Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Nâng cao năng lực đọc hiểu của học sinh thông qua việc đổi mới kĩ thuật đặt câu hỏi trong các giờ dạy học tác phẩm văn chương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.72 KB, 26 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

TRƯỜNG THPT QUẢNG XƯƠNG II

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

NÂNG CAO NĂNG LỰC ĐỌC-HIỂU CỦA HỌC SINH
THÔNG QUA VIỆC ĐỔI MỚI KĨ THUẬT ĐẶT CÂU HỎI
TRONG CÁC GIỜ DẠY HỌC TÁC PHẨM VĂN CHƯƠNG

Họ và tên: Nguyễn Thị Ngân
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực (mơn): Ngữ văn

THANH HĨA NĂM 2021


MỤC LỤC
Nội dung

Trang

1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài.....................................................................................

1

1.2. Mục đích nghiên cứu..............................................................................

1


1.3. Đối tượng nghiên cứu.............................................................................

1

1.4. Phương pháp nghiên cứu........................................................................

1

2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm................................................ 2
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm…………

2

2.2.1. Thực trạng của việc áp dụng hệ thống câu hỏi chuẩn bị bài trong sách
giáo khoa......................................................................................................... 2
2.2.2. Thực trạng việc phát vấn trên lớp trong các giờ dạy học tác phẩm văn
chương............................................................................................................. 4
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Giải pháp 1: Đổi mới cách vận dụng hệ thống câu hỏi hướng dẫn
học bài trong sách giáo khoa vào các giờ dạy học tác phẩm văn chương……. 4
2.3.2. Giải pháp 2: Đổi mới cách đặt câu hỏi trên lớp...................................... 6
2.3.3. Giải pháp 3: Tổ chức cho học sinh tự đặt câu hỏi trong thảo luận nhóm
và đặt câu hỏi đối với giáo viên.......................................................................... 6
2.3.3. Thực hành ứng dụng trong một bài dạy thực nghiệm cụ thể…………… 7
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, đối với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường……………………………………….. 18
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận…………………………………………………………………. 19
3.2. Kiến nghị………………………………………………………………… 20

Tài liệu tham khảo……………………………………………………………. 21
Phụ lục 1
Phụ lục 2


1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết, kĩ thuật đặt câu hỏi trong giờ dạy học được giáo viên
sử dụng khi dạy học phải luôn đảm bảo được yêu cầu “tích cực”, tức là chúng
phải thực hiện được mục đích: giúp học sinh cảm nhận và hiểu đúng, đủ về tác
phẩm,giúp học sinh thực hành và rèn luyện được phương pháp tự tìm hiểu, tự
khám phá những tác phẩm mới; giúp giáo viên xây dựng được một giáo án tối
ưu, thích hợp… Đặc biệt, hệ thống câu hỏi phải tạo ra được sự “đối thoại” giữa
người học với người học, người học với giáo viên trong khi lên lớp. Đồng thời
đặt người học vào trung tâm của sự học; làm tăng tính chủ động, tích cực của
học sinh trong việc cùng nhau chiếm lĩnh tri thức.
"Theo quan điểm dạy học phát triển phẩm chất, năng lực, kĩ thuật này
không chỉ nhằm hướng tới việc giúp học sinh tiếp nhận các tri thức mà chủ yếu
hướng tới rèn luyện kĩ năng, thái độ, sự vận dụng tổng hợp các tri thức, kĩ năng,
thái độ vào giải quyết nhiệm vụ trong thực tiễn cuộc sống và học tập để khuyến
khích sự tìm tịi, khám phá của học sinh." Điều đó có nghĩa là trong q trình
dạy học phát triển phẩm chất, năng lực cho học sinh khi sử dụng kĩ thuật này
không chỉ giáo viên nêu câu hỏi để học sinh giải quyết mà học sinh cũng được
khuyến khích đặt câu hỏi cho giáo viên, cho chính mình và các học sinh khác.
Trong xu hướng dạy học hiện đại, nhiệm vụ nghiên cứu về lý thuyết cũng
như ứng dụng kĩ thuật đặt câu hỏi ngày càng cần được bổ sung, hồn thiện bởi
tính cấp thiết và nhu cầu thực tiễn của nó. Bởi vậy, người viết mạnh dạn đưa ra
đề tài “Nâng cao năng lực đọc-hiểu của học sinh thông qua việc đổi mới kĩ
thuật đặt câu hỏi trong các giờ dạy học tác phẩm văn chương”.
1.2. Mục đích nghiên cứu

Qua nội dung của đề tài, người viết mong muốn hướng tới việc phát triển
năng lực đọc-hiểu văn bản văn chương cho học sinh. Từ đó góp phần phát triển
năng lực đặc thù của môn Ngữ văn là năng lực giao tiếp Tiếng Việt và năng lực
thưởng thức văn học. Đồng thời làm tăng khả năng độc lập suy nghĩ, năng lực
hợp tác, làm việc nhóm; tính chủ động tích cực của học sinh. Qua đó hình thành
được cho các em sự hứng thú trong mỗi giờ học. Cũng từ đề tài này, giáo viên sẽ
có thêm một tài liệu tham khảo hữu ích, nhằm mục đích nâng cao chất lượng
dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Kĩ thuật đặt câu hỏi trong các giờ dạy học tác phẩm văn chương.
- Trong năm học 2020 – 2021, đề tài được nghiên cứu tại trường THPT Quảng
Xương 2. Áp dụng thực nghiệm ở học sinh các lớp 11.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết có hiệu quả yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra trong đề tài, người viết đã sử
dụng một số phương pháp sau: Thống kê - phân loại, phân tích – tổng hợp –
đánh giá, so sánh , phương pháp vấn đáp – gợi mở, nêu ví dụ… Các phương
pháp nghiên cứu thực tiễn như: Quan sát, điều tra, ... kết hợp với thực tế giảng
dạy ở các lớp, rút kinh nghiệm, hệ thống thành phương pháp.

1


2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
- "Năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện
một hoạt động nào đó. Năng lực là phẩm chất tâm lý và sinh lý tạo cho con
người khả năng hồn thành một hoạt động nào đó với chất lượng cao", ( theo
Từ điển Tiếng Việt ).
- Đọc-hiểu là một năng lực tiếp nhận văn bản, thông qua hoạt động của con
người đọc chữ, xem các kí hiệu bảng biểu, hình ảnh trong nhiều loại văn bản

khác nhau, nhằm xử lí thơng tin trong văn bản để phục vụ những mục đích cụ
thể trong học tập hoặc giải quyết các nhiệm vụ thực tiễn của cuộc sống. Đọc
hiểu ln là một nội dung trọng tâm trong chương trình môn Ngữ văn ở trường
phổ thông của hầu hết các quốc gia trên thế giới trong thời kì từ đầu thế kỉ XX
đến nay. Năng lực đọc hiểu được hình thành và phát triển ở mơn Ngữ văn, vì
vậy đọc hiểu là một năng lực đặc thù của môn học này
Căn cứ vào định hướng đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn:
Trong dạy học theo phương pháp cùng tham gia, giáo viên thường sử
dụng câu hỏi để gợi mở, dẫn dắt học sinh tìm hiểu, khám phá thơng tin, kiến
thức, kĩ năng mới. Mục đích của việc dạy học không đặt nặng trọng tâm vào
kiến thức mà chú ý phát triển phẩm chất, năng lực; rèn luyện tu duy, rèn luyện kĩ
năng cho người học. Theo đó, đọc văn không phải là hoạt động đọc thông
thường mà đọc văn là để hiểu văn, tức đây là hoạt động đòi hỏi người đọc phải
cảm thụ, nhận thức suy ngẫm để ngộ ra những điều sâu sắc và lí thú về cuộc đời,
về con người được gửi gắm qua tác phẩm. Cũng từ đó sẽ bồi đắp những tình
cảm tốt đẹp trong tâm hồn con người và sống tốt hơn. Và muốn vậy, đổi mới kĩ
thuật đặt câu hỏi là hết sức quan trọng. thức. Kĩ năng đặt câu hỏi càng tốt thì
mức độ tham gia của học sinh càng nhiều, học sinh sẽ học tập tích cực hơn.
Căn cứ vào tâm lí lứa tuổi và quy luật tư duy
Học sinh lứa tuổi trung học phổ thông là lứa tuổi ham thích tìm hiểu
những vấn đề mới lạ. Thế hệ các em hiện này là thế hệ học sinh thời đại cơng
nghệ 4.0. Các em ln có nhu cầu thể hiện cái tơi, cá tính và suy nghĩ riêng của
mình. Các em thường rất hứng thú với những câu hỏi lạ, đòi hỏi suy nghĩ và
những câu hỏi mà các em có thể thể hiện được ý kiến riêng của bản thân.
Quá trình đọc-hiểu văn bản thực ra là quá trình giáo viên và học sinh cùng
chiếm lĩnh tác phẩm, ở đó học sinh đóng vai trị trung tâm, chủ động, tích cực
trong tiếp nhận, lí giải tác phẩm, giáo viên chỉ đóng vai trị định hướng, tức là
học sinh trực tiếp làm việc, nghiên cứu về văn bản chứ không gián tiếp lĩnh hội
thơng qua lời giảng (cách lí giải, tiếp cận) của giáo viên. Để làm được điều này,
giáo viên phải tác động đến học sinh trước hết thông qua kĩ thuật đặt câu hỏi khi

lên lớp.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1. Thực trạng của việc áp dụng hệ thống câu hỏi chuẩn bị bài trong sách
giáo khoa. Thực tế là giờ dạy nào cũng cần phải có sự phát vấn, trao đổi, tìm
hiểu kiến thức thơng qua các câu hỏi nhưng hiện nay đa phần giáo viên và học
sinh đều dựa vào hệ thống câu hỏi trong mục hướng dẫn học bài của sách giáo
2


