Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Một số biện pháp giáo dục hành vi có văn hóa cho trẻ mẫu giáo lớn trong hoạt động khám phá khoa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (945.2 KB, 80 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC – MẦM NON
----------

NGUYỄN THỊ LUYẾN

Một số biện pháp giáo dục hành vi có văn hóa
cho trẻ mẫu giáo lớn trong hoạt động khám
phá khoa học

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cuộc sống của con người là một tổng thể những hành vi có văn hóa. Giáo dục hành
vi có văn hóa cho trẻ khơng chỉ quan tâm đến hình thái bên ngồi như cử chỉ, điệu bộ, lời
nói mà cái cốt lõi hình thái bên trong ý thức đạo đức làm động cơ thúc đẩy hành vi. Đó là
một hành vi có văn hóa được tốt lên từ một tấm lịng trong sáng, biết quan tâm đến mọi
người xung quanh, thế giới xung quanh. Nó khơng phải bẩm sinh tự nhiên có mà phải trải
qua một quá trình giáo dục lâu dài. Sự hình thành hành vi có văn hóa ở mỗi con người cần
phải bắt đầu ngay từ lúc còn bé. Vậy, ngay từ lứa tuổi mầm non, trẻ cần được giáo dục
hành vi có văn hóa để tạo nền tảng cho sự phát triển phẩm chất đạo đức, nhân cách tốt.
Sự phát triển của xã hội hiện nay địi hỏi có con người thích ứng với nó. Đó chính
là những con người có hành vi văn hóa. Trong sự nghiệp đổi mới, giáo dục mầm non giữ
một vị trí đặc biệt quan trọng: “ Giáo dục mầm non góp phần đặt cơ sở ban đầu cho việc
hình thành các phẩm chất mới của con người Việt Nam trong giai đoạn công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước: Chủ động, thích ứng, sáng tạo, hợp tác”. Với mục tiêu phát triển


một số giá trị, nét tính cách, phẩm chất cần thiết phù hợp với lứa tuổi như: mạnh dạn, tự
tin, độc lập, sáng tạo, tự giác, đồn kết, chia sẻ, hình thành nếp sống văn minh, có hành vi
ứng xử, giao tiếp theo qui tắc, chuẩn mực phù hợp từng lứa tuổi, đồng thời tạo điều kiện
cho trẻ tham gia vào cuộc sống, chuẩn bị học tập ở tiểu học và các bậc học sau này có kết
quả tốt thì giáo dục hành vi có văn hóa trở thành mục tiêu quan trọng của mầm non nước
ta.
Việc trang bị cho trẻ những tri thức khoa học và một nhân cách toàn diện để theo
kịp thời đại là một việc làm vô cùng quan trọng, trong đó hoạt động khám phá khoa học là
một phương tiện có ý nghĩa đặc biệt đối với sự phát triển toàn diện nhân cách trẻ. Hoạt
động khám phá khoa học là một môi trường thuận lợi để giáo dục, phát triển hành vi có
văn hóa của trẻ mẫu giáo lớn. Nó giúp trẻ có tâm hồn trong sáng, có lịng nhân ái, tình u
đối với những người thân, với bạn bè, có lịng kính trọng đối với người lao động, biết yêu
lao động, trân trọng và giữ gìn sản phẩm lao động, yêu quý bảo vệ thiên nhiên. Bước đầu

2


trẻ có lối sống văn minh trong giao tiếp và sinh hoạt, chấp hành nghiêm chỉnh các quy
định trong xã hội.
Tuy nhiên, hiện nay ở các trường mầm non, vấn đề giáo dục hành vi có văn hóa
cho trẻ mẫu giáo lớn trong hoạt động khám phá khoa học còn rất mờ nhạt, ít được các
giáo viên để ý tới. Thông qua hoạt động này, giáo viên chủ yếu quan tâm đến dạy tri thức
khoa học chứ chưa thực sự chú trọng đến việc giáo dục hành vi có văn hóa trong tiết học.
Điều đó cho thấy, giáo dục hành vi có văn hóa cho trẻ mẫu giáo lớn là vấn đề quan trọng
và cấp thiết.
Cũng là chưa quá muộn nếu các nhà quản lý nhìn lại mục tiêu của giáo dục mầm
non. Và cần phải giáo dục hành vi có văn hóa, những phẩm chất đạo đức cho trẻ ngay từ
bây giờ. Bởi độ tuổi mẫu giáo lớn (5 – 6 tuổi) là giai đoạn cuối cùng của trẻ em lứa tuổi
mầm non, nó nối tiếp tất cả những thành tựu đã có trước đây, kể cả mặt tốt cũng như mặt
còn non yếu trong hành vi và sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Đối với trẻ mẫu giáo lớn,

giáo dục được hành vi có văn hóa trong hoạt động khám phá khoa học là điều kiện giúp
các em hình thành và phát triển nhân cách, đồng thời đó cũng là sự chuẩn bị khá tốt cho
các em bước vào trường tiểu học. Chẳng thế mà Macarenco - nhà giáo dục học Xơ Viết vĩ
đại đã nói : “ Những gì khơng có được ở trẻ 5 tuổi thì sau này khó có thể hình thành và sự
hình thành nhân cách ban đầu lệch lạc thì giáo dục lại rất khó khăn”.
Vậy cần phải giáo dục hành vi có văn hóa cho trẻ mẫu giáo lớn như thế nào là
đúng, là hợp lý ? Chất lượng và hiệu quả ra sao ? Và làm thế nào để giáo dục hành vi có
văn hóa cho trẻ để đem lại kết quả cao nhất. Để trả lời những câu hỏi đó, chúng tơi đã
chọn đề tài “ Một số biện pháp giáo dục hành vi có văn hóa cho trẻ mẫu giáo lớn trong
hoạt động khám phá khoa học”.
2. Mục đích nghiên cứu :
Tìm hiểu mức độ biểu hiện hành vi có văn hóa của trẻ mẫu giáo lớn thơng qua hoạt
động khám phá khoa học; các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi có văn hóa của trẻ mẫu giáo
lớn trong hoạt động khám phá khoa học, trên cơ sở đó đề xuất và thực nghiệm một số

3


biện pháp nhằm giáo dục hành vi có văn hóa của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi thông qua hoạt
động này.
3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ nghiên cứu một số biểu hiện cơ bản của hành vi có văn hóa ở trẻ mẫu
giáo lớn trong tiết học khám phá khoa học.
Trẻ mẫu giáo lớn tại trường Mầm non 19/5 trên địa bàn quận Hải Châu – thành phố
Đà Nẵng.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu :
Quá trình hoạt động khám phá khoa học cho trẻ ở trường mầm non.
4.2. Đối tượng nghiên cứu :
Một số biện pháp giáo dục hành vi có văn hóa cho trẻ mẫu giáo lớn thơng qua hoạt

động khám phá khoa học.
5. Giả thuyết khoa học
Hoạt động khám phá khoa học có mối quan hệ mật thiết với việc giáo dục hành vi
có văn hóa cho trẻ mẫu giáo lớn. Nếu áp dụng một số biện pháp tích cực thì sẽ góp phần
giáo dục hành vi có văn hóa từ đó nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức nói chung và hình
thành ở trẻ thái độ sống có văn hóa trong mơi trường xung quanh.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
6.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận liên quan đến đề tài.
6.2. Nghiên cứu thực tiễn nhằm khảo sát mức độ biểu hiện hành vi có văn hóa của
trẻ mẫu giáo lớn thông qua hoạt động khám phá khoa học.
6.3. Đề xuất và thực nghiệm một số biện pháp tác động nhằm giáo dục hành vi có
văn hóa cho trẻ mẫu giáo lớn thông qua hoạt động khám phá khoa học.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Phân tích, tổng hợp và hệ thống hóa các vấn đề lý luận liên quan đến hành vi có
văn hóa của trẻ .
4


