Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Một số kinh nghiệm giáo dục học sinh chậm tiến của giáo viên chủ nhiệm lớp 6b trường THCS tào xuyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (443.73 KB, 24 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HĨA

PHỊNG GD&ĐT THÀNH PHỐ THANH HÓA

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ KINH NGHIỆM “GIÁO DỤC HỌC SINH CHẬM
TIẾN ” CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM LỚP 6B TRƯỜNG
THCS TÀO XUYÊN

Người thực hiện: Mai Thị Thanh Huyền
Chức vụ: giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Tào Xun
SKKN thuộc mơn: Chủ nhiệm lớp

THANH HĨA NĂM 2021


MỤC LỤC
STT

MỤC

1
1.1
1.2
1.3
1.4
2
2.1
2.2



Mở đầu
Lí do chọn đề tài.
Mục đích nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu.
Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến
kinh nghiệm
Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Yêu cầu đối với giáo viên chủ nhiệm
Một số kinh nghiệm cụ thể để “ thu phục học sinh cá
biệt
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Kết luận, kiến nghị
Kết luận
Kiến nghị
Tài liệu tham khảo

2.3
2.3.1
2.3.2
2.4
3
3.1
3.2

TRANG
1

1
5
5
6
6
6
7
8
8
9
16
17
17
19

1


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11

12

SKKN
GV
GVCN
HS
THCS
GVCNL
CN
BGH
CMHS
GVBM
TB
GD&ĐT

Sáng kiến kinh nghiệm
Giáo viên
Giáo viên chủ nhiệm
Học sinh
Trung học cơ sở
Giáo viên chủ nhiệm lớp
Chủ nhiệm
Ban giám hiệu
Cha mẹ học sinh
Giáo viên bộ môn
Trung bình
Giáo dục và đào tạo

2



1. MỞ ĐẦU.
1.1. Lí do chọn đề tài.
Qua thực tế giảng dạy và làm công tác chủ nhiệm, qua điều tra thăm dò ý
kiến của các bạn đồng nghiệp, học sinh các khối lớp của trường THCS Tào
Xuyên và một số trường trong khu vực về việc quản lí học sinh nói chung. Đặc
biệt là với học sinh chậm tiến, tơi nhận thấy có một số vấn đề sau:
Trong các nhà trường, đa số các giáo viên được đào tạo về chun ngành
ở các mơn văn hóa và một số mơn tâm lí học lứa tuổi, chứ chưa được đào tạo
một cách có hệ thống về cơng tác quản lí học sinh cũng như cơng tác chủ nhiệm.
Do đó khi ra trường để đảm nhiệm việc chủ nhiệm lớp là một công tác không hề
đơn giản đối với giáo viên. Hầu như trong quá trình thực hiện đều nhờ sự học
hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp và sự tự trau dồi kiến thức, nghiệp vụ của bản
thân. Nên còn rất nhiều vướng mắc.
Mặt khác với học sinh, hiện tượng học sinh lười học, cá biệt, hay nghĩ ra
những trò nghịch ngợm phá lớp, phá bạn, sa đà vào các tai tệ nạn xã hội đang
diễn ra ngày càng nhiều trong các nhà trường. Hiện tượng trên không những ảnh
hưởng đến cơng tác giáo dục của nhà trường mà cịn là nỗi lo của gia đình và xã
hội. Thế nhưng điều quan trọng hơn, hiện tượng đó ảnh hưởng trực tiếp đến bản
thân của học sinh, gia đình, nhà trường và xã hội.
Qua theo dõi đã phát hiện những năm gần đây, hiện tượng HS chậm tiến
có phần gia tăng và ở nhiều cấp độ khác nhau. Nó đã để lại hậu quả như một “di
căn” sau những vụ việc xảy ra ở các trường THPT: Đánh thầy giáo, cướp của
giết người, vay tiền chơi điện tử và khơng có khả năng trả nợ dẫn đến tự tử,
đánh lộn dẫn đến chết người ... và những hành vi trên tác động trực tiếp đến học
sinh đang học trong nhà trường.
HS chậm tiến có biểu hiện những thái độ thiếu nghiêm túc trong học tập,
sinh hoạt, sa ngã vào các tệ nạn xã hội.... nếu không kịp thời giáo dục sẽ sớm
sẽ để lại những hậu quả khôn lường.
Học sinh chậm tiến biểu hiện ở nhiều khía cạnh, trạng thái khác nhau, tạm