khoa. Phần hướng dẫn học bài trong sách giáo khoa thường có khoảng 4, 5 câu
hỏi, các câu hỏi ấy có thể xếp thành 5 loại sau:
- Câu hỏi thuần túy tìm hiểu nội dung (loại 1)
VD1: Cảnh vật trong truyện được miêu tả trong thời gian và không gian như thế
nào? (Ở bài: “Hai đứa trẻ”)
VD2: Ở khổ thơ thứ ba, nhà thơ bộc lộ tâm sự của mình như thế nào? Chút hoài
nghi trong câu thơ “Ai biết tình ai có đậm đà?” có biểu hiện niềm tha thiết với
cuộc đời khơng? Vì sao? (Ở bài “Đây thơn Vĩ Dạ”)
- Câu hỏi thuần túy tìm hiểu nghệ thuật (loại 2)
VD1: Theo anh (chị), bút pháp kí sự của tác giả có đặc sắc? Phân tích những nét
đặc sắc đó. (Ở bài “Vào phủ chúa Trịnh”)
VD2: Anh (chị) có nhận xét gì về nghệ thuật miêu tả và giọng văn của Thạch
Lam? (Ở bài: “Hai đứa trẻ”)
- Câu hỏi tìm hiểu nội dung thơng qua hình thức nghệ thuật (loại 3)
VD1: Hình ảnh gió, mây, sơng trăng trong khổ thơ thứ hai gợi cảm xúc gì? (Ở
bài “Đây thơn Vĩ Dạ”)
VD2: Những từ ngữ, hình ảnh nào gợi lên được nét riêng của cảnh sắc mùa thu?
Hãy cho biết đó là những cảnh thu ở miền quê nào? (Ở bài “Câu cá mùa thu”)
- Câu hỏi tổng quát, nâng cao (loại 4)
VD1: Từ niềm “hạnh phúc” của các nhân vật do cái chết của cụ cố tổ đem lại và
cảnh tượng của cái “đám ma gương mẫu”, anh chị nhận xét như thế nào về xã

hội thượng lưu thành thị đương thời? Thái độ của nhà văn với xã hội này ra sao?
(Ở bài “Hạnh phúc của một tang gia”)
VD2: Tư tưởng nhân đạo sâu sắc mới mẻ của Nam Cao qua truyện ngắn này? (Ở
bài “Chí Phèo”)
- Câu hỏi hướng dẫn thao tác làm việc với tác phẩm (loại 5)
VD1: Phân tích ý nghĩa tượng trưng của các yếu tố tả thực hình ảnh người đi
trên cát. (Ở bài “Bài ca ngắn đi trên bãi cát”)
VD2: Đọc diễm cảm bài hát nói này. Hãy chỉ ra những nét tự do của thể tài hát
nói so với thơ Đường Luật và cho biết ý nghĩa của tính chất tự do đó. (Ở bài
“Bài ca ngắn đi trên bãi cát”)
Căn cứ theo số lượng câu hỏi này trong sách giáo khoa lớp 11 ta có bảng sau:
Sách giáo khoa
Loại 1
Loại 2
Loại 3
Loại 4
Loại 5
Kì 1

49/121

11/121

25/121

32/121

4/121

Kì 2


43/108
9/108
14/108
39/108
4/108
Như vậy, câu hỏi về phương diện nội dung chiếm số lượng nhiều nhất
(khoảng 40%). Những câu hỏi loại này thường gây tâm lí chủ quan, khơng địi
hỏi tích cực suy nghĩ, thường khó mang lại những ấn tượng mới lạ, dễ nhàm
chán. Loại câu hỏi khái quát nâng cao có số lượng chiếm vị trí thứ 2 nhưng hình
thức câu hỏi này thường dè dặt, tương đối giống nhau về hình thức
Học sinh khi học văn, thường không chuẩn bị bài, đọc qua tác phẩm, hoặc
chăm chỉ hơn sẽ soạn bài theo hệ thống câu hỏi được biên soạn trong sách giáo
khoa. Nhưng có một thực tế đáng buồn là trong số rất ít em có chuẩn bị bài ấy,
rất nhiều em chống chế bằng cách chép lại phần trả lời theo sách để học tốt, các
3


tài liệu tham khảo mà không cần (không thèm) đọc văn bản nên thường khơng
chủ động suy nghĩ và tìm hiểu văn bản.
Trong 2 lớp mà người viết nghiên cứu, người viết nhận thấy chỉ khoảng
10% học sinh có đọc bài, soạn bài, 30% chép lại bài soạn của bạn, chép sách
tham khảo, cịn lại khơng hề chuẩn bị bài. Thậm chỉ kiểm tra bài mới sẽ học là
bài gì nhiều em cũng vô cùng lúng túng, không trả lời được hoặc vội vàng dở
sách xem tên bài.
Giáo viên khi sử dụng hệ thống câu hỏi trong sách giáo khoa cũng có 2 xu
hướng chủ đạo là: hoặc chỉ chú trọng nội dung kiến thức bài giảng không quan
tâm, thờ ơ với hệ thống câu hỏi trong sách giáo khoa (mặc nhiên coi đó là phần
dành cho học sinh để soạn bài, chuẩn bị bài ở nhà) hoặc quá lệ thuộc, sử dụng
máy móc tức là thiết kế bài giảng soạn bài theo hệ thống câu hỏi đó, trả lời theo

gợi ý trong sách giáo viên và lên lớp chỉ chữa lại. Nhưng thực tế là: nếu giáo
viên không quan tâm đến hệ thống câu hỏi trong sách giáo khoa thì sẽ khơng thể
hình dung được học sinh đã chuẩn bị được những gì, bài dạy sẽ khơng gắn kết
với những gì các em đã chuẩn bị. Từ đó dẫn đến việc các em thấy việc chuẩn bị
bài là không cần thiết, sẽ dần đánh mất thói quen chuẩn bị bài ở nhà. Ngược lại,
nếu giáo viên soạn bài hoàn toàn lệ thuộc vào sách giáo khoa sẽ dẫn đến tình
trạng nhàm chán khi lên lớp bởi học sinh đã biết trước câu trả lời. Thậm chí
khơng cần mất nhiều thời gian ở nhà mà chỉ cần trên lớp khi giáo viên hỏi sẽ mở
tài liệu tham khảo tìm là “thấy”, nói cách khác, các em đã biết trước câu trả lời
nên không hứng thú với bài giảng.
2.2.2. Thực tế tình trạng phát vấn trên lớp trong các giờ dạy học tác phẩm
văn chương.
Trong một giờ lên lớp ở trường trung học phổ thông, số ý kiến phát biểu
thường chỉ khoảng 5-10 ý kiến, chủ yếu rơi vào những học sinh vốn hăng hái
phát biểu . Đa phần học sinh còn lại học một cách thụ động, uể oải, thậm chí có
em buồn ngủ, làm việc riêng…
Có một thực tế nữa là trên lớp, giáo viên khi đưa ra các câu hỏi phát vấn
thường mắc những lỗi: câu hỏi tuỳ tiện, ngẫu hứng theo hướng phát sinh, không
gắn kết, những câu hỏi có sẵn phương án trả lời, câu hỏi đúng sai. A hay B, dễ
gây tình trạng trả lời tập thể, nói leo, nói đế, gây ồn ào, mất tập trung… Đôi khi
câu hỏi đưa ra dễ dẫn đến tình trạng học sinh lan man, xuyên tạc, liên tưởng theo
lối dung tục hoá văn bản hoặc câu hỏi tối nghĩa khó hiểu hoặc q khó khơng
thể trả lời.
Xuất phát từ những thực tế trên, người viết đã mạnh dạn đưa ra đề tài
“Nâng cao năng lực đọc-hiểu của học sinh thông qua việc đổi mới kĩ thuật
đặt câu hỏi trong các giờ dạy học tác phẩm văn chương”. Đây là một kĩ thuật
rất quan trọng với mỗi giáo viên. Từ đó hướng tời mục đích xây dựng một giờ
dạy học Ngữ văn thành công trong thời đại mới.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Giải pháp 1: Đổi mới cách vận dụng hệ thống câu hỏi hướng dẫn học

bài trong sách giáo khoa vào các giờ dạy học tác phẩm văn chương.

4


Sự tiếp nhận tác phẩm văn chương của học sinh trên ghế nhà trường là sự
tiệp nhận một cách có ý thức, chủ động, có định hướng chứ khơng tự phát, tuỳ
tiện.
+ Với học sinh, câu hỏi trong mục Hướng dẫn học bài nhằm giúp các em
chiếm lĩnh tác phẩm sơ bộ, ban đầu, là người thầy giáo vơ hình dẫn dắt các em
tự tìm hiểu tác phẩm, định hướng nội dung, cảm xúc ban đầu và cả những vấn
đề cốt lõi, trọng tâm của văn bản.
+ Với người giáo viên, Câu hỏi Hướng dẫn học bài là cơ sở giúp xây dựng
giáo án khi lên lớp. Dù vậy, câu hỏi trong sách giáo khoa và câu hỏi trên lớp là
khác nhau. Chúng có mục đích chung là giứp học sinh nắm chắc kiến thức, rèn
luyện tư duy, kĩ năng đọc-hiểu văn bản nên chúng có mối quan hệ mật thiết, hỗ
trợ lẫn nhau. Câu hỏi trên lớp không thể lặp lại ngun si nhưng cũng khơng thể
hồn tồn thốt li hệ thống câu hỏi này.
Trước khi đặt câu hỏi, người giáo viên nên xây dựng các tiêu chí cho hệ
thống câu hỏi. Thông thường, giáo viên khi soạn bài thường soạn các nội dung
trước, sau đó tìm câu hỏi phù hợp để có câu trả lời là các nội dung này. Chúng ta
nên tránh làm vậy, thay vào đó khi đặt câu hỏi, nên căn cứ theo các nguyên tắc,
mục đích của câu hỏi hơn là căn cứ vào nội dung cứng nhắc đã chuẩn bị. Theo
người viết, hệ thống câu hỏi được sử dụng phải đảm bảo các ngun tắc sau:
- Ln có một câu hỏi trọng tâm, chủ đạo (đó là câu hỏi về vấn đề cơ bản cần
dạy học, về bản chất, mục tiêu bài học)
- Đảm bảo tính khoa học, hệ thống. Tức là phải chính xác về mặt từ ngữ, khái
niệm, rõ ràng, dễ hiểu. Các câu hỏi phải có mối liên hệ mật thiết với nhau. Các
câu hỏi này phải nằm trong một hệ thống, có vai trị hỗ trợ nhau làm rõ vấn đề
trung tâm. Các câu hỏi này nên được phân chia theo loại:

