A. Phần mở đầu
I. Lý do chọn đề tài
Ước muốn ngày nào, ôm ấp trong tim mai đây là cô giáo
Bài hát ấy, câu hát ấy không chỉ là giấc mơ của tôi mà còn là của cả gia đình
tôi, từ khi chúng tôi còn học phổ thông. Cũng nh một bài hát đã viết Mùa xuân a
đi hái hoa, còn tôi đi nuôi dạy trẻ em yêu những đôi môi đỏ, những đôi má
hồng . Đó cũng là mơ ớc, là tình yêu giúp tôi lựa chọn theo học nghề cô giáo
mầm non và gắn bó với nghề hơn.
Để đáp ứng với nhu cầu và sự phát triển lớn mạnh của đất nớc Đảng ta đã
đặt ra nhiệm vụ phải phát triển nền giáo dục và đào tạo, đặc biệt là luôn quan tâm
đến thế giới trẻ thơ, ngời xa có câu Đi một ngày đàng, học một sàng khôn. Vì
giáo dục mầm non là nền móng sau này cho các bậc học khác, giáo dục mầm non
là giáo dục toàn bộ đức, trí, thể, mỹ cho trẻ giúp trẻ phát triển toàn diện.
Một trong những hoạt động đợc chú trọng trong trờng mầm non đó là hoạt
động giáo dục âm nhạc và múa. Đây là hoạt động góp phần hình thành và hoàn
thiện nhân cách cho trẻ.
Nghệ thuật múa là một loại hình nghệ thuật đặc thù, phơng tiện thể hiện
chúng là con ngời, ngôn ngữ đợc biểu hiện bằng các động tác, dáng dấp, cử chỉ,
điệu bộ, nét mặt cùng với sự chuyển động, hoạt động có tính logic có thể phản
ánh một sự việc, một sự kiện, một tình cảm nào đó hay chuyển tải một nội dung
hoặc t tởng Múa là ph ơng tiện giáo dục thẩm mỹ, nghệ thuật múa là bức Điêu
khắc sống để là cho một bức điêu khắc múa, ở múa chính là con ngời thể hiện
gây ấn tợng sâu sắc tới những ngời thởng thức. Nó mang trong mình về màu sắc,
nó có vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện các chức năng hoạt động.
Từ khi cất tiếng khóc chào đời, trẻ đã nghe đợc những lời ru à ơi của mẹ,
những động tác vuốt ve, âu yếm của ngời thân. Trẻ cảm nhận đợc tình yêu thơng
đùm bọc đó bằng ánh mắt và một số vận động cơ thể. Lớn lên, khi trẻ chập chững
bớc vào trờng học đầu tiên trờng học mầm non, những bài hát, điệu múa cô
1
dạy cho trẻ đã góp phần nuôi dỡng tâm hồn, tình cảm của trẻ hớng tới cái đẹp,
hình ảnh nhân cách và khả năng linh hoạt cơ thể.
Bắt đầu bằng những động tác đơn giản, sau đó cùng với sự phát triển của lứa
tuổi, những động tác phức tạp tăng dần lên, những vận động đó làm cho trẻ sự
mềm dẻo của cơ thể, sự khéo léo của toàn thên, vận động múa giúp trẻ có một cơ
thể khoẻ mạnh, nhanh nhẹn, dẻo dai đáp ứng yêu cầu phát triển thể chất. Qua đó
trẻ còn nhận biết đợc cái đẹp của lời ca, của động tác, trẻ thêm tự tin và thoải mái
trong các hoạt động.
Trong nhiều năm là giáo viên đứng lớp, tôi nhận thấy nghệ thuật múa trong
trờng mầm non cha thực sự đợc chú trọng, cha đợc khai thác triệt để, cha tách
biệt đợc thành một môn học độc lập mà chỉ là một nội dung trong một tiết học
Giáo dục âm nhạc. Chính vì vậy mà nó khó có thể phát huy hết những tiềm năng
của một môn nghệ thuật. Dạy múa ở đây chỉ là những động tác đơn giản nh cuộn
cổ tay, nhún theo nhạc, nghiêng ngời rất đơn điệu. Trong khi đó nghệ thuật
múa đòi hỏi phải có sự phối hợp của toàn bộ cơ thể, sự cảm thụ âm nhạc, phối
hợp nhịp nhàng giữa giai điệu với lời ca với các động tác múa, phải phát huy đợc
sự hồn nhiên, ngây thơ của trẻ. Hiện nay, những bài múa dạy cho trẻ con dập
khuôn, máy móc. Vì vậy trẻ thờng không có kiến thức về các động tác cơ bản của
múa, cho nên trình độ và khả năng hớng dẫn múa cho trẻ của giáo viên còn nhiều
hạn chế, còn áp đặt theo chơng trình, cha khuyến khích tạo sự hứng thú tích cực
say mê cho trẻ khi tham gia múa.
Chính vì những điều băn khoăn trên, với mong muốn nghệ thuật múa thực sự
đáp ứng đợc nhu cầu đòi hỏi của xã hội, cũng nh muốn góp một phần bé nhỏ của
mình vào công việc nâng cao chất lợng múa cho trẻ. Tôi đã mạnh dạn chọn đề
tài: Một số biện pháp nâng cao khả năng thể hiện múa cho trẻ mẫu giáo lớn.
II. Mục đích nghiên cứu
Lựa chọn một số bài hát múa và đa ra các biện pháp nhằm nâng cao nghệ
thuật múa cho trẻ mẫu giáo lớn.
2
Bớc đầu cho trẻ mẫu giáo lớn nắm đợc các dạng múa, các động tác múa cơ
bản, múa mô phỏng, múa minh hoạ, múa biểu hiện ngôn ngữ. Nhằm phát triển
năng lực cảm thụ, sáng tạo, tởng tợng và giáo dục thẩm mỹ cho trẻ.
III. Giả thuyết khoa học
Các cháu mẫu giáo lớn đã đợc đi học, đợc làm quen và tiếp xúc với múa từ
lớp mẫu giáo bé.
Các giáo viên đợc trang bị cơ sở lý thuyết và có năng khiếu trong hoạt động
múa.
Cơ sở vật chất của trờng mầm non tơng đối đầy đủ đáp ứng các nhu cầu tổ
chức dạy múa cho trẻ.
Việc nghiên cứu đa vào chơng trình giáo dục một số biện pháp nâng cao khả
năng thể hiện múa cho trẻ mẫu giáo lớn sẽ giúp cho trẻ trong giờ học múa khi
tiếp thu các động tác, hình thức minh hoạ mới.
Nếu tổ chức dạy múa cho trẻ bằng nhiều biện pháp phong phú, phù hợp với
nội dung nghệ thuật múa thì sẽ tác động đến trẻ tốt hơn.
Trẻ sẽ thể hiện các tiết mục tốt hơn, trẻ cảm thụ nghệ thuật và thuận lợi
trong việc phát triển toàn diện nhân cách của trẻ.
IV. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận có liên quan đến đề tài
- Tìm hiểu thực trạng
+ Chơng trình giáo dục âm nhạc, vận động theo nhạc cho trẻ mẫu giáo lớn
hiện nay.
+ Nghiên cứu về khả năng tiếp thu nghệ thuật múa và vận động múa của trẻ
mẫu giáo lớn.