7.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp quan sát :
Quan sát biểu hiện hành vi có văn hóa của trẻ mẫu giáo lớn thơng qua hoạt động
khám phá khoa học, thực trạng việc sử dụng các biện pháp nhằm tổ chức hoạt động khám
phá khoa học cho trẻ mẫu giáo lớn.
7.2.2. Phương pháp điều tra bằng Anket :
Sử dụng bảng câu hỏi nhằm tìm hiểu nhận thức của giáo viên mầm non và các cán
bộ quản lý trường mầm non về đặc điểm, vai trò của hoạt động khám phá khoa học và các
biện pháp tổ chức khám phá khoa học nhằm giáo dục hành vi có văn hóa cho trẻ mẫu giáo
lớn.
7.2.3. Phương pháp đàm thoại :

Trao đổi và tìm hiểu ý kiến của cán bộ quản lý, giáo viên trường mầm non và phụ
huynh về các vấn đề có liên quan đến việc tổ chức các hoạt động khám phá khoa học
nhằm giáo dục hành vi có văn hóa cho trẻ mẫu giáo lớn.
7.2.4. Phương pháp thực nghiệm :
Thử nghiệm một số tác động nhằm giáo dục hành vi có văn hóa của trẻ mẫu giáo
lớn thông qua hoạt động khám phá khoa học.
So sánh đối chiếu mức độ biểu hiện hành vi có văn hóa của trẻ mẫu giáo lớn trong
hoạt động khám phá khoa học trước và sau thực nghiệm trên nhóm đối chứng và nhóm
thực nghiệm.
7.3. Phương pháp thống kê tốn học
Xử lý và phân tích các số liệu thu thập trong q trình nghiên cứu.
8. Những đóng góp mới của đề tài
8.1. Về lý luận
Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về hành vi văn hóa của trẻ mẫu giáo lớn trong
hoạt động khám phá khoa học.
8.2. Về thực tiễn

5


Xây dựng một số biện pháp giáo dục hành vi có văn hóa cho trẻ mẫu giáo lớn trong
hoạt động khám phá khoa học. Qua đó, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục mầm non
và phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ mầm non.
9. Cấu trúc của luận văn
Phần mở đầu
Phần nội dung
Chương 1 : Cơ sở lý luận của đề tài
Chương 2 : Thực trạng giáo dục hành vi có văn hóa của trẻ mẫu giáo lớn trong
hoạt động khám phá khoa học.
Chương 3 : Thực nghiệm một số biện pháp giáo dục hành vi có văn hóa cho trẻ

mẫu giáo lớn trong hoạt động khám phá khoa học.
Phần kết luận
Kết luận và kiến nghị sư phạm
Tài liệu tham khảo
Phụ lục

6


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề giáo dục hành vi có văn hóa cho trẻ mẫu giáo
Lứa tuổi mầm non là giai đoạn kì diệu nhất trong cuộc đời của mỗi con người.
Chính ở trong giai đoạn này, bắt đầu hình thành q trình xã hội hóa và những hành vi có
văn hóa cũng dần hình thành ở trẻ, là phương tiện phát triển nhân cách trẻ em. Vấn đề
giáo dục hành vi có văn hóa cho trẻ em vì vậy được các nhà nghiên cứu quan tâm.
Các cơng trình nghiên cứu hành vi có văn hóa cho trẻ mầm non rất đa dạng và theo
nhiều quan điểm khác nhau.
Theo quan điểm của giáo dục học Liên Xô ( E.L.Simbireva, C.B.Pecheria,
V.peetrop) : Hành vi có văn hóa là tổng hợp văn hóa bền vững hằng ngày của trẻ trong
đời sống sinh hoạt hằng ngày, trong sinh hoạt giao tiếp và hoạt động có ý nghĩa xã hội.
Quan điểm của giáo dục học phương tây (Davird Warden, Donald Chiftie ) : Hành
vi chịu sự qui định của những chuẩn mực xã hội nên cần giáo dục trẻ những hành vi xã
hội (chia sẽ, giúp đỡ, chăm sóc, cư xử tốt ).
Ngoài ra, các tác giả như: Charles A.S, Rac Pica, Tarawinterton, Đavid Warden
quan tâm đến vấn đề hình thành kĩ năng giao tiếp cho trẻ. Họ chỉ ra rằng : Những yếu tố
cơ bản có ảnh hưởng đến sự phát triển hành vi có văn hóa của trẻ như hồn cảnh, mơi
trường, gia đình, cộng đồng…
Cịn các tác giả: T.A. Nhicôla, L.M.Sipisưna, O.V.Đairinxcaia, A.D.Vôrônôva đặc
biệt quan tâm tới xúc cảm, tình cảm trong q trình hình thành hành vi có văn hóa cho trẻ

mầm non và đã đưa ra phương pháp “ Cùng xúc cảm trong tình huống”. Điều quan trọng
ở đây là nhà giáo dục phải biết đặt mình vào vị trí của trẻ để từ đó phân tích phản ứng của
trẻ trong mỗi tình huống cụ thể để tìm ra biện pháp giáo dục hiệu quả.
Kế thừa và phát huy các quan điểm của các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước
Liên Xô, chúng ta đã đưa ra nội dung giáo dục hành vi có văn hóa cho trẻ mầm non và nội
dung này được thể hiện thơng qua chương trình chăm sóc và giáo dục trẻ như : Biết yêu
thương, kính trọng những người xung quanh, hiểu được lời nói, hành động của mình, biết

7


nhận lỗi, sửa lỗi, biết giữ lời hứa, diễn đạt được ý kiến rành mạch, rõ ràng, tơn trọng sở
thích của bản thân và của người khác…
Trong chuyên đề “ giáo dục lễ giáo ”, giáo dục hành vi có văn hóa gồm ba nội
dung chính: Hành vi với bản thân, hành vi với mọi người xung quanh, hành vi với mơi
trường xung quanh.
Ở Việt Nam hiện nay cũng có rất nhiều nhà tâm lý học, giáo dục học nghiên cứu về
vấn đề này. Cụ thể như, nghiên cứu khía cạnh tâm lý của giao tiếp ở trẻ em. Vấn đề đặc
điểm giao tiếp, hình thành nhu cầu và kĩ năng giao tiếp ở trẻ được phản ánh trong các
công trình nghiên cứu của các tác giả Nguyễn Ánh Tuyết, Nguyễn Thạc, Ngơ Cơng Hồn,
Lê Xn Hồng, Nguyễn Xn Thức. Qua đó, các tác giả đã cho thấy kĩ năng sư phạm và
ứng xử của giáo viên đối với trẻ, đặc điểm hành vi giao tiếp văn hóa của trẻ, việc hình
thành tính tích cực giao tiếp của trẻ.
Nghiên cứu việc giáo dục hành vi giao tiếp có văn hóa cho trẻ : Các tác giả Lưu
Thu Thủy, Võ Nguyên Du, Phạm Ngọc Định tập trung vào vấn đề nghiên cứu trên đối
tượng là học sinh tiểu học. Các kết luận của họ về qui trình giáo dục, nội dung, phương
pháp giáo dục và các điều kiện giáo dục hành vi giao tiếp có văn hóa cho học sinh tiểu
học là một cơ sở quan trọng giúp chúng ta xác định những thành tố cơ bản của quá trình
giáo dục hành vi giao tiếp có văn hóa cho trẻ mẫu giáo.
Trong các cơng trình nghiên cứu của Nguyễn Văn Lê, Trần Trọng Thủy, Trần

Ngọc Thêm cũng cho thấy được vai trò và cách sử dụng các phương tiện giao tiếp, kĩ
năng giao tiếp đặc trưng, các nét tính cách biểu lộ qua giao tiếp thể hiện đặc trưng cơ bản
văn hóa của người Việt Nam ( Tơn trọng người khác, quan tâm, có thiện chí, nhân hậu,
trung thực, nhường nhịn, cư xử lịch sự và khéo léo ).
Ngồi các cơng trình nghiên cứu của các nhà khoa học giáo dục, những năm gần
đây đã có nhiều luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ cùng nghiên cứu về vấn đề giáo dục
HVCVH của học sinh, sinh viên được bảo vệ thành công trong nước. Tiêu biểu là các
luận án tiến sĩ của tác giả Phan Duy Khiêm, Ngô Thị Thu Dung, Thái Văn Thành…