. Dành cho việc đọc (giọng điệu văn bản)
. Rèn luyện tóm tắt
. Hướng vào giá trị nội dung
. Hướng vào khai thác các yếu tố nghệ thuật
. Phát hiện, phân tích những chi tiết “đẳt”, giàu ý nghĩa của tác phẩm
. Câu hỏi đánh giá, tổng hợp. (nên có sự so sánh)
- Hệ thống câu hỏi phải tương ứng với các cấp độ nhận thức từ thấp đến cao, có
vai trị hỗ trợ nhau trong một bài dạy. Phải đảm bảo có những câu hỏi từ dễ đến
khó, theo các cấp độ tư duy, nhận thức: Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu
tượng, từ tư duy trừu tượng đến hoạt động thực tiễn.
- Phù hợp với phương pháp được chọn. Mỗi phương pháp khác nhau đòi hỏi hệ
thống câu hỏi khác nhau. Phương pháp đàm thoại địi hỏi câu trả lời ngắn, có thể
trả lời được ngay; phương pháp đặt và giải quyết vấn đề cần có câu hỏi nêu vấn
đề từ một tình huống, những câu hỏi dẫn đắt tìm giải pháp và lựa chọn giải pháp;
phương pháp hoạt động nhóm lại yêu cầu những câu hỏi khác nhau cho từng
nhóm và tương đối đồng đều về đọ khó, u cầu…
- Ngồi ra câu hỏi phải vừa sức, phù hợp từng đối tượng. Câu hỏi ngắn gọn, rõ
ràng, dễ hiểu.Câu hỏi kích thích suy nghĩ của học sinh, đảm bảo tính nghệ thuật.
Tức là câu hỏi phải mang màu sắc văn chương, thu hút đươc sự chú ý của HS.
5


2.3.2. Giải pháp 2: Đổi mới cách đặt câu hỏi trên lớp
Giáo viên nên đặc biệt hướng tới xây dựng những câu hỏi mang tính tích
cực, các câu hỏi khơng nên có hình thức: “Có” “khơng”, tránh mang tính tái
hiện, cố tình gợi mở cho học sinh hướng tới tìm hiểu tác phẩm, tránh gị bó, kìm
hãm sự suy nghĩ, đồng thời nên xây dựng những câu hỏi mới, tránh lối đặt câu
hỏi sáo mịn, cơng thức.
Trên lớp cần vận dụng linh hoạt, với những câu khó có thể dẫn dắt, gợi ý
cho học sinh nhưng tuyệt đối không “mớm” câu trả lời cho các em.

Ví dụ: Khi dạy đọc-hiểu tác phẩm truyện ngắn “Chí Phèo” của nhà văn Nam
Cao (3 tiết tìm hiểu về phần văn bản tác phẩm).
+ Giáo viên có thể gợi mở để vào bài học như sau: Kể tên các nhân vật là người
nông dân trong các tác phẩm mà em đã học? Ấn tượng của em về hình ảnh
người nơng dân trong các tác phẩm văn học đó là như thế nào?
+ Khi hướng dẫn đọc-hiểu q trình tha hóa của Chí Phèo, giáo viên có thể đưa
ra các vấn đề thảo luận như:
* Em có nhận xét gì về cuộc đời và tính cách của Chỉ Phèo giai đoạn trước khi
anh vào tù?
* Khi đi tù về Chí Phèo đã thay đổi như thế nào? (Ngoại hình? Tính cách?) Ý
nghĩa của sự thay đổi đó?
* Theo em, nguyên nhân nào đã đẩy Chỉ Phèo vào con đường lưu manh, tội lỗi
khơng lối thốt? Từ những nguyên nhân trên, em hãy cho biết Nam Cao muốn
đề cập đến nguyên nhân sâu xa nào?
+ Khi hướng dẫn đọc-hiểu q trình thức tỉnh của Chí Phèo, giáo viên có thể
đưa ra các vấn đề thảo luận như: Tại sao có thể nói: bát cháo hành là liều thuốc
giải độc cho Chí Phèo? Nhận xét 2 câu nói của Chí với Thị Nở: “Giá cứ thế này
mãi thì thích nhỉ?”, “Hay mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui”.
+ Khi hướng dẫn đọc-hiểu tấn bi kịch của Chí Phèo, giáo viên có thể đưa ra vấn
đề thảo luận như: Có người nói: Chí Phèo tự tử là do mối tình với Thị Nở tan
vỡ, hắn quá đau khổ? Anh/chị có đồng ý với ý kiến đó khơng?
+ Khi hướng dẫn đọc-hiểu đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm, ta có thể sử dụng
một số câu hỏi gợi mở như:
* Em thấy nghệ thuật xây dựng kết cấu truyện có gì đặc biệt so với các tác phẩm
mà em đã học?
* Trình tự thời gian được tác giả sắp xếp như thể nào? Hình ảnh “cái lò gạch
cũ bỏ hoang” xuất hiện ở đầu và kết thúc câu chun đã nói lên điều gì?
*Nhận xét về giọng điệu của Nam Cao? Giọng điệu ấy nói lên điều gì về nhà
văn?
2.3.3. Giải pháp 3: Tổ chức cho học sinh tự đặt câu hỏi trong thảo luận

nhóm và đặt câu hỏi đối với giáo viên.
Trong quá trình dạy đọc-hiểu văn bản, cần kết hợp giữa câu hỏi của giáo
viên với câu hỏi của học sinh, khuyến khích học sinh đặt những loại câu hỏi như
câu hỏi giải thích, minh họa, câu hỏi phát hiện về kiến thức trở lại cho giáo viên
và các bạn khi tham gia hoạt động thảo luận nhóm. Chẳng hạn : Giáo viên cho
học sinh cơ hội nêu câu hỏi thắc mắc của bản thân khi đang cùng giải quyết một
nội dung nào đó của bài học.
6


Ví dụ: Khi dạy đọc-hiểu tác phẩm truyện ngắn “Chí Phèo” của nhà văn Nam
Cao học sinh có thể nêu lên những thắc mắc của bản thân về mâu thẫn trong
hành động của Chí Phèo sau khi bị Thị Nở khước từ: Chí Phèo nói là “phải đến
nhà con đĩ Nở” để đâm chết cả nhà nhà nó nhưng cuối cùng lại đến nhà Bá
Kiến và đâm chết Bá Kiến? Vì sao lại như vậy?
- Hoặc trong khi tổ chức dạy học, giáo viên sẽ tổ chức một trò chơi có thi đua,
tính điểm. Giáo viên sẽ phân chia lớp thành 2 nhóm lớn, một nhóm hỏi, một
nhóm trả lời. Lúc này, giáo viên sẽ đóng vai trị là trọng tài. Học sinh sẽ hào
hứng tham gia, vừa để khẳng định mình, vừa cùng tranh luận, phản biện để tự
chiếm lĩnh nội dung bài học.
Ví dụ:
* Bạn có suy nghĩ gì về cái chết của Chí Phèo? Nếu bạn là tác giả, bạn có để
Chí Phèo chết khơng? Vì sao?
* Theo bạn hình ảnh “Thị Nở nhìn nhanh xuống bụng” và “thống trong óc Thị
hiện ra cái lị gạch cũ” có ý nghĩa như thế nào?
* Sau khi Chí Phèo chết, dân làng đã bình luận gì? Ý nghĩa của những lời bình
luận đó”? Nếu bạn là một người dân ở làng Vũ Đại, bạn sẽ nghĩ như thế nào?
Đối xử với Chí Phèo ra sao?
2.3.4. Thực hành ứng dụng trong một bài dạy thực nghiệm cụ thể.
* Ví dụ: về hệ thống câu hỏi cho việc dạy – học tác phẩm truyện ngắn “Chí

Phèo” của nhà văn Nam Cao (3 tiết tìm hiểu về phần văn bản tác phẩm):
Lưu ý: Những chữ cái viết tắt trong kế hoạch dạy học
GV: Giáo viên
HS: Học sinh
SGK: Sách giáo khoa
SGV: Sách giáo viên

Đọc văn:

CHÍ PHÈO
( Nam Cao)

I. MỤC TIÊU BÀI HỌC
1. Kiến thức : Giúp HS có sự khắc sâu, nâng cao nội dung bài học như:
- Nêu được kiến thức về tác giả, khái quát tác phẩm, nội dung, nghệ thuật và ý
nghĩa văn bản của truyện ngắn.
- Hiểu được sự cảm thông sâu sắc của Nam Cao đối với bi kịch bị tha hố của
Chí Phèo và sự trân trọng của nhà văn trước khát vọng hồn lương của người
nơng dân.
- Thấy được một vài nét độc đáo trong bút pháp nghệ thuật của Nam Cao.Vận
dụng hiểu biết về hoàn cảnh lịch sử xã hội để lí giải nội dung, nghệ thuật của
tác phẩm văn học.
2. Kĩ năng :
- Biết làm: bài đọc hiểu về truyện ngắn của Nam Cao.
- Thơng thạo: sử dụng tiếng Việt khi trình bày một bài nghị luận về một tác
phẩm, đoạn trích văn xi
3.Thái độ :
- Hình thành thói quen: đọc hiểu văn bản văn xi
- Hình thành sự tin khi trình bày kiến thức về truyện ngắn của Nam Cao.
7



