Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Nhu cầu tham vấn tâm lý của học sinh thpt trên địa bàn quận liên chiểu thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 90 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TRƯỜNG
ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA TÂM LÝ - GIÁO DỤC
----------------

HỒ THANH THỦY

NHU CẦU THAM VẤN TÂM LÝ CỦA HỌC
SINH THPT TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN LIÊN
CHIỂU - THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH CỬ NHÂN TÂM LÝ HỌC


ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TRƯỜNG
ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA TÂM LÝ – GIÁO DỤC
----------------

HỒ THANH THỦY

NHU CẦU THAM VẤN TÂM LÝ CỦA HỌC
SINH THPT TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN LIÊN
CHIỂU THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH CỬ NHÂN TÂM LÝ HỌC
MÃ NGÀNH: 605

Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS. LÊ QUANG SƠN



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan các nội dung nghiên cứu và kết quả trong đề tài này là
trung thực, chưa được ai cơng bố trong bất cứ cơng trình nào. Nếu có bất kỳ sự gian
lận nào, tơi xin chịu trách nhiệm trước Hội đồng cũng như kết quả bài nghiên cứu
của mình.


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành tốt đề tài nghiên cứu này, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến
PGS.TS. Lê Quang Sơn, người thầy đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong suốt
quá trình thực hiện đề tài này. Bên cạnh đó, em xin chân thành cảm ơn các thầy cô
giáo, các bạn sinh viên trong Khoa Tâm lý – Giáo dục và các thầy cô, học sinh
trường THPT Phạm Phú Thứ, Nguyễn Trãi, Nguyễn Thượng Hiền đã tạo điều kiện
thuận lợi và nhiệt tình giúp đỡ để em hồn thành tốt bài khóa luận này.
Mặc dù đã cố gắng nhưng đề tài không tránh khỏi những thiếu sót. Em mong
nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô giáo và các bạn để đề tài được hoàn thiện
hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Đà Nẵng, tháng 5 năm 2014
Sinh viên thực hiện

Hồ Thanh Thủy


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT

Từ viết tắt


Ý nghĩa

1

RCT

Rất cần thiết

2

CT

Cần thiết

3

KCT

Khơng cần thiết

4

TB

Trung bình

5

TS


Tần số

6

THPT

Trung học Phổ thơng

7

HS

Học sinh

8

GV

Giáo viên

9

NXB

Nhà xuất bản


DANH MỤC CÁC BẢNG
STT


Tên bảng

Trang

1

Bảng 3.1: Mức độ cần được tham vấn tâm lí trong các lĩnh 44
vực của học sinh THPT

2

Bảng 3 . 2 : Mức độ cần được tham vấn tâm lí trong các lĩnh 46
vực của học sinh THPT xét theo trường

3

Bảng 3 . 3 : Mức độ cần được tham vấn tâm lí trong các lĩnh 48
vực xét theo lớp

4

Bảng 3 . 4 : Mức độ cần được tham vấn tâm lí trong các lĩnh 49
vực của học sinh THPT xét theo giới tính

5

Bảng 3 . 5 : Lí do học sinh THPT cần được tham vấn tâm lí 51
trong các lĩnh vực

6


Bảng 3.6 : Lý do học sinh THPT cần được tham vấn tâm lý 53
trong các lĩnh vực xét theo trường

7

Bảng 3.7: Lý do học sinh THPT cần được tham vấn tâm lý 54
trong các lĩnh vực xét theo lớp

8

Bảng 3.8: Lý do học sinh THPT cần được tham vấn tâm lý 58
trong các lĩnh vực xét theo giới

9

Bảng 3 . 9 : Cách thức giải quyết khó khăn tâm lý của học sinh 60
THPT trong các lĩnh vực

10

Bảng 3 . 1 0 : Cách thức giải quyết khó khăn tâm lý của học sinh 61
THPT trong các lĩnh vực xét theo trường

11

Bảng 3 . 1 1 : Cách thức giải quyết khó khăn tâm lý của học sinh 62
THPT trong các lĩnh vực xét theo khối lớp và giới tính

12


Bảng 3.12: Đánh giá của học sinh THPT về việc được hỗ trợ 65
tâm lý.

13

Bảng 3.13: Mong muốn của học sinh THPT về phòng tham 66
vấn tâm lí ở trường PT


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
STT
1

Tên biểu đồ

Trang

Biểu đồ 3.1 : Biều đồ thể hiện mức độ cần được tham vấn tâm lý 45
trong các lĩnh vực của học sinh THPT

2

Biểu đồ 3.2: Cách thức giải quyết khó khăn tâm lý của học sinh 61
THPT


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.....................................................................................................1

2. Mục đích nghiên cứu...............................................................................................2
3. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu .........................................................2
4. Giả thuyết nghiên cứu .............................................................................................3
5. Nhiệm vụ nghiên cứu ..............................................................................................3
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu ..................................................................................3
7. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................................3
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI ......................................................5
1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề ...................................................................5
1.1.1. Nghiên cứu ở nước ngoài ..................................................................................5
1.1.2. Nghiên cứu ở trong nước ..................................................................................8
1.2. Lý luận chung về tham vấn tâm lý .....................................................................10
1.2.1. Khái niệm tham vấn và tham vấn tâm lý ........................................................10
1.2.2. Nội dung tham vấn tâm lý...............................................................................14
1.2.3. Các hình thức tham vấn tâm lý .......................................................................15
1.2.4. Mục đích và chức năng của tham vấn tâm lý..................................................17
1.2.5. Nguyên tắc tham vấn tâm lý............................................................................18
1.2.7. Những phẩm chất nghề nghiệp của nhà tham vấn tâm lý ...............................19
1.3. Lý luận chung về nhu cầu tham vấn tâm lý của học sinh THPT .......................20
1.3.1. Nhu cầu ...........................................................................................................20
1.3.1.1. Khái niệm .....................................................................................................20
1.3.1.2. Đặc điểm nhu cầu.........................................................................................21