8


Nhìn chung các cơng trình nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam đều chỉ ra rằng
giáo dục hành vi có văn hóa là một trong những nhân tố quan trọng đối với con người,
trong đó có trẻ mẫu giáo.
Như vậy, vấn đề giáo dục hành vi có văn hóa của học sinh có lịch sử phát triển lâu
dài. Các cơng trình đó đã để lại những tư liệu và những tư liệu đó là những cơ sở lí luận
khoa học quý giá đối với việc nghiên cứu khóa luận này.
Tóm lại : Qua nghiên cứu các cơng trình của các nhà khoa học, chúng tôi thấy vấn
đề giáo dục hành vi có văn hóa cho học sinh nói chung và trẻ mẫu giáo nói riêng ln là
vấn đề quan trọng và cần thiết. Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về HVCVH của trẻ để
tìm tới một sự phong phú và hoàn thiện hơn cho phương pháp dạy trẻ mẫu giáo. Tuy
nhiên, trong thực tế hiện nay, ở các trường mầm non vẫn còn tồn tại kiểu dạy học “bảo gì
nghe thế” và một số giáo viên chỉ chú trọng dạy tri thức khoa học cho trẻ mà chưa chú
trọng đến giáo dục hành vi có văn hóa cho trẻ, làm hạn chế sự phát triển toàn diện nhân
cách trẻ mầm non.
Chính vì thế, chúng tơi hi vọng cơng trình nghiên cứu về một số biện pháp giáo
dục hành vi có văn hóa trong hoạt động KPKH cho trẻ mẫu giáo lớn nói riêng và cho trẻ
mẫu giáo nói chung sẽ góp phần làm phong phú thêm các biện pháp, giải pháp giáo dục
hành vi có văn hóa trong hoạt động học tập của trẻ mẫu giáo để công tác giáo dục mầm

non ngày một tốt hơn, có ý nghĩa về cả mặt lý luận và thực tiễn, đáp ứng yêu cầu ngày
càng bức thiết của đất nước, của xã hội đối với giáo dục nói chung và giáo dục mầm non
nói riêng.
1.2. Một số vấn đề lý luận về hành vi có văn hóa của trẻ mẫu giáo
1.2.1. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1.1. Khái niệm “Hành vi”:
Thuật ngữ hành vi được sử dụng nhiều bắt đầu từ thế kỉ XX và được xem xét ở
nhiều khía cạnh khác nhau.
Theo các nhà sinh học mà đại diện là E.L. Tooc-đai-nơ ( 1874 – 1949) xem hành vi
với tư cách là cách sống và hoạt động trong môi trường nhất định dựa trên sự thích nghi

9


của cơ thể với môi trường. Hành vi của con người bó hẹp trong các hoạt động thích nghi
với mơi trường để đảm bảo sự tồn tại của cá thể trong mơi trường đó.
Theo chủ nghĩa hành vi, bao gồm: Chủ nghĩa hành vi cổ điển G. Oat-xơn (1878 –
1958), chủ nghĩa hành vi mới C.Han-lơ (1884 – 1952) và E.Tôn-men (1886 – 1959), chủ
nghĩa hành vi bảo thủ B.Ph. Skinner (sinh năm 1904). Theo G. Oat-xơn quan niệm tâm lý
học lấy “ hành vi người, tức là mọi ứng xử và từ ngữ của con người cả những cái di
truyền lẫn những cái tự tạo làm đối tượng nghiên cứu. Đó là việc nghiên cứu con người
làm gì, bắt đầu từ trong bào thai đến lúc chết ”. [6,tr.5]
Tiếp đến là chủ nghĩa hành vi mới và chủ nghĩa hành vi bảo thủ ra đời dưới ảnh
hưởng của học thuyết I.P. Pap-lốp, đã vay mượn thuật ngữ và cách phân loại những hình
thức hành vi trong học thuyết này nhưng về bản chất lại không giống nhau.
Tuy ở những khía cạnh khác nhau nhưng những người theo chủ nghĩa hành vi đều
cho rằng mọi hành vi đều được biểu thị bằng cơng thức nổi tiếng S


R ( Kích thích


phản ứng ). Hành vi được thực hiện khơng có sự tham gia cơ bản của chủ thể, của

nhân cách.
Chủ nghĩa hành vi quan niệm con người không chỉ phản ứng với những kích thích
có tính sinh học mà cịn phản ứng với những kích thích khác. Luận điểm cơ bản nhất của
thuyết hành vi là coi con người chỉ có khả năng phản ứng thụ động và vì vậy hồn tồn lệ
thuộc vào kích thích tác động lên con người, khơng cần biết giữa kích thích và phản ứng
có gì. Khơng cơng nhận có tâm lý, ý thức trong việc con người thích nghi với mơi trường.
Cũng như vậy, thuyết Ghestan ( Đại diện là Vec- Hây- Me (1880 – 1943), V. Côlơ (1887
– 1967) và K. Côpca (1886 – 1941) ) đã xét đến bản chất của hành vi mà khơng tính tới
tính tích cực của chủ thể, chỉ coi môi trường là cái quyết định của hành vi.
Khác với các quan điểm trên, Tâm lý học Macxit quan niệm hành vi con người là
“cuộc sống”, “lao động”, “thực tiễn” tức là hoạt động. Hành vi con người là biểu hiện bên
ngoài của hoạt động, được điều chỉnh bởi cấu trúc tâm lý bên trong của chủ thể, của nhân
cách. Đây là khái niệm rõ nhất, đầy đủ nhất về quan niệm hành vi.

10


Theo L.X. Vưgốtxki, hành vi con người được hiểu là quá trình nắm lấy các chức
năng tâm lý xã hội của bản thân, tức là hành vi là hoạt động nhằm vào bản thân để tổ chức
hành vi của mình, đồng thời tham gia vào hoạt động bên ngoài, tác động lên các đối tượng
bên ngoài hoặc những người khác. Ông đã cho thấy, muốn có được hoạt động tâm lý bên
trong thì trước hết phải tổ chức được hình thức bên ngồi của nó và trẻ em sẽ hoạt động
trước hết trên những đối tượng bên ngoài ấy rồi “chuyển vào trong” thành tâm lý, ý thức.
Như vậy, nguyên tắc trực tiếp của hành vi được thay thế bằng ngun tắc gián tiếp.
Cơng thức hành vi:
R Đó là nét đặc trưng cho hoạt động của con người.


S

X
( X là tâm lý, năng lực, ý thức của chủ thể, có chức năng điều khiển hành vi )
Hành vi là biểu hiện bên ngoài, được điều chỉnh bởi cái trung gian đó là tâm lý.
Vậy cái chúng ta quan tâm đó là cái trung gian. Khi ý thức chưa hình thành thì giáo dục
rất quan trọng. Khi phản ứng con người chưa được điều chỉnh, chưa có ý thức cần làm
cho mơi trường có phản ứng tích cực đối với trẻ vì vai trị của mơi trường tích cực rất
quan trọng. Từ quan niệm về hành vi nêu trên có thể xác định một số vấn đề đối với việc
giáo dục hành vi sau đây :
Hành vi con người là biểu hiện bên ngoài của hoạt động, được điều chỉnh bởi cấu
trúc tâm lý bên trong của chủ thể, của nhân cách. Cho nên, nhà giáo dục phải đặt vấn đề
giáo dục cả hình thức bên ngồi lẫn bên trong của hành vi. Tức là vấn đề hình thành hành
vi cần được xem là hai mặt thống nhất của một quá trình giáo dục.
Hành vi con người có tính mục đích và có nghĩa, tức là cùng một lúc tính đến cả
chủ thể lẫn thực tại. Điều đó cho thấy, con người chịu tác động của môi trường sống nên
nhà giáo dục khơng được coi nhẹ vấn đề hình thành khả năng thích nghi với mơi trường ở
đứa trẻ. Tuy vậy, yếu tố quyết định hành vi là ở chủ thể. Con người với ý thức của mình
có thể tác động lại với những kích thích, chứ khơng chỉ chịu sự tác động của chúng. Vì
vậy, có thể giáo dục ý thức trong việc con người thích nghi với mơi trường.