- Hình thành nhân cách: có tinh thần nhân ái, cảm thông với cuộc đời người
nông dân, trân trọng với khát vọng của con người.
4. Những năng lực cụ thể học sinh cần phát triển:
- Năng lực thu thập thông tin liên quan đến tác giả, tác phẩm của Nam Cao
- Năng lực đọc – hiểu truyện ngắn Chí Phèo.
- Năng lực trình bày suy nghĩ, cảm nhận của cá nhân về tác giả, tác phẩm.
- Năng lực hợp tác khi trao đổi, thảo luận về thành công, hạn chế, những đóng
góp nổi bật của nhà văn.
- Năng lực phân tích, so sánh các đề tài trong sáng tác của Nam Cao.
- Năng lực tạo lập văn bản nghị luận.
II. THIẾT BỊ DẠY HỌC VÀ HỌC LIỆU
1. Học liệu
- Kế hoạch dạy học. Phiếu bài tập, trả lời câu hỏi.
- Đèn chiếu; đồ dùng dạy học: SGK, SGV, tài liệu tham khảo. sưu tầm tranh,
ảnh về tác giả, tác phẩm, phim “Làng Vũ Đại ngày ấy”…
- Bảng giao nhiệm vụ học tập cho HS ở nhà.
- Đọc trước ngữ liệu trong Sách giáo khoa để trả lời câu hỏi tìm hiểu bài học.
- Các sản phẩm thực hiện nhiệm vụ học tập ở nhà (do GV giao từ tiết trước).
2. Thiết bị: máy tính, máy chiếu, loa, đồ dùng dạy học trực quan.
III. TIẾN TRÌNH TỔ CHỨC BÀI HỌC
1. KHỞI ĐỘNG ( 5 phút)
Hoạt động của GV và HS
Kiến thức cần đạt
Giáo viên giao nhiệm vụ
- Nhận thức được nhiệm vụ cần
+ Trình chiếu một đoạn phim “Làng Vũ đại giải quyết của bài học.
ngày ấy”, và cho học sinh xem tranh ảnh về - Tập trung cao và hợp tác tốt để
tác giả Nam Cao, tác phẩm “Chí Phèo”

giải quyết nhiệm vụ.
+ Chuẩn bị bảng lắp ghép
- Có thái độ tích cực, hứng thú.
+ Đặt ra câu hỏi: Kể tên các nhân vật là
người nông dân trong các tác phẩm mà em
đã học? Ấn tượng của em về hình ảnh người
nơng dân trong các tác phẩm văn học đó là
như thế nào?
* HS:
+ Nhìn hình đốn tác giả Nam Cao
+ Lắp ghép tác phẩm với tác giả
+ Trả lời câu hỏi
2. HOẠT ĐỘNG HÌNH THÀNH KIẾN THỨC
Hoạt động của GV và HS
Kiến thức cần đạt
* Thao tác 1 : Hướng dẫn HS tìm hiểu Phần hai:
chung về tác phẩm
TÁC PHẨM CHÍ PHÈO.
Bước 1: GV giao nhiệm vụ
I. Tìm hiểu chung:
- Học sinh đọc phần tiểu dẫn trong SGK.
1. Thể loại: Truyện ngắn.
- GV cho HS hoạt động cá nhân và trình bày 2. Xuất xứ:
trước lớp.
- “Chí Phèo” do Nam Cao sáng
8


+ Nêu xuất xứ?
+ Đề tài và ý nghĩa nhan đề?

Theo em, tại sao tác giả không giữ
tên tác phẩm là “Cái lị gạch cũ” hay
“Đơi lứa xứng đơi” mà lại đổi thành
“Chí Phèo”?
* GV diễn giảng về các tên gọi của tác phẩm.
- Đầu tiên tác phẩm được đặt tên là Cái lò
gạch cũ → sự quẩn quanh bế tắc.
- Lúc in nhà xuất bản tự ý đổi tên là Đơi lứa
xứng đơi. →nhấn mạnh mối tình Chí PhèoThị Nở.
- Sau cách mạng tác phẩm được tái bản và
được đổi tên một lần nữa Chí Phèo.→ nhấn
mạnh nhân vật Chí Phèo.
GV u cầu HS: Em hãy tóm tắt lại truyện!
(theo cuộc đời Chí Phèo? Theo kết cấu văn
bản?)
- GV nhận xét và chốt lại bằng bảng phụ.
+ Tác phẩm có thể chia thành mầy phần? Nội
dung chính từng phần?
+ Em có nhận xét gì về nội dung cơ bản của
mỗi đoạn?
Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ
Bước 3: HS báo cáo kết quả thực hiện
HS Tái hiện kiến thức và trình bày.
Đề tài và nhan đề:
- Số phận người nơng dân nghèo trước Cách
mạng tháng Tám.
- Chí Phèo lúc đầu có tên là “Cái lị gạch
cũ”, sau đó nhà xuất bản Đời Mới đổi lại
thành “Đôi lứa xứng đôi” (1941), sau này tác
giả tự sửa lại là “Chí Phèo”. Được in trong

tập Luống Cày (1946).
Tóm tắt tác phẩm:
Bước 4: GV nhận xét, chốt kiến thức
* Thao tác 1 :
Hướng dẫn HS đọc - hiểu văn bản
* 1 HS đọc, cả lớp theo dõi.
Thao tác 2: Tổ chức cho HS thảo luận nhóm:
Bước 1: GV giao nhiệm vụ
Nhóm 1: Nam Cao đã đưa vào tác phẩm
những loại người nào để hình thành diện
mạo của làng Vũ Đại?
Nhóm 2: Em có nhận xét gì về làng Vũ Đại

tác năm 1941. Được in trong tập
Luống Cày (1946). Sau đó in
trong Nam Cao – Tác phẩm, tập
I (1977)
3. Đề tài và nhan đề:

4. Tóm tắt tác phẩm:

5. Bố cục: 3 phần
- Phần 1: Từ đầu…khơng ai biết:
Nhân vật Chí Phèo xuất hiện
cùng với tiếng chửi.
- Phần 2: Tiếp theo… “mau lên”:
Chí bị cướp mất tính người.
- Phần 3: Cịn lại: Sự thức tỉnh về
ý thức và bi kịch của cuộc đời
Chí Phèo.


II. Đọc- hiểu văn bản:
1. Làng Vũ Đại - hình ảnh thu
nhỏ của xã hội nông thôn Việt
Nam trước Cách mạnh tháng
Tám.
- Tồn bộ truyện Chí Phèo diễn
ra ở làng Vũ Đại. Đây chính là
khơng gian nghệ thuật của
truyện.
9


nói riêng và bổi cảnh xã hội nơng thơn Việt
Nam trước Cách mạng tháng Tám nói chung?
Nhóm 3: Đọc và tìm những chi tiết miêu tả
chân dung bá Kiến: Về ngoại hình, tính cách
bản chất…? ( Chú ý cái cười, giọng nói…)
Nhóm 4: Nét điển hình trong tính cách của
Bá là gì? Bá Kiến là con người như thế nào?
Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ
Bước 3: HS báo cáo kết quả thực hiện
Đại diên nhóm trả lời:
* Nhóm 1
- Loại có vai vế, có quyền lực trong làng: Bá
Kiến, Đội Tảo, Tư Đạm, Bát Tùng
- Loại cùng đinh bị tha hóa: Chí Phèo, Binh
Chức, Năm Thọ...
- Dân làng Vũ Đại: là “bọn dân hiền lành, chỉ
è cổ làm nuôi bọn lí hào”.

* Nhóm 2
Nơi đó khơng phải là mơi trường thuận lợi
cho nhân cách, cái thiện, cái tốt hình thành và
phát triển. Trái lại, nó chỉ có thể bào mịn, thủ
tiêu nhân cách con người.
* Nhóm 3
- Bốn đời làm tổng lí “ Uy thế nghiêng trời”
- Giọng nói, cái cười mang tính điển hình
cao: tiếng qt “rất sang”, “cái cười Tào
Tháo”. Hắn có thủ đoạn mềm nắn rắn bng.
- Bá dựng lên quanh mình một thế lực vững
trãi để cai trị và bóc lột, giẫm lên vai người
khác một cách thật tinh vi.
* Nhóm 4
- Bá Kiến có đủ thói xấu xa: Háo sắc, ghen
tng, sợ vợ, hám quyền lực. Lão làm tha
hoá và làm tan nát bao nhiêu cuộc đời con
người lương thiện.
Bước 4: GV nhận xét, chốt kiến thức
* Hoạt động 1 :
Hướng dẫn HS đọc - hiểu văn bản về nhân
vật Chí Phèo.
* Thao tác 1 :
Tổ chức cho HS thảo luận nhóm: tìm hiểu về
q trình tha hóa của nhân vật Chí Phèo.
Bước 1: GV giao nhiệm vụ
Nhóm 1: Theo anh/ chị, cuộc đời Chí Phèo
có thể chia thành mấy chặng, là những

- Làng này dân “khơng q hai

nghìn người, xa phủ, xa tỉnh”
nằm trong thế “quần ngư tranh
thực”
- Có tơn ti trật tự nghiêm ngặt
- Mâu thuẫn giai cấp gây gắt, âm
thầm mà quyết liệt, khơng khí tối
tăm , ngột ngạt.
- Đời sống của người nông dân
vô cùng khổ cực bị đẩy vào
đường cùng khơng lối thốt, bị
tha hóa.