+ Thông qua một số bài hát múa lựa chọn, đề xuất ra các biện pháp mới để
nâng cao khả năng múa cho trẻ.
+ Đề xuất s phạm, rút ra kết luận s phạm và đề xuất ứng dụng vào thực tế
V. Đối tợng nghiên cứu khách thể nghiên cứu
Đối tợng nghiên cứu: Một số biện pháp nhằm nâng cao khả năng thể hiện
múa cho trẻ mẫu giáo lớn (5-6 tuổi).
3
Khách thể nghiên cứu: 30 trẻ cháu lớp 5 tuổi A làm thực nghiệm. 30 trẻ lớp
5 tuổi B làm đối chứng. Trẻ mẫu giáo lớn ở trờng mầm non Liên Cơ - thành phố
Lạng Sơn.
VI. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu khả năng tiếp thu nghệ thuật múa của trẻ mẫu giáo lớn.
- Nghiên cứu chơng trình dạy trẻ vận động theo nhạc và dạy múa cho trẻ
mẫu giáo lớn.
- Nghiên cứu mức độ hứng thú, khả năng cảm nhận, độ tập chung chú ý của
trẻ thông qua cách tổ chức dạy múa của giáo viên để thấy đợc sự cần thiết trong
việc xây dựng một số biện pháp dạy múa cho trẻ mẫu giáo lớn một cách khoa
học, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ.
- Chọn một số bài hát múa dành cho trẻ mẫu giáo lớn, sử dụng một số biện
pháp múa mới làm thực nghiệm.
VII. Phơng pháp nghiên cứu
- Đọc tài liệu cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu
- Phơng pháp nghiên cứu thực tiễn
+ Quan sát, ghi chép hoạt động của cô và trẻ trên tiết học vận động theo
nhạc, tiết múa chuyên biệt, năng khiếu.
+ Trò chuyện trao đổi đàm thoại với trẻ để tìm hiểu sự hứng thú của trẻ.
- Phơng pháp thực nghiệm đối chứng
* Kế hoạch thực hiện
- Tháng 10/2009: Xác định đề tài
- Tháng 11/2009: Su tầm tài liệu và đọc tài liệu
- Tháng 12/2009: Nghiên cứu thực trạng
- Tháng 1/2010: Điều tra thực trạng
- Tháng 2/2010: Hoàn thành đề cơng
- Tháng 3/2010: Hoàn thành bài tập
4
B. Phần Nội dung
Chơng I: Cơ sở lý luận
I. Vài nét về lịch sử nghiên cứu
Nghệ thuật múa là loại hình nghệ thuật có từ sớm nhất của loài ngời, nó tồn
tại và phát triển theo lịch sử văn hóa và lịch sử phát triển trí tuệ của con ngời.
Ngay từ thuở bình minh của bộ ngời nguyên thuỷ, nghệ thuật múa đã xuất hiện
nh một nhu cầu thiết yếu trong đời sống văn hoá tinh thần và phát triển ngày
càng hoàn thiện.
Từ thời kỳ xã hội nguyên thuỷ, sang thời kỳ chiếm hữu nô lệ rồi đến thời kỳ
xã hội phong kiến, đến chế độ t bản và lên chủ nghĩa xã hội. Múa đợc phát triển
theo từng thời kỳ. Đầu tiên cha có định hớng, sau đó múa mang tính mô phỏng,
múa thể hiện các nội dung sinh hoạt của con ngời, rồi múa ngày càng đợc nâng
cao thành các thể loại múa, hình thức múa và các dòng múa. Đến nay múa có sự
định hớng và hớng con ngời đến chân thiện mỹ, nó chiếm vị trí quan trọng
trong nền văn hoá dân tộc và đời sống văn hoá xã hội. Ta có thể thấy điều này
qua Mô hình nghệ thuật múa phát triển qua các thời kỳ.
Nh vậy có thể kết luận: Lịch sử phát triển nghệ thuật múa gắn liền với sự
phát triển của loài ngời. Múa còn có các chức năng cơ bản giáo dục, phản ánh,
góp phần cải tạo xã hội, định hớng thẩm mỹ và phát triển thể chất. Với những
chức năng này, chúng ta thấy múa rất gần gũi với cuộc sống của con ngời. Con
ngời không chỉ là nhu cầu thởng thức mà còn nhu cầu muốn học, muốn sáng tạo
ra nó. Việc tìm hiểu một số biện pháp nâng cao khả năng thể hiện múa cho trẻ
mẫu giáo lớn là rất cần thiết.
Có rất nhiều tác giải viết về vai trò giáo dục của nghệ thuật múa nói chung
và nghệ thuật múa cho trẻ mẫu giáo nói riêng. Vì múa có tầm quan trọng trong
đời sống con ngời, nghệ thuật múa có chức năng đóng vai trò rất quan trọng
trong sự phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ. Hiện nay, có rất nhiều nhà s
phạm đi sâu nghiên cứu về nghệ thuật múa cho trẻ mầm non nh: Cải tiến một số
5
hình thức vận động theo nhạc cho trẻ 5-6 tuổi. Dựa vào khả năng tiếp xúc nghệ
thuật của trẻ, tác giả đã đa ra một số phơng pháp mới trong tiết học nhằm phát
triển ở trẻ khả năng cảm thụ và lĩnh hội cái đẹp trong cuộc sống xung quanh trẻ.
Nhng mới chỉ dừng lại ở mức độ chung với những hành động tác dịch chuyển
đơn giản, đơn điệu cha thật phù hợp với sự phát triển nền văn hoá Việt Nam trong
thế kỷ XXI này.
Với bài viết Một số điệu múa cho trẻ mẫu giáo của tác giả Lã Tiến Thêm
(Viện Khoa học giáo dục Trung tâm nghiên cứugiáo dục mầm non - 1996).
Tác giả đã đáp ứng mong mỏi của đông đảo giáo viên mầm non ở các vùng miền
về cá bài múa dành cho trẻ mẫu giáo, nhằm góp phần làm phong phú các hoạt
động biểu diễn cho trẻ ở trờng mầm non.
Bài: Múa và phơng pháp vận động theo nhạc của tác giả Trần Minh Trí
(NXB Giáo dục - 1999) tác giả có đề cập đến những kiến thức cơ bản về nghệ
thuật múa. Đa ra một số phơng pháp dạy trẻ vận động theo nhạc và múa. Tác giả
nhận thức đợc vai trò quan trọng của múa đối với trẻ, nhng mới chỉ dừng lại ở
việc dạy trẻ vận động theo nhạc, mà cha đa ra các phơng pháp và biện pháp nhằm
nâng cao khả năng múa cho trẻ.
Trong qúa trình công tác và học tập, tôi đã đợc trang bị cơ sở lý luận về nghệ
thuật múa, nên đã mạnh dạn chọn đề tài: Một số biện pháp nhằm nâng cao khả
năng thể hiện múa cho trẻ mẫu giáo lớn. Với mong muốn giúp trẻ có hứng thú,
có khả năng cảm nhận nghệ thuật múa tốt nhất. Góp phần vào sự phát triển nghệ
thuật trong ngành Giáo dục mầm non.
