Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

Tài liệu Luận văn tốt nghiệp “Kinh doanh xuất khẩu hàng may mặc ở tổng công ty dệt - may Việt Nam” pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (357.02 KB, 73 trang )

II. VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU HÀNG MAY MẶC ĐỐI VỚI VIỆT
NAM.
Trước khi tìm hiểu vai trò của xuất khẩu chúng ta phải xác định được
nhiệm vụ của chúng đó là:
- Phải biết khai thác có hiệu quả lợi thế của đất nước, kích thích các ngành
kinh tế phát triển.
- Phải góp phần tăng tích luỹ, mở rộng sản xuất tăng thu nhập cho nền kinh
tế quốc dân.
- Xuất khẩu là cải thiện đời sống nhân dân thông qua việc tạo công ăn việc
làm, tạo nguồn thu nhập.
- Phải biết khai thác những thị trường hiện có và quan tâm tới thị trường
chưa được khai thác.
- Lợi dụng khối lượng mua hàng lớn lao của nước ngoài.
- Tìm thị trường cho sản phẩm khi lượng bán giảm sút.
- Mở rộng nền tảng bán hàng để trải rộng chi phí bán hàng.
- Sử dụng năng lực sản xuất thừa.
- Biết được những phương pháp kỹ thuật tiên tiến được sử dụng ở nước
ngoài.
- Theo dõi sự cạnh tranh của các đối thủ có sản phẩm cùng loại trên thị
trường.
Ngoài ra hoạt động kinh doanh xuất khẩu còn phải có nhiệm vụ góp phần
thực hiện tốt chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước: “Đa dạng hoá và đa
phương hoá quan hệ quốc tế, tăng cường hợp tác khu vực “.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ kể trên thì công tác xuất khẩu phải nhận rõ các
vai trò quan trọng sau:
- Thu ngoại tệ về cho đất nước, đây là nguồn vốn quan trọng để thoả mãn
nhu cầu nhập khẩu và tích luỹ phát triển sản xuất. Thật vậy, nhập khẩu cũng
như vốn đầu tư của một nước thường dựa vào ba nguồn chủ yếu là viện trợ, đi
vay, xuất khẩu.
Trong khi mức viện trợ là bị đọng và có hạn, còn đi vay sẽ tạo thêm gánh
nặng cho nền kinh tế thì xu hướng phát triển xuất khẩu để tự đảm bảo và phát


triển được coi như một chiến lược quan trọng mà hầu hết các nước đều ứng
dụng.
- Xuất khẩu là công cụ giải quyết thất nghiệp trong nước; theo
International Trade 1980-1993 ở Mỹ và các nước công nghiệp phát triển cứ
xuất khẩu 1tỷ USD thì tạo được 40 nghìn việc làm trong nước, còn ở các nước
tư bản đang phát triển khác có thể tạo ra 45-50 nghìn chỗ việc làm. ở nước ta
nền công nghiệp còn lạc hậu, năng suất lao động thấp nên xuất khẩu 1 tỷ USD
thì sẽ tạo được trên 50 nghìn chỗ làm việc trong nước.
- Xuất khẩu làm tăng hiệu quả sản xuất trong nước và tăng hiệu quả sử
dụng vốn thông qua tác động ngược chiều đối với việc đổi mới trang thiết bị
hiện đại và phương thức quản lý tiên tiến.
- Khai thác các tiềm năng, phát huy các lợi thế của đất nước, kích thích các
ngành lts phát triển cả về quy mô lẫn chiều sâu. Đặc biệt là sự tác động đến sự
thay đổi cơ cấu ngành kinh tế theo hướng ngày càng sử dụng có hiệu quả các
lợi thế đất nước. Phát triển các ngành công nghiệp, áp dụng kỹ thuật tiên tiến
giúp có thêm nguồn lức công nghiệp mới, tăng năng suất lao động, tiết kiệm
chi phí lao động xã hội.
- Tạo điều kiện mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá của quốc gia.
- Đẩy mạnh xuất khẩu còn có vai trò tăng cường sự hợp tác quốc tế giữa
các nước, nâng cao địa vị và uy tín của Việt Nam trên thương trường quốc tế.
Nhờ có những hàng xuất khẩu mà nhiều Công ty nước ngoài biết đến năng lực
của ta và sẵn sàng thiết lập quan hệ buôn bán và đầu tư.
Như vậy, xuất khẩu nó không chỉ đóng vai trò xúc tác, hỗ trợ phát triển mà
nó có thể thành yếu tố bên trong của sự phát triển; trực tiếp tham gia vào việc
giải quyết các vấn đề bên trong của nền kinh tế quốc dân như vốn, kỹ thuật,
lao động, nguyên liệu, thị trường...
III. THỊ TRƯỜNG CHO HÀNG MAY MẶC VÀ XU HƯỚNG NHẬP
KHẨU HÀNG MAY MẶC TRÊN THẾ GIỚI.
2
1. Về thị trường may mặc Việt Nam.

1.1. thị trường EU:
Thị trường EU với dân số 340 triệu là nơi tiêu thụ lớn và đa dạng các loại
quần áo. Mức tiêu thụ thị trường này là khá cao: 17 kg / người / năm. Ở đây,
người ta có thấy đủ loại hàng hoá từ các nước như Mỹ, Trung Quốc, Nhật,
Hồng Kông, Đài Loan. Hàng năm EU nhập khoảng 63 tỷ USD quần áo vừa
qua hạn ngạch mà EU dành cho công nghệ là 22 nghìn tấn hàng dệt may giá
trị khoảng 450 triệu USD và hiệp định ký cho giai đoạn tới 2001-200 giá trị sẽ
tăng 40% và so với giá trị hiệp định cũ (chi giai đoạn 1996-2000). Đây là thị
trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam và EU ký hiệp định buôn bán dệt
may từ năm 1995 trong đó có hạn ngạch gia công thuần tuý (TPP). Có nghĩa
là khách hàng gửi nguyên phụ liệu từ một nước thứ ba thuê gia công tại Việt
Nam, sau đó xuất sang EU. Còn nếu khách hàng EU gửi nguyên phụ liệu từ
EU sang gia công tại Việt Nam, sau đó xuất ngược lại sang EU thì không tính
vào hạn ngạch. Qua 5 năm thực hiện hiệp định buôn bán hàng dệt may với EU
sản xuất hàng may mặc của Việt Nam sang thị trường này đã có bước tiến
vững chắc. Năm 1996 tổng kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam
vào EU đạt được khoảng 250 triệu USD, năm 1999 đạt 400 triệu USD và dự
kiến năm 2001 sẽ đạt 650 triệu USD.
Bảng 5: Một số chủng loại hàng đạt mức xuất khẩu cao của Việt Nam
vào EU qua các năm (Đơn vị: Triệu chiếc)
Tên hàng Chủng loại 1998 1999 2000
Jacket Cat 21 8,9 9,4 11,7
T- Shirt Cat 4 2,9 3,71
áo len Cat 5 1,65 1,81
Quần Cat 6 1,65 2,4
áo sơ mi nữ Cat 7 0,91 1,49
áo khoách nữ Cat 15 0,13 0,17
áo dài nữ Cat 26 0,19 0,39
Váy ngắn Cat 27 0,14 0,23
(Nguồn: Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam.)