11


Hành vi có cơ sở là tâm thế, nảy sinh khi có nhu cầu và hồn cảnh thỏa mãn nhu
cầu. Quá trình hình thành hành vi vì thế cần được bắt đầu từ giáo dục nhu cầu và tạo điều
kiện cho trẻ sẵn sàng hành động lên đối tượng cần thiết để thỏa mãn nhu cầu của chúng.
Theo như nghiên cứu ở trên cho thấy có rất nhiều quan điểm khác về hành vi. Tuy
nhiên, chúng tôi chọn khái niệm của nhà Tâm lý học Macxit “ Hành vi con người là biểu
hiện bên ngoài của hoạt động, được điều chỉnh bởi cấu trúc tâm lý bên trong của chủ thể,

của nhân cách ” làm khái niệm công cụ cho đề tài nghiên cứu của mình.
1.2.1.2. Khái niệm văn hóa:
Để hiểu rõ thế nào là hành vi văn hóa, trước hết cần hiểu thế nào là văn hóa ?
Khái niệm văn hóa được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau tùy cách tiếp cận của
từng người hay của từng ngành khoa học. Tại Hội nghị Quốc tế nhằm phát động



Thập kỉ quốc tế phát triển văn hóa” do UNESCO chủ trì năm 1982 tại Mêhico, với hơn
1000 đại biểu là các nhà văn hóa đại diện cho hơn 100 quốc gia đã đưa ra tới hơn 200
định nghĩa khác nhau về văn hóa. Để thống nhất hành động, trong tuyên bố chung của
Hội nghị người ta đã chấp nhận một quan niệm về văn hóa như sau :
Theo nghĩa rộng : “ Văn hóa là tổng thể những nét riêng biệt về tinh thần và vật
chất; trí tuệ và cảm xúc quyết định tính cách của một xã hội hay một nhóm người trong xã
hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật, văn chương, lối sống, quyền cơ bản của con người, hệ
thống giá trị, tập tục và tín ngưỡng”. [6, tr.10]
Theo nghĩa hẹp, văn hóa được ơng tổng giám đốc UNESCO – M.Z.Federicô định
nghĩa là : “ Tổng thể những hệ thống biểu tượng (kí hiệu) chi phối cách ứng xử và giao
tiếp trong mỗi cộng đồng, khiến cộng đồng ấy có đặc thù riêng. Văn hóa bao gồm hệ
thống những giá trị để đánh giá một sự việc, một hiện tượng theo cộng đồng ấy”.
Như vậy, khi nói đến văn hóa là ta nói tới các giá trị xã hội, từ hệ thống giá trị xã
hội người ta xây dựng nên các chuẩn mực xã hội như : luật pháp, đạo đức, thẩm mĩ,
phong tục truyền thống, chính trị. Đó là những qui định về cách ứng xử trong đời sống xã
hội và trong tư duy được xác định và phê chuẩn về mặt xã hội. Bất kì chuẩn mực xã hội
nào cũng có ba thuộc tính : tính lợi ích ( là gốc ), tính bắt buộc và được thực hiện trên

12


thực tiễn. Chuẩn mực xã hội là phương tiện để định hướng cho hành vi, kiểm tra và điều

chỉnh hành vi của cá nhân. Nó qui định những mục tiêu cơ bản những giới hạn, điều kiện
và các hình thức ứng xử trong mọi lĩnh vực của đời sống con người và là những mẫu mực
mơ hình hành vi thực tế của con người.
Tính có giá trị là cơ sở để phân biệt văn hóa với những hiện tượng phi văn hóa.
Tính giá trị được duy trì bằng truyền thống văn hóa và để có văn hóa chúng ta phải tích
lũy qua nhiều thế hệ. Vì vậy, văn hóa bao giờ cũng có một bề dày, chiều sâu và phải
thường xuyên tự điều chỉnh, tiến hành phân loại, phân bố các giá trị. Trong xã hội hiện
nay có sự chuyển đổi về các giá trị : Các giá trị đạo đức ngày càng được coi trọng và mở
rộng; giá trị thẩm mĩ trở thành nhu cầu thiết yếu trong đời sống xã hội, cái đẹp xuất hiện
cùng với cái hữu ích trong tồn bộ đời sống con người.
Văn hóa là những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra. Mỗi người
sống có văn hóa mới tạo ra một xã hội có văn hóa. Xã hội sống có văn hóa mới phát triển
và hạnh phúc được. Văn hóa bao giờ cũng gắn với giáo dục và giáo dục ln đi liền với
văn hóa. Đây là những hiện tượng đặc trưng của xã hội loài người, chỉ có lồi người mới
có, là điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của cá nhân, cộng đồng và xã hội. Xã hội loài
người muốn tồn tại và phát triển thì phải duy trì, bảo tồn và phát triển giáo dục và văn
hóa.
Nghiên cứu hành vi có văn hóa chúng tơi chọn khái niệm văn hóa của tổng giám
đốc UNESCO – M.Z.Federicơ đó là : “ Văn hóa là tổng thể những hệ thống biểu tượng
(kí hiệu ) chi phối cách ứng xử và giao tiếp trong mỗi cộng đồng, khiến cộng đồng ấy có
đặc thù riêng. Văn hóa bao gồm hệ thống những giá trị để đánh giá một sự việc, một hiện
tượng theo cộng đồng ấy ” để làm khái niệm công cụ cho đề tài.
1.2.1.3. Khái niệm “Hành vi có văn hóa” :
Dựa vào sự phân tích khái niệm hành vi và văn hóa ở trên có thể xác định khái
niệm về “ hành vi có văn hóa” trong phạm vi nghiên cứu đề tài như sau :
“ Hành vi có văn hóa là biểu hiện bên ngoài của hoạt động, được điều chỉnh bởi
cấu trúc tâm lý ý thức bên trong của chủ thể có ý thức và chịu sự quy định bên trong của

13



chuẩn mực xã hội, được xây dựng từ hệ thống những giá trị xã hội do một nền văn hóa
chọn để định hướng”. [6, tr.10]
Hành vi có văn hóa là cách ứng xử của con người trong một hoàn cảnh nhất định,
bị chi phối bởi hệ thống giá trị văn hóa của dân tộc, mà cốt lõi là giá trị đạo đức và giá trị
thẩm mĩ, khiến cho cách ứng xử mang tính đặc thù của dân tộc ấy.
Có thể coi cuộc sống con người là một tổng thể những hành vi có văn hóa. Tuy
nhiên trong bất cứ một nền văn hóa nào cũng đều mang những nét tích cực lẫn nét tiêu
cực. Thuật ngữ “ hành vi có văn hóa” nói lên những hành vi đẹp, tốt đối với con người và
thế giới xung quanh, mang tính tích cực mà mỗi người cần rèn luyện để có được, nghĩa là
cách ứng xử mang tính đạo đức – thẩm mĩ.
Theo đó, có thể cho rằng người có văn hóa là người được giáo dục tử tế, có lối
sống đẹp, biết cư xử đúng mức với mọi người, lịch thiệp, hòa nhã, quan tâm đến vệ sinh
cá nhân và nơi công cộng, yêu cái đẹp, khao khát vươn tới cái đẹp chân chính, ghét cái
thơ bạo xấu xa bẩn thỉu trong quan hệ giữa người với người, thể hiện sự hiểu biết, sự
phong phú trong tâm hồn, tức là thể hiện hành vi có văn hóa.
Để hiểu rõ hơn về hành vi có văn hóa, chúng ta cịn cần phải xem xét nó trong mối
quan hệ với hành vi giao tiếp có văn hóa. Trong cuộc sống, mỗi người đều có cách ứng xử
với thế giới bên ngồi bao gồm thế giới tự nhiên và thế giới con người nhưng chủ yếu vẫn
là với mọi người trong xã hội. Con người tiếp xúc và trao đổi thông tin, truyền cho nhau
xúc cảm, ảnh hưởng qua lại với nhau về nhiều mặt trong quá trình hình thành và phát
triển nhân cách. Như vậy, hành vi giao tiếp cũng là hành vi có văn hóa, nhưng là hành vi
được thực hiện trong quan hệ chủ thể - chủ thể. Để có hành vi giao tiếp có văn hóa, con
người cũng cần phải được giáo dục và rèn luyện về mặt đạo đức và thẩm mĩ.
1.2.1.4. Khái niệm về giáo dục
Khái niệm giáo dục khá phức tạp và có nhiều cách nhìn nhận khác nhau, do đó khó
có thể đưa ra một định nghĩa rõ ràng. Theo từ "Giáo dục" tiếng Anh - "Education" - vốn
có gốc từ tiếng La tinh "Educare" có nghĩa là "làm bộc lộ ra". Có thể hiểu "giáo dục là
quá trình, cách thức làm bộc lộ ra những khả năng tiềm ẩn của người được giáo dục".