II. Khái quát chung về nghệ thuật múa
1. Lý luận của nghệ thuật múa
Múa là một loại hình nghệ thuật mang tính tổng hợp, thông qua múa, cái đ-
ợc phản ánh là các hiện tợng trong cuộc sống con ngời, qua hình thức đặc biệt
của nó là những hình dáng, động tác, cử chỉ, điệu bộ, luân chuyển động tác trên
các tuyến, đội hình tiết tấu, giai điệu múa của âm nhạc chuyển động trong không
gian và thời gian.
6
Những động tác điệu bộ hình dáng có đợc bắt nguồn từ lao động có sáng
tạo, từ sinh hoạt văn hoá (Văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần) trong đấu tranh
tự nhiên và đấu tranh xã hội của con ngời. Nghệ thuật múa còn chịu ảnh hởng
của môi trờng tự nhiên, kinh tế, văn hoá, xã hội và các tập tục của cộng đồng.
Trải qua thực tiễn lao động có sáng tạo và tiến trình lịch sử mà nghệ thuật múa
ngày một hoàn thiện.
Nghệ thuật múa có những cơ bản la giàu tính cách, khái quát tạo hình dựa
trên cơ sở lao động, sinh hoạt, thể hiện mọi lĩnh vực tình cảm của con ngời.
Phơng tiện thể hiện nghệ thuật múa là con ngời. Quá trình biểu diễn của con
ngời là quá trình biểu đạt ngôn ngữ, động tác, đội hình, luôn hoà điệu với nghệ
thuật âm nhạc, mỹ thuật. Nó là loại hình nghệ thuật có tính nguyên hợp các thành
tố nghệ thuật biểu diễn.
2. Thực tiễn nghệ thuật múa
Trải qua tiến trình lịch sử nghệ thuật múa đã hình thành 4 hình thái: Múa
dân gian, múa cung đình, múa tôn giáo, múa tín ngỡng. Trong nghệ thuật múa
chia ra 2 loại: múa mô phỏng và múa biểu diễn.
Nghệ thuật múa có chức năng giáo dục nhận thức, phản ánh giáo dục thẩm
mỹ, văn hoá xã hội, nghệ thuật múa có bản chất là thẩm mỹ, Jan Jooc Nove (Nhà
biên đạo ngời Pháp) nói: Động tác là tiếng nói thứ hai của con ngời, nhng ta chỉ
nghe đợc khi tâm hồn bắt nói nói lên. Có thể nói tất cả những hoạt động trong
ngôn ngữ động tác múa là yếu tố quyết định tới sự tồn tại và phát triển của nghệ
thuật múa, phản ánh hoạt động của xã hội, góp phần cải tạo xã hội. Nghệ thuật
múa tồn tại chính là để phục vụ, nhằm giáo dục đạo đức, nâng cao tính thẩm mỹ
cho con ngời.
3. Định nghĩa về nghệ thuật múa
Nghệ thuật múa là một loại hình nghệ thuật đặc thù phơng tiện thể hiện
bằng cơ thể con ngời, ngôn ngữ thể hiện bằng động tác, dáng dấp, cử chỉ, điệu bộ
tình cảm nào đó đợc hoạch định.
7
III. Vai trò chức năng của nghệ thuật múa
1. Các chức năng cơ bản của nghệ thuật múa
Mục tiêu của giáo dục đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đò tạo nhân lực, bồi
dỡng nhân tài, hình thành đội ngũ lao động có tri thức và có tay nghề, có năng
lực thực hành, tự chủ, năng động, sáng tạo, có đạo đức cách mạng và có tinh thần
yêu nớc, yêu chủ nghĩa xã hội (trang 106, Giáo dục mầm non tập 1).
Việc giáo dục thẩm mỹ ở trờng mẫu giáo nhằm phát triển ở trẻ khả năng
cảm nhận, cảm thụ, hiểu biết, lĩnh hội đợc cái đẹp, phân biệt đợc cái hay cái dở,
cái tốt cái xấu, biết độc lập suy nghĩ, có chính kiến và sự sáng tạo khi tiếp xúc
với các hoạt động khác nhau của âm nhạc.
Các vận động theo nhip điệu, các động tác múa giúp cho trẻ bộ lộ cảm xúc,
diễn đạt cảm xúc. Nhịp điệu vui tơi, khoẻ mạnh của bản nhạc giúp trẻ hứng thú tự
tin. Hay các bài hát ru em bé ngủ vỗ về, âu yếm, nhẹ nhàng khắc sâu trong trẻ
tình cảm trìu mến, dịu dàng.
Trong khi trẻ múa, trẻ không chỉ cảm nhận đợc tính âm nhạc, tình cảm âm
nhạc (hởng ứng với trạng thái, cảm xúc có trong âm nhạc mà còn cảm nhận đợc
cái đẹp trong sự chuyển đổi đội hình, động tác, hình tợng múa Các bài tập rèn
luyện nhịp điệu âm nhạc tạo cho trẻ khả năng hoạt động độc lập sáng tạo. Trong
khi trẻ múa theo nhạc trẻ hình dung ra các hình tợng (Chú bộ đội, em bé, cụ
già ), hình dung ra các chuỗi động tác nối tiếp nhau theo vốn hiểu biết của
mình, trên cơ sở đó phối hợp các động tác múa đã biết ruồi biến đổi, thêm thắt
vào các động tác cho đẹp. Đợc tham gia múa trong nhóm bạn bè, trẻ biết đánh
giá nhận xét về bạn và bản thân. Trên cơ sở đó trẻ nhận ra chất lợng biểu diễn tốt
hay không tốt, đúng hay sai. Cùng với sự phát triển kỹ năng hoạt động nhịp điệu
âm nhạc, trên cơ sở đó góp phần giáo dục thẩm mỹ cho trẻ.
1.1. Múa là phơng tiện hình thành đạo đức cho trẻ mầm non
Khi trẻ thực hiện một hoạt động có mục đích nào đó thì đồng thời tình cảm,
đạo đức cũng đợc hình thành. Đối với hoạt động múa cũng vậy, khi trẻ cùng nhau
múa hát cũng là lúc trẻ đợc giao lu cảm xúc với nhau. Sự quan tâm chia sẻ giúp
8
đỡ lẫn nhau, nhờng nhịn nhau giúp trẻ có ý thức tập thể, tạo điều kiện tốt cho trẻ
có khả năng hoà nhập với cộng đồng.
Khi biểu diễn múa trên sân khấu, trẻ mạnh dạn tự tin, cố gắng biểu diễn múa
cho đều, đẹp và hoàn chỉnh. Không phá đám, không bỏ cuộc giữa chứng đòi hỏi
trẻ phải có tính kỷ luật cao mới làm đợc.
Múa trên nền nhạc tạo ra những điều kiện cần thiết đối với sự hình thành
những phẩm chất đạo đức, nhân cách của trẻ, đặt ra những cơ sở ban đầu cho văn
hoá chung của ngời công dân tơng lai. Khi múa, trẻ thể hiện động tác bắt nguồn
từ thực tiễn chứ không phải bịa đặt, nên khi múa hát tập thể, trẻ biết cảm thông
và quan tâm đến nhau. Đối với điệu múa dân gian, xúc cảm mang đến cho trẻ thơ
là niềm tự hào dân tộc, trẻ thêm yêu quê hơng đất nớc. Ngoài ra, ở mỗi màn múa
hoạt cảnh, các hình thức múa cũng đem lại nội dung giáo dục đạo đức cho trẻ.