Cũng như các năm trước đây mặt hàng áo Jacket luôn chiếm tỷ trọng lớn
trong cơ cấu xuất khẩu may mặc đi EU và thường chiếm 50% trong tổng kim
ngạch. Chất lượng hàng may mặc Việt Nam đã được khách hàng chấp nhận,
3
chỉ tính riêng năm 1999 hàng dệt-may Việt Nam đã xuất sang tất cả các nước
EU với giá trị hàng trăm triệu USD, đứng đầu là Đức ( 150 triệu USD), Pháp
(60 triệu USD), Tây Ban Nha ( 16 triệu USD), Bỉ ( 10 triệu USD), Thuỵ Điển
(7,5 triệu USD), Bồ Đào Nha ( 1,3 triệu USD)...
Thị trường may mặc EU có tiềm năng và triển vọng rất lớn đối với các
doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, để có được điều đó, các doanh nghiệp
Việt Nam phải tuân thủ những quy định khá nghiêm ngặt khi xuất khẩu vào
thị trường này như:
- Không được mua bán, chuyển nhượng hạn ngạch để xuất khẩu các mặt
hàng có xuất xứ từ các nước khác vào EU.
- Các doanh nghiệp Việt Nam không được lợi dụng thuế ưu đãi, giá nhân
công trong nước rẻ để bán hàng rẻ hơn mức giá hiện hành gây bất lợi cho các
nhà sản xuất cùng loại hàng đó hoặc các mặt hàng trực tiếp bị cạnh tranh của
EU. Có thể sẽ bị áp dụng quy định cụ thể đã được hai bên thoả thuận.
- Các doanh nghiệp Việt Nam không được phép bán hàng cho nước thứ ba
để tái xuất vào EU.
- Đối với hàng gia công tại Việt Nam khi xuất sang EU phải ghi rõ phí gia
công, giá trị nguyên vật liệu mua tại Việt Nam để làm căn cứ giảm thuế nhập
khẩu vào EU.
Trong hiệp định cũng quy định rõ danh mục hàng hoá và kim ngạch mà
Việt Nam đưa vào EU ( tổng cộng 151 nhóm mặt hàng với 108 nhóm thoe
hạn ngạch và 43 nhóm tự do). Hạn ngạch năm trước không dùng hết có thể
chuyển sang năm sau. Đặc biệt trong hiệp định này còn quy định hàng năm
Việt Nam và EU sẽ xem xét khả năng xuất khẩu của Việt Nam để nới lỏng
hạn ngạch cấp cho Việt Nam. Bởi vậy, đây là thị trường tiềm năng lớn, các
doanh nghiệp của ta cần tuân thủ tốt các quy định này, tránh làm tổn hại đến

quan hệ buôn bán giữa nước ta và cộng đồng kinh tế Châu Âu.
1.2. Thị trường Nhật Bản
Nhật Bản là một thị trường nhập khẩu may mặc lớn thứ ba thế giới và đây
là thị trường phi hạn ngạch. Nhưng đây cũng là một thị trường khó tính với
những đòi hỏi khắt khe cả về chất lượng và giá cả, họ thường yêu cầu kiểm
4
tra chất lượng chi tiết và quan tâm nhiều tới mẫu mốt. Ví dụ như:
- Đồ lót, tất: mốt chiếm 70,5%
- Quần áo nữ: 56,4%là mốt; 37,5% là giá và còn lại là phẩm chất.
- Comple nam: 50% là phẩm chất; 43,7% là mốt và còn lại là giá cả.
Với dân số khoảng 120 triệu người và mức thu nhập bình quân đầu người
26 nghìn USD/năm thì nhu cầu về may mặc là không nhỏ, hàng năm Nhật
Bản nhập khẩu khoảng 7-8 tỷ USD hàng may mặc. Năm 1997 hàng may Việt
Nam xuất sang Nhật xấp xỉ 130 triệu USD, năm 1999 xuất sang Nhật chiếm
90% kim ngạch của mảng thị trường không hạn ngạch và đạt 500 triệu USD.
Mặt khác, xuất sang Nhật thường là áo Jacket, quần áo sơ mi do các đơn vị
phía Bắc gia công, áo Kimono do các đơn vị phía Nam thực hiện.
Đây tuy là thị trường đòi hỏi cao song cũng đầy hứa hẹn, neus như đầu tư
tốt, nâng cao được chất lượng, mẫu mã phong phú, màu sắc đa dạng, nắm
vững thị hiếu thì có khả năng hàng may mặc của ta sé phát triển mạnh ở thị
trường này.
1.3. Thị trường Hoa Kỳ và Bắc Mỹ
Mỹ là thị trường khá hấp dẫn, lý tưởng của ngành dệt-may vì dân số Mỹ
khá đông, hiện có 253 triệu người, đa số sống ở thành thị có mức thu nhập
quốc dân cao. Do đó người Mỹ có sức mua lớn và nhu cầu đa dạng. Riêng
hàng dệt may nhu cầu nhập khẩu hàng năm lên tới 30-36 tỷ USD như năm
1999 là 34 tỷ USD. Nguồn nhập chủ yếu là từ các nước Châu Á:
Bảng 6: Một số nguồn nhập khẩu chính về hàng may mặc tại Châu Á
của Hoa Kỳ.
Nước Giá trị ( tỷ USD)

Trung Quốc 6,1
Hồng Kông 5
Hàn Quốc 1,8
Đài Loan 2,3
Các nước ASEAN khác 4,5
(Nguồn: Tổng Công ty dệt may Việt Nam.)
Tháng 2/1997 Mỹ bỏ cấm vận với Việt Nam, tháng 8/1997 Mỹ bỏ cấm vận
5
viện trợ và tháng 7/1998 Mỹ bình thường hoá mối quan hệ với Việt Nam. Tuy
nhiên, chúng ta đang mong chờ được hưởng quy chế tối huệ quốc (MFN-The
Most Favourel Nation) cho hàng nhập khẩu từ Mỹ vào Việt Nam. Đây cũng là
điều kiện chìa khoá để xâm nhập thị trường Mỹ.
Phải nói rằng, thị trường may mặc Bắc Mỹ là một miếng mồi béo bở, hấp
dẫn ngay bởi mức cầu lơn, tính thời trang, mẫu mốt và thị hiếu thể hiện rất rõ
phong cách của người Mỹ; đó là sự phong phú và khác biệt. Song với Việt
Nam sự lạc quan đó vẫn nằm trong nỗi ô âu vì Mỹ chưa dành cho Việt Nam
MFN và như vậy hàng may Việt Nam qua Mỹ phải chịu thuế nhập khẩu còn
rất cao, từ 40-49% giá trị nhập khẩu. Trong khi Trung Quốc và một số nước
khác được hưởng quy chế này chỉ phải chịu thuế 25%. Ưu thế cạnh tranh đã
không tthuộc về các doanh nghiệp Việt Nam. Mặt khác, ngân hàng hai nước
chưa có mối quan hệ bạn hàng bang giao chặt chẽ nên việc thanh toán còn là
một vấn đề bất cập. Trường hợp này đã có thực tế khi có một Công ty Mỹ
muốn trả tiền cho Công ty may Phương Đông, họ không thể mở L/C từ Mỹ
mà phải sang tận Việt Nam yêu cầu Vietcombank Thành phố Hồ Chí Minh
cho phép vừa mở vừa nhận tiền và họ phải trả bằng tiền mặt.
Do những hạn chế nêu trên, kim ngạch hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu
sang Mỹ mới chỉ là mức tương đối. Năm 1997 đạt 2 triệu USD, năm 1998 đạt
5 triệu, năm 1999 đạt 25 triệu và năm 2000 đạt trên 30 triệu USD. Đây mới
chỉ là những con số rất nhỏ bé so với nhu cầu của thị trường Mỹ và khả năng
xuất khẩu của ta. Vậy chúng ta phải làm gì để tích cực xâm nhập được vào thị

