các em học sinh
mong chờ nhất trong học tập dự án bởi các em sẽ được tự mình thể hiện những
kiến thức đã được thu thập được, thể hiện khả năng sáng tạo, bộc lộ sở thích, năng
khiếu, niềm đam mê của mình. Tiết học sẽ khơng diễn ra theo những trình tự, thủ
tục thơng thường, khơng gị bó bởi những qui định cứng, khơng ngồi nghe những
giáo điều, lý thuyết khơ khan khó hiểu, mà giờ đây, các em đến với tiết học GDCD
22



với tâm trạng háo hức, mong chờ, với tâm thế sẵn sàng đầy hứng khởi... Đây là
một thành công mà không phải ai, không phải bộ môn nào cũng làm được.
Với bài 6: Công dân với các quyền tự do cơ bản - GDCD 12, qua phương
pháp học tập dự án học sinh đã hình thành năng lực giải quyết vấn đề, tự tiếp thu
được những kiến thức cơ bản thông qua tài liệu SGK, báo, mạng... Các em không
chỉ dừng lại ở phân tích mà cịn làm phong phú, hấp dẫn thêm nội dung qua các
tình huống, tiểu phẩm tự diễn xuất, ví dụ mang tính điển hình, gần gũi, luôn cập
nhật thông tin số liệu, cập nhật những thay đổi, bổ sung các điều khoản của Luật...
Tôi đánh giá rất cao tinh thần làm việc, ý thức tham gia nhóm, kỹ năng giải quyết
vấn đề, kỹ năng trình bày của các nhóm. Các em đã đem lại cho tôi nhiều bất ngờ
về sự sáng tạo trong học tập, về khả năng, về sự tự tin, mạnh dạn trong ứng xử tình
huống...
Qua bài 6, với phương pháp dạy học dự án, tôi đã giúp cho học sinh hiểu
được quyền tự do cơ bản của công dân là giá trị nhân văn to lớn của xã hội loài
người. Ở nước ta, Hiến pháp thừa nhận cơng dân có các quyền tự do cơ bản về
thân thể, về tính mạng, sức khỏe, về chỗ ở, về danh dự, nhân phẩm, quyền được
bảo đảm an tồn bí mật thư tín, điện thoại, điện tín, quyền tự do ngơn luận. Học
sinh biết phối hợp với nhau để giải quyết các vấn đề liên quan đến bài học, học
sinh biết giải quyết các tình huống liên quan đến thực tiễn cuộc sống.
Qua từng phần kiến thức của bài học, tơi đã lấy các ví dụ cho học sinh để
học sinh hiểu thêm các quyền tự do cơ bản của công dân.
Như vậy, với bài 6, với phương pháp dạy học dự án, tôi đã giúp cho học
sinh biết phối hợp với nhau để giải quyết các vấn đề của kiến thức trong bài, học
sinh nắm được kiến thức của bài, học sinh hiểu biết về pháp luật. Qua đó học
sinh hiểu biết về các quyền tự do cơ bản của công dân, biết sống và làm việc
theo Hiến pháp và pháp luật. Có ý thức chấp hành pháp luật, phê phán những
hành vi sai trái, xâm phạm đến các quyền tự do cơ bản của công dân.
3.3. Phát triển năng lực giao tiếp thông qua phương pháp đóng vai:

Năng lực giao tiếp là khả năng giao tiếp có liên quan đến những người khác với
độ chính xác, rõ ràng, dễ hiểu, chặt chẽ, chuyên mơn, hiệu quả và phù hợp. Đó là một
thước đo để xác định mức độ các mục tiêu nào của sự tương tác đang đạt được.
Năng lực giao tiếp bao gồm các thành tố: sự hiểu biết và khả năng sử dụng
ngôn ngữ, sự hiểu biết về các tri thức của đời sống xã hội, sự vận dụng phù hợp
những hiểu biết trên vào các tình huống phù hợp để đạt được mục đích.
Trong mơn học GDCD, việc hình thành và phát triển cho HS năng lực giao
tiếp ngôn ngữ là một mục tiêu quan trọng.Quá trình học tập trên lớp có rất nhiều
hoạt động tương tác giữa giáo viên với học sinh, giữa học sinh với học sinh nhằm
tìm ra tri thức. Chính q trình này đã giúp học sinh phát triển được năng lực giao
tiếp chẳng hạn qua trả lời câu hỏi, qua thuyết trình, đóng vai qua phản biện, đánh
giá nhận xét giữa các thành viên, các nhóm trong lớp học.
23


* Ví dụ: Bài 5: “Cung cầu trong sản xuất và lưu thơng hàng hóa”, phần 1)
tìm hiểu khái niệm “cầu”. GV nêu bài tập tình huống với yêu cầu sau:
Một học sinh đóng vai trị là người sản xuất hộp bút, điều tra cầu về mặt hàng
hộp bút của thị trường.
Giả định lớp học là 1 thị trường thu nhỏ. Giá của mỗi hộp bút được định trước
là 30.000 đồng. Mỗi học sinh chỉ mua tối đa một hộp bút
Các bước tiến hành như sau:
Hỏi: + Hỏi để biết trong lớp bao nhiêu bạn có nhu cầu để mua hộp bút?
+ Có bao nhiêu người đủ tiền và muốn mua?
+ Có bao nhiêu người có tiền muốn mua nhưng khơng muốn mua?
Theo đúng trình tự các bước giải quyết vấn đề, hoạt động của học sinh sẽ
được tổ chức thành 4 bước: từ nhận biết, đến tìm phương án, quyết định giải quyết
đến kết thúc vấn đề. Vấn đề được giải quyết, cũng là lúc HS thu nhận được nội
dung kiến thức của bài học.
Như vậy, thông qua phương pháp đóng vai đã hình thành năng lực giao tiếp