1.2. Múa là phơng tiện giáo dục trí tuệ cho trẻ mầm non
Múa là phơng tiện đẩy mạnh khả năng cảm thụ âm nhạc của trẻ thơ nên nó
cũng gắn liền với sự phát triển trí tuệ của trẻ. Khi múa đòi hỏi trẻ phải chú ý quan
sát, linh hoạt phối hợp các động tác với nhau một cách tuần tự, logic đồng thời
phải lắng nghe giai điệu âm nhạc. Với những tác phẩm múa phức tạp nh các bài
hát tập thể, múa dựng hình tợng hoạt cảnh đòi hỏi trẻ phải lắng nghe giai điệu,
nghe nhạc; ghi nhớ diễn, đội hình chuyển động, thứ tự tác động tác múa, vị trí
từng ngời để điều chỉnh đội hình cho đẹp. Nh vậy trên cơ sở liên kết thống nhất
các cơ quan vận đông thính giác, thị giác, giúp trí nhớ trẻ phát triển. Theo từng
độ tuổi, các bài tập kỹ năng múa ngày càng khó dần và phức tạp hơn, đòi hỏi trẻ
phải tích cực t duy, dần dần trẻ có thể tự hình dung ra các động tác, hình tợng
phù hợp với lời ca, làm cho trí tởng tợng của trẻ ngày càng phong phú.
1.3. Múa góp phần phát triển thể chất cho trẻ mầm non
Múa là sự biểu hiện của cảm xúc âm nhạc bằng hình thể, động tác, t thế của
con ngời. Khi trẻ múa đòi hỏi sự hoạt động của toàn thân, nên từ đó huy động đ-
ợc tất cả các cơ quan trong cơ thể cùng tham gia hoạt động. Nhịp điệu nhanh, sự
tuần hoàn của máu tăng, hô hấp tăng, trẻ thở nhanh, mạnh làm nở phổi, bài tiết ra
9
nhiều mồ hôi. Trẻ tích cực múa làm cho hệ vận động phát triển, các cơ bắp săn
lại, trẻ cứng cáp khoẻ mạnh, phối hợp các động tác nhanh nhẹn hoạt bát, uyển
chuyển nhịp nhàng, t thế đẹp, duyên dáng.
Mặt khác, trẻ múa làm tiêu hao năng lợng, do đó quá trình tiêu hoá diễn ra
nhanh, trẻ chóng đói và có cảm giác thèm ăn, đến bữa trẻ ăn ngon miệng hơn, tạo
điều kiện cho sự phát triển thể chất cho trẻ.
1.4. Nghệ thuật múa góp phần giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mầm non.
Giáo dục thẩm mỹ cho trẻ là quá trình tác động có mục đích và có hệ thống
vào nhân cách của trẻ, nhằm phát triển năng lực cảm thụ và nhận biết cái đẹp
trong nghệ thuật, trong thiên nhiên và trong đời sống xã hội. Qua giáo dục thẩm
mỹ trẻ phân biệt đợc cacis hay, cái đẹp trong cuộc sống để học tập và làm theo.
Trong nghệ thuật múa, các động tác múa kết hợp với giai điệu giúp trẻ bộc
lộ cảm xúc và diễn đạt cảm xúc. Khi múa trẻ thấy đợc vẻ đẹp hình thể của mình,
của bạn thông qua những động tác mềm dẻo, dáng đi uyển chuyển, nhịp nhàng,
duyên dáng. Trẻ cảm nhận nét đẹp của giai điệu bài hát, kết hợp với phục trang
nhiều màu sắc, quần áo dân tộc các vùng miền, các điệu theo nội dung từng vai
diễn. Kết hợp với cảnh trang hoàng sân khấu trong mỗi hoạt cảnh múa đều khơi
gợi cho trẻ tình cảm và cảm xúc thẩm mĩ, giúp trẻ thể hiện sâu hơn về nội dung
và hình thức của tác phẩm.
Hình tợng thẩm mỹ là tấm gơng phản chiếu đời sống xã hội, những hình t-
ợng đẹp mang lại cảm xúc và nhận thức thẩm mỹ cho ngời xem. Khi trẻ múa
những bài về Bác Hồ, trẻ càng thêm kính trọng và tỏ lòng tôn kính Bác, hiểu đợc
rằng Bác luôn thơng yêu các cháu nhỏ trên mọi miền Tổ quốc. Từ đó sẽ truyền
tải đợc nội dung và t tởng của tác phẩm một cách tốt nhất với trẻ.
2. Vai trò của nghệ thuật múa
2.1. Vai trò của nghệ thuật múa đối với con ngời trong xã hội
Nghệ thuật múa đợc sinh ra và phát triển trong quá trình lao động và hoạt
động của con ngời. Trải qua các giai đoạn phát triển của xã hội loài ngời, nghệ
10
thuật múa cũng dần đợc hoàn thiện và chiếm một vị trí quan trọng trong nền văn
hoá dân tộc và trong đời sống văn hoá xã hội.
Nghệ thuật múa là một hình thái ý thức xã hội. Nó ra đời do nhu cầu của con
ngời trong cuộc sống để biểu đạt nhận thức, hoạt động, t tởng, tình cảm của
mình. Khi con ngời mới đợc tiến hoá từ loài vợn, ngôn ngữ múa đã trở thành nhu
cầu của xã hội nguyên thuỷ, ban đầu nó mang trong mình yếu tố kịch câm. Mỗi
khi muốn truyền đạt kinh nghiệm lao động, săn bắt họ th ờng dùng ngôn ngữ
múa để diễn đạt, để mọi ngời cùng học tập, bắt chớc, hoặc khi muốn tập thể cùng
thống nhất phải dùng ngôn ngữ múa để đồng nhất sức lực, hành động.
Trong quá trình lao động, tình cảm của con ngời trong xã hội ngày càng gắn
bó yêu thơng, lúc đó họ lại cùng nhau cầm tay reo hò, nhảy múa xung quanh
đống lửa. Những điệu múa chỉ dừng lại ở chỗ dậm chân, vỗ tay, hò reo biểu lộ sự
phấn khích của mình. Ngày nay, sự phát triển của nghệ thuật múa còn là con đ-
ờng giáo dục tốt nhất. Thông qua múa có thể làm rung động những trái tim, khối
óc, làm cho cong ngời xích lại gần nhau hơn. Tính chất giáo dục của múa không
mạnh mẽ dữ dội mà nhẹ nhàng bền bỉ nhng không kém phần sâu sắc.
Nghệ thuật múa còn giúp con ngời thể hiện sự dạt dào, say mê, bay bổng,
tình yêu trong lao động, tình yêu lứa đôi, tình yêu quê hơng đất nớc. Múa đạt đợc
mục tiêu là đa con ngời đến sự hoàn thiện của nhân cách.
Múa là tấm gơng phản ánh đời sống hiện thực, là sự chọn lọc, nhào nặn có
sáng tạo của ngời nghệ sĩ. Thông qua các động tác đợc cách điệu đã đem đến cho
ngời xem những t tởng, nội dung cần thiết.