1.3.1.3. Các mức độ của nhu cầu ..............................................................................23
1.3.1.4. Sự hình thành nhu cầu..................................................................................24
1.3.1.5. Vai trò của nhu cầu ......................................................................................25
1.3.2. Nhu cầu tham vấn tâm lý của học sinh THPT ................................................26
1.3.2.1. Đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh THPT ....................................................26
1.3.2.2. Nhu cầu tham vấn tâm lý của học sinh THPT .............................................29
CHƯƠNG II: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU..31

2.1. Tổ chức nghiên cứu thực trạng ..........................................................................31
2.1.1. Mục đích..........................................................................................................32
2.1.2. Quy trình tiến hành nghiên cứu.......................................................................32
2.2. Các phương pháp nghiên cứu nhu cầu tham vấn tâm lý của học sinh THPT trên
địa bàn quận Liên Chiểu- Đà Nẵng...........................................................................33
2.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết .................................................................33
2.2.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn..................................................................33
2.2.2.1. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi............................................................33
2.2.2.2. Phương pháp phỏng vấn...............................................................................41
2.2.3. Phương pháp hỗ trợ .........................................................................................41
Tiểu kết chương II.....................................................................................................42
CHƯƠNG III: THỰC TRẠNG NHU CẦU THAM VẤN TÂM LÝ CỦA
HỌC SINH THPT TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN LIÊN CHIỂU- ĐÀ NẴNG .........42
3.1. Mức độ cần được tham vấn tâm lý trong các lĩnh vực của học sinh THPT.......42
3.1.1. Mức độ cần được tham vấn tâm lí của học sinh THPT xét theo trường....45
3.1.2. Mức độ cần được tham vấn tâm lí trong các lĩnh vực xét theo lớp.............46
3.1.3. Mức độ cần được tham vấn tâm lí ở các lĩnh vực xét theo giới tính...........47
3.2. Lí do học sinh THPT cần được tham vấn trong các lĩnh vực .....................50
3.2.1. Lí do học sinh cần được tham vấn tâm lí trong các lĩnh vực xét theo
trường .......................................................................................................................52
3.2.2. Lí do học sinh cần được tham vấn tâm lí trong các lĩnh vực xét theo lớp .55


3.2.3. Lí do học sinh cần được tham vấn tâm lí trong các lĩnh vực xét theo giới
tính.............................................................................................................................56
3.3. Cách thức học sinh giải quyết khó khăn, vướng mắc trong các lĩnh vực ..58
3.3.1. Cách thức giải quyết khó khăn, vướng mắc của học sinh trong các lĩnh
vực xét theo trường..................................................................................................60
3.3.2. Cách thức giải quyết khó khăn, vướng mắc của học sinh trong các lĩnh
vực xét theo lớp và giới tính. ...................................................................................61

3.4. Mong muốn của học sinh THPT về phòng tham vấn tâm lí ở trường phổ
thơng .........................................................................................................................62
Tiểu kết chương III....................................................................................................64
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ .........................................................................66
1. Kết luận .................................................................................................................66
2. Khuyến nghị ..........................................................................................................67
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................69


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, nền kinh tế - xã hội với sự phát triển ở tốc độ nhanh và đầy biến
động đã đem lại những thay đổi đáng kể trong đời sống vật chất, tinh thần của
mỗi con người trong xã hội. Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực nó cũng gây
ra khơng ít những mâu thuẫn, xung đột và tác động tiêu cực đến đời sống của mỗi
cá nhân, gia đình và xã hội. Ở mỗi cá nhân xuất hiện những khó khăn tâm lí mà tự
bản thân mỗi cá nhân khơng thể giải quyết được, họ đã phải tìm đến sự trợ giúp
của tham vấn tâm lí - một loại hình dịch vụ đang ngày càng phổ biến trong xã hội
hiện đại.
Áp lực lớn từ những vấn đề của xã hội hiện đại cũng làm cho quá trình phát
triển của học sinh THPT - lứa tuổi đang trong giai đoạn hình thành và phát triển
nhân cách mạnh mẽ nhất - diễn ra không hồn tồn phẳng lặng, êm xi mà ở mỗi
giai đoạn phát triển thường xảy ra những lo âu, căng thẳng, xung đột riêng. Có thể
thấy rằng những năm học ở trường THPT là quãng thời gian quan trọng với
nhiều dấu ấn trong cuộc đời học tập của con người, đây là gian đoạn có nhiều
thay đổi trong tâm lí của mỗi cá nhân. Do đó khi gặp những căng thẳng về tâm lí,
nếu học sinh được tham vấn, giải tỏa kịp thời thì những ảnh hưởng tiêu cực của
nó đến cuộc sống nói chung và đến kết quả học tập sẽ giảm đi rõ rệt. Ngược lại,
các em có thể bị stress, lo âu, trầm cảm hoặc có những hành vi lệch chuẩn. Việc
ra đời của các phòng tham vấn tâm lí ở các trường THPT là điều rất cần thiết.

Đứng trước thực trạng trên cho thấy rất cần có những mơ hình tham vấn tâm
lý cho HS. Việc xây dựng mơ hình tham vấn tâm lý cho HS trong nhà trường sẽ
giúp cho giáo viên và HS hiểu biết rõ hơn về những vấn đề liên quan tới sự hình
thành và phát triển nhân cách của các em để giúp đỡ và hướng cho các em phát triển
một cách đúng đắn, lành mạnh, hiểu về bản thân và người khác tốt hơn. Tuy nhiên,
hiện nay ở nước ta mô hình tham vấn tâm lý trong trường học cịn chưa được thực
hiện một cách phổ biến. Riêng ở Thành phố Đà Nẵng hoạt động tham vấn tâm lý
cho HS tại các trường phổ thơng cịn hạn chế. Vì vậy việc tìm hiểu nhu cầu tham