14


Trong Larouse Universelle của Pháp định nghĩa: “ Giáo dục là tồn thể những cố gắng có
ý thức để giúp tạo hóa trong việc phát triển các năng lực thể chất, tinh th ần và đạo đức
của con người, hướng về sự hoàn thiện, hạnh phúc và sứ mạng xã hội của con người ”. (
Trích dẫn từ Sư Phạm Lý Thuyết, nhiều tác giả, nhà xuất bản trẻ 1971). Trong từ điển
tiếng Việt của viện ngơn ngữ học có ghi: “ Giáo dục 1. (động từ) Hoạt độ ng nhằm tác
động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của đối tượng nào đó, làm
cho đối tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra. 2.
(danh từ). Hệ thống các biện pháp và cơ quan giảng dạy giáo dục của một nước”. ( Trung
tâm từ điển học, Nxb giáo dục, 1994, trang 379).
Như vậy, giáo dục là q trình được tổ chức có ý thức, hướng tới mục đích khơi
gợi và biến đổi nhận thức, năng lực, tình cảm, thái độ của cả người dạy và người học theo
hướng tích cực. Nghĩa là góp phần hồn thiện nhân cách cả thầy và trò bằng những tác
động có ý thức từ bên ngồi, đáp ứng các u cầu tồn tại và phát triển trong xã hội loài
người đương đại.
1.2.1.5. Khái niệm giáo dục hành vi có văn hóa
Vấn đề giáo dục hành vi có văn hóa bao hàm nội dung rất rộng. Hơn bất cứ lĩnh
vực giáo dục nào, lĩnh vực giáo dục hành vi có văn hóa cho trẻ địi hỏi một sự linh hoạt
cao trong phương pháp.
Giáo dục hành vi có văn hóa chính là hình thành một con người biết làm chủ hành
vi của mình để trở nên một nhân cách biết sống đàng hồng, tử tế.
Giáo dục hành vi có văn hóa cho trẻ khơng chỉ quan tâm đến hình thái biểu hiện
bên ngồi, xem cử chỉ, điệu bộ, lời nói của trẻ có đẹp hay khơng mà cịn quan tâm tới cái
cốt lõi – ý thức đạo đức – hình thái bên trong làm động cơ thúc đẩy hành vi. Giáo dục
hành vi có văn hóa cho trẻ cần kế thừa những nét tinh hoa đậm đà bản sắc dân tộc, đó là
cốt cách ứng của người Việt Nam cần được hun đúc vào lối sống của thế hệ trẻ. Đồng thời
cần tiếp thu cái hay, cái đẹp trong thời đại mới, bởi trẻ em hôm nay thế giới ngày mai.
1.2.2. Đặc điểm phát triển hành vi có văn hóa của trẻ mẫu giáo lớn :


15


Sự phát triển toàn diện nhân cách của trẻ mầm non được hình thành và phát triển
trong quá trình hoạt động học tập và hoạt động vui chơi. Trong quá trình hoạt động giao
tiếp với mọi người xung quanh hay với đồ vật, hành vi của trẻ được thể hiện bằng ngơn
ngữ và hành động ra bên ngồi. Những hành vi đó mang ý thức đạo đức bên trong được
thể hiện ra ngoài bằng cử chỉ, hành động. Sự phát triển hành vi có văn hóa được diễn ra
trong suốt cả một đời người mà giai đoạn lứa tuổi mẫu giáo là một chặng đường mang
tính chất nền tảng và sự phát triển đó gắn liền với giai đoạn đầu tiên của quá trình hình
thành nhân cách.
Trẻ em ở độ tuổi mẫu giáo lớn là chặng cuối của toàn bộ lứa tuổi mẫu giáo, nó nối
tiếp tất cả những thành tựu đã có trước đây, kể cả mặt tốt cũng như mặt còn non yếu trong
hành vi và sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ, cùng với những nhân tố mới xuất hiện, hành vi
của trẻ ngày càng trở nên có văn hóa hơn. Hành vi có văn hóa của trẻ mẫu giáo lớn được
thể hiện ở những điểm sau đây:
1.2.2.1. Tính hợp lý trong hành vi:
Trước đây, hành vi của trẻ mang tính kí hiệu – tượng trưng. Từ chủ thể hành động
đến đối tượng, phương thức và kết quả hành động đều không phải là thật mà là tượng
trưng. Chức năng ký hiệu – tượng trưng của hành vi giúp trẻ có thể nhận thức thế giới
thơng qua các hệ thống kí hiệu, một nét đặc trưng trong hoạt động của loài người. Bước
sang lứa tuổi mẫu giáo lớn, trẻ tư duy theo kiểu trực quan - hình tượng phát triển mạnh.
Đây là cơ sở để trẻ phát triển kiểu tư duy cao hơn – tư duy trừu tượng sau này. Tuy vậy,
trong tư duy của trẻ cũng đã xuất hiện những yếu tố mới của kiểu tư duy trừu tượng này
và điều đó làm cho suy luận của trẻ có tính hợp lý, rõ rệt hơn. Nhờ đó hành vi của trẻ đã
bắt đầu có tính hợp lý. Nếu trước đây suy luận của trẻ còn mang tính chất ngây ngơ thì
giờ tính hợp lý đã tăng lên rõ rệt.
Trẻ mẫu giáo lớn do được thường xuyên quan sát cuộc sống và thiên nhiên, được
xem tivi, phim ảnh hoặc trẻ tự tìm tịi khám phá, lại được người lớn giải thích, dần dần

trẻ nắm được một số quy luật đơn giản của thế giới khách quan giúp khai thơng trí tuệ.
Nhờ vậy, tính chủ quan ngây thơ giảm đi và tăng tính hợp lý trong hành vi của trẻ. Qua
giao tiếp với mọi người trẻ nhận ra mỗi người trong xã hội đều có chức năng, quyền lợi
16


và nghĩa vụ của mình. Từ đó trẻ giảm đi đáng kể những hành vi mang tính phi lý như khi
còn bé. Trẻ dần dần khám phá và thực hiện những luật lệ, chuẩn mực xã hội. Đây là điều
kiện thuận lợi để phát triển hành vi có văn hóa của trẻ mẫu giáo lớn.
1.2.2.2. Động cơ xã hội rõ nét và tương đối ổn định:
Trong hệ thống thứ bậc các động cơ vừa mới hình thành gần đây thì động cơ xã hội
được phát triển mạnh nhất và tương đối lâu bền. Có thể nhận thấy rằng trong hệ thống thứ
bậc các động cơ được hình thành ở trẻ mẫu giáo nhỡ đã xuất hiện động cơ xã hội hay
động cơ đạo đức, trẻ muốn làm một việc gì đó để mang lại niềm vui cho mọi người.
Trong thời kỳ này trẻ đã hiểu rằng hành vi của chúng có thể mang lại lợi ích cho người
khác và chúng bắt đầu làm những việc đó theo cách riêng của mình. Giờ đây trẻ mẫu giáo
lớn đã hình thành động cơ xã hội rõ nét hơn và tương đối ổn định. Trẻ thường hay để ý
đến cách ứng xử của người lớn với nhau trong cuộc sống hằng ngày, trẻ dễ tiếp nhận
những cách ứng xử tốt đẹp giữa họ và điều đó đã ghi lại ấn tượng trong trí nhớ đứa trẻ.
Hằng ngày trẻ quan tâm đến mọi người xung quanh hơn, sẵn sàng làm các việc giúp đỡ
mọi người xung quanh.
Những hành vi đạo đức đó ngày càng phát triển và đó chính là nét cơ bản trong
hành vi có văn hóa. Hơn thế nữa, tình cảm thẩm mĩ của trẻ cũng ngày càng thể hiện rõ
nét. Cùng với ý thức đạo đức, thái độ thẩm mĩ đã giúp cho hành vi của trẻ trở nên có văn
hóa hơn. Trẻ thích những lời nói hay, những cách ăn mặc đẹp, thích trang trí nhà cửa,
chọn những đồ chơi đẹp.Trong giai đoạn này nếu được giáo dục tốt thì nhân cách của trẻ
sẽ trở nên tốt đẹp với những hành vi có văn hóa làm cơ sở vững chắc cho những bước
phát triển tiếp theo.
Lúc này, động cơ hành vi xuất hiện để biện hộ cho các ý muốn chính đáng của trẻ
(Trẻ biết nó muốn điều gì và tại sao lại như vậy). Trẻ bắt đầu đánh giá điều kiện khách

quan và khả năng thỏa mãn nhu cầu và có sự đấu tranh các động cơ. Sự hình thành động
cơ xã hội rõ nét ở trẻ mẫu giáo lớn đã đánh dấu một bước trưởng thành so với trẻ mẫu
giáo nhỡ. Trong thực tế, trẻ mẫu giáo lớn đã biết thực hiện một cách có ý thức những
hành vi mang nội dung đạo đức tốt đẹp.