trường đầy triển vọng này đang là câu hỏi đặt ra là hết sức cấp bách cho nhiều
nhà quản lý và cả phía doanh nghiệp.
1.4. Thị trường SNG và một số nước Đông Âu
Trong những năm trước khi các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu tan vỡ thì
tỷ trọng kim ngạch của ta vào thị trường này chiếm vị trí khá lớn và đóng vai
trò quan trọng, xuất khẩu theo những hiệp định hàng đổi hàng. Qua thời gian
dài đó nhà xuất khẩu của ta phần nào nắm bắt được thị hiếu, nhu cầu của
người tiêu dùng ở khu vực này và người tiêu dùng cũng đã phần nào quen với
hàng may mặc của ta. Tuy nhiên, kể từ khi các nước XHCN Đông Âu tan vỡ
thì kim ngạch hàng may mặc của ta vào thị trường này giảm mạnh. Hiện nay,
6
hàng may mặc của ta vào thị trường này chủ yếu do các thương gia buôn theo
từng chuyến còn về phía doanh nghiệp thì chỉ mức thấp do chưa tìm được
phương thức thanh toán hợp lý thây thế cho phương thức hàng đổi hàng trước
đây.
Như vậy có thể nói, với Việt Nam đây là thị trường truyền thống mà mấy
năm vừa qua chúng ta để vượt khỏi tầm tay. Cần nhanh chóng tìm ra giải
pháp cần thiết để nối lại quan hệ với thị trường không kém phần hấp dẫn này.
Các doanh nghiệp cần mạnh dạn triển khai phương thức thanh toán mới phát
huy lợi thế vốn có của ta trong nhiều năm qua trên thị trường này.
1.5. Thị trường các nước ASEAN
Việt Nam đã là thành viên chính thức của ASEAN và đang trên tiến trình
thực hiện AFTA, bên cạnh những cơ hội lớn mở ra cũng còn nhiều thách
thức. Phải tiến hành cắt giảm thuế quan và hàng hoá được lưu chuyển tự do
giữa các nước ASEAN tạo nên sự cạnh tranh gay gắt đối với hàng hoá Việt
Nam, buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải nỗ lực cải tiến công nghệ, áp
dụng phương thức quản lý hiện đại và phải tạo được cho mình một nền tảng
vững chắc về mọi mặt để trụ vững trên thương trường. Sản phẩm có được thị
trường chấp nhận hay không quyết định đến sự tốn tại của Công ty. Dưới sức
ép đó sẽ xoá bỏ đi được các Công ty làm ăn trì trệ. Tuy nhiên về phía Việt

Nam chắc chắn sẽ có nhiều Công ty cần phải “lột xác “.
Bù lại, thị trường ASEAN với 430 triệu dân, thu nhập bình quân đầu người
hàng năm 1.608 USD, tốc độ phát triển bình quân 6-8%/ năm, thì đây quả là
một thị trường lớn cho hàng may mặc. ASEAN còn là một thị trường có nền
văn hoá tương đồng lẫn nhau. Do đó thị hiếu, lối sống cũng tương đối giống
nhau, điều này là điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp may mặc Việt
Nam xâm nhập dế ràng hơn.
1.6. Thị trường trong nước
Chúng ta chủ yếu chú trọng đến sản xuất hàng may xuất khẩu và đã có
những đóng góp đáng kể cho nền kinh tế quốc dân. Song chúng ta đã để lại
khoảng trống sau lưng mình đó là thị trường nội địa. Hiện nay, dân số Việt
Nam trên 75 triệu người, chỉ tính khiêm tốn sức mua cũng vào khoảng 750
7
triệu USD/năm (10 USD/người/năm). Đây là con số không nhỏ có sức hấp
dẫn đối với bất kỳ nhà đầu tư nào.
Thực tế trên thị trường Việt Nam còn nhiều mặt hàng second-hand của
nước ngoài, chứng tỏ rằng nhu cầu đã vượt khả năng cung cấp trong nước. Do
vậy, các doanh nghiệp Việt Nam một mặt tăng cường sản xuất hàng xuất
khẩu, một mặt phải chú ý đến sản xuất hàng phục vụ nhu cầu nội địa. Nhà
nước chỉ có biện pháp như giao chỉ tiêu cho một số doanh nghiệp sản xuất
hàng may mặc đáp ứng tiêu dùng trong nước. Tránh bỏ trống thị trường ngay
trong tầm tay.
Trên đây là một số thị trường lớn mà chúng ta đã và đang có được. Cần
phải có biện pháp và định hướng đúng đắn để khai thác nó một cách triệt để.
Mặt khác phải tăng cường mở rộng và tìm kiếm những thị trường đang bị bỏ
ngỏ, đây cũng là mục tiêu mà chúng ta đang đặt ra. Chẳng hạn sẽ tìm cách
tiếp cận thị trường Trung Cận Đông và Mỹ La Tinh là một ví dụ.
2. Xu hướng nhập khẩu hàng may mặc trên thế giới.
Thị trường thế giới sau nhiều năm vận hành độc lập nay đã trở nên có tổ
chức và đang hoạt động trong sự ràng buộc chặt chẽ các thể chế sau:

- Các định chế kinh tế như WTO. GSP. MFA, các công ước về lao động, về
sở hữu trí tuệ...
- Các thể chế về khu vực: EU, NAPTA, ASEAN...
- Các thể chế về tài chính: WB,IMF, ADB và các hiệp định liên ngân hàng.
- Các hiệp định về hàng hoá như về cao su thiên nhiên, cà phê, dầu mở ,
hàng dệt may...
- Các trung tâm giao dịch: Sỏ giao dịch hàng hoá ở Luân Đôn, Paris,
Singapore, Chicago...
- Các công hội vận tải biển, tổ chức hàng không quốc tế (ICAO), tổ chức du
lịch quốc tế, các tính chất liên lạc viễn thông quốc tế, các mạng lưới và trung
tâm dịch vụ tiêu thụ...
Hoạt động của các thể chế quốc tế và khu vực đã đưa lại hiệu quả giúp cho
thương mại quốc tế được ổn dịnh và phát triển. Trong tương lai các định chế
8
này sẽ không thể không tham gia một cách tích cực vào các định chế thế giới
và khu vực nói trên.
Với cơ chế hoạt động của thị trường thế giới như vậy đã ảnh hưởng tới
việc sản xuất và tiêu thụ hàng dệt may trên thế giới. Như khu vực EU đã có
các mức thuế ưu đãi đối với hàng dệt may của các nước đang phát triển xuất
khẩu vào thị trường này. Hiệp định các nước EU đã có hiệp định về hàng may
mặc với từng nước cụ thể, dưới các quy định các sản phẩm Dệt may của
Trung Quốc.
Với các định chế này, nó tạo ra sự công bằng giữa các nước có nền công
nghiệp may phát triển và các nước đang phát triển.
Trong bối cảnh chung của thị trường thế giới như hiện nay, tình hình sản
xuất và xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam cũng có nhiều biến động và nổi
lên một số đặc điểm sau:
+ Năm 2000 đã kết thúc hiệp định buôn bán hàng dệt may với EU hạn
ngạch 22 nghìn tấn dệt may đạt giá trị 450 triệu. Gần đây, Việt Nam đã ký hiệp
định trong lĩnh vực này cho giai đoạn 2001-2003, điều đó sẽ mở ra một triển

vọng to lớn về xuất khẩu hàng dệt may của nước ta.
+ Quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ được cải thiện một cách cơ bản, song quy
chế tối huệ quốc cho Việt Nam vẫn còn là một câu hỏi chưa chính xác. Nếu chế
độ này được áp dụng thì đây sẽ là cơ hội lớn về thị trường hàng dệt may cho
Việt Nam.
+ Kinh tế khu vực phát triển chận lại : việc trao trả Hồng Kông cho Trung
Quốc vào 1/7/2000 vừa qua có thể ảnh hưởng đến kinh tế thị trường khu vực.
Hiện nay một số khách hàng Hồng Kông đang đặt gia công hàng may mặc tại
Việt Nam như vậy sẽ ít nhiều bị biến động. Bên cạnh đó cuộc khủng hoảng
kinh tế ở Châu Á vừa qua làm ảnh hưởng nặng nề tới việc tiêu thụ cũng như
khả năng sản xuất trên thị trường các mặt hàng nói chung và hàng may mặc
nói riêng.
+ Trước đây khách hàng EU tập trung vào thuê gia công áo Jacket ba lớp
(cat 21) và sơ mi (cat 8) tại Việt Nam. Thời gian tới xu hướng chung là giảm
cat 21 và cat 8, đi vào một số cat khác như quần (cat 78), áo (cat 161).
9
+ Xí nghiệp may không ngừng cải tiến trang thiết bị, máy móc nâng cao
năng suất lao động. Bên cạnh đó một số xí nghiệp liên doanh sản xuất hàng
may mặc đã đi vào hoạt động.
+ Mọi năm các xí nghiệp có quota cat 21 thì bắt buộc các khách hàng nước
ngoài phải làm gia công ở xí nghiệp đó để tận dụng quota cat 21. Thời gian
tới, những xí nghiệp nào làm chất lượng tốt, đảm bảo thời gian giao hàng
đúng hạn thì khách hàng mới đặt hàng.
+ Giá cả sợi để dệt vải trên thế giới tăng cao đã ảnh hưởng tới giá thành
sản phẩm quần áo và liên quan tới gia công. Trong khi đó, giá cả sản phẩm
bán ra lại hạ mà giá gia công của Việt Nam nói chung thì ngày càng cao do
yêu cầu của đời sống và lượng thu nhập ngày càng tăng lên của nhân dân. Nó
đã tạo sự mâu thuẫn giữa phía Việt Nam và phí các khách hàng nước ngoài.
+ Bộ Thương mại có chủ trương sắp tới bỏ hoạt động cấp quota cho các
doanh nghiệp sản xuất mà tổ chức đấu thầu quota. Thông tư liên bộ Thương