vấn tâm lý của HS là rất cần thiết, trên cơ sở đó đánh giá nhu cầu tham vấn của HS
theo các mức độ khác nhau để từ đó xác định phương hướng tổ chức các hoạt động
tham vấn nhằm đáp ứng nhu cầu của các em.
Vấn đề đặt ra là cần phải tìm hiểu xem có những ngun nhân cơ bản nào
gây ra những khó khăn tâm lí của các em? Nhu cầu tham vấn tâm lí của các em ở
mức độ nào? Lĩnh vực nào các em cần được tham vấn nhiều nhất? Để từ đó xác
định phương hướng tổ chức các hoạt động tham vấn nhằm đáp ứng nhu cầu của
các em học sinh trên phạm vi của quận Liên Chiểu nói riêng và thành phố Đà
Nẵng nói chung.
Xuất phát từ những lí do trên nên đề tài được chọn để nghiên cứu là: “Nhu
cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT trên địa bàn quận Liên Chiểu – thành
phố Đà Nẵng” nhằm mục đích đánh giá chính xác nhu cầu được tham vấn tâm lí
của các em học sinh THPT. Từ đó đề xuất một số biện pháp định hướng tổ chức
công tác tham vấn tâm lí trong trường THPT, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt
động của phòng tham vấn trong nhà trường phổ thơng để hoạt động tham vấn tâm
lí thực sự trở thành người bạn đồng hành của học sinh THPT.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT trên
địa bàn quận Liên Chiểu – thành phố Đà Nẵng. Trên cơ sở đó đề xuất biện pháp
định hướng tổ chức công tác tham vấn trong trường THPT trên địa bàn quận Liên

Chiểu - thành phố Đà Nẵng nói riêng cũng như trên phạm vi toàn thành phố Đà
Nẵng.
3. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT trên địa bàn quận Liên Chiểu
- thành phố Đà Nẵng
3.2. Khách thể nghiên cứu
Học sinh THPT trên địa bàn quận Liên Chiểu - thành phố Đà Nẵng thuộc 3
trường: THPT Nguyễn Trãi, THPT Nguyễn Thượng Hiền, THPT Phạm Phú Thứ.
Đối tượng khảo sát: học sinh của 3 trường THPT Nguyễn Trãi, THPT Nguyễn


Thượng Hiền, THPT Phạm Phú Thứ. (Học sinh được chọn ngẫu nhiên mỗi trường
ba lớp ở ba khối 10, 11, 12) và giáo viên chủ nhiệm các lớp đó trên địa bàn quận
Liên Chiểu- Đà Nẵng
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Quy mô: 349 học sinh của 3 trường THPT Nguyễn Trãi, THPT Nguyễn
Thượng Hiền, THPT Phạm Phú Thứ. (Học sinh được chọn ngẫu nhiên mỗi trường
ba lớp ở ba khối 10, 11, 12) và 9 giáo viên chủ nhiệm các lớp đó trên địa bàn quận
Liên Chiểu - thành phố Đà Nẵng
Không gian: các trường THPT trên địa bàn quận Liên Chiểu - thành phố Đà
Nẵng
Thời gian: từ tháng 1 đến tháng 5 năm 2014
4. Giả thuyết nghiên cứu
Nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT trên địa bàn quận Liên ChiểuĐà Nẵng biểu hiện ở mức cao, tuy nhiên có sự khác biệt về nội dung cần được
tham vấn ở các trường, khối lớp và giới tính do nhiều nguyên nhân.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu các vấn đề lý luận liên quan đến đề tài
Khảo sát thực trạng nhu cầu tham vấn tâm lý của học sinh THPT trên địa bàn
quận Liên Chiểu - thành phố Đà Nẵng

Đề xuất các biện pháp nhằm định hướng tổ chức công tác tham vấn tâm lý cho
học sinh THPT trên địa bàn quận Liên Chiểu - thành phố Đà Nẵng
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu các biểu hiện của nhu cầu tham vấn tâm lý của
học sinh THPT trên địa bàn quận Liên Chiểu - thành phố Đà Nẵng năm học 20132014.
7. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này tôi sử dụng các phương pháp sau:
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
- Phân tích- tổng hợp lý thuyết


- Phân loại và hệ thống hóa lý thuyết
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
- Phương pháp phỏng vấn
7.3. Phương pháp hỗ trợ
- Sử dụng phương pháp thống kê toán học


CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Nghiên cứu ở nước ngồi
Nhu cầu là những địi hỏi tất yếu hợp quy luật, đảm bảo cho sự tồn tại và
phát triển của cơ thể. Khi bàn đến nhu cầu, các triết gia kinh điển đã viết: “Bản
thân nhu cầu đầu tiên được thỏa mãn, hành động thoả mãn và công cụ đã đạt được
để thoả mãn nhu cầu ấy lại đưa tới những nhu cầu mới, vừa nảy sinh ra những nhu
cầu mới này là sự việc lịch sử đầu tiên”.[15, 76]
Từ đầu thế kỷ XIX, Small (người Mỹ) đã thấy những hoạt động tâm lí của
cá nhân bắt nguồn từ những nhu cầu của nó (về của cải, quyền lực, về sự tán
thành của người khác…). Vào giữa thế kỷ XIX, V.Koller, E.Thorndike,

N.E.Miller… nghiên cứu các kiểu hành vi động vật được thúc đẩy bởi nhu cầu và
đưa ra thuật ngữ “luật hiệu ứng” để giải thích sự liên hệ giữa kích thích và đáp ứng
của cơ thể. Trên cơ sở này, họ đề xướng lý thuyết nhu cầu cơ thể quyết định hành
vi. Cuối thế kỷ XIX, S.Freud đã đưa vấn đề nhu cầu vào Lý thuyết bản năng của
con người. Theo Freud, lực vận động hành vi con người nằm trong bản năng. Ông
khẳng định rằng, tất cả hành vi của con người đều hướng tới việc mong muốn
những nhu cầu của cơ thể.
Vào những năm của thế kỷ XX đã xuất hiện một loạt các nghiên cứu về nhu
cầu ở con người. Chẳng hạn như lý thuyết động cơ hệ của K.Lewin cho rằng,
những nhân tố thực của hoạt động tâm lí của con người khơng chỉ xuất phát từ
nhu cầu cơ thể mà còn xuất phát từ nhu cầu xã hội.
Đại diện tiêu biểu cho trường phái tâm lí học nhân văn là A.Maslow trong
cơng trình nghiên cứu của mình đã chỉ ra rằng, con người có những nhu cầu
chân chính về giao tiếp, về sự lệ thuộc, về tình u, về lịng kính trọng…
Những nhu cầu này có bản chất, bản năng đặc trưng cho giống người. Như vậy,
theo ơng “tính người” của nhu cầu được hình thành trong q trình phát sinh lồi
người. Mọi nhu cầu thuộc hệ thống thứ bậc đều có liên quan đến cấu trúc cơ thể
của con người và được dựa trên một nền tảng di truyền nhất định. Ông đã hình
dung nhu cầu và sự phát triển của con người theo một chuỗi liên tiếp như chiếc