2.2. Vai trò của nghệ thuật múa đối với trẻ trong trờng mầm non
Đối với trẻ mầm non, nghệ thuật múa góp phần hình thành nhân cách của
trẻ. Nghệ thuật múa còn là phơng tiện để giáo dục đạo đức, thẩm mĩ, trí tuệ, thể
chất cho trẻ.
Múa mang lại cho trẻ thơ một thế giới kỳ diệu không ngừng chuyển động,
gợi cho trẻ những cảm giác thú vị, thoả mãn nhu cầu khao khát đợc hiểu biết và
11
đợc hoạt động của trẻ. Đồng thời tác động mạnh mẽ đến sự phát triển tâm lý, năn
lực hoạt động và sự hiểu biết của trẻ.
Múa là hình thức hoạt động kết hợp âm nhạc rất thú vị, hấp dẫn tốt với trẻ.
Trong khi múa trẻ đợc bộc lộ mình, đợc giao tiếp với thế giới xung quanh.
Trẻ mầm non vốn rất hiếu động và ham hiểu biết, trẻ tiếp nhận thế giới xung
quanh bằng trực quan hình tợng và thể hiện bằng cảm xúc, tình cảm. Nghệ thuật
múa không những giúp trẻ có hình thể khoẻ đẹp, mà còn giúp trẻ phát triển khả
năng cảm thụ, lĩnh hội cái đẹp, biết phân biệt tốt xấu.
Khi múa trẻ dễ dàng cảm nhận đợc giai điệu âm nhạc, trên cơ sở đó trẻ đó
trẻ biết phối hợp động tác cho phù hợp với giai điệu, đó chính là điều kiện định
hớng thẩm mỹ cho trẻ một cách tốt nhất.
Nghệ thuật múa gắn với sự phát triển trí tuệ của trẻ, đòi hỏi trẻ phải ghi nhớ
có chủ định, có trí tởng tợng, t duy sáng tạo. Khi mua trẻ biết lắng nghe nhạc,
phối hợp giữa âm nhạc và động tác, kết hợp từ những động tác giản đơn đến động
tác phức tạp. Múa còn rèn luyện cho trẻ tính kiên trì, biết tự kiềm chế và hoà
mình với tập thể.
Nh vậy, có thể nói, mỗi loại hình nghệ thuật phản ánh một cách độc đáo
cuộc sống và ảnh hởng đặc biệt quan trọng đến sự phát triển tình cảm trí tuệ của
trẻ, mà nghệ thuật múa cũng nh các loại hình nghệ thuật khác (âm nhạc, điêu
khắc, hội hoạ ) đều mang trong mình chức năng phản ánh sâu sắc về đạo đức,
vui chơi, giải trí, đồng thời tính nhân văn của nghẹ thuật múa luôn đợc thẩm
định ở độ cao trong vai trò hoàn thiện các chức năng hoạt động. Không những thế
mà hoạt động múa còn có quan hệ mật thiết với các loại hình nghệ thuật khác nh
thơ ca, văn học, âm nhạc, sân khấu, giúp trẻ tiếp cận các loại hình nghệ thuật
khác thông qua múa đợc dễ dàng và gây hứng thú cho trẻ.
IV. Đặc điểm tâm sinh lý và khả năng múa của trẻ mẫu giáo
lớn (5-6 tuổi)
1. Đặc điểm tâm sinh lý
12
Trẻ thơ rất hiếu động, ham hiểu biết, muốn tìm tòi, khám phá những điểm
mới lạ, tâm hồn trẻ thơ rất hồn nhiên, trong sáng và nhạy cảm với thế giới xung
quanh, do đó mà năng khiếu nghệ thuật thờng đợc nảy sinh. Ngay từ tuổi nhỏ, trẻ
luôn say mê mong ớc tạo ra đợc nhiều cái đẹp, ớc mình đẹp hơn.
Đến tuổi mẫu giáo t duy của trẻ đã chuyển dần từ t duy trực quan hành động
sang t duy trực quan hình tợng. Việc thay thế này giúp trẻ nhìn sự vật, hiện tợng
một cách toàn diện, chứ không tách rời từng mảng, từng bộ phận một cách khô
cứng.
Cùng với sự phát triển t duy thì trí tởng tợng của trẻ cũng trở nên phong phú
hơn, trẻ có khả năng dùng vật này thay thế cho vật khác và hành động với vật
thay thế nh đồ vật có thật.
Việc biết sử dụng các hệ thống ký hiệu khác nhau để biểu thị các sự vật hiện
tợng của hiện thực, làm giàu thêm trí tởng tợng của trẻ. Ví dụ: từ chiếc bánh
thành trống, thìa thành dùi, cái tăm thành cuống diêm, cuộn tờ giấy thành micro
để hát
Một đặc điểm nữa về sự phát triển tâm lý của trẻ là khả năng bắt chớc và
thích bắt chớc. Nhờ khả năng này mà trẻ có thể tiếp nhận hay nói một cách khác
bắt chớc một cách nhanh chóng những bài luyện tập múa theo sự hớng dẫn của
cô giáo.
2. Đặc điểm phát triển vận động ở trẻ
Đến tuổi mẫu giáo, trẻ đã dần hoàn thiện một số chức năng, trẻ đi đứng chạy
nhảy vững vàng. Tuy nhiên, xơng trẻ còn mềm do có nhiều sụn. Về khả năng vận
động trẻ biết phối hợp nhịp nhàng giữa tay, chân. Theo tài liệu Tâm lý vận
động của Viện nghiên cứu trẻ em thuộc Viện khoa học giáo dục thì trẻ mầm non
đã biết giữ thăng bằng trực quan cảm tính. Do đó các hoạt động vui chơi nhảy
múa là điều kiện để trẻ bộc lộ nhu cầu giao tiếp với mọi vật xung quanh, làm cho
trẻ có năng lực cảm thụ nghệ thuật một cách tốt nhất.
3. Khả năng cảm thụ nghệ thuật múa ở trẻ 5-6 tuổi
13
Các vận động cơ thể của trẻ gần nh thành thạo, khả năng nghe nhạc của trẻ
cũng phát triển hơn vì vậy nghệ thuật múa rất phù hợp với trẻ. Trẻ có khả năng
thực hiện tốt các động tác khi đợc tiếp xúc với các tác phẩm múa phù hợp.
Quan sát một đứa trẻ bình thờng khoẻ mạnh chúng ta thấy đợc hàng ngày
các bé có rất nhiều hoạt động, với trẻ mẫu giáo chỉ thực hiện những động tác đơn
giản theo nhạc.
Trẻ biết vỗ tay theo nhịp phách, lắc l nhún nhảy, vững vàng và hoàn thiện
hơn. Biết phối hợp chân tay nhịp nhàng, cá phẩm chất cũng đợc hình thành, phát
triển nh: nhanh, mạnh, bền, dẻo, giúp trẻ dễ dàng hơn khi thực hiện các động tác
múa theo nhạc.
VD: Khi múa bài múa cho mẹ xem. Trẻ đã biết phối hợp chân, tay và biểu
lộ tình cảm vui tơi, hồn nhiên.