mại - Công nghiệp điều chỉnh cơ chế giao quyền sử dụng hạn ngạch hàng dệt
may xuất đi EU. Nhà nước cho phép các doanh nghiệp tự quyết định giá cả.
+ Đặc biệt, Viện Mốt của Việt Nam đã đi vào hoạt động đang từng bước
nghiên cứu các kiểu mốt được thịnh hành trên các thị trường thế giới và trong
nước.
+ Hàng may mặc của Việt Nam xuất đi chủ yếu dưới hình thức gia công,
xuất khẩu trực tiếp còn rất thấp. Bên cạnh đó là sự yếu kém trong việc cung
cấp nguyên liệu dầu vào các ngành dệt cho ngành may mặc.
Tính theo kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng thì hàng may mặt Việt Nam
có tốc độ tăng trưởng lớn nhất. Năm 1998 tăng gấp 5 lần so với năm 1994.
Đây là con số khả quan đánh giá sự phát triển ngành may mặc xuất khẩu,
song nhìn vào thực tế thì giá trị ngoại tệ thực thu từ gia công đem lại là 150
triệu USD trên tổng giá trị xuất khẩu là 874 triệu USD, còn năm 1999 là 194
triệu USD trên tổng số kim ngạch xuất khẩu là 1,1 tỷ USD thì quả là xuất
khẩu kiểu này không mấy hiệu quả.
Hiện nay năng lực sản xuất hàng may mặc xuất khẩu của Việt Nam có thể
đạt 2,15 tỷ USD. Đó là kết quả của sự đầu tư không ngừng của các doanh
10
nghiệp, xí nghiệp Việt Nam - hầu hết các địa phương đều có xí nghiệp may ra
đời, các xí nghiệp may như : Công ty may 10, Công ty may Việt Tiến, Công
ty may Đức Giang, Công ty may Nhà Bè.. không ngừng cải tiến trang thiết bị,
đào tạo đội ngũ quản lý, công nhân phục vụ quá trình sản xuất tạo ra sản
phẩm chất lượng cao.
Hiệp hội các xí nghiệp may của Việt Nam hoạt động tích cực, mới đây đã
thành lập Viện mốt với nhiệm vụ tạo mốt, mẫu mã kỹ thuật phục vụ các Công
ty may sản xuất có hiệu quả. Bên cạnh sự đầu tư của các doanh nghiệp Việt
Nam các Công ty nước ngoài cũng đã tham gia đáng kể trong việc đầu tư vào
ngành may mặc, nhiều liên doanh trong lĩnh vực may mặc đã đi vào hoạt
động thu kết quả khả quan. Tất cả đã tạo ra một năng lực sản xuất mới cho
ngành may mặc Việt Nam. Quy mô sản xuất được mở rộng, tay nghề công

nhân không ngừng được nâng lên, mẫu mã được cải tiiến phong phú, đa dạng.
Các yếu tố này gây nên sự hấp dẫn đối với các khách hàng có ý định hợp tác.
3. Một số kinh nghiệm thực tiễn từ hoạt động sản xuất và kinh doanh
xuất hàng may mặc.
Ngành công nghiệp may mặc xuất khẩu Việt Nam đang trên đà phát triển
mạnh mẽ và được nhiều đơn vị, thành phần kinh tế tham gia. Hệ thống các
Công ty , xí nghiệp may từ Trung ương đến địa phương đều trưởng thành
đáng kể. Năm 2000 có trên 400 doanh nghiệp tham gia xuất khẩu dự kiến
2001 con số này sẽ là gần 500 doanh nghiệp. Không những đội ngũ may xuất
khẩu tăng nhanh về số lượng doanh nghiệp mà quy mô doanh nghiệp công
nghệ sản xuất, chất lượng, đội ngũ công nhân lành nghề đang từng bước được
nâng cao. Tất cả những điều này đang là dấu hiệu tốt cho sự khởi sắc của
ngành may Việt Nam khi vươn ra thị trường thế giới.
Tuy nhiên, để làm tốt hơn nữa chứng từ xuất khẩu may mặc, phát huy hết
mọi sức mạnh tiềm tàng của đất nước thì bên cạnh các biện pháp chuyên môn
các nhà xuất khẩu Việt Nam cần phải thường xuyên học hỏi kinh nghiệm từ
các cơ sở may xuất khẩu trong nước và ngoài nước. Thường xuyên coi trọng
công tác tự đánh giá và rút ra những bài học chính mình để kịp thời điều
chỉnh những vấn đề còn yếu kém, tránh thua thiệt trong cạnh tranh, tránh xu
hướng đầu tư sai lầm mà trong thời gian ngắn khó có thể thay đổi được.. Cụ
11
thể trong thực tiễn hoạt động của chúng ta đang còn nổi cộm lên một số vấn
đề lớn sau và cần được nhìn nhận lại một cách nghiêm túc.
Trong đầu tư mua sắc, chuyển giao máy móc công nghệ một số đơn vị do
nguồn vốn hạn hẹp phải mua thiết bị Second-hand đã để khách hàng nước
ngoài lợi dụng đưa thiết bị quá cũ, tân trang lại nên hiệu quả sử dụng rất hạn
chế ; nguy cơ là bãi thải công nghiệp với những cỗ máy lạc hậu tới hàng thế
kỷ. Bên cạnh đó công tác lập luận chứng đầu tư còn phiến diện, thiếu đồng
bộ. Có trường hợp khi mua thiết bị sợi về thấy thiếu thiết bị lạnh lại phải chờ
lập luận chứng mua thiết bị lạnh nên phải mất thêm 2 năm mới sử dụng được,

hoặc thiếu sự phối hợp giữa các khâu trong đầu tư dẫn đến máy móc thiết bị
nhập về rồi mới tính chất đào tạo công nhân. Tình trạng đã dẫn tới thời gian
vay nợ kéo dài nhiều khi ảnh hưởng lớn tới uy tín Công ty vì nguồn vốn vay
đầu tư không được trả đúng hạn thậm chí có trường hợp mất khả năng chi trả.
Khi giao nhận nguyên vật liệu và thành phẩm có trường hợp Công tylàm
hàng gia công trong nước do sơ xuất trong việc cụ thể hoá các chỉ tiêu như :
định mức tiêu hao vật liệu, kiểu cách kết hợ gam màu thời gian và địa điểm
giao nhận, phương thức thanh toán nên khi thực hiện hợp đồng đã để xảy ra
những kết cục tranh chấp đáng tiếc.
Như chúng ta đã biết, hàng may mặc luôn đi kèm với yếu tố thời trang, khi
tham gia thị trường trên thế giới thì các yếu tố đó lại càng phức tạp. Do đó
tăng cường thực hiện chiến lược sản phẩm là con đường thiết thực nhất,
thường xuyên cách tân, thay đổi mẫu mốt, kiểu dáng và nâng cao chất lượng
sản phẩm. Hãy để chính sản phẩm lên tiiếng là việc làm hiệu quả hơn bất cứ
nỗ lực nào. Đây cũng là bí quyết tất cả các doanh nghiệp thành công nhất trên
trường quốc tế.
Học hỏi kinh nghiệm trong đàm phán, ký kết hợp đồng với nước ngoài
cũng đang được coi là việc làm cần thiết. Công tác đàm phán cần được chuẩn
chu đáo bởi đây sẽ là thời điểm xác định lợi ích kinh tế của các bên. Muốn đạt
được lợi ích lớn trước hết phải có nghệ thuật đàm phán khôn khéo, nhiều khi
khách hàng đang có rất nhiều mối hàng nhưng do nghệ thuật thuyết phục của
ta mà họ vẫn chấp nhận đặt hàng với những điều kiện có lợi cho chúng ta.
Trong đàm phán rất cần thiết phải hiểu rõ đối phương (về văn hoá, tài chính,
12
thái độ, phong tục..); tuỳ theo từng đối tượng mà sử dụng các chiến lược đàm
pháp kiểu cứng, chiến lược đàm phán kiểu mềm hay chiến lược đàm phán
kiểu hợp tác. Ngoài ra còn phải chủ ý tới việc nên áp dụng chiến thuật đàm
phán gì ? chiến thuật tri thức hay chiến thuật tâm lý.
Kinh nghiệm tạo uy tín và tạo khả năng xâm nhập vào thị trường nước
ngoài của các doanh nghiệp thành đạt cho thấy cần phải thực hiện song song