2. Nhân vật Bá Kiến
- Điển hình cho loại địa chủ
cường hào ở nơng thơn Việt Nam
trước Cách mạng: xảo quyệt,
gian hùng, thủ đoạn - Với tiếng
cười Tào Tháo, mềm nắn rắn
bng, dùng đầu bị trị đầu bò…
- Nhân cách ti tiện bỉ ổi, dâm
đãng, ghen tuông và độc ác
=> Bá Kiến tiêu biểu cho giai
cấp thống trị: có quyền lực, gian
hùng, nham hiểm.
3. Hình tượng nhân vật Chí
Phèo.
* Q trình tha hố của nhân
vật Chí Phèo
a. Trước khi ở tù.
- Hồn cảnh xuất thân: không

cha, không mẹ, không nhà,
không cửa, không một tấc đất
cắm dúi cũng khơng có, đi ở hết
10


chặng nào?
Nhóm 2: Em có nhận xét gì về cuộc đời và
tỉnh cách của Chỉ Phèo giai đoạn trước khi
anh ta vào tù?
Nhóm 3: Khi đi tù về Chí Phèo đã thay đổi
như thế nào? (Ngoại hình? Tính cách?) Ý
nghĩa của sự thay đổi đó? Nhận xét về
những lời chửi của Chí Phèo trong đoạn
mở đầu?
Nhóm 4: Ngun nhân nào đẩy Chỉ Phèo
vào con đường lưu manh, tội lỗi không lối
thoát? Từ những nguyên nhân trên, em hãy
cho biết Nam Cao muốn đề cập đến nguyên
nhân sâu xa nào?
Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ
Bước 3: HS báo cáo kết quả thực hiện
* Nhóm 1:
Cuộc đời Chí Phèo có thể chia thành 2 chặng:
- Từ khi sinh ra đến trước khi bị đẩy đi ở tù.
- Sau khi đi từ về:
+ Sau khi đi tù về đến trước khi gặp Thị Nở.
+ Sau khi gặp Thị Nở đến trước khi bị Thị Nở
khước từ.
+ Sau khi bị Thị Nở khước từ cho đến khi

chết.
* Nhóm 2:
- Chí Phèo khơng cha, khơng mẹ, khơng họ
hàng thân thích, được nhiều người cưu mang.
Lớn lên Chí Phèo vẫn ngay thẳng, chân thật,
hiền từ. Sống bằng việc đi ở mướn cho hết
nhà này đến nhà khác. 20 tuổi làm canh điền
cho Bá Kiến, chính Bá Kiến cũng cơng nhận
Chí Phèo “hiền như cục đất”.
- Chí Phèo là người có lịng tự trọng: Khi bị
mụ vợ ba của Bá Kiến bắt làm những việc
nhằm thoả mãn nhục dục của mụ, Chí cảm
thấy xấu hổ và nhục nhã.
- Chí Phèo ước mơ có cuộc sống bình thường,
lương thiện, với “một gia đình nho nhỏ... mua
dăm ba sào ruộng làm”.
- Nhận xét chung: Chí Phèo hiền lành, lương
thiện. Cuộc sống tối tăm nhưng vẫn không
làm hắn đánh mất bản chất tốt đẹp của mình.
* Nhóm 3:
+ Hình dạng: biến đổi thành con quỷ dữ “Cái

nhà này đến nhà khác. Cày thuê
cuốc mướn để kiếm sống.
- Từng mơ ước: có một ngơi nhà
nho nhỏ, chồn cày th cuốc
mướn…→ Chí Phèo là một
người lương thiện.
- Năm 20 tuổi: đi ở cho nhà cụ
Bá Kiến. Bị bà ba Bá Kiến gọi

lên dấm lưng, bóp chân…Chí
cảm thấy nhục chứ u đương
gì→ biết phân biệt tình u chân
chính và thói dâm dục xấu xa. Là
người có ý thức về nhân phẩm.
=> Chí Phèo có đủ điều kiện để
sống cuộc sống n bình như bao
người khác.
b. Sau khi ở tù.
- Nguyên nhân: vì Bá Kiến ghen
với vợ hắn.
- Chế độ nhà tù thực dân đã biến
Chí trở thành lưu manh, có tính
cách méo mó và qi dị. Chí trở
thành con quỉ dữ của làng Vũ
Đại.
- Hậu quả của những ngày ở tù:
+ Hình dạng: biến đổi thành con
quỷ dữ “Cái đầu trọc lốc, hàm
răng cạo trắng hớn, cái mặt thì
câng câng đầy những vết sứt sẹo,
hai con mắt gườm gườm..”
→ Chí Phèo đã đánh mất nhân
hình.
+ Nhân tính: du cơn, du đãng,
triền miên trong cơn say, đập
đầu, chửi bới, phá phách và làm
công cụ cho Bá Kiến.
→ Chí Phèo đã đánh mất nhân
tính.

=> Chí đã bị cướp đi cả nhân
hình lẫn nhân tính. Bị biến chất
từ một người lương thiện thành
con quỉ dữ. Chí điển hình cho
hình ảnh người nơng dân lao
động bị đè nén đến cùng cực, và
cũng là một nhân chứng tố cáo
11


đầu trọc lốc, hàm răng cạo trắng hớn, cái
mặt thì câng câng đầy những vết sứt sẹo, hai
con mắt gườm gườm..”
+ Nhân tính: du cơn, du đãng, triền miên
trong cơn say, đập đầu, chửi bới, phá phách
và làm công cụ cho Bá Kiến.
+ Tiếng chửi của Chí Phèo chính là một sự
phản ứng của nhân vật với cuộc đời.
=> Chí đã bị cướp đi cả nhân hình lẫn nhân
tính. Bị biến chất từ một người lương thiện
thành con quỉ dữ. Chí điển hình cho hình ảnh
người nơng dân lao động bị đè nén đến cùng
cực, và cũng là một nhân chứng tố cáo chế độ
thực dân phong kiến đã cướp đi quyền làm
người của Chí.
* Nhóm 4:
Có hai ngun nhân chính:
- Một là: Chí Phèo vơ cớ bị Bá Kiến bỏ tù.
Thời gian ở tù 7- 8 năm. Trở về, Chí thành
con người khác hẳn: Dị dạng nhân hình, thay

đổi hồn tồn nhân tính và mất hết ý thức về
phẩm giá.
- Hai là: Sau hai lần đầu đến nhà Bá Kiến,
Chí bị rơi vào cạm bẫy nham hiểm của hắn và
trở thành công cụ đắc lực của Bá Kiến mà
không hay biết.
GV Định hướng trả lời: Cả hai nguyên nhân
trên đều xuất phát từ mâu thuẫn giữa Chí
Phèo và Bá Kiến. Điều này cho thấy Nam
Cao đã chỉ ra nguyên nhân sâu xa biến Chí
Phèo từ một nơng dân lương thiện trở thành
con quỷ dữ của làng Yũ Đại là mâu thuẫn giai
cấp.
Bước 4: GV nhận xét, chốt kiến thức
Thao tác 2: Tổ chức cho HS thảo luận nhóm:
Q trình thức tỉnh và tấn bi kịch bị cự tuyệt
quyền làm người của Chí Phèo.
Bước 1: GV giao nhiệm vụ
Nhóm 1: Cuộc đời Chí Phèo thay đổi như
thế nào từ khi gặp Thị Nở?
Nhóm 2: Tại sao có thể nói: bát cháo hành
là liều thuốc giải độc cho Chí Phèo? Nhận
xét 2 câu nói của Chí với Thị Nở: “Giá cứ
thế này mãi thì thích nhỉ?”, “Hay mình sang
đây ở với tớ một nhà cho vui”

chế độ thực dân phong kiến đã
cướp đi quyền làm người của
Chí.


* Q trình thức tỉnh và tấn bi
kịch bị cự tuyệt quyền làm
người của Chí Phèo.
a. Cuộc gặp gỡ giữa Chí Phèo
và Thị Nở:
- Tình yêu thương mộc mạc,
chân thành của Thị Nở- người
đàn bà xấu như ma chê quỷ hờn,
lại dở hơi ấy đã đánh thức bản
chất lương thiện của Chí Phèo.
- Chí Phèo đã thức tỉnh.
12


* 1 HS đọc, cả lớp theo dõi.
Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ
Bước 3: HS báo cáo kết quả thực hiện
* Nhóm 1
Chính Thị Nở và tình u của hai nguời đã
thức tỉnh Chí Phèo, làm cho hắn khao khát
cuộc đời lương thiện. Và diễn biến tâm lý của
nhân vật này được Nam Cao miêu tả rất tinh
tế:
- Sau cái đêm uống rượu say và gặp Thị Nở,
sáng hôm sau tỉnh dậy, nét độc ác hung hãn
của Chí Phèo hoàn toàn biến mất, cái bản
chất lương thiện của hắn đã trở về: Hắn cảm
thấy buồn. Lần đầu tiên hắn nghe nhịp sống
của đời thường. Hắn nhớ lại những mơ ước
xa xưa. Hắn nhận ra và lo sợ tuổi già, sợ đói

rét, ốm đau, và nhất là sợ cơ độc.
Nhóm 2: Khi nhận được bát cháo hành từ tay
Thị Nở, Chí Phèo thèm khát một cuộc đời
lương thiện: Chí Phèo rất ngạc nhiên và mắt
“hình như ươn ướt”. Hắn nhớ lại cuộc đời đã
qua và xót xa, đau đớn. Nhìn lại bát cháo
hành, hắn rút ra một điều là hắn có thể kết
bạn. Hắn kỳ vọng Thị Nở sẽ là cầu nối đưa
hắn trở về với làng Vũ Đại .
Bước 4: GV nhận xét, chốt kiến thức
* Thao tác 3
Bước 1: GV giao nhiệm vụ
Nhóm 3 :
- Có người nói: Chí Phèo tự tử là do mối
tình với Thị Nở tan vỡ, hắn quá đau khổ?
Anh/chị có đồng ý với ý kiến đó khơng?
- Tại sao sau khi đâm Bá Kiến, Chí Phèo lại
tự kết liễu đời mình? Nhận xét về hình ảnh
Chí Phèo khi chết!
Nhóm 4 :
- Chí Phèo nói là “phải đến nhà con đĩ Nở”
để đâm chết cả nhà nhà nó nhưng cuối
cùng lại đến nhà Bá Kiến và đâm chết Bá
Kiến? Vì sao lại như vậy?
- Phân tích ý nghĩa những câu nói cuối
cùng của Chí Phèo?
Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ
Bước 3: HS báo cáo kết quả thực hiện
* 1 HS đọc, cả lớp theo dõi.