chia làm 4 nhóm:
Nhóm 1: Gây gổ đánh nhau, kết bè thành băng nhóm.
Nhóm 2: Bỏ giờ, trốn học đi chơi điện tử dẫn đến học tập sa sút hơn.
Nhóm 3: Quậy phá, thiếu nghiêm túc trong học tập.
Nhóm 4: Ương ngạnh, học địi, khơng nghe lời thầy cơ giáo, ý thức tổ chức kỷ
luật kém.

3


4


5


- Do một số nguyên nhân:
+ Nguyên nhân về phía gia đình:
Phải nói rằng thời gian mà các em sống với gia đình là khoảng thời gian
dài nhất, chính vì thế mơi trường sống của gia đình có ảnh hưởng rất lớn đối với
các em, những thái độ, hành vi, cách cư xử trong gia đình sẽ hình thành cho các
em nền móng để các em tiếp xúc ngồi xã hội. Những em thiếu may mắn sinh ra
trong gia đình cha mẹ bất hoà, cách cư xử của cha mẹ thô bạo, rượu chè bê bết...
đã tạo cho các em một ấn tượng khơng tốt, điều đó có thể dẫn đến tình trạng HS
trở nên lầm lì ít nói, có em có những hành vi cử xử khơng tốt với mọi người.
Hình thành nên tính cách cá biệt trong HS.
+ Ngun nhân về phía nhà trường:
Đây là ngơi nhà thứ hai của các em, nơi để phụ huynh gởi gắm niềm tin
vào việc giáo dục con em của họ, từ đây các em được học tập, được hiểu biết,
được lớn lên về mọi mặt. Nhưng để đạt được đúng như điều vừa nêu cũng không

phải là dễ, trong thực tế cũng có một vài trường chưa thực hiện được chức năng
là ngôi nhà thứ hai của các em, bởi vẫn cịn đâu đó có những thầy cơ giáo chưa
nhiệt tình, chưa thật sự yêu nghề, chưa có tâm huyết với sự nghiệp giáo dục nên
chưa nhiệt tình với các em, chưa thật sự là nơi đáng tin cậy. Cũng có một vài
thầy cô giáo do cách cư xử chưa phù hợp, cịn xúc phạm học sinh, đối xử thiếu
cơng bằng với các em, ngại khó khi phải giáo dục những em chậm tiến, cáu
giận, sỉ nhục học sinh... đã làm mất lòng tin ở các em, tạo ra một khoảng cách
khơng đáng có giữa thầy và trị và chính điều này đã dẫn đến biểu hiện chống
đối lại từ phía HS.
+ Ngun nhân về phía mơi trường xã hội:
6


Ngồi mơi trường gia đình và nhà trường ra, học sinh cịn phụ thuộc rất
lớn vào mơi trường xã hội. Hiện nay do sự phát triển kinh tế - xã hội, sự phát
triển của mạng lưới thông tin hiện đại, sự du nhập của nhiều loại hình văn hố
khác nhau đã ảnh hưởng khơng ít đến tầng lớp thanh thiếu niên. Các loại hình
dịch vụ như Internet, bi a, karaoke... đã lơi kéo khơng ít học sinh vào đam mê
những trị chơi vơ bổ. Hiện tượng học sinh trốn học để chơi điện tử, bi a, đánh
bạc, tụ tập rủ rê hút thuốc lá điện tử,... là chuyện thường ngày, có cả em hết tiền
nảy sinh hành vi trộm cắp, cướp giật.
+ Nguyên nhân chủ quan về phía bản thân các em:
Do đặc điểm tâm sinh lý của học sinh, lứa tuổi mà nhiều người cho rằng
"Ăn chưa no, lo chưa đến", suy nghĩ còn non nớt, nhận thức chưa cao chính vì
thế các em có những hành vi thiếu chuẩn xác là điều không thể tránh khỏi.
Những HS chậm tiến ta thường gặp phần lớn là những em có năng lực học
tập yếu kém, điều đó cũng hồn tồn dễ hiểu bởi nhận thức của các em kém thì
làm sao có hành động tốt được. Việc hạn chế trong tiếp thu kiến thức của các em
cũng dẫn đến sự lười biếng, chán nản, muốn phá phách, nhất là đối với HS nam.
Xét ở một khía cạnh khác thì cũng có thể các em vì tự ái về sự phê bình của thầy