hai chiến lược đó là : chiến lược marketing và chiến lược sản phẩm một cách
tốt nhất. Thực hiện chiến lược marketing hợp lý sẽ cho phép sản phẩm của
Công ty được mọi người quan tâm, chú ý. Khi sản phẩm đã được nhiều người
biết đến cần tiếp tục củng cố lòng tin và uy tín với khách hàng bằng chính với
yếu tố nội tại sản phẩm, nhất là với hàng may mặc cần luôn luôn tạo ra tính
đặc thù, có như vậy mới mong duy trì được trên thị trường một cách bền
vững. Có câu nói thấy triết lý mà bao hàm toàn bộ nội dung trên, đó là : “Hãy
tạo dựng uy tín so cho khách hàng sẽ mua sản phẩm của Công ty như một thói
quen”.
Ngoài ra kinh nghiệm xuất khẩu một số nước cũng cho thấy: trong thời
gian mới đầu các đơn vị tham gia xuất khẩu may mặc còn gặp nhiều hạn chế
về vốn, công nghệ, thị trường.. do đó cần phải tăng cường chính sách hỗ trợ
xuất khẩu từ phía Nhà nước. Các nước đã đi lên từng bước, từ chỗ nhận hàng
gia công đến xuất khẩu trực tiếp, từ chỗ chỉ xuất được một số lượng nhỏ với
những mặt hàng may mặc thấp cấp tới việc xuất đi những sản phẩm cao cấp
nhất đạt giá trị cao mà cụ thể là các nước châu Á đã làm được điều đó như:
Hồng Kông, Đài Loan, Nhật Bản, Thái Lan.. với Việt Nam hiện nay sản phẩm
may mặc xuất khẩu chủ yếu dưới dạng nhận gia công do đó thị trường xuất
khẩu của ngành may Việt Nam thực chất là của người đặt ra công. Việc phân
phối sản phẩm hoàn chỉnh đi thị trường nào là quyền của họ. Như vậy dưới
hình thức này Việt Nam sẽ bị tước đi rất nhiều quyền lợi, vừa hạn chế sử
dụng nguyên liệu trong nước vừa mất đi khả năng xâm nhập thị trường chưa
kể đến giá trị lợi nhuận xuất khẩu thu về là rất nhỏ. Do đó Nhà nước cần có
chính sách tập trung đẩy mạnh xuất khẩu trực tiếp là việc làm thiết thực và
cấp bách.
Có nhiều nước đã thực hiện thành công bước nhảy này bằng con đường
13
liên doanh liên kết, thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực may mặc bước đầu
tạo sức mạnh bứt phá về công nghệ, kiểu cách, ấn tượng sản phẩm. Phương
pháp phát huy nội lực kết hợp với sử dụng ngoại lực cần được chúng ta xem

xét vận dụng để sớm tìm ra hướng đi và chỗ đứng vững chắc cho hàng may
Việt Nam trong thị trường may thế giới.
14
I. CHƯƠNG II
II. THỰC TRẠNG KINH DOANH XUẤT KHẨU
HÀNG MAY MẶC Ở TỔNG CÔNG TY DỆT - MAY
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1998-2001.
I. NHỮNG NÉT KHÁI QUÁT VỀ TỔNG CÔNG TY DỆT-MAY VIỆT
NAM.
1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TỔNG CÔNG TY
DỆT-MAY VIỆT NAM:
Ngành Dệt - May xuất khẩu Việt Nam ra đời từ những năm 58 ở miền Bắc
và những năm 70 ở miền Nam, nhưng mãi tới năm 1975 sau khi thống nhất
đất nước thì ngành mới có sự phát triển đáng kể.
Năm 1978, Liên hiệp các xí nghiệp dệt toàn quốc được thành lập trên cơ
sở thống nhất Liên hiệp các xí nghiệp Dệt phía Bắc và Tổng Công ty Dệt phía
Nam, đã phát huy vai trò tích cực trong công tác quản lí ngành kinh tế kĩ
thuật, tạo ra những khả năng liên kết sản xuất giữa hai miền.
Năm 1987-1989, từ tổ chức Liên hiệp các xí nghiệp Dệt chuyển thành Liên
hiệp sản xuất - xuất nhập khẩu Dệt để kết hợp sản xuất và kinh doanh xuất
nhập khẩu. Đến ngày 5/3/1996 Liên hiệp sản xuất, xuất nhập khẩu Dệt được
chuyển thành Tổng Công ty Dệt Việt Nam với chức năng nhiệm vụ là:
- Trung tâm thương mại của ngành dệt, lấy xuất nhập khẩu là trung tâm
hoạt động để thúc đẩy sự phát triển của ngành.
- Làm đầu mối của ngành kinh tế kĩ thuật và là hạt nhân của hiệp hội Dệt
Việt Nam.
Với mô hình này, không đáp ứng được yêu cầu củng cố và phát triển
ngành Dệt, không phát huy được sức mạnh tổng hợp, không tạo được thế và
lực để thúc đẩy sản xuất kinh doanh. Mặt khác, Nghị định 388/HĐBT ra đời
tạo cho các cơ sở phát huy lợi thế chủ động nhưng lại thiếu sự liên kết với

nhau thành sức mạnh, xuất hiện việc tranh mua tranh bán cục bộ bản vị trong
sản xuất kinh doanh, dẫn đến không có một sự chỉ huy thống nhất trong
15
ngành. Do quản lí phân tán nên không đủ sức có đại diện ở nước ngoài, một
cuộc triển lãm ở nước ngoài có nhiều đơn vị tham gia mặt hàng trùng lặp, giá
cả chào hàng không giống nhau. Nhiều Công ty nước ngoài đã lợi dụng sơ hở
về mặt tổ chức và quản lí của ta chèn ép, thủ đoạn dẫn đến thua thiệt cho nền
kinh tế nói chung và cho từng cơ sở ngành dệt nói riêng.
Tiến gần đến thế kỷ 21, công nghiệp dệt may đã và đang có thêm những
thuận lợi để phát triển sôi động với tốc độ ngày càng cao. Song song cùng
phát triển các nguồn lực trong nước, các doanh nghiệp quốc doanh cũng đang
trong quá trình tích cực thay đổi về tổ chức quản lí, sắp xếp lại sản xuất theo
hướng liên kết nhiều đơn vị cùng ngành nghề hoặc cùng cấp quản lí thành
những Tổng Công ty, Công ty lớn : đổi mới thiết bị và công nghệ, tăng cường
đào tạo cán bộ quản lí kỹ thuật, tiếp thị, thiết kế mẫu mã nhằm nâng cao hiệu
quả sản xuất kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường
tiêu thụ trong và ngoài nước. Trên tinh thần này, ngày 29 tháng 4 năm 1998
Chính Phủ Việt Nam đã quyết định thành lập Tổng Công ty Dệt-May Việt
Nam (VINATEX) trên cơ sở thống nhất Tổng Công ty Dệt Việt Nam và Liên
hiệp các xí nghiệp sản xuất-xuất nhập khẩu May nhằm tạo sức mạnh tổng
hợp, tạo được thế và lực để thúc đẩy sản xuất-kinh doanh hàng Dệt-May phát
triển.
Tổng Công ty Dệt May Việt Nam có tên giao dịch quốc tế là Vietnam
National Textile and Garment Corporation, viết tắt là VINATEX. Trụ sở
chính của Tổng Công ty đặt tại 25 Bà Triệu Hà Nội. Tổng Công ty Dệt-May
Việt Nam là một trong 18 Công ty quốc gia hoạt động theo hướng tập đoàn,
chịu sự quản lí trực tiếp của Chính phủ và Bộ công nghiệp. Tổng Công ty có
tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự theo luật định, tự chịu
trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong tổng số vốn do Tổng
Công ty quản lý, có con dấu, có tài sản và các quĩ tập trung, được mở tài