cầu thang gồm năm bậc từ thấp đến cao: Nhu cầu sinh lí, nhu cầu an tồn, nhu
cầu được thừa nhận, nhu cầu về sự tự trọng và nhu cầu tự thể hiện. Mỗi bậc nhu
cầu của con người đều phụ thuộc vào bậc nhu cầu trước đó, cịn nhà tâm lí học
người Mỹ - Herry Murray đã xây dựng bảng phân loại nhu cầu gồm 20 loại nhu
cầu. [7, 172]. Ông cho rằng, nhu cầu là một động lực xuất phát từ cơ thể và sự
thỏa mãn nhu cầu địi hỏi phải có sự tác động qua lại với các tình huống xã hội,
phải có sự cải tổ nhằm mục đích đạt được sự thích ứng. Tuy chịu nhiều ảnh hưởng
của S.Freud nhưng theo ơng nếu chỉ giải thích như Freud thì q đơn giản. Theo
thuyết của ơng, những nhu cầu tâm lí xác định được ở con người là những mức độ

khác nhau và cường độ mạnh yếu khác nhau ở từng người. Ở người này có
những loại nhu cầu này mãnh liệt nhưng ở người khác lại có những loại nhu cầu
khác. Tuy nhiên ơng khơng hề đả động trực tiếp đến vấn đề nội dung của các nhu
cầu, động cơ của nhân cách, tính quy định xã hội của các nhu cầu và động cơ gây
ra hành động.
Đến nửa cuối thế kỷ XX có rất nhiều quan niệm khác nhau về nhu cầu của
con người được bổ sung và được trình bày trong các cơng trình nghiên cứu của
Mc.Clelland, Carl Rogers, Rom Harré… Các tác giả này đều nhấn mạnh đến tầm
quan trọng của nhu cầu xã hội và khẳng định đây chính là tác nhân tích cực cho sự
phát triển cá nhân.
Trong tâm lí học Xơ Viết, khái niệm nhu cầu giữ vai trị nền tảng trong việc
nghiên cứu chủ thể, khơng có nó thì khơng có cuộc sống. Nhưng để thỏa mãn
các nhu cầu cần phải có hồn cảnh thích hợp, phải có những phương tiện cho
phép thỏa mãn những nhu cầu. Khi đã có sẵn nhu cầu và phương tiện thỏa mãn nhu
cầu thì chủ thể sẽ sẵn sàng thực hiện hành động đưa đến thỏa mãn nhu cầu. Đó
chính là tâm thế thực hiện hành động, nó là một khâu cần thiết với thực tại và các
chức năng tâm lí. Người đầu tiên đề cập một cách khá sâu sắc tới vấn đề nhu cầu
và ý nghĩa của nó đối với hoạt động của con người là D.N.Uznadze trong cuốn
sách Tâm lí học đại cương xuất bản năm 1940. Theo ông, nhu cầu là yếu tố đặc
trưng cho một cơ thể sống, là cội nguồn của tính tích cực và nó phát triển tương
ứng với sự phát triển của con người. Khi có một nhu cầu cụ thể nào đó xuất hiện,


chủ thể hướng sức lực của mình vào hiện thực khách quan nhằm thỏa mãn nhu
cầu đó. Ở con người tồn tại hai dạng nhu cầu cơ bản: nhu cầu cấp thấp (nhu cầu tồn
tại - đói, khát, tình dục…) và nhu cầu cấp cao (nhu cầu đạo đức, thẩm mỹ, trí
tuệ…). Trong những hành vi hàng ngày của mình con người không chỉ mong
muốn thỏa mãn những nhu cầu cấp thấp mà còn mong muốn thỏa mãn những nhu
cầu cấp cao và ở mỗi cá nhân khác nhau mức độ mỗi loại nhu cầu này là khác
nhau. Sự chiếm ưu thế của nhu cầu cấp cao hay cấp thấp ở mỗi cá nhân là do điều

kiện sống, điều kiện giáo dục, phụ thuộc vào ấn tượng, sự thể nghiệm mà con
người thấy có ý nghĩa.
Dựa trên quan điểm triết học Mac-Lênin, X.L.Rubinstêin cho rằng, con
người có nhu cầu sinh vật nhưng bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ
xã hội, vì vậy cần xem xét đồng thời các vấn đề cơ bản của con người với nhân
cách. Ông nhấn mạnh sự cần thiết của con người về một “cái gì đó” nằm ngồi cơ
thể. “Cái gì đó” chính là đối tượng của nhu cầu, có khả năng đem lại sự thỏa mãn
nhu cầu thông qua sự hoạt động của chủ thể. Theo ông, nhu cầu là một thành tố
của động cơ, chính là hạt nhân của nhân cách cho nên nhu cầu sẽ xác định những
biểu hiện khác nhau của nhân cách, đó là xúc cảm, tình cảm, ý chí, hứng thú, niềm
tin. Vì vậy thực tế nhu cầu là xuất phát điểm của một loạt các hiện tượng tâm lí,
tuy nhiên khi nghiên cứu về nhân cách chúng ta không nên xuất phát từ nhu cầu
mà phải khám phá ra quá trình nảy sinh và biểu hiện của nhu cầu, đồng thời phải
thống nhất các yếu tố khách quan (thuộc về đối tượng) với yếu tố chủ quan (trạng
thái tâm lí của chủ thể) trong quá trình hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu.
Từ quan niệm trên ta thấy, nhu cầu của con người vừa mang tính tích cực,
vừa mang tính chủ động. Cụ thể: Nhu cầu là sự đò i hỏi cần được thỏa mãn ở chủ
thể nhưng được thỏa mãn hay không thỏa mãn lại phụ thuộc vào hệ thống các đối
tượng trong những điều kiện cụ thể (tính thụ động của nhu cầu); mặt khác nhu cầu
sẽ thúc đẩy chủ thể tích cực tìm kiếm đối tượng, phương thức, phương tiện thỏa
mãn nhu cầu – nhu cầu thúc đẩy hoạt động, kích thích hoạt động (tính tích cực
của nhu cầu). Chính từ hai mặt này mà ta thấy được sự hình thành và phát triển của
nhu cầu. Đó là sự vận động bên trong của nhu cầu theo những giai đoạn, cấp độ