cơ và sự chê cười của bè bạn, các em muốn chứng minh cho mọi người thấy
rằng mình học khơng tốt nhưng mình có thể nổi trội hơn về mặt khác, hoặc các
em muốn thầy cô chú ý mình hơn chẳng hạn, chính vì thế mà các em có những
hành động vượt ra khỏi những quy định chung.
Từ việc nghiên cứu thực trạng trên, bản thân tôi luôn trăn trở để tìm ra
những biện pháp giúp quản lí tốt học sinh nói chung và với học sinh chậm tiến
nói riêng , để có thể giáo dục các em, hướng các em tham gia tốt vào các hoạt
động học tập cũng như các hoạt động ngồi giờ học, góp phần nâng cao chất
lượng dạy và học. Trên cơ sở đó, bản thân tơi đã chọn đề tài về việc vận dụng:
“Một số kinh nghiệm “giáo dục học sinh chậm tiến” của giáo viên chủ
nhiệm lớp 6B Trường THCS Tào Xun”
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Tơi đã nghiên cứu và thử nghiệm đề tài này trong năm học 2020- 2021.
Khi tôi được phân công chủ nhiệm lớp 6B, từ chỗ trong lớp đa phần là học sinh
lười học, cá biệt, hay nghĩ ra những trò nghịch ngợm phá lớp, phá bạn, khơng
tham gia tích cực vào các hoạt động của lớp, của trường, trở thành những học
sinh có ý thức tự giác trong học tập, tham gia nhiệt tình vào các hoạt động. Từ
một lớp có nhiều HS có ý thức yếu kém của trường, lớp tôi chủ nhiệm dần trở
thành lớp tiên tiến, có nhiều thành tích trong học tập cũng như trong các phong
trào thi đua của trường. Lớp tôi đang phấn đấu đạt tập thể lớp tiên tiến xuất sắc
trong năm học 2020 -2021. Và quan trọng hơn, đã hình thành ở các em những
năng lực tự giác học tập, rèn luyện, có những phẩm phẩm chất, kĩ năng theo mục
tiêu của ngành giáo dục đề ra. Đó là một nền tảng chắc chắn cho các em bước
tiếp lên bậc thang mới trong con đường học tập .
1.3.Đối tượng nghiên cứu.
1.3.1. Đối tượng.
7


- Đối tượng khảo sát và thực nghiệm: học sinh lớp 6B năm học 2020

-2021.
- Đối tượng tham khảo ý kiến. (lựa chọn ngẫu nhiên)
+ Học sinh các khối lớp 6,7, 8,9 trường THCS Tào Xuyên năm học 2020
-2021.
+ Giáo viên trường THCS Tào Xuyên.
+ Các đồng chí giáo viên ở các trường khác.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu.
Đề tài chủ yếu áp dụng đối với học sinh ở bậc trường trung học cơ sở.
Đặc biệt đối với học sinh chậm tiến.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
1.4.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận.
- Nghiên cứu về tâm lí lứa tuổi học sinh trung học cơ sở.
- Nghiên cứu Nghị quyết Trung ương Đảng khóa XII về “Đổi mới căn bản,
tồn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
trong điều kiện kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc
tế”.
- Nghiên cứu tài liệu tập huấn về công tác chủ nhiệm, kỉ luật tích cực học
sinh theo định hướng đổi mới giáo dục.
- Nghiên cứu các tình huống sư phạm thường xuyên xảy ra với giáo viên chủ
nhiệm.
1.4.2. Phương pháp quan sát sư phạm.
Phương pháp điều tra tâm lí, nhu cầu, nguyện vọng của học sinh..
Phương pháp phỏng vấn (phỏng vấn trực tiếp, phỏng vấn qua phiếu): đặt
các câu hỏi khéo léo tế nhị cung cấp cho tôi thực hiện những vần đề thắc mắc
chưa được giải toả.
1.4.3. Thực nghiệm sư phạm.
Thực nghiệm thăm dị.
Thực nghiệm chính thức.
1.4.4. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
Đánh giá, khái quát hóa những kinh nghiệm sử dụng có hiệu quả đề tài