khoản tại ngân hàng trong nước và nước ngoài theo luật định của Nhà nước,
được tổ chức và hoạt động theo điều lệ Tổng Công ty.
Tổng Công ty Dệt May Việt Nam thực hiện nhiệm vụ kinh doanh hàng
dệt, hàng may mặc (từ đầu tư, sản xuất, cung ứng, tiêu thụ, xuất khẩu, nhập
khẩu), tiến hành các hoạt động kinh doanh ngành nghề khác nhau theo qui
16
định của pháp luật. Liên doanh liên kết với các tổ chức kinh tế trong và ngoài
nước. Lựa chọn, khai thác mở rộng thị trường trong và ngoài nước, hướng dẫn
và phân công thị trường cho các đơn vị thành viên. Nghiên cứu ứng dụng
công nghệ và kỹ thuật tiên tiến, đổi mới công nghệ, thiết bị theo chiến lược
chung. Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lí, kĩ thuật và công nhân lành
nghề.
Các ngành nghề kinh doanh cụ thể là : Công nghiệp dệt may : sản xuất
kinh doanh từ nguyên liệu vật tư, thiết bị phụ tùng, phụ liệu hoá chất, thuốc
nhuộm và các sản phẩm cuối cùng của ngành dệt may, xuất nhập khẩu hàng
dệt may gồm các chủng loại tơ, sợi vải hàng may mặc, dệt kim, chỉ khâu,
khăn bông, len thảm đay tơ, tơ tằm, nguyên liệu, thiết bị phụ tùng, phụ liệu
hoá chất, thuốc nhuộm, hàng công nghệ thực phẩm, nông lâm hải sản, thủ
công mĩ nghệ, ô tô xe máy, các mặt hàng công nghiệp tiêu dùng khác, kinh
doanh kho vận, khu ngoại quan. Thiết kế, thi công xây lắp phục vụ ngành dệt
may và xây dựng dân dụng. Dịch vụ khoa học công nghệ, du lịch khách sạn,
nhà hàng văn phòng, vận tải, du lịch lữ hành trong nước, xuất nhập khẩu thiết
bị, phụ tùng ngành dệt may, trang thiết bị văn phòng, thiết bị tạo mẫu thời
trang, phương tiện vận tải, vật liệu điện, điện tử cao su.
Với tổng số vốn khi thành lập là 1.562.500 triệu đồng, trong đó:
-Vốn lưu động: 547.140 triệu đồng
-Vốn cố định : 1.015.360 triệu đồng
Hiện tại, Tổng Công ty có 40 doanh nghiệp thành viên tham gia sản xuất
từ kéo sợi dệt vải, hoàn tất và may mặc, một Công ty tài chính, ba xí nghiệp
sửa chữa và sản xuất phụ tùng, một viện thiết kế kĩ thuật dệt may, một viện

mẫu và thời trang, ba trường đào tạo công nhân. Có các chi nhánh ở thành
phố Hải Phòng và Đà Nẵng và hai Công ty du lịch và dịch vụ thương mại ở
Hà nội và thành phố Hồ Chí Minh. Một số đại diện ở nước ngoài. Bên cạnh
đó, Tổng Công ty còn có Công ty tài chính TFC là tổ chức tạo nguồn vốn cho
hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Sự đổi mới tổ
chức như trên có ý nghĩa kết hợp hai ngành dệt và may trước đây vốn hoạt
động riêng lẻ thành một tổ chức chung để giảm dần sự cạnh tranh phân tán,
manh mún trong đầu tư sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, đồng thời
17
có thể tích tụ, tập trung vốn cho sự phát triển lâu dài vừa chuyên môn hoá vừa
đa dạng hoá một cách cân đối, hài hoà. Trong tương lai không xa, với sự ra
đời của hiệp hội Dệt May Việt Nam đã tạo mái nhà chung cho các doanh
nghiệp Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế có thể liên kết và hỗ trợ nhau
tốt hơn trong sản xuất kinh doanh.
2.CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA TỔNG CÔNG TY DỆT-MAY VIỆT NAM.
Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam có quyền quản lí, sử dụng vốn, đất đai
và các nguồn lực đã được giao theo qui định của pháp luật để thực hiện các
mục tiêu nhiệm vụ do Nhà nước giao. Mặt khác, Tổng Công ty có quyền giao
lại cho các đơn vị thành viên quản lí, sử dụng các nguồn lực mà Tổng Công ty
đã nhận của Nhà nước, điều chỉnh các nguồn lực đã giao cho các đơn vị thành
viên trong trường hợp cần thiết, phù hợp với kế hoạch phát triển chung của
toàn Tổng Công ty. Ngoài những quyền hạn trên, Tổng Công ty còn có những
nhiệm vụ sau đây:
- Thực hiện nhiệm vụ kinh doanh hàng dệt và hàng may theo qui hoạch và
kế hoạch phát triển ngành dệt và ngành may của Nhà nước và theo yêu cầu
của thị trường, bao gồm : xây dựng kế hoạch phát triển, đầu tư, tạo nguồn vốn
đầu tư sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, cung ứng nguyên vật liệu, xuất nhập khẩu
phụ liệu, thiết bị phụ tùng, liên doanh liên kết với các tổ chức trong và ngoài
nước, phù hợp với pháp luật và chính sách của Nhà nước.
- Nhận và sử dụng có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn của Nhà nước

giao, gồm cả phần vốn đầu tư vào doanh nghiệp khác, nhận và sử dụng có
hiệu quả tài nguyên đất đai và các nguồn lực khác do Nhà nước giao để thực
hiện nhiệm vụ kinh doanh và những nhiệm vụ khác được giao.
- Tổ chức quản lí công tác nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật,
khoa học công nghệ và công tác đào tạo cán bộ, bồi dưỡng cán bộ và công
nhân trong Tổng Công ty.Tổ chức các hoạt động dịch vụ thông tin, tư vấn đầu
tư, đào tạo trong và ngoài Tổng Công ty.
- Xác định chiến lược đầu tư, thẩm định các luận chứng hợp tác, đầu tư,
liên doanh với nước ngoài của các doanh nghiệp thành viên trình Nhà nước
xét duyệt, làm chủ các công trình đầu tư mới.
18
- Điều tra nghiên cứu, mở rộng thị trường trong và ngoài nước về cung cấp
vật tư, nguyên liệu chính, thực hiện hợp tác quốc tế, kinh doanh đối ngoại, thị
trường xuất nhập khẩu.
3. HỆ THỐNG CƠ CẤU TỔ CHỨC, CHỨC NĂNG CÁC PHÒNG BAN CỦA
TỔNG CÔNG TY DỆT-MAY VIỆT NAM
Hệ thống tổ chức của Tổng Công ty gồm có:
- Hội đồng quản trị, ban kiểm soát
- Tổng giám đốc và bộ máy giúp việc
- Các đơn vị thành viên Tổng Công ty
Hội đồng quản trị thực hiện chức năng quản lí các hoạt động của Tổng
Công ty, chịu trách nhiệm về sự phát triển của Tổng Công ty theo nhiệm vụ
của Nhà nước giao.
Ban kiểm soát thực hiện nhiệm vụ do Hội đồng quản trị giao về việc kiểm
tra giám sát hoạt động điều hành của Tổng giám đốc, bộ máy giúp việc và
các đơn vị thành viên Tổng Công ty trong hoạt động tài chính, chấp hành
pháp luật, điều lệ Tổng Công ty, các nghị quyết và quyết định của Hội đồng
quản trị.
Tổng giám đốc do Thủ Tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm khen
thưởng, kỉ luật theo đề nghị của Hội đồng quản trị. Tổng giám đốc là đại diện