4. Thực trạng của việc dạy múa ở trờng mầm non
Là một giáo viên có 15 năm công tác tại trờng mẫu giáo, trong suốt thời gian
đứng lớp, qua thực tế giảng dạy và học tập, quan sát và đàm thoại về quá trình
dạy múa cho trẻ ở trờng mầm non, tôi nhận thấy việc dạy múa cho trẻ ở trờng
mầm non có một số vấn đề nh sau:
* Ưu điểm:
- Hiện nay giáo viên ở các trờng mầm non có độ tuổi rất trẻ, nhiệt tình với
công việc và có khả năng múa tơng đối tốt.
- Đời sống xã hội ngày càng phát triển, nhiều phụ huynh có xu hớng cho con
em mình đi học múa ở các nhà văn hoá từ rất sớm.
- Trẻ mẫu giáo ở thành phố có khả năng cảm nhận âm nhạc tốt, hứng thú với
các điệu múa vì đợc cập nhật thông tin tốt.
- Trong năm học nhà trờng tổ chức rất nhiều các ngày hội, ngày lễ, các buổi
ngoại khoá: ngày khai trờng, trung thu, ngày 20/11, ngày 22/12, ngày tết và mùa
xuân, ngày 8/3, ngày 30/4, ngày 19/5, ngày 1/6, lễ ra trờng ngoài ra còn có mỗi
tháng tổ chức ngày ngoại khoá thi đua giữa các lớp trong khối giúp trẻ đợc tập
luyện nhiều lần, khi biểu diễn tự tin hơn.
14
- Sở giáo dục liên thông tổ chức các phong trào Liên hoan giai điệu tuổi
thơ, Hội diễn văn nghệ, thi liên hoan dân ca các lứa tuổi nên các trờng mầm
non tham gia rất tích cực và phần nào cũng thúc đẩy phong trào học múa cho trẻ
mẫu giáo.
* Hạn chế
- Trình độ múa và sáng tạo nghệ thuật múa cho trẻ của giáo viên mầm non
còn hạn chế.
- Đa số các giáo viên chỉ thực hiện dạy trẻ một số bài múa đơn giản nh trong
chơng trình gợi ý. Múa chỉ mang ý nghĩa vận động theo lời ca.
- Bộ môn giáo dục âm nhạc ở trờng mầm non có rất ít bài múa, mà đa số là
các bài vận động theo nhạc.
- Múa gắn liền với giờ học giáo dục âm nhạc, mà cha đợc tách rời thành một
hoạt động học tập độc lập.
- Cơ sở vật chất cho của các trờng mầm non phụ vụ cho bộ môn múa còn
nghèo nàn, cha đúng quy cách và cha đợc quan tâm nhiều.
- Còn nhiều trẻ ít có điều kiện tiếp xúc múa nên khả năng múa còn hạn chế.
Đa số trẻ chỉ biết vỗ tay theo nhịp, theo tiết tấu, vận động theo nhạc và múa minh
hoạ một số bài đơn giản.
15
Chơng II: Nghiên cứu thực trạng hoạt động múa cho
trẻ hiện nay ở trờng mầm non Liên cơ
I. Khái quát về quá trình điều tra
1. Địa bàn điều tra
Trên cơ sở quan sát điều tra về việc tổ chức cho trẻ múa ở một số lớp mẫu
giáo 5 tuổi ở trờng mầm non Liên cơ. Tôi nhận thấy rằng cơ sở vật chất của trờng
là tơng đối đầy đủ, nhng diện tích lớp rất chật hẹp, số trẻ trong cùng một lớp quá
đông. Vì vậy, cha có phòng tập múa đủ tiêu chuẩn. Trẻ tập múa ở trong lớp, sân
trờng, đây cũng là một trong những khó khăn của nhà trờng trong việc luyện tập
và phát triển năng khiếu múa cho trẻ.
Trình độ giáo viên của trờng đạt chuẩn (trung cấp) trở lên, nhiệt tình với
công việc, yêu nghề, mến trẻ. Trẻ học tập tại trờng đều khoẻ, tâm sinh lý phát
triển bình thờng. Các cháu phần lớn đến trờng ngay từ tuổi nhà trẻ và theo học
đến hết tuổi mẫu giáo.
Phụ huynh của trờng phần lớn là gia đình công chức Nhà nớc nên đã có
nhận thức đúng đắn về sự trởng thành và phát triển của con mình.
2. Mục đích điều tra
Tìm hiểu thực trạng về tổ chức dạy nâng cao khả năng thể hiện múa cho trẻ
mẫu giáo lớn ở trờng mầm non Liên Cơ. Từ đó đa ra các biện pháp, các hình thức
dạy múa phù hợp với từng bài hát đã đợc lựa chọn trong và ngoài chơng trình.
3. Thời gian điều tra
Trong suốt thời gan từ tháng 11/2009 đến tháng 03/2010
4. Nội dung điều tra
Một số bài hát dạy trẻ trong chơng trình và các bài trong quyển tập Trẻ
mầm non ca hát.
5. Phơng pháp điều tra
16
Tôi quan sát và trực tiếp dạy múa cho trẻ lớp 5 tuổi của trờng do tôi dạy, ghi
chép các hình thức tổ chức vận động theo nhạc. Sau đó trao đổi với giáo viên
cùng lớp về các lần tổ chức dạy múa ở các giờ học trớc để tìm hiểu thêm về một
số biện pháp của giáo viên đã sử dụng khi tổ chức cho trẻ múa.
II. Kết quả điều tra
- Về chơng trình học: Vụ giáo dục mầm non đã đa vào chơng trình vận động
theo nhạc những bài hát múa để dạy cho trẻ. Những bài múa đợc xây dựng động
tác theo nhịp điệu và minh hoạ nọi dung phản ánh cuộc sống muôn màu, muôn
vẻ của con ngời nhằm giúp trẻ hứng thú và yêu nghệ thuật múa. Với số lợng bài
hát múa trong chơng trình mẫu giáo lớn trong cả năm học lợng dạy bài múa là
quá ít so với nhu cầu ham thích múa của trẻ. Với những bài múa, vận động minhh
hoạ rất đơn giản, hình thức biểu diễn chỉ đội hình vòng tròn, vòng cung, xếp hành
theo tổ nhóm, trẻ cha biết thay đỏi đội hình trong một bài hát múa. Vì vậy múa
của trẻ thờng có nội dung biểu diễn đơn điệu, không hấp dẫn trẻ, đặc biệt là với
sự nhận thức hiện nay của trẻ.
1. Phơng pháp dạy của giáo viên
- Về phơng pháp dạy của giáo viên: Hầu hết các giáo viên còn quá phụ thuộc
vào phân phối chơng trình và hớng dẫn trong bài soạn gợi ý của trẻ, cha mạnh
dạn thay đổi, sáng tạo các hình thức và dàn dựng các động tác mới. Giáo viên cha
su tầm bổ sung những bài múa ngoài chơng trình để mở rộng nhận thức của trẻ,
tránh sự nhàm chán của trẻ, phát triển khả năng cảm thụ và yêu thích nghệ thuật
múa.
Trên thực tế cho thấy trẻ đợc làm quen với các động tác múa minh hoạ bằng
các hình thức khác nhau, xem các buổi biểu diễn vào chiều thứ 6, xem các buổi
biểu diễn của ngày lễ hội trong trơng trình mầm non, xem qua băng hình hoặc
trên tiết học âm nhạc.