17


1.2.2.3. Sự phát triển ý chí trong hành vi của trẻ:
Ý chí xuất hiện ở trẻ mẫu giáo như là sự điều chỉnh có ý thức đối với hành vi.
Trong điều kiện được giáo dục tốt, trẻ mẫu giáo đã bắt đầu hình thành khả năng điều
khiển hành vi của mình phục tùng một nhiệm vụ nào đó hay khắc phục khó khăn để đạt
tới mục đích đặt ra. Ý chí trong hành vi thể hiện rõ nét nhất là cuối tuổi mẫu giáo. Điều đó
thể hiện trước hết là trẻ đã biết tự kiểm tra hành vi của mình và kiềm chế những ham
muốn vơ lý. Đó là một bước tiến đáng kể so với trẻ đầu tuổi mẫu giáo. Mặc dù trẻ vẫn cò n
nhiều hành vi bột phát nhưng nhìn chung hành vi của trẻ đang ngày càng bị chi phối bởi ý
chí một cách rõ nét.
Sự phát triển ý chí có liên quan mật thiết đến sự biến đổi các động cơ. Nếu trong
hệ thống thứ bậc các động cơ có xuất hiện một có động cơ tốt thì ý chí sẽ giúp trẻ vượt lên
chiếm vị trí ưu thế và biến thành động lực giúp trẻ vượt khó khăn thực hiện các hành vi
tích cực.
Khi thực hiện những hành vi mà trẻ không hứng thú, trong trường hợp này đòi hỏi
trẻ phải nỗ lực ý chí. Càng về cuối tuổi mẫu giáo khả năng này mới biểu hiện rõ nét,
nhưng không phải lúc nào ý chí cũng xuất hiện đúng lúc mà rất cần có sự nhắc nhở của
người lớn. Đối với trẻ mẫu giáo, người lớn bao giờ cũng là người cổ vũ, động viên giúp
trẻ vượt qua mọi khó khăn, trở ngại của cuộc sống. Trên cơ sở đó ý chí của trẻ phát triển
và dần dần trẻ làm chủ được hành vi của mình.
1.2.2.4. Biết đánh giá và tự đánh giá hành vi:
Đánh giá và tự đánh giá là một nét nói lên sự trưởng thành của trẻ ở cuối tuổi mẫu
giáo, nó làm cho hành vi của trẻ mang đậm tính nhân cách. Bước sang lứa tuổi mẫu giáo,

trẻ đã bắt đầu biết đánh giá hành vi của người khác và tự đánh giá hành vi của bản thân
nhưng càng về cuối tuổi mẫu giáo việc đó mới được thực hiện thường xuyên và rõ ràng
hơn. Trẻ thường nhìn nhận hành vi của người khác trong sự so sánh với nhiều người xung
quanh cả về phía bên ngồi lẫn phía bên trong. Trẻ thường có thái độ khen chê rõ ràng
ngay cả với những bạn cùng tuổi. Trẻ cùng thường hay tự so sánh mình với bạn và đơi khi
thường hay cho mình hơn các bạn.. Tuy nhiên việc đánh giá đó khơng phải bao giờ cũng

18


đúng, cũng cơng bằng mà vẫn cịn nhiều khiếm khuyết. Trẻ thường dựa vào nhận xét của
người lớn xung quanh nên để có một sự đánh giá đúng đắn và công bằng rất cần được
người lớn hướng dẫn. Sự đánh giá của họ chính là chuẩn mực để cho trẻ so sánh nhận xét
hành vi của những người xung quanh và của chính mình.
1.2.3. Ngun tắc giáo dục hành vi có văn hóa cho trẻ mẫu giáo lớn
1.2.3.1. Giáo dục hành vi có văn hóa tính đến đặc điểm lứa tuổi và đặc điểm cá
nhân của trẻ
Cũng giống như mọi sự phát triển, HVCVH cũng có con đường phát triển của nó
với những trình độ từ thấp đến cao và những đặc điểm qua từng giai đoạn lứa tuổi.
Đối với trẻ ở độ tuổi mẫu giáo lớn thì vấn đề quan trọng là phát triển khả năng
đánh giá và tự đánh giá hành vi của những người xung quanh và của bản thân, giúp trẻ
nhận biết một cách chính xác việc gì nên làm, việc gì khơng nên làm. Đặc biệt là cần
động viên trẻ nỗ lực ý chí nhất là tính kiên trì trong những tình huống khó khăn để hoàn
thành nhiệm vụ được giao, bằng những lời động viên nhẹ nhàng giúp cho tinh thần của trẻ
thêm phấn khích.
Một điều có tính chất ngun tắc cần được lưu ý trong việc giáo dục hành vi có
văn hóa cho trẻ là không bao giờ làm cho các trẻ già đi trước tuổi, không biến các trẻ
thành những “người già sớm”, không lấy người lớn làm chuẩn buộc trẻ phải tuân theo.
Trẻ lứa tuổi mẫu giáo nói chung và trẻ mẫu giáo lớn nói riêng vẫn là những trẻ cịn rất bé.
Nhà giáo dục cần lựa chọn nội dung và đề ra mức độ yêu cầu về hành vi văn hóa phù hợp

với đặc điểm phát triển của từng độ tuổi.
Mặt khác, mỗi trẻ trong cùng một độ tuổi có những đặc điểm riêng, vốn kinh
nghiệm riêng về hành vi có văn hóa. Ngay khi cịn rất bé, mỗi đứa trẻ đều là một con
người riêng biệt. Tâm lý học đã nghiên cứu để rút ra những quy luật chung của sự phát
triển ở mỗi lứa tuổi. Nắm được quy luật chung đó là để giúp trẻ phát triển đúng thì, đúng
lứa dần hình thành nên một nhân cách của xã hội, nhưng đằng sau những quy luật chung
thì mỗi con người lại là duy nhất. Mỗi trẻ có những điều kiện phát triển riêng về yếu tố
thể chất, về hoàn cảnh sống, đặc biệt là về mối quan hệ giữa đứa trẻ với thế giới bên

19


ngoài, nhất là với những người xung quanh. Mỗi trẻ sẽ lớn lên theo con đường riêng và
sống cuộc đời riêng của mình với những đặc điểm mà chỉ riêng trẻ mới có. Vì vậy, bên
cạnh những tác động chung với nhóm trẻ cùng độ tuổi, người lớn phải có những tác động,
biện pháp riêng phù hợp với từng trẻ trong từng tình huống cụ thể.
1.2.3.2. Đảm bảo sự thống nhất giữa giáo dục hình thức biểu hiện bên ngồi của
hành vi và giáo dục phẩm chất tâm lý bên trong của trẻ
Hành vi của con người là biểu hiện bên ngoài của hoạt động, được điều chỉnh bởi
cấu trúc tâm lý bên trong của chủ thể, của nhân cách. Mặt bên trong và mặt bên ngồi của
hành vi ln gắn chặt với nhau, mặt bên trong quy định hành vi bên ngồi, hình thức hành
vi lại ảnh hưởng đến cấu trúc tâm lý bên trong. Vì vậy phải giáo dục trẻ cả hình thức bên
ngồi lẫn bên trong của hành vi, làm cho hành vi của trẻ được phát triển theo hướng thống
nhất giữa hình thức biểu hiện bên ngoài và động cơ bên trong.
Mặt biểu hiện bên ngoài đó là những kĩ năng, kĩ xảo thực hiện hành vi mà người
khác có thể dễ dàng thấy được. Cịn mặt biểu hiện bên trong như tình cảm, nhu cầu, ý
thức thực hiện hành vi mà người khác khó trực tiếp thấy được.
Sự khơng thống nhất giữa hai hình thái trong hành vi sẽ gây trở ngại cho việc hình
thành nhân cách của trẻ. Điều đó nhắc chúng ta rằng khi giáo dục hành vi có văn hóa cho
trẻ cần ln ln xem xét cả hình thái bên ngồi lẫn hình thái bên trong và cố gắng giúp