nhất định.
Khi đề cập đến nhu cầu A.N.Leonchiev đã xác định hai cấp độ của nó: là
trạng thái tâm lí bên trong, là điều kiện bắt buộc của hoạt động. Nó thể hiện trạng
thái thiếu thốn của cơ thể. Nhưng do chưa có đối tượng để thỏa mãn nên ở cấp
độ này nhu cầu chỉ có khả năng phát động sức mạnh của các chức năng tâm lí và

tạo ra sự kích thích chung. Kết quả, dẫn đến các hành vi tìm tịi vơ hướng. Cấp độ
thứ hai, cao hơn, nhu cầu gặp gỡ đối tượng. Ở cấp độ này nhu cầu có khả năng
kích thích, hướng dẫn và điều chỉnh hoạt động theo một hướng rõ ràng: hướng đến
đối tượng thỏa mãn nhu cầu. Như vậy, nhu cầu theo đúng nghĩa tâm lí học (ở
cấp độ tâm lí) phải gắn liền với đối tượng của nó. [13, 589]. Nói cách khác nhu
cầu phải được “vật hoá”, “đối tượng hoá” vào trong thực thể khách quan, ở bên
ngoài chủ thể, hướng dẫn và kích thích chủ thể về phía đó. Sự phát triển của nhu
cầu là sự phát triển nội dung đối tượng của nó.
Leonchiev đi sâu phân tích bản chất tâm lí của nhu cầu và đã khẳng định:
“Nhu cầu với tính chất là một sức mạnh nội tại chỉ có thể được thực thi trong hoạt
động. Nhu cầu không chỉ là những cái mà chủ thể sinh ra đã có và chi phối hồn
tồn hoạt động của con người mà nó nảy sinh trong q trình hoạt động và sau đó
quay trở lại chi phối hoạt động của con người theo sơ đồ
Hoạt động - Nhu cầu - Hoạt động
Ơng cho rằng, nhu cầu của con người khơng chỉ được sản xuất ra mà còn
được cải biến ngay trong q trình sản xuất và tiêu thụ và đó cũng chính là mấu
chốt để hiểu được bản chất các nhu cầu của con người.
1.1.2. Nghiên cứu ở trong nước
Ở nước ta, những đề tài nghiên cứu về vấn đề nhu cầu tham vấn tâm lí của
đối tượng học sinh THPT đã được một số tác giả thực hiện:
Trong đề tài “Khó khăn tâm lí và nhu cầu tham vấn của học sinh phổ
thơng” nhóm tác giả Dương Diệu Hoa, Vũ Khánh Linh, Trần Văn Thức (2007) đã
chỉ ra các khía cạnh thể hiện khó khăn tâm lí ở học sinh THPT là khó khăn trong
việc xác định lựa chọn nghề nghiệp cho tương lai, khó khăn trong học tập, băn


khoăn về sự phát triển tâm sinh lí của bản thân, khó khăn trong quan hệ với cha
mẹ, thầy cơ. Nghiên cứu đã chỉ ra sự cần thiết của hoạt động tham vấn trong nhà
trường và những hình thức tham vấn mà học sinh quan tâm như tham vấn trực
tiếp tại trường, qua thư, qua điện thoại.

Các tác giả Trương Bích Nguyệt (2003), Võ Thị Tích (2004) đã tìm hiểu
nhu cầu về nội dung và hình thức tham vấn trong nhà trường cũng như yêu cầu
về phẩm chất và năng lực của nhà tham vấn, tác giả đã kết luận thành lập phòng
tham vấn trong nhà trường là việc rất cần thiết với yêu cầu phải có chuyên viên
tham vấn có trình độ chun mơn về tâm lí giáo dục và phải có một số phẩm
chất cần thiết như: dễ gần và thân thiện, biết thông cảm và chia sẻ, tơn trọng và
giữ bí mật…[14], [16]. Nghiên cứu về nội dung tham vấn giới tính của học sinh
nhóm tác giả Ngơ Đình Qua, Nguyễn Thượng Chí (2006) đã đưa ra kết luận là cả
học sinh THCS và học sinh THPT đều có nhu cầu được tư vấn về tâm lí - giới
tính, nhưng số học sinh THPT có nhu cầu chiếm tỉ lệ % cao hơn. Nhu cầu này
chưa được người lớn đáp ứng đầy đủ vì vậy cần phải có phịng tư vấn tâm lí giáo
dục đặt tại các trường trung học.
Tác giả Trần Thị Minh Đức và Đỗ Hồng (2006) trong nghiên cứu về tham
vấn học đường nhìn từ góc độ giới đã đề cập đến sự khác biệt về nhu cầu tham vấn
của học sinh nam và nữ. Theo nhóm tác giả, nhà tham vấn học đường cần nắm
được những mối quan tâm khác nhau giữa học sinh nam và học sinh nữ, phân tích
được các tác động của mối quan hệ tham vấn, hiệu quả giữa nhà tham vấn học
đường là nam hay nữ khi làm việc với học sinh là nam hay nữ… Từ đó đề xuất
việc nâng cao nhận thức về giới của các nhà tham vấn học đường thơng qua các
khóa học lấy giới làm trung tâm trong quá trình tham vấn. [4]
Nghiên cứu về “Nhu cầu được giáo dục sức khỏe sinh sản của học
sinhTHPT tác giả Nguyễn Hà Thành (2009) đã đưa ra kết luận: Tất cả học sinh
THPT đều có nhu cầu hiểu biết và được giáo dục về sức khỏe sinh sản. Học
sinh THPT mong muốn chương trình giáo dục sức khỏe sinh sản được chính
thức đưa vào trường học
Tìm hiểu về những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tham vấn tâm lí cho học