trong cơng tác chủ nhiệm, tổng hợp kết quả kiểm tra đánh giá học sinh, khẳng
định tính hiệu quả của SKKN và đưa ra kết luận.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
2.1.Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Đối với giáo dục trung học cơ sở, người giáo viên chủ nhiệm lớp có vai
trị quan trọng trong việc giáo dục tồn diện học sinh. Người ta vẫn thường nói
rằng người giáo viên chủ nhiệm lớp là “một đại diện của Hiệu trưởng” trong tập
thể lớp mình phụ trách. Người giáo viên chủ nhiệm chiếm vị trí trung tâm, trụ
cột trong q trình giáo dục học sinh, là linh hồn của lớp học, là người cố vấn
đáng tin cậy, dẫn dắt, định hướng, giúp học sinh biết vươn lên, tự hoàn thiện và
phát triển nhân cách. Giáo viên chủ nhiệm có vai trị rất lớn tới chất lượng học
tập của lớp. Sự phát triển toàn diện của HS, sự đi lên của tập thể lớp đều có sự
8


đóng góp quan trọng của giáo viên chủ nhiệm lớp. Đảng ta đã xác định “ để đảm
bảo chất lượng giáo dục phải giải quyết tốt vấn đề thầy giáo”.
Ở trường THCS hiện nay yêu cầu giáo dục toàn diện học sinh là một yêu
cầu bức thiết đang đặt ra cho nhà trường. Việc thực hiện giáo dục toàn diện học
sinh phải thống nhất từ khâu chỉ đạo của Hiệu trưởng cho tới các tổ nhóm
chun mơn và từng giáo viên, trong đó giáo viên chủ nhiệm lớp đóng vai trò
hết sức quan trọng. Vai trò xã hội của người giáo viên chủ nhiệm lớp trở nên lớn
hơn nhiều so với chức năng của người giảng dạy bộ mơn. Ngồi việc trực tiếp
giảng dạy ở lớp chủ nhiệm, họ trước hết phải là nhà giáo dục, là người tổ chức
các hoạt động giáo dục, quan tâm tới từng học sinh, chăm lo đến việc rèn luyện
đạo đức, hành vi, những biến động về tư tưởng, nhu cầu, nguyện vọng của các
em.
Học sinh cấp THCS đang bước sang lứa tuổi thanh thiếu niên, ở lứa tuổi
các em đang muốn tự khẳng định mình, ưa cái mới lạ nhưng cũng rất dễ bị tổn
thương, rất cần có sự giúp đỡ và định hướng của người lớn, nên nhà giáo dục

đặc biệt là giáo viên chủ nhiệm lớp cần nắm vững tâm sinh lý lứa tuổi của các
em để từ đó lựa chọn phương pháp giáo dục cho phù hợp. Người giáo viên chủ
nhiệm lớp bằng chính nhân cách của mình, là tấm gương tác động tích cực đến
việc hình thành các phẩm chất đạo đức, nhân cách của HS. Mặt khác, họ còn là
cầu nối giữa tập thể học sinh với các tổ chức xã hội trong và ngoài nhà trường,
là người tổ chức phối hợp các lực lượng giáo dục. Họ còn là người dẫn dắt, tổ
chức cho học sinh tham gia các hoạt động xã hội, góp phần xây dựng và phát
triển đất nước. Hơn nữa sự phát triển của nhà trường gắn liền với sự tiến bộ và
trưởng thành của từng tập thể lớp học, gắn liền với sự tiến bộ và trưởng
Khơng ít GVCN lớp cho rằng đó là bản chất của các em. Sinh thời Bác
Hồ đã từng nói:
“ Ngủ thì ai cũng như lương thiện
Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ hiền
Hiền dữ phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên"
Bản chất con người - học sinh là lương thiện, nhưng do những yếu tố khác
nhau làm ảnh hưởng đến đời sống, tâm lý của học sinh nên các em có những
biểu hiện khác nhau. Ở lứa tuổi các em cần có sự hỗ trợ, tư vấn, giáo dục của gia
đình, nhà trường. Muốn đạt được hiệu quả cao chúng ta cần có tâm huyết, năng
động sáng tạo đồng thời có sự kiên trì trong công tác chủ nhiệm nhất định chúng
ta sẽ thành công.
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
- Khảo sát, phát hiện và tiến hành tìm hiểu học sinh lớp chủ nhiệm:
Đầu năm học 2020- 2021, qua thực tế làm công tác chủ nhiệm, qua trao
đổi, trò chuyện với học sinh và trao đổi với đồng nghiệp, tơi phát hiện vấn đề.
Sau đó tơi sử dụng phiếu hỏi điều tra về nguyện vọng, thái độ học tập của học
sinh lớp chủ nhiệm và học sinh ở một số lớp khác. Tơi đã tìm hiểu nguyên nhân
của vấn đề và nghiên cứu tài liệu về lý luận dạy học và hình thành ý tưởng về đề
tài.
9