trẻ thống nhất hai hình thái đó trong một hành vi. Có thể hình thành ở trẻ cùng một lúc cả
hai hình thái bên trong và bên ngồi, cũng có thể hình thái này trước, hình thái kia sau,
nhưng cuối cùng là chúng phải được thống nhất theo chiều hướng tích cực, tạo ra ở trẻ
những hành vi có văn hóa tốt đẹp.
1.2.3.3. Cần kế thừa tinh hoa trong truyền thống dân tộc đồng thời tiếp nhận cái
đẹp, cái văn minh trong cuộc sống hiện đại
Trong truyền thống văn hóa của bất cứ một dân tộc nào cũng đều chứa đựng những
cái hay cái đẹp đồng thời lại có những cái xấu, cái lỗi thời, trong truyền thống dân tộc
Việt Nam cũng vậy. Do đó, giáo dục hành vi có văn hóa cho trẻ, một mặt cần biết kế thừa
những nét tinh hoa đậm đà bản sắc dân tộc, mặt khác lại cần phải loại bỏ những cái cổ hũ

20


đã đeo bám vào bản tính dân tộc ta từ hàng ngàn năm nay. Nét đặc sắc trong truyền thống
văn hóa của nhân dân ta là lịng nhân ái – hạt nhân bên trong của hành vi có văn hóa. Duy
trì cái đẹp của truyền thống dân tộc đã rất khó khăn, nhưng từ bỏ những cái xấu lại càng
khó khăn gấp bội. Nhưng đây lại là điều cần thiết mang tính chất ngun tắc trong giáo
dục hành vi có văn hóa cho thế hệ trẻ, kể cả những trẻ ở lứa tuổi mầm non ở nước ta.
Cuộc sống luôn luôn biến đổi, truyền thống dân tộc cũng là một dịng chảy khơng
ngừng đến những bến bờ mới mẻ. Thời đại mới có cách sống mới. Điều quan trọng là cần
xem xét cách sống đó như thế nào. Một cuộc sống vừa kế thừa tinh hoa trong truyền
thống văn hóa dân tộc đồng thời tiếp nhận cái đẹp, cái văn minh trong thời hiện đại. Đó là
mơi trường cực kỳ quan trọng đối với việc giáo dục hành vi văn hóa cho thế hệ trẻ kể cả
trẻ chưa đến trường phổ thơng.
1.2.4. Biểu hiện hành vi có văn hóa của trẻ mẫu giáo lớn:
Hành vi có văn hóa của trẻ mẫu giáo lớn 5 – 6 tuổi cũng có những dấu hiệu chung
thể hiện những nét tính cách, phẩm chất đạo đức của con người Việt Nam và có những
đặc điểm riêng do hạn chế lứa tuổi (về đặc điểm tâm lý, sự phát triển giao tiếp).
Khi nhập vào những mối quan hệ xã hội mỗi người đều tiếp nhận kinh nghiệm ở

những người khác mà hình thành và phát triển hành vi có văn hóa của mình. Các tác giả
Trần Trọng Thủy, Nguyễn Văn Lê cho rằng : Con người có văn hóa cần phải vừa nắm kĩ
thuật, hình thức giao tiếp, vừa phải có phẩm chất nhân cách.
Ở trẻ mẫu giáo lớn những phẩm chất nhân cách chủ yếu của con người đã bắt đầu
được hình thành và được bộc lộ dần ở trẻ. Tuy nhiên, mức độ biểu hiện của nó cho thấy
phần lớn cho thấy trẻ chưa có ý thức với việc chúng làm, mà chỉ dựa trên tình cảm của
chúng.
Trẻ mẫu giáo lớn đã có biểu hiện tơn trọng lẫn nhau. Điều đó được thể hiện ở chỗ
trẻ dễ dàng thiết lập quan hệ giao tiếp với mọi người mà không phân biệt tuổi tác, địa vị
xã hội, kinh tế. Trẻ thiết lập quan hệ giao tiếp rất hồn nhiên, vô tư không để ý đến xuất
thân của đối tượng giao tiếp… Trẻ đã bước đầu biết để ý đến sở thích, thói quen của
người khác như rủ bạn chơi những trị mà bạn thích, biết nhường bạn khi tranh luận, thích

21


làm những việc mà người lớn thích…Tùy vào đối tượng và hồn cảnh giao tiếp, thể hiện
thái độ và tình cảm phù hợp với tình huống giao tiếp.
Hành vi có văn hóa của trẻ mẫu giáo lớn cũng biểu hiện ở thiện chí trong giao tiếp.
Trẻ chủ động trong giao tiếp, đặt ra những câu hỏi, chủ động gợi chuyện, tích cực tham
gia vào đàm thoại, dễ dàng thay đổi ý kiến, thái độ để có thể nhận được sự đồng tình của
người lớn để quá trình giao tiếp được duy trì, hoặc cùng bàn bạc để thực hiện mục đích
chung.
Trẻ mẫu giáo lớn đã biết thể hiện sự quan tâm đến người khác. Trẻ có mong muốn
hiểu biết về người lớn, muốn chia sẻ, cảm thông với người lớn. Trẻ thường đặt ra các câu
hỏi về hoạt động và mối quan hệ của người lớn, thay đổi ý kiến để mong nhận được sự
hài lòng của người lớn, muốn thống nhất với người lớn trong đánh giá. Trẻ mẫu giáo lớn
bước đầu có để ý đến cơng việc chung, đến ý kiến, tình cảm của bạn, sẵn sàng giúp đỡ
người lớn khi được đề nghị hoặc chủ động đề nghị để được giúp đỡ.
Trẻ mẫu giáo lớn đã biết thể hiện sự cố gắng cư xử tốt với mọi người, biết nhường

nhịn lẫn nhau (cố gắng không tranh giành đồ chơi, nhường bạn khi tranh luận). Trẻ có
lịng vị tha, độ lượng với bạn, sẵn sàng tha thứ cho bạn khi bạn đã biết nhận lỗi, có thể
chấp nhận sự thất hứa của người lớn khi họ đã biết lỗi hoặc đã được giải thích thỏa
đáng…
Ngồi những biểu hiện ở trên, hành vi có văn hóa của trẻ mẫu giáo lớn cũng biểu
hiện sự trung thực. Trẻ không dấu diếm được tình cảm trong giao tiếp; khi có lỗi, trẻ biết
thật thà nhận lỗi; khơng nói dối, biết giữ lời hứa đối với người lớn.
Trẻ mẫu giáo lớn bước đầu thể hiện kĩ năng ứng xử có “ bản lĩnh” khi được đề
nghị. Sử dụng ngôn ngữ thể hiện sự hưởng ứng hoặc từ chối đề nghị của người khác : Nói
đúng câu, xưng hơ đúng vai, sử dụng các từ lễ phép khi đồng ý ( “ Vâng ạ”, “ Đây ạ”, “
Con đưa ngay ạ”, “ Bạn cầm lấy” ) hoặc từ chối ( “ Bạn chờ một chút”, “ Bạn còn phải
làm xong việc này đã”… ); sử dụng phương tiện phi ngôn ngữ hướng về phía đối tượng,
vui vẻ, thể hiện thái độ, tình cảm đúng.