cho các em, các em biết nếu là người sản xuất mình phải làm gì khi bán hàng, hiểu
được thế nào là cung, thế nào là cầu trên thị trường và đưa ra chiến lược trong sản
xuất nhằm thu lợi nhuận.
* Ví dụ: Bài 4: “Quyền bình đẳng của cơng dân trong một số lĩnh vực của
đời sống xã hội”
Để phát huy năng lực giao tiếp cho học sinh trong phần nội dung bình đẳng,
trong hơn nhân và gia đình.
Giáo viên tổ chức cho học sinh đóng vai tìm hiểu bình đẳng giữa vợ và chồng.
Giáo viên tổ chức cho học sinh đóng vai cho tình huống sau: “Người vợ muốn
đi học thêm nâng cao trình độ nhưng người chồng nhất quyết không đồng ý. Hai
vợ chồng tranh cãi gay gắt. Trong khi lời qua tiếng lại người vợ kể tội người
chồng: Khơng chăm sóc con cái, đi sớm về muộn, tự ý quyết định mọi việc, kể cả
đăng ký xe ô tô cũng chỉ có tên chồng…Uất ức người vợ địi ly hơn.
? Nhận xét thái độ của người chồng và việc làm của người chồng.
? Nếu em là người chồng em sẽ làm gì?
? Nội dung của tình huống đóng vai đề cập đến quyền bình đẳng vợ chồng
trong lĩnh vực nào?
→ Quan hệ nhân thân
? Thế nào là quyền bình đẳng giữa vợ và chồng trong quan hệ nhân thân
Như vậy, qua tình huống trên đã hình thành năng lực giao tiếp đối thoại với
nhau trong tình huống xảy ra. Từ tình huống đã giúp cho học sinh phát triển năng
24


lực giao tiếp trong tình huống có vấn đề. Giúp học sinh tự tin trong quá trình trình
bày suy nghĩ, ý tưởng.
3.4. Phát triển năng lực hợp tác cho học sinh thơng qua phương pháp trị chơi:
Năng lực hợp tác được hiểu là khả năng tương tác của cá nhân với cá nhân và
tập thể trong học tập và cuộc sống. Năng lực hợp tác cho thấy khả năng làm việc
hiệu quả của cá nhân trong mối quan hệ với tập thể, trong mối quan hệ tương trợ

lẫn nhau để cùng hướng tới một mục đích chung. Địi hỏi mỗi thành viên phải ln
nỗ lực cố gắng và có trách nhiệm với tập thể
Để hoàn thành một nhiệm vụ trong bài học đôi khi là quá sức với một cá nhân,
hoặc nếu không phải cần rất nhiều thời gian trong khi thời lượng của một tiết học
không cho phép, do vậy địi hỏi phải có sự hợp tác giữa các thành viên . Hợp tác là
hình thức học sinh làm việc cùng nhau trong nhóm nhỏ để hồn thành cơng việc
chung và các thành viên trong nhóm có quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, giúp đỡ nhau để
giải quyết các vấn đề khó khăn của nhau. Khi làm việc cùng nhau, học sinh học cách
làm việc chung, cho và nhận sự giúp đỡ, lắng nghe người khác, hoà giải bất đồng và
giải quyết vấn đề theo hướng dân chủ. Đây là hình thức học tập giúp học sinh phát
triển cả về quan hệ xã hội lẫn thành tích học tập.
Trong môn học GDCD, năng lực hợp tác thể hiện ở việc HS cùng chia sẻ,
phối hợp với nhau trong các hoạt động học tập qua việc thực hiện các nhiệm vụ
học tập diễn ra trong giờ học, các nhiệm vụ giao về nhà. Thơng qua các hoạt động
nhóm, cặp, học sinh thể hiện những suy nghĩ, cảm nhận của cá nhân về những vấn
đề đặt ra, đồng thời lắng nghe những ý kiến trao đổi thảo luận của nhóm để tự điều
chỉnh cá nhân mình. Đây là những yếu tố rất quan trọng góp phần hình thành nhân
cách của người học sinh trong bối cảnh mới.
Trong giảng dạy bài 4 “ Quyền bình đẳng của cơng dân trong một số lĩnh
vực của đời sống xã hội”
Để hình thành năng lực hợp tác giáo viên khi giảng dạy phần bình đẳng giữa
cha mẹ và con; bình đẳng giữa anh chị em; bình đẳng giữa ơng bà và cháu. Giáo
viên tổ chức trò chơi để phát triển năng lực hợp tác cho các em. Giáo viên tổ chức
trò chơi “Nhanh tay nhanh mắt”.
Giáo viên chia lớp thành 3 nhóm.
Phát mỗi nhóm 8 chiếc lá có ghi các miếng dán.
Biểu hiện tích cực (4) và tiêu cực (4) trong các mối quan hệ gia đình.
Nhóm 1: Quan hệ giữa cha mẹ - con
Nhóm 2: Quan hệ giữa ơng bà và cháu
Nhóm 3: Quan hệ giữa anh chị - em

Tương ứng với 4 nhóm là 4 tờ giấy A0. Vẽ cây gia đình (chia làm hai nửa
thân xanh và vàng) yêu cầu trong vòng 3 phút các nhóm tìm mảnh dán (chiếc lá)
25


×