sinh ở các trường THPT tác giả Lê Thị Minh Loan (2010) cho biết hiện nay đã có
gần 50 trường phổ thơng có phịng tham vấn tâm lí nhưng chủ yếu tập trung ở hai

thành phố lớn là Hà Nội và Hồ Chí Minh. Tuy nhiên mức độ tiếp cận với hoạt
động này của học sinh còn khá khiêm tốn (chỉ có 0.3% học sinh thường xun đến
phịng tham vấn, số lượng học sinh đến tham vấn ở mức độ thỉnh thoảng và thường
xuyên chiếm chưa đến 7%). Nguyên nhân của tình trạng trên thì có nhiều nhưng
có ba nhóm yếu tố quan trọng, tác động trực tiếp xuất phát từ bản thân học sinh,
những người làm công tác tham vấn trong trường THPT và từ phía nhà trường, xã
hội. [10]
Ngồi ra cịn rất nhiều những bài viết trên tạp chí Tâm lí học, các bài tham
luận đăng trong các kỷ yếu hội thảo khoa học, đề cập đến nhu cầu của tham vấn
cũng như sự cần thiết của chuyên viên tâm lí trong trường học và cách thức tổ
chức các hoạt động tham vấn trong trường đã phản ánh phần nào về nhu cầu tham
vấn tâm lí của thanh thiếu niên, đặc biệt các vấn đề tâm lí hay gặp phải của họ cũng
như các hình thức tham vấn phù hợp. Như vậy, có thể thấy rằng nhu cầu đòi hỏi về
tham vấn trong xã hội hiện nay là rất lớn, nhất là ở lứa tuổi học sinh phổ thông mà
hoạt động tham vấn một cách chuyên nghiệp ở nước ta còn rất mới mẻ cả về
nghiên cứu lý luận và thực tiễn. Đặc biệt là trên địa bàn huyện vùng sâu vùng xa
thì hoạt động tham vấn gần như bị bỏ ngỏ, các cơng trình nghiên cứu cịn rất ít ỏi.
Điều đó đang đặt ra cho chúng ta sự nỗ lực rất nhiều trong nghiên cứu, phát triển
tham vấn trên mọi phương diện. Xuất phát từ hoàn cảnh thực tiễn này tôi triển
khai đề tài “Nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT trên địa bàn quận
Liên Chiểu – thành phố Đà Nẵng” nhằm đánh giá chính xác nhu cầu được tham
vấn tâm lí của các em nơi đây và để góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của
phòng tham vấn trong các trường phổ thông hiện nay.
1.2. Lý luận chung về tham vấn tâm lý
1.2.1. Khái niệm tham vấn và tham vấn tâm lý
Tham vấn (Counselling) là một thuật ngữ khơng cịn xa lạ ở Việt Nam
trong khoảng 10 – 15 năm trở lại đây, tuy nhiên cho đến nay vẫn còn đang tồn tại
nhiều cách hiểu khác nhau liên quan đến thuật ngữ này.



Khơng riêng gì ở Việt Nam mà tại các nước Phương tây và Bắc Mỹ thuật
ngữ tham vấn cũng được hiểu ở nhiều mức độ khác nhau. Đơi khi, nó dùng để chỉ
những hoạt động của người giúp đỡ thông thường hoặc của tình nguyện viên, họ
được xem như như là người làm công tác trợ giúp. Hay những người làm công tác
tham vấn chuyên nghiệp tại các bệnh viện, trung tâm, dịch vụ xã hội hoặc các
trường học với nền tảng kiến thức về tâm lí học, cơng tác xã hội hoặc các ngành
khác. Dưới đây có thể dẫn ra một số cách hiểu của các tác giả trong và ngoài
nước về khái niệm này:
Theo hiệp hội tham vấn Hoa Kì (ACA, 1997): Tham vấn là sự áp dụng
nguyên tắc tâm lí, sức khoẻ tinh thần hay nguyên tắc về sự phát triển con người
thông qua các chiến lược can thiệp một cách có hệ thống về nhận thức, xúc cảm,
hành vi, tập trung vào sự lành mạnh, sự phát triển cá nhân, phát triển nghề nghiệp
cũng như vấn đề bệnh lí. Định nghĩa này cũng xác định rằng quá trình tham vấn
được hiểu như là một mối quan hệ tự nguyện giữa nhà tham vấn và khách hàng,
trong mối quan hệ này nhà tham vấn giúp khách hàng tự xác định và tự giải quyết
vấn đề của mình. P.K.Onner cho rằng, tham vấn là một quá trình vì vậy đòi hỏi nhà
tham vấn phải dành thời gian nhất định và sử dụng các kỹ năng một cách thuần
thục để giúp đỡ thân chủ tìm hiểu, xác định vấn đề và triển khai các giải pháp
trong điều kiện cho phép.
Richard Nelsson (1997) cho rằng mục tiêu của tham vấn là hướng tới thay
đổi cách thức cảm nhận, suy nghĩ và hành động của con người để giúp họ tạo nên
một cuộc sống tốt đẹp hơn. Theo ông, tham vấn là một quá trình can thiệp, giải
quyết vấn đề với một mối quan hệ, một quá trình tương tác đặc biệt giữa người
làm tham vấn và thân chủ. Ông cho rằng tham vấn có thể được sử dụng ở những
cấp độ khác nhau, có thể là dạng hoạt động mang tính chuyên sâu của các nhà
tâm lí học, cán sự xã hội hay đơn thuần là một phần công việc của giáo viên, y tá,
tình nguyện viên. [5]
Trong Từ điển Tâm lí học, bác sĩ Nguyễn Khắc Viện hiểu tham vấn là q
trình các chun gia chẩn đốn, tìm hiểu căn nguyên và thiết lập cách xử lí đối với
những trẻ em có vấn đề về tâm lí. [18]