+ Về nhận thức: Nhận biết được
mọi âm thanh trong cuộc sống.
+ Nhận ra bi kịch trong cuộc đời
của mình và sợ cơ đơn, cơ độc
đối với Chí Phèo “ cơ độc cịn
đáng sợ hơn đói rét và ốm đau”.
+ Về ý thức: Chí Phèo thèm
lương thiện và muốn làm hịa với
mọi người.
- Hình ảnh bát cháo hành là hình
ảnh độc đáo, chân thật và giàu ý
nghĩa:
+ Lần đầu tiên và cũng là lần
cuối cùng Chí được ăn trong tình
u thương và hạnh phúc.
=> Chí Phèo đã hồn tồn thức
tỉnh, Chí đang đứng trước tình
huống có lối thốt là con đường
trở về với cuộc sống của một con
người. Cái nhìn đầy chiều sâu
nhân đạo của nhà văn.

d. Bi kịch bị cự tuyệt:
- Nguyên nhân: do bà cô Thị Nở
không cho Thị lấy Chí Phèo →
định kiến của xã hội .
- Diễn biến tâm trạng của Chí
Phèo:
+ Lúc đầu: Chí ngạc nhiên trước
thái độ của Thị Nở

+ Sau Chí hiểu ra mọi việc: ngẩn
người, nắm lấy tay Thị Nở, bị
Thị Nở xơ ngã, Chí thấy hơi cháo
hành, nhưng lại tuyệt vọng, Chí
uống rượu và khóc “rưng rứt”,
xách dao đên nhà Bá Kiến đâm
chết Bá Kiến và tự sát.
- Ý nghĩa hành động đâm chết
13


Nhóm 3 :
- Thị Nở từ chối Chí Phèo là vì nghe theo lời
bà cơ. Và ngun nhân bà cơ khơng cho Thị
lấy Chí Phèo chỉ bởi vì hắn là “cải thằng
không cha”, là “kẻ chuyên rạch mặt ăn vạ”.
Như vậy, chính cái định kiến khắt khe của
làng Vũ Đại đã thiêu rụi niềm hy vọng cuối
cùng và dồn đuổi Chí Phèo vào bước đường
cùng.
- Diễn biến tâm lý của Chí Phèo khi bị Thị
Nở từ chối. Khơng tin, cười và lắc lư cái đầu.
+Ngẩn người, ngẩn mặt, sửng sốt, níu Thị Nở
lại. Uất ức, tuyệt vọng, uống rượu cho say
nhưng càng uống càng tỉnh. Ơm mặt khóc
rưng rức. Cầm dao đi trả thù.
Nhóm 4 :
- Lúc cầm dao đi trả thù, đầu tiên Chí Phèo
trỏ vào nhà Thị Nở, nhưng bước chân xệch
xạc lại đưa hắn đến nhà Bá Kiến. Có lẽ, hắn

lờ mờ nhận ra kẻ thù của hắn là Bá Kiến, kẻ
đã bám riết, đeo đuổi, can thiệp vào đời hắn
hàng chục năm và biến hắn thành một kẻ lưu
manh, gây tội ác đến nỗi “không thể làm
người lương thiện được nữa”.
- Tiếng kêu của Chí Phèo trước khi giết Bá
Kiến và tự sát là tiếng kêu đau đớn của sự
thức tỉnh, của khát vọng chân chính, đưa Chí
Phèo về đến ngưỡng cửa cuộc đời.
+ Chí Phèo giải thoát bằng cách trả thù và tự
sát. Điều này khơng mang tính bi quan, bởi
Nam Cao khơng phải là nhà văn Cách mạng
mà là một nhà văn hiện thực. Cái chết của
Chí Phèo mang yếu tố tiêu cực, nhưng đó
chính là bản án tố cáo xã hội thực dân nửa
phong kiến.
+ Tao muốn làm người lương thiện!Tiếng kêu
tuyệt vọng của người cùng đường, đó cũng là
lời cầu cứu của con người bị cự tuyệt quyền
làm người.
+Ai cho tao lương thiện? Một sự thật phũ
phàng và vô cùng đớn đau của một Con
Người mà lại không được làm người.
+ Tao không thể là người lương thiện
nữa.Lời xác nhận sự thật.
Bước 4: GV nhận xét, chốt kiến thức

Bá Kiến và tự sát của Chí:
+ Đâm chết Bá Kiến là hành
động lấy máu rửa thù của người

nông dân thức tỉnh về quyền
sống.
+ Cái chết của Chí Phèo là cái
chết của con người trong bi kịch
đau đớn trên ngưỡng cửa trở về
cuộc sống làm người.

14


Bước 1: GV giao nhiệm vụ
- Nêu những nghệ thuật đặc sắc của tác
phẩm?
+ Em có nhận xét gì về nghệ thuật miêu tả
tâm lí nhân vật của Nam Cao?
+ Em có nhận xét gì về nghệ thuật xây dựng
kết cấu truyện?
+ Trình tự thời gian được tác giả sắp xếp
như thể nào? Hình ảnh “cái lị gạch cũ bỏ
hoang” xuất hiện ở đầu và kết thúc câu
chuyên đã nói lên điều gì?
Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ
Bước 3: HS báo cáo kết quả thực hiện
HS trả lời:
- Nam Cao sở trường về miêu tả tâm lí nhân
vật; có khả năng đi sâu vào nội tâm diễn tả
những diễn biến tâm lí phức tạp của nhân vật.
- Việc xáo trộn trình tự thời gian đã tạo nên
sự phóng khống trong cách dựng truyện, đặc
biệt là tạo nên sức hấp dẫn, gây sự chú ý và

hứng thú theo dõi liên tục cho người đọc.
Hình ảnh “cải lị gạch cũ bỏ hoang” xuất hiện
ở đầu và kết thúc tác phẩm gọi là kết cấu
vòng, giúp người đọc đào sâu thêm tầng
nghĩa mà nhà văn muốn gửi gắm: Chừng nào
còn tồn tại một xã hội kiểu làng Vũ Đại, còn
kiểu người như Bá Kiến thì chừng ấy sẽ cịn
kiểu người như Chí Phèo.
- Ngôn ngữ truyện: tác giả đan xen lời nhân
vật và lời người kể chuyện. Điều này giúp
cho nhà văn dễ dàng lách sâu vào thế giới nội
tâm phức tạp và tinh tế của nhân vật.
Bước 4: GV nhận xét, chốt kiến thức
GV yêu cầu HS
- So sánh bi kịch của Chỉ Phèo và bi kịch
của Chị Dậu ở “Tẳt đèn”- Ngơ Tất Tổ) để
làm rõ tỉnh điển hình tha hóa ở nhân vật
Chí Phèo.
- Qua bài học, em hãy rút ra ý nghĩa của tác
phẩm?
- Thông điệp mà nhà văn gửi gắm cho
chúng ta là gì? Tư tưởng nhân đạo sâu sắc,
mới mẻ của Nam Cao trong truyện ngắn
này?
* Tổng kết bài học theo những câu hỏi của

4. Nghệ thuật:
- Xây dựng nhân vật điển hình
trong hồn cảnh điển hình. Nghệ
thuật miêu tả tâm lí nhân vật sắc

sảo.
- Ngơn ngữ giản dị, diễn đạt độc
đáo.
- Kết cấu truyện mới mẻ, tưởng
như tự do nhưng lại rất chặt chẽ,
lôgic.
- Cốt truyện và các tình tiết hấp
dẫn, biến hóa giàu kịch tính.

5. Ý nghĩa văn bản:“ Chí Phèo”
tố cáo mạnh mẽ xã hội thuộc địa
phong kiến tàn bạo đã cướp đi
nhân hình lẫn nhân tính của
người nơng dan lương thiện đồng
thời nhà văn phát hiện và khẳng
định bản chất tốt đẹp của con
người ngay cả khi học đã biến
thành quỷ dữ.
III. Tổng kết:

15


GV. Qua truyện ngắn, Nam Cao muốn khái
quát lên một hiện tượng xã hội ở nông thôn
Việt Nam trước cách mạng
- Một bộ phận nông dân lao động lương thiện
bị đẩy vào con đường tha hoá, lưu mạnh hoá.
- Kết án đanh thép tàn bạo xã hội, đồng thời
phát hiện và ca ngợi bản chất lương thiện của

họ => Tác phẩm có giá trị hiện thực và giá trị
nhân đạo sâu sắc
3. HOẠT ĐỘNG LUYỆN TẬP
Hoạt động của GV - HS

Kiến thức cần đạt

GV giao nhiệm vụ
ĐÁP ÁN
Câu hỏi 1
[1]='b'
Dòng nào dưới đây điền vào sau bởi vì để có [2]='a'
một cắt nghĩa đúng nhất? Trong truyện ngắn
Chí Phèo, Năm Thọ, Binh Chúc , Chí Phèo,
…đều là nạn nhân của Bá Kiến và xã hội làng
Vũ Đại, nhưng chỉ có Chí Phèo mới thật sự là
một tính cách bi kịch. Bởi vì:
a. Chí Phèo là nhân vật chịu nhiều thiệt thịi,
khốn khổ nhất .
b. Chí Phèo là người tự ý thức được tình
cảnh, số phận bi đát của mình.
c. Chí Phèo là kẻ bị từ chối quyền làm người
phũ phàng nhất.
d. Chí Phèo là người có số phận kết cuộc bi
thảm nhất.
Câu hỏi 2: Nhân vật Chí Phèo một mặt tự
đắc xem mình là “anh hùng” làng Vũ Đại,
mặt khác lại thấy mình “chỉ mạnh vì liều”. Đó
là hai mặt của một q trình phát triển tính
cách, tâm lí nhân vật.