đơn điệu cha phù hợp với nội dung, giáo viên cha thể hiện đợc sắc thái. Trên
tiết dạy giáo dục âm nhạc cho trẻ, giáo viên chỉ dạy một cách thụ động, dập
17
khuôn, máy móc. Vì thế cha gây cho trẻ đợc sự say mê, yêu thích những điệu
múa mới.
Qua điều tra một số lớp mẫu giáo lớn, tôi thấy giờ tổ chức cho trẻ nghe một
số bài hát có tính chất vui tơi, rộn ràng và có thể cho trẻ múa cùng cô thì giáo
viên lại không làm nh vậy. Thậm chí có bài cô không múa minh hoạ lời ca mà
chỉ hát cho trẻ nghe, cho trẻ nghe qua đàn, qua băng đĩa. Còn các bài hát cô có
múa minh hoạ thì những động tác còn và tình cảm qua động tác minh hoạ. Nh
vậy, giáo viên thực hiện chơng trình còn dập khuôn máy móc, cha phát huy cao
tính sáng tạo nghệ thuật, cha khai thác đợc nhiều yếu tố trong bài hát để có thể
làm cho tiết học phong phú, sinh động. Đặc biệt, các cô giáo cha chú ý lựa chọn
các bài ngoài chơng trình có nội dung và tính chất phù hợp với trẻ để đa vào bài
dạy.
2. Khả năng tiếp nhận của trẻ
Các cháu rất thích múa, dù chỉ là múa vài bài trong chơng trình. Dù giáo
vien tạo cho trẻ niềm say mê múa thì trẻ vẫn say sa thể hiện một cách tự nhiên,
vui vẻ. Điều đó chứng tỏ rằng múa là một nhu cầu thiết yếu của trẻ, trẻ sẽ đợc
cảm thụ một cách tốt hơn nếu đợc tiếp xúc thờng xuyên với múa, đợc học những
điệu múa phong phú và đa dạng hơn.
Tuy nhiên, ở lứa tuỏi này sự tập chung chú ý của trẻ có hạn chế, do trẻ cha
nhớ đợc sự di chuyển của đội hình, thờng xuyên bị động, kỹ năng nhảy, xoay ng-
ời, cuộn cổ tay còn kém, chính vì thế giáo viên không nên đa ra động tác minh
hoạ quá khó đối với trẻ.
3. Nguyên nhân thực trạng
Qua quá trình khảo sát thực tế, tôi nhận thấy để phát triển khả năng sáng tạo
của giáo viên trong một số biện pháp nâng cao khả năng múa cho trẻ mẫu giáo
lớn (5-6 tuổi) các nhà hoạch định cần đa ra một hệ thống các phơng pháp dạy
múa cho trẻ theo trình tự từ đơn giản đến phức tạp.
Bên cạnh đó, giáo viên cha đi sâu tìm tòi và nghiên cứu các biện pháp dạy
múa cho trẻ, số giáo viên có năng khiếu tổ chức tiết dạy múa còn hạn chế, mặt
18
khác cơ sở vật chất của nha trờng cha đảm bảo đạt yêu cầu, học sinh trong một
lớp quá đông 44-55 trẻ, trong khi đó phòng học nhỏ, cha đủ không gian để trẻ tập
múa nên việc dàn dựng một số tiết mục múa rất là khó khăn, tiết học chỉ lớt qua,
đơn thuần là thuộc động tác.
19
Chơng III. Đề xuất thực nghiệm và kết quả
thực nghiệm
I. Nội dung thực nghiệm
1. Cơ sở định hớng cho nội dung thực nghiệm
2. Quán triệt mục tiêu chăm sóc giáo dục trẻ
3. Quan điểm giáo dục củ buki
1. Quan điểm về một số bài hát múa đợc tuyển chọn
Qua quá trình điều tra tìm hiểu thực trạng cũng nh các hình thức múa của trẻ
mẫu giáo lớn, tôi chọn lựa một số trong và ngoài chơng trình mẫu giáo lớn. Mỗi
bài đều có hình tợng rõ ràng. Thông qua các bài hát múa này trẻ đợc tiếp xúc
nhiều hơn các hình thức vận động theo nhạc: múa minh hoạ, múa biểu diẽn, múa
sinh hoạt. Những bài này phải đảm bảo các yêu cầu sau:
+ Bài hát múa phải đáp ứng đợc yêu cầu giáo dục, phù hợp với sở thích và
khả năng tiếp thu của trẻ.
+ Bài hát múa phải có nội dung gắn liều với các hiện tợng tự nhiên, xã hội
gần gũi với trẻ.
+ Về âm nhạc: Nó có hình tợng rõ ràng trong sự thống nhất với lời ca, nhịp
điệu dễ nhớ, dễ thể hiện các động tác minh hoạ.
Tóm lại: Những bài hát đợc lựa chọn không phải là mới, nó có nội dung
phản ánh hiện thực gần gũi với trẻ. Tôi sử dụng những biện pháp khác nhau trong
mỗi bài, tích hợp các bộ môn khác vào bài dạy để có hiệu quả giáo dục tốt hơn
với trẻ.
Vì vậy, tôi lựa chọn những bài hát sau:
1. Đi học
2. Múa cho mẹ xem
3. Inh lả ơi
2. Các biện pháp
* Biện pháp kế thừa
20
- Nghe trực tiếp: Cô hát múa, trẻ hát múa, xem bạn hát múa
- Nghe qua phơng tiện: Nghe đài, nghe tivi, nghe đàn
* Biện pháp bổ sung
- Cô và cháu múa minh hoạ có sử dụng các loại dụng cụ, quần áo, trang
phục múa, ô màu, gùi đeo
- Cải tiến hình thức dạy múa cũ, áp dụng các hình thức đã học để dạy các
hình thức múa: múa minh hoạ, múa biểu diễn, múa sinh hoạt.
II. Tiến hành thực nghiệm
1. Địa bàn thực nghiệm
Tôi tiến hành thực nghiệm ngay tại trờng mình đang công tác là trờng Mầm
non Liên Cơ - TP Lạng Sơn Tỉnh Lạng Sơn. Cơ sở vật cất của trờng còn gặp
nhiều khó khăn, diện tích lớp chật hẹp. Nhng trờng có đội ngũ giáo viên tơng đối
đồng đều, có năng khiếu về hát múa. Trờng đã có nhiều thành tích tốt trong các
đợt diễn văn nghệ của ngành.
Nhng thực trạng dạy múa cho trẻ ở 6 tuổi lớp còn nhiều hạn chế. Qua tìm
hiểu một số lớp trong trờng thì thấy rằng giáo viên chủ yếu dạy theo bài soạn gợi
ý, cha sáng tạo ra những động tác múa minh hoạ bài hát để tạo sự sinh động cho
tiết học.
Khi thực nghiệm, tôi lựa chọn lớp mẫu giáo lớn 5 tuổi A và lớp mẫu giáo lớn
5 tuổi B của trờng. Đã tiến hành thực nghiệm, tôi chọn ngẫu nhiên mỗi lớp 20
cháu (cả trai và gái). Các cháu đều khoẻ mạnh, tâm sinh lý phát triển bình thờng.