Theo tác giả Bùi Thị Xuân Mai: Tham vấn tâm lí là một hoạt động mà nhà
chun mơn bằng kiến thức, hiểu biết và kỹ năng nghề nghiệp của mình, thấu hiểu
những cảm xúc, suy nghĩ, hành vi của đối tượng (cá nhân, gia đình hay nhóm),
giúp họ khai thác nguồn lực, tiềm năng cho quá trình giải quyết. [11]
TS Trần Thị Giồng thì định nghĩa: “Tham vấn là sự tương tác giữa nhà tham
vấn và thân chủ, trong quá trình này nhà tham vấn sử dụng các kỹ năng chuyên
môn giúp thân chủ khơi dậy tiềm năng để họ có thể tự giải quyết vấn đề đang gặp
phải”.
PGS.TS Trần Tuấn Lộ cho rằng, Tham vấn là tham vấn với chính thân chủ
đang có vấn đề cần tìm cách giải quyết phù hợp.
TS. Trần Thị Minh Đức đã đưa ra khái niệm khá tồn diện, phản ánh nhiều
góc độ. Theo tác giả, tham vấn là một tiến trình tương tác giữa người làm tham
vấn - người có chun mơn và kỹ năng tham vấn, có phẩm chất đạo đức của nghề
tham vấn và được pháp luật thừa nhận, với thân chủ - người đang có vấn đề khó
khăn về tâm lí cần được giúp đỡ. Thơng qua các kỹ năng trao đổi, chia sẻ thân
mật, tâm tình, giúp thân chủ hiểu và chấp nhận thực tế của mình, tự tìm lấy tiềm
năng bản thân để giải quyết vấn đề của chính mình. [9]. Như vậy, q trình tham
vấn nhằm giúp cho thân chủ tự chịu trách nhiệm với cuộc đời mình, tự tìm cách
giải quyết các vấn đề của mình, nhà tham vấn chỉ là người soi sáng vấn đề, giúp
về mặt thông tin, giải tỏa các xúc cảm gây ảnh hưởng tiêu cực đến các quyết định
của thân chủ chứ không đưa ra lời khuyên hay quyết định hộ vấn đề cho thân chủ.
Tham vấn là tiến trình giúp đỡ chứ khơng làm hộ cho thân chủ, q trình tự
quyết sẽ giúp thân chủ mạnh lên, giám nghĩ và đương đầu với vấn đề khó khăn
của chính mình.
Từ những khái niệm trên có thể rút ra một số đặc điểm của tham vấn như sau:
Tham vấn là một tiến trình có mở đầu, diễn biến, kết thúc và phải mang tính
liên tục. Một q trình tham vấn bao gồm các giai đoạn cụ thể khác nhau có thể
kéo dài trong một vài ngày, một tuần, một tháng, thậm chí một vài năm. Thơng

thường một ca tham vấn có thể diễn ra với 5 giai đoạn sau:
Giai đoạn 1: Thiết lập quan hệ.


Giai đoạn 2: Thu thập, xử lí thơng tin, đánh giá vấn đề.
Giai đoạn 3: Tìm kiếm cách giải quyết và giúp thân chủ lựa chọn giải pháp
thích hợp nhất.
Giai đoạn 4: Giám sát và trợ giúp thân chủ thực hiện giải pháp.
Giai đoạn 5: Kết thúc tham vấn.
Tham vấn là một hoạt động diễn ra trong một quá trình với các hoạt động xây
dựng mối quan hệ, khai thác tìm hiểu xác định vấn đề, giải quyết vấn đề.
Tham vấn là sự trợ giúp: Trợ giúp trong quá trình tham vấn là giúp thân chủ
những công cụ, phương tiện tâm lí để họ tự giúp chính bản thân mình, củng cố lại
cái tơi của họ từ đó có đủ tự tin trong việc ứng phó với những khó khăn trong cuộc
sống. bản chất của tham vấn là phương pháp trợ giúp người có vấn đề tự giải quyết
vấn đề của chính mình chứ khơng phải là đưa ra lời khuyên mà chúng ta thường
hiểu. Nhiệm vụ của nhà tham vấn phải làm là một chỗ dựa tinh thần để thân chủ
có cơ hội và có đủ tự tin nhìn lại mình một cách khách quan.
Tham vấn là trợ giúp, khai thác tiềm năng của thân chủ để thân chủ tự giải
quyết vấn đề của mình. Khả năng thích ứng ở mỗi con người là rất lớn và bản
thân thân chủ đến với nhà tham vấn cũng có khả năng này nhưng chưa ý thức
được hoặc cố tình khơng ý thức được. Nhiệm vụ của nhà tham vấn là giúp thân
chủ nhìn thấy tiềm năng của chính mình, đánh thức và sử dụng chúng để xử lí
tình huống mà họ đang gặp phải. Những khó khăn của thân chủ là những vấn đề
mang tính chất riêng tư và chính họ là người trong cuộc, là người trực tiếp cảm
nhận, trải nghiệm, đánh giá hậu quả của tình huống và trực tiếp lượng giá
những tác động tích cực hoặc tiêu cực do việc giải quyết tình huống mang lại. Vì
vậy chỉ có thân chủ mới là người hợp lí và có đủ điều kiện để thực thi các chiến
lược cải thiện cuộc sống cho chính bản thân họ. Tất nhiên họ khơng thể làm việc
một cách độc lập mà cần có sự giúp đỡ của nhà tham vấn nhưng quyền quyết định

và đứng ra thực hiện cuối cùng phải là thân chủ. Họ phải tích cực, chủ động giải
quyết vấn đề và cải thiện tình trạng cho chính bản thân mình. Với ý nghĩa này
tham vấn có tác dụng là giúp thân chủ nâng cao khả năng đối phó với vấn đề trong
cuộc sống.