Dịng nào sau đây khơng đúng về bản chất
của q trình đó?
a. Từ tự tơn đến tự ti.
b. Từ ảo tưởng, hão huyền đến tự ý thức.
c. Từ mê muội đến tỉnh táo.
d. Từ sự tha hóa về lại với chính mình.
4. HOẠT ĐỘNG VẬN DỤNG
Hoạt động của GV - HS
Kiến thức cần đạt
Bước 1: GV giao nhiệm vụ
1. Phương thức tự sự
Đọc đoạn văn sau: Hắn vừa đi vừa 2. Tác giả đã sử dụng rất nhiều kiểu câu
chửi….Có trời mà biết! Hắn không
khác nhau: Câu trần thuật (câu kể, câu
16


biết, cả làng Vũ Đại cũng không ai
biết…
1. Đoạn văn trên sử dụng phương
thức biểu đạt nào là chính?
2.Tác giả đã sử dụng những kiểu câu
nào?
3.Trong văn bản trên, Chí Phèo đã
chửi những ai? Tiếng chửi của
Chí có ý nghĩa gì?
4. Nêu 2 thành phần nghĩa trong câu
sau:…hắn cứ thế mà chửi, hắn cứ
chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân
hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo

Bước 2: HS thực hiện nhiệm vụ
Bước 3: HS báo cáo kết quả thực
hiện
Bước 4: GV nhận xét, chốt kiến
thức

miêu tả), câu hỏi (câu nghi vấn), câu cảm
thán.
3. Chí Phèo chửi trời, chửi đời, chửi cả
làng Vũ Đại, chửi cha đứa nào không chửi
nhau với hắn, chửi đứa chết mẹ nào đã đẻ
ra thân hắn. Tiếng chửi của Chí Phèo đã
tạo ra một màn ra mắt độc đáo cho nhân
vật, gợi sự chú ý đặc biệt của người đọc
về nhân vật. Tiếng chửi ấy vừa gợi ra một
con người tha hóa đến độ lại vừa hé lộ bi
kịch lớn nhất trong cuộc đời nhân vật
này.. Không ai thèm quan tâm, không ai
thèm ra điều. Chí khao khát được giao
hịa với đồng loại, dù là bằng cách tồi tệ
nhất là mong được ai đó chửi vào mặt
mình, nhưng cũng khơng được.
4. Nghĩa sự việc: nói về hành động của
Chí :hắn cứ thế mà chửi, hắn cứ chửi đứa
chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái
thằng Chí Phèo
Nghĩa tình thái: thể hiện thái độ của Nam
Cao khi miêu tả nhân vật: bề ngồi thì
dửng dưng lạnh lùng nhưng trong sâu
thẳm là sự cảm thông thương xót.

5. HOẠT ĐỘNG TÌM TỊI, MỞ RỘNG.
Hoạt động của GV - HS
Kiến thức cần đạt
Hoạt động 1 : GV giao nhiệm vụ
- Đọc và so sánh với văn
- Tìm đọc tồn bộ truyện Chí Phèo
bản trong SGK
- Dựng kịch đoạn Chí Phèo đến nhà Bá Kiến lần
- Truy cập mạng để ghi
cuối.
lại các bài thơ ( như bài
Hoạt động 2: Tổ chức trò chơi
Trăng nở nụ cười)
+ Thời gian: 10 phút
- Lên kế hoạch và thực
+ Cách tiến hành: Chia lớp thành 2 đội. Một đội hỏi, hiện sân khấu hoá.
một đội trả lời.
+ Nội dung: Hỏi đáp về cái chết của Chí Phèo và GV sẽ tính điểm theo tiêu
đoạn kết của tác phẩm.
chuẩn: Mỗi đội hỏi trong
- Bạn có suy nghĩ gì về cái chết của Chí Phèo? Nếu 5 phút, trả lời trong 5
bạn là tác giả, bạn có để Chí Phèo chết khơng? Vì phút. Mỗi câu hỏi được
sao?
tính 1 điểm. Mỗi câu trả
- Hình ảnh “Thị Nở nhìn nhanh xuống bụng” và lời được tính 2 điểm. Sau
“thống trong óc Thị hiện ra cái lị gạch cũ” có ý đó, giáo viên tổng kết và
nghĩa như thế nào?
trao thưởng cho đội chiến
- Sau khi Chí Phèo chết, dân làng đã bình luận gì? Ý thắng.
nghĩa của những lời bình luận đó” Nếu bạn là một

17


người dân ở làng Vũ Đại, bạn sẽ nghĩ như thế nào?
Đối xử với Chí Phèo ra sao?
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, đối với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
2.4.1. Đối với giáo viên
Sau khi áp dụng việc đổi mới kĩ thuật đặt câu hỏi trong giờ dạy học tác
phẩm văn chương, người viết nhận thấy các giờ học thành công hơn. Việc tổ
chức hoạt động học tập trở nên khoa học hơn. Các hoạt dộng dạy học trở nên lôi
cuốn, hấp dẫn học sinh hơn. Khi giáo viên giao nhiệm vụ học tập, học sinh hào
hứng đón nhận và hợp tác. Các em tỏ ra hứng thú với các nhiệm vụ của mình.
Từ đó đối thoại giữa giáo viên và học sinh khơng cịn một chiều mà đã có sự
tương tác tốt…Bên cạnh đó, người viết nhận thấy, mình cũng thêm hướng thú
sau mỗi hoạt động dạy học, bớt đi sự mệt mỏi, chán nản vì những giờ học độc
thoại một chiều như trước đây. Tình yêu nghề và trách nhiệm trước học sinh vì
thế cũng được bồi đắp thêm.
2.4.2. Đối với học sinh
a, Đánh giá định tính
- Khi cịn sử dụng kĩ thuật đặt câu hỏi theo kiểu truyền thống, đa số học sinh đều
thụ động trong việc lĩnh hội kiến thức. Ở những lớp khơng có nhân tố tích cực,
các em rất nhiều em chống chế việc chuẩn bị bài mới bằng cách chép lại phần
trả lời theo sách để học tốt, mà không đọc văn bản nên thường khơng chủ động
suy nghĩ và tìm hiểu văn bản. Ở những lớp có nhân tố tích cự thì khi giáo viên
đặt câu hỏi, học sinh sẽ trả lời bằng cách nhìn vào vở soạn đã chép để đọc lại…
- Sau khi áp dụng việc đổi mới kĩ thuật đặt câu hỏi:
+ Học sinh hứng thú hơn, tích cực phát biểu hơn, kể cả những học sinh trước đó
rất trầm, ít nói. Giờ học sơi nổi, hứng thú theo hướng đối thoại.
+ Học sinh nhớ bài lâu hơn bởi đó là khám phá, phát hiện của chính các em. Có

những ý kiến rất sáng tạo, độc đáo. Từ đó, giờ văn khơng cịn nặng nề, mệt mỏi
và nhàm chán. Kết quả học tập của học sinh dần tiến bộ.
+ Các bài kiểm của các em khơng cịn lệ thuộc các tài liệu tham khảo, tình trạng
chép bài, làm việc chống đối giảm dần. Đặc biệt điểm kiểm tra miệng trên lớp
của các em đều khá cao. Đây thực sự là điều khiến người viết cảm thấy rất vui
mừng.
b, Đánh giá định định lượng
+ Ví dụ: Sau bài học về tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao.
* Giáo viên đã làm một thăm dò nhanh để khảo sát độ hứng thú với giờ học của
học sinh.
* Đồng thời khảo sát độ hiểu bài của học qua bài kiển tra thường xuyên số 3.
*Trong đó, lớp thực nghiệm là 11B11, lớp đối chứng là lớp 11B8.
Kết quả như sau:

Bảng 1: Mức độ hứng thú với bài học
18


Mức độ
Rất hứng
Hứng thú
Bình thường
Khơng hứng
Đối tượng
thú
thú
Nhóm
thực
30%
50%

20%
0%
nghiệm(11B11)
Nhóm
đối
5%
35%
50%
10%
chứng(11B8)
Bảng 2: Mức độ hiểu bài (Qua bài kiểm tra thường xuyên số 3 – học kì 1)
Mức độ
Điểm giỏi
Điểm khá
Điểm TB
Điểm yếu
Đối tượng
kém
Nhóm thực nghiệm
6
17
13
2
(11B11- 38 hs)
(15,8%)
(44,7)%
(34,2%)
(5,2%)
Nhóm đối chứng
3

12
21
5
(11B8 - 41 hs)
(7,3%)
(29,3%)
(51,2%)
(12,2%)
Bảng 3: Kết quả điều tra chất lượng học sinh trước khi thực nghiệm ở 2 lớp
(Năm học: 2019-2020)
Lớp
Kết quả theo loại
G
%
K
%
TB
%
Y
%
10B8: Sĩ số 41
1
2,4 % 17 41,5% 20
48,8% 3
7,3 %
10B11:Sĩ số: 38 4
10,5% 17 44,7% 15
39,5% 2
5,3%
Bảng 4: Kết quả thống kê chất lượng học sinh sau khi thực nghiệm

(điểm tổng kết môn Ngữ văn năm học 2020-2021)
Lớp
Kết quả theo loại
G
%
K
%
TB
%
Y
%
11B8: Sĩ số 41
5
12,2 % 25 61%
11
26,8% 0
0%
11B11: Sĩ số: 38 8
21,1% 20 52,6% 9
23,7% 1
2,6%
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
Trong khi dạy học và áp dụng đề tài, người viết nhận thấy tình trạng học
sinh khơng hứng thú với mơn văn đang diễn ra rất phổ biến, có rất nhiều nguyên
nhân nhưng không phải là không thể khắc phục. Đặc biệt người giáo viên phải
không được bi quan, buông xi mà phải tin tưởng vào học sinh của mình.
Hệ thống câu hỏi là vấn đề phức tạp và tùy theo thực tiễn, giáo viên phải
căn cứ vào từng lớp học, tùy từng đối tượng học sinh để thay đổi cho phù hợp.
Giáo viên nên có những hình thức khuyến khích các em. Cho điểm thưởng, cộng

điểm vào các bài kiểm tra với những câu hỏi khó, mang tính sáng tạo. Một lưu ý
nữa là giáo viên phải khéo léo khi điều khiển thảo luận, tránh tình trạng lan man
hoặc tranh cãi căng thẳng. Sau mỗi câu hỏi đã có câu trả lời, giáo viên chốt lại
để học sinh đễ nắm bài, nhưng không áp đặt theo ý kiến chủ quan của cá nhân.
Đề tài chỉ là một cố gắng nhỏ bé của người viết với mong muốn góp phần
làm cho công việc dạy học văn trong nhà trường phổ thông trở nên thú vị hơn.
Tất nhiên đây là một cơng việc vơ cùng phức tạp và khó khăn. Hệ thống câu hỏi
cũng là một vấn đề lớn cần được nghiên cứu và chú ý nhiều hơn.
3.2.