Lớp mẫu giáo 5 tuổi A làm đối chứng, lớp mẫu giáo 5 tuổi B làm thực nghiệm.
2. Mục đích thực nghiệm
Tổ chức tiết học múa cho tất cả các cháu đều đợc tham gia. Trên cơ sở đó tôi
đa vào tiết học Các biện pháp nâng cao chất lợng tiết học múa. Qua đó tôi có
thể đánh giá đợc sự hứng thú của trẻ cũng nh năng lực tiếp thu, khả năng thể hiện
múa của trẻ.
3. Tiến hành thực nghiệm
21
- Giai đoạn 1: Khảo sát trẻ trớc thực nghiệm
Nhằm đo xem khi cha có sự tác động của tôi thì mức độ hứng thú múa của
trẻ sẽ nh thế nào. Từ đó có số liệu để đánh giá và so sánh sau khi làm thực
nghiệm.
- Giai đoạn 2: Thực nghiệm hình thành
Sau khi nghiên cứu phân tích nội dung bài hát múa, tôi tiến hành sử dụng
các biện pháp mới vào bài múa đã đợc lựa chọn, sử dụng đồ dùng trực quan để
minh hoạ vào bài hát.
Khi tiến hành thực nghiệm ở hai nhóm tôi đã sử dụng tiến trình dạy múa nh
sau:
- Bớc 1: Giới thiệu về bài múa cho trẻ xem
- Bớc 2: Tổ chức cho trẻ múa
Trớc khi múa cho trẻ xem, tôi dùng các hình thức giới thiệu bài hấp dẫn,
ngắn gọn thu hút trẻ tập trung chú ý vào bài nhằm gây hứng thú ngay từ đầu tiết
học. Khi muốn trẻ múa cùng cô giáo thì cô giáo phaỉ dùng biện pháp múa mẫu
chọn vẹn cả bài. Sau đó mới dùng lời ngắn gọn, dễ hểu để phân tích từng động
tác cho trẻ.
Tuỳ theo nội dung từng bài múa mà sử dụng các thủ thuật khác nhau để gây
hứng thú cho trẻ khi tiếp nhận những bài múa đó ở cả hai nhóm đối chứng và
thực nghiệm. Khi tính phần trăm, tôi đều đo ở cả 3 mức độ và cho điểm ở mỗi
mức độ đó. Việc cho điểm ở mỗi mức độ nhằm tính X để ra điểm trung bình
trong mức độ tập trung chú ý, hứng thú múa cho trẻ ở từng bài.
Thang đánh giá đợc chia ở mức độ sau:
- Mức độ cao (3 điểm): Trẻ thực hiện đợc 3 tiêu chí đó là đúng động tác,
đúng nhạc, diễn cảm.
- Mức độ trung bình (3 điểm): Trẻ thực hiện đợc 3 tiêu chí đó là đúng động
tác và đúng nhạc,
- Mức độ thấp (1 điểm): Trẻ thực hiện đợc 1 trong 2 tiêu chí đó là đúng động
tác nhng không đúng nhạc hoặc đúng nhạc nhng không đúng động tác.
22
Để tính % X tôi dùng phơng pháp quan sát để cho điểm từng mức độ.
Cách tính %: T = S x 100/P
Trong đó: T là số phần trăm trẻ hứng thú múa ở mức độ đó
S là số trẻ hứn thú múa ở mức độ đó
P là tổng số trẻ tham gia thực nghiệm
Cách tính X: X = Q/P
Trong đó: X là tổng số điểu trung bình của trẻ ở cả 3 mức độ
Q là tổng điểm cộng lại
P là tổng số trẻ tham gia thực nghiệm
Tôi tiến hành đa ra các biện pháp, các động tác múa mới vào nhóm thực
nghiệm và có sử dụng biện pháp kế thừa có sẵn trong chơng trình, còn nhóm đối
chứng tôi chỉ sử dụng biện pháp, phơng pháp và các động tác nh trong bài soạn
gợi ý.
III. Kết quả thực nghiệm
1. Kết quả khảo sát trớc thực nghiệm
Bài 1: Đi học (Bùi Đình Thảo Minh Chính)
Tổng số trẻ tham gia: 20 trẻ
Trong đó:
- Không tập trung hứng thú múa: 9 trẻ
- Mức độ trung bình: 7 trẻ
- Mức độ hứng thú cao nhất: 4 trẻ
Kết quả % nh sau:
- Mức độ 1: 20%
- Mức độ 2: 35%
- Mức độ 3: 45%
Bài 2: Múa cho mẹ xem (sáng tác: Xuân Giao)
Tổng số trẻ tham gia: 20 trẻ
Trong đó:
- Không tập trung hứng thú múa: 7 trẻ
23
- Mức độ trung bình: 8 trẻ
- Mức độ hứng thú cao nhất: 5 trẻ
Kết quả % nh sau:
- Mức độ 1: 25%
- Mức độ 2: 40%
- Mức độ 3: 35%
X = 1,9%
Bài 3: Inh lả ơi (Dân ca Thái)
Tổng số trẻ tham gia: 20 trẻ
Trong đó:
- Không tập trung hứng thú múa: 11 trẻ
- Mức độ trung bình: 6 trẻ
- Mức độ hứng thú cao nhất: 3 trẻ
Kết quả % nh sau:
- Mức độ 1: 15%
- Mức độ 2: 30%
- Mức độ 3: 55%
X = 1,6%
Bảng 1: Mức độ hứng thú trớc khi thực hiện
Bài
Hứng thú múa
Mức độ 1 Mức độ 2 Mức độ 3 X (%)
1 20% 35% 45% 1,75%
2 25% 40% 35% 1,9%
3 15% 30% 55% 1,6%
2. Kết quả thực nghiệm ở giai đoạn 2
Bài 1: Đi học (Bùi Đình Thảo Minh Chính)
24
Sau khi đa các biện pháp bổ xung vào bài múa, có sự phối hợp nhịp nhàng
giữa các động tác múa, với trang phục quần áo dân tộc, xoè ô đã thu hút đợc đa
số trẻ trong lớp hởng ứng.
Tổng số trẻ tham gia: 20
Trong đó:
- Hởng ứng say mê múa: 15 trẻ
- Mức trung bình: 4 trẻ
- Cha tập chung: 2 trẻ
Kết quả % nh sau:
- Mức độ 1: 70%
- Mức độ 2: 20%
- Mức độ 3: 10%
X = 2,6
Bài 2: Múa cho mẹ xem (sáng tác: Xuân Giao)
Đây là bài hát dạy trong chơng trình kết hợp với mọt số biện pháp kế thừa và
dạy trẻ hát, nghe hát qua băng, tôi thấy trẻ hứng thú hơn vào bài học và những
động tác múa vẫy tay, hái đào, chạy bớc nhỏ đã tạo thành một tổ hợp múa sinh
động theo lời ca của bài hát.
Tổng số trẻ tham gia: 20
Trong đó:
- Hởng ứng say mê múa: 16 trẻ
- Mức trung bình: 3 trẻ
- Cha tập chung: 1 trẻ
Kết quả % nh sau:
- Mức độ 1: 80%
- Mức độ 2: 15%
- Mức độ 3: 5%
X = 2,75%
Bài 3: Inh lả ơi (Dân ca Thái)
25