Như vậy, có thể nhận thấy hoạt động tham vấn được diễn ra trên cơ sở mối
quan hệ giao tiếp đặc biệt, địi hỏi sự tương tác tích cực giữa người làm tham vấn
và đối tượng. Người làm tham vấn là người được trang bị các giá trị, thái độ đạo
đức nghề nghiệp, những tri thức hiểu biết về tâm lí con người và các kỹ năng tham
vấn để thấu hiểu đối tượng, giúp đối tượng vượt lên chính mình. Còn đối tượng
được tham vấn do nhiều nguyên nhân khác nhau trở nên mất cân bằng về tâm lí,
khó khăn trong thích nghi, hồ nhập xã hội.
Trong đề tài nghiên cứu chỉ giới hạn ở việc nghiên cứu nhu cầu tham vấn
tâm lí của học sinh THPT. Từ những phân tích ở trên tơi quan niệm rằng: Tham
vấn tâm lí là một tiến trình trợ giúp đối tượng (người đang có khó khăn về tâm lí
cần được giúp đỡ) nâng cao nhận thức, duy trì sự thăng bằng tâm lí, tăng cường
khả năng ứng phó với các vấn đề nảy sinh trong cuộc sống của bản thân, ra quyết
định phù hợp với hồn cảnh của mình và thực hiện quyết định một cách hiệu quả.
1.2.2. Nội dung tham vấn tâm lý
Con người sống trong xã hội hiện đại ngày càng chịu nhiều áp lực. Bởi vậy
mỗi khi có những khúc mắc không được giải quyết người ta thường nghĩ tới việc
tìm lời khuyên, sự trợ giúp từ những nhà tham vấn chun nghiệp. Chính vì vậy, nội
dung tham vấn ngày càng được mở rộng ra trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.
Chúng ta có thể kể đến một số lĩnh vực tham vấn đang phát triển rộng rãi hiện nay
như:
- Tham vấn Tình u – Hơn nhân – Gia đình: Nhà tham vấn hỗ trợ thân chủ
(khách hàng) trong việc giải quyết các vấn đề như: xung đột giữa nam và nữ, quan
hệ tình dục trước hơn nhân, mang thai, các bệnh lây qua đường tình dục, mặc cảm
tình dục, xung đột và bạo lực trong gia đình (cha m ẹ - con cái, vợ - chồng, giữa các

thế hệ với nhau…)…
- Tham vấn học đường: Tham vấn và trợ giúp cho học sinh, sinh viên về các
vấn đề mà lứa tuổi này hay gặp phải trong cuộc sống, học tập như: các mối quan hệ
bạn bè (áp lực bạn đồng đẳng…), gia đình, thầy cơ; tham vấn hướng nghiệp; tham
vấn về sức khỏe sinh sản; học lực, khả năng học tập…


- Tham vấn sức khỏe sinh sản vị thành niên: Nhà tham vấn hỗ trợ thân chủ giải
quyết những vấn đề mà họ gặp phải liên quan tới giới tính, mang thai, nạo phá thai,
các biện pháp phòng tránh thai, HIV/ AIDS, các trục trặc liên quan đến các chức
năng tình dục…
- Tham vấn sức khỏe tinh thần: Nhà tham vấn trợ giúp khách hàng nhằm giải
quyết các vấn đề liên quan đến sức khỏe tinh thần như stress, lo âu, trầm cảm, mặc
cảm tội lỗi, sự tuyệt vọng… nhằm tạo điều kiện cho khách hàng có được sự khỏe
mạnh về mặt tâm trí, giúp họ thích nghi với áp lực cuộc sống tốt hơn.
- Tham vấn về y tế (những lo lắng của khách hàng về việc sử dụng thuốc như:
an thần, ma túy, chất kích thích…), luật pháp…
1.2.3. Các hình thức tham vấn tâm lý
Tham vấn tâm lý có thể chia thành hai hình thức: tham vấn trực tiếp và tham
vấn gián tiếp.
- Hình thức tham vấn trực tiếp: tức là có sự gặp gỡ trực tiếp giữa nhà tham vấn
và thân chủ. Nhà tham vấn dùng kỹ năng của mình giúp thân chủ hiểu các nguyên
nhân dẫn đến vấn đề của họ, từ đó nhìn nhận lại vấn đề một cách tích cực hơn, khơi
dậy những tiềm năng của thân chủ để họ tự lựa chọn các giải pháp giải quyết vấn đề
của mình. Đặc điểm của hình thức này là: thơng tin hai chiều trong một thời gian
ngắn; Các kỹ năng tham vấn được sử dụng một cách có hiệu quả. Trong tham vấn
trực tiếp thường có ba loại cơ bản sau: tham vấn cá nhân, tham vấn nhóm, tham vấn
gia đình. Những hình thức tham vấn này thường thấy ở các phòng trị liệu và tham
vấn tâm lý, trong đó tham vấn cá nhân là phổ biến nhất.
+ Tham vấn trực tiếp tại trung tâm tư vấn: Nhà tham vấn và thân chủ đối thoại

trực tiếp với nhau. Loại hình này giúp nhà tham vấn và thân chủ có thời gian trị
chuyện, trao đổi, thiết lập mối quan hệ gần gũi, điều này giúp nhà tham vấn hiểu sâu
sắc hơn vấn đề của thân chủ. Chính vì vậy đây là loại hình tham vấn mang lại hiệu
quả tối ưu nhất. Trong loại hình tham vấn này đòi hỏi nhà tham vấn phải phối hợp
vận dụng các kỹ năng khác nhau để khai thác thông tin, phản hồi, giải quyết vấn
đề…


×