- Điều tra kết quả học tập và rèn luyện đạo đức của học sinh lớp chủ
nhiệm và học sinh ở trường Tào Xuyên dưới hai hình thức: qua kết quả kết quả
xếp loại hai mặt giáo dục của học sinh và đầu năm học và cuối năm học trước.
Đồng thời qua khảo sát thái độ, nhận thức của học sinh về trong thực tế. Sau đó
lập kế hoạch nghiên cứu đề tài. Viết đề cương và đưa ra tổ, nhóm chun mơn
xin ý kiến đóng góp của đồng nghiệp, tiến hành điều chỉnh để đưa vào thực
nghiệm chính thức.
- Tiến hành thực nghiệm với lớp 6B năm học 2020 -2021.
Ở các khối lớp khác, tôi trao đổi với các đồng nghiệp cùng thực nghiệm
và lấy kết quả thăm dò qua phiếu.
- Tiến hành điều tra, khảo sát kết quả học tập và kết quả xếp loại đạo đức
đầu kì, cuối kì của học sinh bằng hai hình thức:
Sử dụng phiếu hỏi điều tra về thái độ, hứng thú của học sinh so với đầu
năm.
Theo dõi kết quả xếp loại hai mặt của các em trong học kì 1.
- Cuối cùng tôi tiến hành viết báo cáo đề tài và hoàn thành vào khoảng
cuối tháng 3 năm 2021.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.3.1. Yêu cầu đối với giáo viên chủ nhiệm.
- Muốn “giáo dục” học sinh nói chung, học sinh chậm tiến nói riêng,
trước hết người giáo viên chủ nhiệm cần phải có đạo đức nghề nghiệp, phẩm
chất chính trị, lối sống trong sáng, lành mạnh, luôn chấp hành nghiêm chỉnh chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, khơng ngừng
học tập, rèn luyện nâng cao trình độ, chun mơn nghiệp vụ.
Người GVCN thực sự là nhà giáo dục vì phẩm chất, nhân cách, đạo đức
nghề nghiệp của người GVCN rất quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp đến kết
quả giáo dục học sinh.
- GVCN cần phải thu thập và xử lý thông tin đa dạng về lớp chủ nhiệm để

xây dựng hồ sơ HS và lập kế hoạch phát triển tập thể, GVCN cần tìm hiểu đặc
điểm cá nhân, đặc điểm phát triển trí tuệ, xã hội, xúc cảm, tình cảm và thể chất
của học sinh, hồn cảnh học sinh lớp mình phụ trách để hiểu rõ đặc điểm chung
về tập thể lớp chủ nhiệm cũng như những đặc điểm riêng, nhu cầu của từng cá
nhân học sinh. Đặc biệt là học sinh cá biệt. Đây là một trong những biểu hiện của
quan điểm trong giáo dục “Hướng vào học sinh” hay “ Học sinh là trung tâm”.
- GVCN cần có kĩ năng lập kế hoạch hoạt động một cách khoa học, trong đó
các thành tố mục tiêu, nội dung, nguồn lực, biện pháp, thời gian thực hiện, kết
quả dự kiến...được xác định tường minh, cụ thể, đảm bảo tính khả thi, phù hợp
với đặc điểm HS, phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện thực tế, thể hiện khả năng
hợp tác, cộng tác với các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường.
- Xây dựng tập thể học sinh lớp chủ nhiệm.
Đây là chức năng đặc trưng và cũng là yêu cầu đối với GVCN mà các
giáo viên bộ môn không thể thay thế. Để giáo dục và phát triển toàn diện từng
học sinh, GVCN tất yếu phải xây dựng và phát triển tập thể lớp. Tập thể phát
triển cũng đồng thời là môi trường học tập thân thiện - nơi mà HS được quan
10