Kiến nghị
19


3.2.1 Đối với giáo viên:
- Cần tích cực đổi mới phương pháp dạy học nhằm khắc sâu kiến thức, phát huy
năng lực tư duy sáng tạo của học sinh, sau mỗi tiết dạy cần có sự rút kinh
nghiệm, hướng điều chỉnh cho các tiết tiếp theo nhằm giúp các em hứng thú học
tập, tích cực hợp tác với các thầy cô hơn, hiểu bài hơn, tự giác học bài hơn và
say mê nghiên cứu mơn tốn hơn .
- Phải lựa chọn các kĩ thuật đặt câu hỏi để tăng hứng thú cho học sinh, đồng thời
cần kết hợp với tổ nhóm chun mơn để tổ chức nhiều buổi ngoại khóa, nhiều
buổi thảo luận theo những chủ đề văn học gần gũi, thú vị để học sinh có cơ hội
trình bày quan điểm, ý kiến của mình, tự tin hơn trước đám đông, hứng thú với
các vấn đề văn học hơn.
3.2.2. Đối với nhà trường:
- Nhà trường nên khuyến khích tổ nhóm và các câu lạc bộ, cùng với đồn trường
tạo ra những hoạt động ngoại khóa, những sân chơi văn học để học sinh có điều
kiện bộc lộ, phát triển năng lực của mình hơn.
- Cần có sự quan tâm, động viên và tạo điều kiện hơn nữa trong phong trào đổi

mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá học sinh, viết và áp dụng sáng kiến
kinh nghiệm.
3.3.3. Đối với Sở Giáo dục và Đào tạo:
- Người viết hi vọng giáo viên giảng dạy bộ môn Ngữ văn ở các trường trung học
phổ thông sẽ được tạo nhiều cơ hội được học các lớp chuyên đề bồi dưỡng các kĩ
năng dạy học, trong đó đặc biệt là kĩ năng ra đề kiểm tra đánh giá, kĩ năng xây
dựng câu hỏi tích cực, gợi mở trong giờ dạy, hướng dẫn cụ thể phương pháp dạy
học nêu vấn đề, thiết lập các tình huống và các câu hỏi có vấn đề… Từ đó sẽ có
nhiều cơ hội giao lưu, học hỏi, chia sẻ…để việc dạy văn đạt hiệu quả cao hơn.
Người viết vì kinh nghiệm cịn ít, vấn đề mà đề tài hướng tới lại là vấn đề
rất phức tạp nên chắc chắn sáng kiến kinh nghiệm còn rất nhiều thiếu xót và có
nhiều ý kiến cần thảo luận sâu hơn. Người viết rất mong nhận được ý kiến góp
ý, phản hồi của hội đồng khoa học, của các đồng nghiệp để sáng kiến được hoàn
thiện hơn.
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Quảng Xương II, ngày 20 tháng 5 năm 2021
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
khơng sao chép nội dung của người khác
Người viết
Nguyễn Thị Ngân

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chuyên đề Văn bản văn học và đọc hiểu văn bản, Tài liệu Tập huấn phát triển
môn chuyên cho giáo viên các trường THPT Chuyên (tài liệu lưu hành nội bộ).
2. Sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập 1,2. NXB Giáo dục 2006.

3. Sách giáo khoa Ngữ văn 12, tập 1,2. NXB Giáo dục 2006.
4. Sách Giáo viên Ngữ văn 11, tập 1,2. NXB Giáo dục 2006.
5. Sách Giáo viên Ngữ văn 12, tập 1,2. NXB Giáo dục 2006.
6. Kiểm tra, đánh giá thường xuyên và định kì mơn Ngữ văn 11, tập 1,2. NXB
Giáo dục 2008.
7. Kiểm tra, đánh giá thường xuyên và định kì môn Ngữ văn 12, tập 1,2. NXB
Giáo dục 2008.
8. Thuchanhsupham.dnpu.edu.vn.
9. Phương pháp dạy học văn. Nguyễn Văn Bồng chủ biên.
10. Dạy văn và vấn đề cải tiến phương pháp dạy văn trong các trường THCS,
THPT. Nhiều tác giả
11. Nguồn tài liệu trong tập huấn chương trình GDPT 2018 và nguồn tài liệu
trên internet cùng một số tài liệu tham khảo khác.


PHỤ LỤC 1
THĂM DÒ MỨC ĐỘ HỨNG THÚ CỦA HỌC SINH SAU GIỜ HỌC
TÁC PHẨM CHÍ PHÈO CỦA NHÀ VĂN NAM CAO
Lớp:……….Trường:……………………………………………………………
Em hãy cho biết ý kiến của mình bằng cách đánh dấu X vào ô tương ứng với ý
kiến muốn trả lời.
Câu 1: Sự hứng thú của em với các hoạt động trong giờ học?
Các hoạt động
Rất hứng
thú

Mức độ hoạt động
Hứng
Bình
thú


Khơng

thường

hứng thú

1. Hoạt động khởi động giờ học
2. Hoạt động đọc sách giáo khoa và
tìm dẫn chứng
3. Hoạt động trả lời câu hỏi của
giáo viên
4. Hoạt động đặt câu hỏi cho giáo
viên
5. Hoạt động thảo luận nhóm
6. Hoạt động làm bài tập luyện tập
7. Hoạt động tổ chức trò chơi cuối
giờ học
Câu 2: Sự hứng thú của em với các nội dung đọc-hiểu trong giờ học
Các hoạt động

Mức độ hoạt động
Rất hứng Hứng

Bình

Khơng

thú


thường

hứng thú

thú

8. Hoạt động tìm hiểu về làng Vũ
Đại và nhân vật Bá Kiến
9. Hoạt động tìm hiểu cuộc đời
nhân vật Chí Phèo.
10. Hoạt động tìm hiểu về đặc sắc
nghệ thuật của nhà văn Nam Cao
trong tác phẩm
PHỤ LỤC 2
ĐỀ KIỂM TRA THƯỜNG XUYÊN SỐ 3. NĂM HỌC: 2020 - 2021
Môn: Ngữ văn 11
Thời gian làm bài: 45 phút


(Khơng kể thời gian phát đề)
ĐỀ BÀI:
Em hãy phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Chí Phèo (trong truyện ngắn Chí
Phèo của Nam Cao) từ buổi sáng sau khi gặp thị Nở đến trước khi bị thị Nở cự
tuyệt tình cảm để làm rõ tư tưởng nhân đạo sâu sắc và mới mẻ của nhà văn.
ĐỊNH HƯỚNG BÀI LÀM
Yêu cầu kĩ năng: HS thể hiện được kĩ năng viết bài văn nghị luận văn học,
khơng mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu…
Yêu cầu kiến thức: Đảm bảo được các yêu cầu về kiến thức như sau:
- Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, nhân vật
- Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc, nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn của văn

học Việt Nam hiện đại.
- Truyện ngắn Chí Phèo là một kiệt tác của Nam Cao, viết về đề tài người nông
dân nghèo, là kết tinh khá đầy đủ cho nghệ thuật Nam Cao. Với ngòi bút hiện
thực sâu sắc và tấm lòng nhân đạo cao cả của mình, Nam Cao đã tập trung xây
dựng hình tượng nhân vật Chí Phèo, người nơng dân lương thiện bị tha hóa
nhưng đã thức tỉnh và khao khát được hoàn lương Phần truyện thể hiện tâm
trạng của nhân vật Chí Phèo từ khi gặp Thị Nở đã tập trung thể hiện tư tưởng
nhân đạo sâu sắc và mới mẻ của nhà văn.
- Vài nét về cuộc đời Chí Phèo trước khi gặp thị Nở, ( HS trình bày ngắn
gọn)
+ Lai lịch: Con hoang.
+ Tuổi ấu thơ: Là một thứ hàng hóa, có thể cho đi, bán lại…
+Trưởng thành: là công cụ làm giàu và thỏa mãn nhục dục cho ơng chủ, bà
chủ…
Tính cách hiền lành, lương thiện, có ý thức nhân phẩm, có mơ ước đáng quý…
+ Đi tù về: Chí Phèo trở thành một kẻ lưu manh cơn đồ với diện mạo gớm
ghiếc và tính cách ngang ngược, lỳ lợm.
+ Qua bàn tay nhào nặn của Bá Kiến: Chí mang cái mặt của một con vật và
tính cách hung hãn, điên cuồng…Hắn trở thành con quỷ dữ và bị gạt ra ngồi lề
xã hội.
- Q trình hồi sinh
Trước hết là sự thức tỉnh. Bắt đầu là tỉnh rượu, sau đó mới tỉnh ngộ.
+ Tỉnh rượu: những cảm nhận về khơng gian (căn lều của mình), về cuộc sống
xung quanh (những âm thanh hằng ngày của cuộc sống) và về tình trạng thê
thảm của bản thân (già nua, cô độc, trắng tay).
+ Tỉnh ngộ: Được thị Nở chăm sóc thì cảm động trước tình người. Chí nhận ra
thực tế đau lịng là mình chưa từng được chăm sóc như thế. Chú ý phân tích chi
tiết bát cháo hành và Chí Phèo khóc. Cần thấy đó là những dấu hiệu của nhân
tính bị vùi lấp đang trở về.



×