pháp nhân của Tổng Công ty và chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị,
trước Thủ Tướng Chính phủ và trước pháp luật về điều hành hoạt động của
Tổng Công ty, Tổng giám đốc là người có quyền điều hành cao nhất trong
Tổng Công ty.
Phó Tổng giám đốc là người giúp Tổng giám đốc điều hành một hoặc một
số lĩnh vực hoạt động của Tổng Công ty theo phân công của Tổng giám đốc
và chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc và pháp luật về nhiệm vụ được
Tổng giám đốc phân công thực hiện.
Kế toán trưởng Tổng Công ty giúp Tổng giám đốc chỉ đạo thực hiện công
tác kế toán, thống kê của Tổng Công ty, có các quyền và nhiệm vụ theo qui
định của pháp luật.
19
Văn phòng Tổng Công ty, các ban chuyên môn, nghiệp vụ có các chức
năng tham mưu, giúp việc Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc trong quản lí
điều hành công việc.
Đơn vị thành viên là doanh nghiệp hạch toán độc lập và Tổng Công ty có
quyền tự chủ kinh doanh và tự chủ tài chính, chịu sự ràng buộc về quyền lợi
và nghĩa vụ đối với Tổng Công ty theo luật định tại điều lệ của Tổng Công ty.
Thành viên là các đơn vị hạch toán phụ thuộc: có quyền tự chủ kinh doanh
theo phân cấp của Tổng Công ty chịu sự ràng buộc về nghĩa vụ và quyền lợi
đối với Tổng Công ty. Được kí kết các hợp đồng kinh tế, được chủ động thực
hiện các hoạt động kinh doanh, hoạt động tài chính, tổ chức và nhân sự theo
phân cấp của Tổng Công ty. Quyền hạn nhiệm vụ của các đơn vị hạch toán
phụ thuộc được cụ thể hoá trong điều lệ tổ chức của đơn vị này.
Tổng Công ty có 8 ban, bao gồm các ban sau đây:
- Ban tổ chức cán bộ lao động
- Ban kế hoạch đầu tư
- Ban tài chính kế toán
- Ban hợp tác quốc tế
- Ban trung tâm thông tin

- Văn phòng Tổng Công ty
- Ban khoa học công nghệ và môi trường
- Ban xuất nhập khẩu
Ban tổ chức cán bộ lao động: có chức năng tham mưu giúp việc cho Tổng
giám đốc và hội đồng quản trị trong các lĩnh vực tổ chức cán bộ, đào tạo công
tác lao động tiền lương và công tác thanh tra, góp phần bảo đảm cho công tác
quản lí của Tổng Công ty hoạt động thông suốt và có hiệu quả.
Ban kế hoạch tài chính: Là bộ môn nghiệp vụ có chức năng tham mưu
giúp Tổng giám đốc và Hội đồng quản trị trong các lĩnh vực kế hoạch, kế
hoạch dài hạn, kế hoạch hàng năm trong lĩnh vực đầu tư, xây dựng toàn Tổng
Công ty.
20
Ban tài chính kế toán: Là cơ quan chuyên môn của Tổng Công ty tham
mưu giúp ban lãnh đạo Tổng Công ty thực hiện hai chức năng chủ yếu sau:
- Quản lí các đơn vị thành viên của Tổng Công ty về tài chính, kế toán,
giá cả trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ bản, hành chính
sự nghiệp.
-Tổ chức thực hiện công tác tài chính kế toán, giá cả và tín dụng trong
hoạt động sản xuất kinh doanh và đầu tư xây dựng cơ bản của cơ quan Tổng
Công ty.
Văn phòng Tổng Công ty: Là bộ môn chức năng tham mưu giúp việc
Tổng giám đốc và hội đồng quản trị trong lĩnh vực hành chính quản trị, tổng
hợp, làm cầu nối giữa Nhà nước với Tổng Công ty và kinh doanh trong lĩnh
vực đối nội đối ngoại, bảo đảm cho hoạt động của Tổng Công ty được tiến
hành có hiệu quả.
Ban kỹ thuật đầu tư: Có chức năng tham mưu giúp Tổng giám đốc và hội
đồng quản trị trong lĩnh vực quản lí khoa học công nghệ-môi trường và công
tác chất lượng sản phẩm của Tổng Công ty.
Ban xuất nhập khẩu: Là bộ môn chức năng tham mưu giúp việc cho Tổng
giám đốc và Hội đồng quản trị trong lĩnh vực quản lí ngành. Giúp đỡ các đơn

vị thành viên trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu. Trực tiếp kinh doanh
xuất nhập khẩu nhằm tạo nguồn thu và thúc đẩy sự phát triển của Tổng Công
ty.
Nhiệm vụ của ban là:
-Xây dựng chiến lược phát triển và mục tiêu phát triển kinh doanh xuất
nhập khẩu của Tổng Công ty trong từng giai đoạn.
-Nghiên cứu tình hình thị trường, giá cả, khách hàng, sự biến đổi, xu
hướng phát triển của ngành Dệt-May thế giới.
-Nghiên cứu hệ thống quản lí, các chính sách và công cụ của nó như
quota (giá tối thiểu, giá nhập tối đa) đối với những sản phẩm chính để Tổng
giám đốc và hội đồng quản trị duyệt.
-Hướng dẫn các đơn vị thành viên thực hiện khung giá, giá đã duyệt,
21
theo dõi tình hình giá cả thị trường để đề xuất Tổng giám đốc và hội đồng
quản trị thay đổi kịp thời, đáp ứng yêu cầu kinh doanh trong cơ chế thị trường.
-Xây dựng các chính sách của Tổng Công ty đối với thương nhân, khách
hàng, chính sách đối với từng khu vực để Tổng giám đốc duyệt phục vụ cho
công tác kinh doanh xuất nhập khẩu.
-Phối hợp với ban kế hoạch đầu tư xây dựng kế hoạch kinh doanh xuất
nhập khẩu của cơ quan Tổng Công ty.
-Trực tiếp kinh doanh xuất nhập khẩu tìm mọi khả năng khai thác nguồn
hàng xuất nhập khẩu bằng các hình thức tự doanh, đổi hàng xuất nhập khẩu
uỷ thác... bảo đảm kế hoạch kinh doanh của Tổng Công ty.
-Tổng hợp dự kiến nhu cầu bông xơ, nguyên liệu chính hàng năm, có kế
hoạch nhập bông dự trữ chiến lược đồng thời đảm bảo kinh doanh có hiệu
quả.
-Thực hiện tốt luật cũng như chế độ chính sách trong kinh doanh xuất
nhập khẩu.
-Theo dõi tổng hợp, kiểm tra tình hình thực hiện công tác pháp chế
trong xuất nhập khẩu của Tổng Công ty.