22


Tóm lại, trẻ mẫu giáo lớn ( 5 – 6 tuổi ) có những kinh nghiệm và khả năng nhất
định trong việc lĩnh hội hành vi có văn hóa. Hành vi có văn hóa của trẻ 5 – 6 tuổi có
những nét nổi bật riêng của lứa tuổi và chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố, đặc biệt là
truyền thống văn hóa của dân tộc, mơi trường sống và hoạt động cá nhân.
1.3. Hoạt động khám phá khoa học ở trường mầm non và vai trị của nó trong việc
giáo dục hành vi có văn hóa cho trẻ mẫu giáo lớn
1.3.1. Hoạt động khám phá khoa học
Trong xu thế đổi mới mạnh mẽ của giáo dục mầm non hiện nay, với mục tiêu chủ
yếu là phát triển năng lực chung cho trẻ, các hoạt động giáo dục ở trường phải hướng tới
việc dạy cho trẻ cách học như thế nào, phát huy tối đa tính chủ động tích cực của trẻ trong
tất cả các hoạt động. Hoạt động KPKH được ra đời chính là nhằm đáp ứng các yêu cầu
của đổi mới giáo dục mầm non. Ở nhiều nước trên thế giới ( Mỹ, Úc, Singapore…), khám
phá khoa học từ lâu đã là một lĩnh vực hoạt động quan trọng của trẻ ở trường mầm non. Ở

Việt Nam, tổ chức cho trẻ mầm non hoạt động KPKH vẫn còn là một vấn đề mới.
Ở lứa tuổi mầm non, khám phá khoa học là những hiểu biết về thế giới khách quan
mà trẻ phát hiện, tích lũy được trong các hoạt động tìm kiếm, khám phá các sự vật, hiện
tượng xung quanh. Đây có thể chưa phải là những kiến thức chính xác ở mức độ cao,
song chúng rất phong phú, thỏa mãn trí tị mị của trẻ, góp phần làm giàu vốn kinh nghiệm
để trẻ có thể giải quyết các tình huống đơn giản xảy ra trong cuộc sống. Đó chính là cách
thức tìm hiểu thế giới xung quanh thơng qua khám phá, thử nghiệm, phát hiện, giải thích,
lập luận… Kết quả của các hoạt động KPKH là trẻ thu được một lượng kiến thức khoa
học đơn giản và quan trọng hơn là ở trẻ phát hiện các năng lực cơ bản như quan sát, tư
duy logic, giải quyết vấn đề, hợp tác…
Môi trường xung quanh bao gồm tất cả các yếu tố của tự nhiên và xã hội bao
quanh trẻ em, có quan hệ mật thiết với nhau và ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống, sự tồn
tại và phát triển của trẻ em. Nói đến mơi trường xung quanh người ta thường phân chia
thành hai mảng chính : môi trường thiên nhiên và môi trường xã hội.

23


Thiên nhiên xung quanh rất gần gũi, gắn bó và có vai trị quan trọng đối với người
lớn cũng như trẻ em. Môi trường thiên nhiên là nguồn cung cấp những yếu tố cần thiết
cho sự sống của trẻ nói riêng và sinh vật nói chung. Thiên nhiên cịn là nguồn cảm hứng
vơ tận kích thích tính sáng tạo và phát triển óc thẩm mĩ cho trẻ. Với những ý nghĩa giáo
dục to lớn như vậy, thiên nhiên cần được giữ gìn và bảo vệ. Trẻ em cũng cần được coi là
nguồn nhân lực tích cực trong phong trào bảo vệ thiên nhiên, môi trường. Thiên nhiên
không chỉ mang lại cho con người những cái cần thiết để sống mà còn hấp dẫn chúng ta
bởi những vẻ đẹp kỳ diệu. Thiên nhiên cần cho con người bao nhiêu thì lại càng không
thể thiếu được đối với tuổi thơ.
Môi trường xã hội bao gồm mơi trường chính trị, mơi trường sản xuất ra của cải
vật chất cho xã hội, môi trường sinh hoạt xã hội và mơi trường văn hóa. Mơi trường xã
hội có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự hình thành và phát triển nhân cách.

Theo quan điểm của các nhà khoa học, cách tốt nhất để học khoa học là phải làm
khoa học. Đối với trẻ mầm non làm khoa học cũng chính là q trình khám phá nó. Đây là
những hoạt động “ Tìm kiếm để phát hiện ra cái mới, cái ẩn giấu” ( Từ điển tiếng Việt).
Cho trẻ khám phá khoa học về môi trường xung quanh chính là việc giáo viên tạo
ra các điều kiện, cơ hội và tổ chức các hoạt động để cho trẻ tích cực tìm tịi, phát hiện
những điều thú vị về các sự vật, hiện tượng xung quanh trẻ. Đây thực chất là việc giáo
viên tạo môi trường, tạo ra các tình huống và tổ chức các hoạt động cho trẻ tiếp xúc, trải
nghiệm với các sự vật, hiện tượng của mơi trường xung quanh, thơng qua đó trẻ hiểu biết
về đặc điểm, thuộc tính của sự vật, hiện tượng, các mối quan hệ qua lại, sự thay đổi và
phát triển của chúng. Điều quan trọng hơn cả là thông qua các hoạt động khám phá này
trẻ học được các kĩ năng quan sát, so sánh phân loại, giải quyết vấn đề, chuyển tải ý kiến
của mình và đưa ra kết luận.
Trong quá trình hướng dẫn trẻ tham gia hoạt động KPKH, có thể sử dụng được hầu
hết các phương pháp và biện pháp giáo dục. Đặc biệt là phương pháp sử dụng trò chơi,
quan sát, đàm thoại, thí nghiệm, sử dụng tranh ảnh, mơ hình trực quan…

24


Để hướng dẫn trẻ hoạt động KPKH ở trường mầm non có thể thơng qua nhiều hình
thức tổ chức. Trong đó có hai hình thức chủ yếu là thơng qua các hoạt động trong cuộc
sống hằng ngày của trẻ ở mọi lúc mọi nơi (vui chơi, lao động, ăn, ngủ, dạo chơi, tham
quan…) và thơng qua các giờ học.
Các hình thức trên đều nhằm đạt một mục đích chung. Tuy nhiên, mỗi hình thức
đều có mặt mạnh và mặt hạn chế. Do đó, người giáo viên cần nắm vững và kết hợp các
hợp các hình thức trên sao cho nhịp nhàng, cân đối tạo được sự hỗ trợ lẫn nhau.
1.3.2. Vai trò của hoạt động khám phá khoa học trong việc giáo dục hành vi có
văn hóa cho trẻ mẫu giáo lớn
Hoạt động khám phá khoa học có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc giáo dục trẻ
lứa tuổi mầm non, góp phần tích cực vào việc giáo dục tồn diện cho trẻ, đặc biệt là giáo

dục tình cảm trí tuệ, tình cảm thẩm mỹ, đạo đức. Theo nghiên cứu của các nhà tâm lí học
và giáo dục học Liên Xô ( N.N. Potdiakov; X.A. Vechenhikôva; X.N. Nhikôlaeva…) đã
khẳng định vai trò to lớn của hệ thống kiến thức mà trẻ thu được thông qua hoạt động
khám phá khoa học.
Đối với trẻ thơ, KPKH là một hoạt động giúp trẻ khám phá thế giới xung quanh
mình thơng qua việc tiếp xúc với mơi trường xung quanh, để từ đó trẻ khám phá sự vật
hiện tượng ở môi trường xung quanh và có thái độ tích cực với mơi trường.
Khám phá khoa học về môi trường xung quanh là hoạt động thực sự hấp dẫn làm
thỏa mãn nhu cầu nhận thức của trẻ, mở cho trẻ cánh cửa vào thế giới rộng lớn hơn.
Trong các hoạt động khám phá khoa học, trẻ được tích cực sử dụng các giác quan ( thị
giác, thính giác, xúc giác, khứu giác, vị giác ). Chính vì vậy mà các cơ quan cảm giác của
trẻ phát triển và khả năng cảm nhận của trẻ cũng nhanh nhạy và chính xác hơn. Trong q
trình đó, trẻ phải tiến hành các thao tác trí tuệ như quan sát, so sánh, phán đốn, nhận xét,
giải thích…Vì vậy, tư duy và ngôn ngữ của trẻ phát triển. Tham gia các cuộc thảo luận,
lắng nghe và xem những cuốn truyện hấp dẫn về khoa học là cơ sở cho các cuộc đối thoại
của trẻ với người lớn và bạn bè. Việc bộc lộ ý kiến, quan điểm của bản thân trong các

25


×