( Sơ đồ cơ cấu tổ chức Tổng Công ty Dệt-May Việt Nam - Xem trang sau)
BẢNG 1: SƠ ĐỒ CƠ CẤU TỔ CHỨC TỔNG CÔNG TY DỆT MAY
VIỆT NAM
4. ĐẶC ĐIỂM VÀ XU THẾ NGÀNH MAY VIỆT NAM.
4.1. Đặc điểm.
Ngành may Việt nam có truyền thống lâu đời gắn bó với truyền thống
nhân dân từ nông thôn đến thành thị, đóng một vai trò quan trọng trong nền
kinh tế quốc dân nhằm đảm bảo hàng hoá cho tiêu dùng trong nước, có điều
kiện mở rộng thương mại quốc tế, thu hút nhiều lao động tạo ra ưu thế cạnh
tranh cho sản phẩm xuất khẩu, hàng năm mang về cho Nhà nước một lượng
ngoại tệ đáng kể, kim ngạch xuất khẩu chỉ đứng sau dầu khí và đã trở thành
22
một ngành công nghiệp then chốt của nước ta. Đây là một ngành phù hợp với
điều kiện nền kinh tế nước ta, vì:
Một là: Sản xuất hàng may mặc cần nhiều lao động, không đòi hỏi trình
độ tay nghề cao. Trong khi lao động giản đơn ở nước ta thừa rất nhiều. Hơn
nữa, để đào tạo một lao động trong ngành may mặc chỉ cần từ hai đến hai
tháng rưỡi và lao động trong ngành may mặc thường sử dụng nhiều nữ.
Hai là: Vốn đầu tư cho một chỗ làm việc ít, đồng thời ngành may mặc
có thể tạo nhiều công ăn việc làm so với các ngành khác với cùng một lượng
vốn đầu tư, thời gian thu hồi vốn nhanh. Chỉ cần khoảng 700-800 USD là có
thể tạo ra một chỗ làm trong ngành may, so với 1500-1700 USD để cho một
nông dân có thể cấy ở vùng Đồng Tháp Mười. Thời hạn thu hồi vốn chỉ 3-3,5
năm.
Ba là: Thị trường rộng lớn ở cả trong và ngoài nước. Ở trong nước thì
đời sống nhân dân được nâng lên, nhu cầu về mặc chuyển từ “ấm” sang
“đẹp”, “mốt” tức là nhu cầu hàng may mặc ngày càng tăng và nhanh biến đổi.
Còn trên thế giới thì xu thế ngành may mặc phổ thông đang chuyển dần sang
các nước đang phát triển do ở những nước này có lợi thế về lao động rẻ hơn
những nước phát triển.

Bốn là: Nước ta có điều kiện để phát triển trồng bông, đay, thúc đẩy
ngành dệt may phát triển vì nguyên liệu cung cấp trong nước thường rẻ hơn
nhập khẩu.
Với những đặc điểm trên mà ngành may Việt Nam đã ngày càng phát
triển, thu hút được nhiều lao động xã hội - gần 50 vạn người, chiếm 22,7%
lao động công nghiệp toàn quốc, góp phần giải quyết công ăn việc làm, tạo sự
ổn định chính trị-kinh tế-xã hội, do đó được Đảng và Nhà nước quan tâm.
Hiện nay ngành may vẫn đang chiếm một vị trí quan trọng về ăn mặc của
nhân dân, quốc phòng và tiêu dùng trong các ngành công nghiệp khác.
4.2. Thực trạng ngành may Việt Nam.
Do có những đặc điểm phù hợp với điều kiện nước ta, nên ngành may Việt
nam và may xuất khẩu phát triển rất cao trong thời gian qua cả về mặt sản
lượng và kim ngạch xuất khẩu. Hiện nay, kim ngạch xuất khẩu chỉ đứng sau
23
dầu thô và liên tục tăng, có thể thấy rõ qua bảng dưới đây:
Bảng 2: Tốc độ tăng trưởng qua các năm
Năm 1997 1998 1999 2000 2001
Kim ngạch xuất khẩu(tr.USD) 550 750 1150 1250 1350
Tốc độ tăng trưởng(%) 36 53 8,7 14,0
Đồng thời cũng là ngành mang tính xã hội cao, sử dụng mọi lao động trên
khắp mọi miền đất nước, đặc biệt là lao động nữ. Số lao động công nghiệp
của ngành vào loại đứng đầu trong cả nước: khoảng 300 lao động chính và
nhiều lao động phụ khác.
Về mặt hàng: Sản phẩm ngành may rất đa dạng, có tính chất thời trang vừa
có tính quốc tế vừa có tính dân tộc. Kinh tế phát triển, đời sống nhân dân
được nâng cao, nhu cầu hàng may mặc lại càng phong phú và chất lượng cao
hơn. Bên cạnh những mặt hàng truyền thống, thông qua gia công cho các
nước, các doanh nghiệp may Việt Nam có điều kiện làm quen với công nghệ
may các mặt hàng phức tạp, thời trang của thế giới. Công nghiệp may Việt
Nam tiến bộ nhanh, từ chỗ may quần áo lao động xuất khẩu, các loại quần áo

đơn giản như vỏ chăn, áo gối, quần áo ngủ, quần áo học sinh... đến nay đã
may được nhiều mặt hàng cao cấp được nguời tiêu dùng chấp nhận, khách
nước ngoài tín nhiệm đặt hàng đi tiêu thụ tại các thị trường khó tính trên thế
giới.
Tính đến năm 1998, sản phẩm may Việt Nam đã xuất khẩu sang 46 nước,
riêng thị trường EU chiếm 40%, tiếp sau là Nhật Bản 16%, Đài Loan 11%,
Hàn Quốc 9%, các nước SNG 6%, các nước khác 8%. Ngoài ra còn có Nauy
và Canada cấp hạn ngạch xuất khẩu hàng may cho ta. Việc có được hạn ngạch
may là rất có ý nghĩa, đặc biệt là hiệp định may với EC (European
community), nay đổi là EU (European Union) bởi vì:
Thứ nhất: EU là thị trường rất rộng lớn, khả năng tài chính, tiêu thụ
cũng rất lớn. Một thị trường với hơn 350 triệu dân có mức sống cao, nhu cầu
về hàng may mặc hàng năm lên tới 22-23 ngàn tấn vải, quả là một thị trường
lý tưởng cho ngành may Việt Nam.
Thứ hai: là hiệp định may tạo ra thị trường ổn định để phát triển ngành
24
may, trị giá hạn ngạch lên tới 300-400 triệu USD/năm. Đồng thời thị trường
hạn ngạch thường hiệu quả hơn vì có giá ổn định và cao hơn. Ví dụ: giá gia
công một chiếc Jackét ( cat 21) ở thị trường EC là 4,2-4,6 USD thì ở thị
trường khác chỉ 2,5-2,8 USD.
Thứ ba: là phần nào khẳng định uy tín chất lượng của hàng may mặc
Việt Nam trên thị trường thế giới. Có hạn ngạch tức là khách hàng sẽ tìm đến
chứ không chỉ người sản xuất Việt Nam đi tìm khách như trước nữa.
Ngành may Việt nam cũng đẩy mạnh xuất khẩu theo hình thức gia công
hoặc phương thức thương mại thông thường với một số nước có nền công
nghiệp phát triển như Nhật Bản, Canada, các nước công nghiệp mới như Đài
Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc, Singapo và gần đây khi Mỹ bỏ cấm vận và bình
thường hoá quan hệ đối với Việt Nam, hàng may của ta có thêm thị trường
Mỹ. Tuy có những thuận lợi trong việc mở rộng thị trường nhưng thử thách
đối với hàng may của ta với thị trường thế giới còn rất lớn. Đó là khả năng

thích ứng về mẫu mốt, chất lượng, giá cả, thời hạn giao hàng theo thời vụ và
tập quán buôn bán còn rất hạn chế. Số lượng sản phẩm có chất lượng cao đáp
ứng được nhu cầu nguời tiêu dùng ở các nước phát triển chưa nhiều. Thị
trường truyền thống có dung lượng lớn như Liên Xô và các nước Đông Âu
chưa tìm được phương thức làm ăn thích hợp, nhất là phương thức thanh toán.
Cho đến nay, ngành may Việt Nam đã có quan hệ buôn bán với hơn 200
Công ty thuộc hơn 40 nước trên thế giới và khu vực. Tuy vậy, thị trường xuất
khẩu vẫn không ổn định, đặc biệt là đối với thị trường phi hạn ngạch.
5. MỤC TIÊU VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN.
Theo quy luật của sản xuất hàng hoá, thị trường là yếu tố quyết định của
sản xuất. Để đạt được mục tiêu chiến lược phát triển, hoà nhập được vào thị
trường may của khu vực và thế giới, trong những năm tới ngành may Việt
Nam coi trọng phương châm “hướng ra xuất khẩu-coi trọng thị trường nội
địa” để tổ chức sản xuất.
Sau khi mất thị trường truyền thống là Liên Xô và Đông Âu cũ, ngành
may đã cố gắng khai thác thị trường mới là Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc,
EU... song còn nhiều hạn chế. Để duy trì và phát triển sản xuất-xuất nhập
25

×