tâm mọi mặt, được đảm bảo an tồn, mơi trường học tập chất lượng tốt, giúp HS
phát huy hết tiềm năng.
- Phát hiện kịp thời và ngăn ngừa những xung đột: Sự bất hòa và những
xung đột nảy sinh là điều khó tránh trong các mối quan hệ giữa các thành viên của
tập thể. Thực tiễn bạo lực học đường hiện nay đã và đang làm mọi người bức xúc
và để lại hậu quả nặng nề về tâm lí, tinh thần học sinh. Do đó GVCN cần lưu tâm
ngăn ngừa và giải quyết kịp thời những mâu thuẫn có thể xảy ra trong tập thể lớp
chủ nhiệm. Một tập thể phát triển có văn hóa tổ chức, là mơi trường học tập thân
thiện thì mâu thuẫn sẽ được giải quyết trên nền tảng của sự thiện chí, tơn trọng,
thừa nhận lẫn nhau.
- GVCN cần nắm vững quy chế đánh giá xếp loại HS cấp THCS và THPT

(Ban hành theo Quyết định số 40/2006/ QĐ-BGDDT ngày 05/10/2006 của Bộ
trưởng Bộ GD&ĐT) quy định một số việc phải làm cụ thể của GVCN về đánh
giá kết quả tu dưỡng, học tập và sự tiến bộ của HS về các mặt GD. Theo quan
điểm đánh giá để phát triển học sinh. Quan trọng nhất là GVCN cần phân biệt
giữa đánh giá hành vi và đánh giá nhân cách học sinh, tránh từ hành vi không
mong đợi đơn lẻ của HS quy kết thành đặc điểm nhân cách.
2.3.2. Một số kinh nghiệm cụ thể để “giáo dục học sinh chậm tiến”.
Giáo dục là một q trình lâu dài, trong đó người làm giáo dục phải áp
dụng nhiều biện pháp, từ khâu tổ chức, giáo dục, đến tác động vào từng cá nhân
và tập thể. Việc giáo dục học sinh cá biệt không phải chỉ diễn ra trong một hay
hai ngày mà là cả một thời gian dài, cần sự kiên trì, bền bỉ, khéo léo như dân
gian thường nói “mưa dầm thấm lâu”. Hay nói cách khác giáo dục học sinh cá
biệt là cả một nghệ thuật. Vì thế GVCN phải hết sức bình tĩnh, chủ động khi đón
nhận lớp chủ nhiệm có học sinh cá biệt.
Sau đây là một số biện pháp nhằm giáo dục học sinh chậm tiến.
*Nhận lớp chủ nhiệm, tìm hiểu hồ sơ lí lịch và phân loại học sinh.
- Bắt đầu vào năm học, khi được BGH nhà trường phân lớp chủ nhiệm, tôi
cố gắng nhớ hết tên học sinh trong lớp. Đây là điều rất quan trọng. Bởi con
người, ai cũng muốn mình là người quan trọng đối với người khác, là người
được người khác tôn trọng. Việc giáo viên gọi tên các em học sinh ngay khi mới
gặp nhau là biểu hiện sự thân thiện giữa thầy và trị . Học sinh sẽ rất vui, bất ngờ
vì việc này. Chính việc này sẽ giúp người giáo viên chủ nhiệm nhanh chóng để
lại ấn tượng của mình trong các em.
- Sau khi nhận và gặp mặt các em, tơi bắt tay ngay vào việc tìm hiểu hồ sơ
để hiểu được hồn cảnh, đặc điểm và q trình học tập, tu dưỡng của từng em
trong lớp. Sau đó tơi tiến hành phân loại học sinh:
Tìm hiểu hồn cảnh gia đình, hồn cảnh sống của các em học sinh, đặc biệt
là học sinh chậm tiến (40% học sinh chưa ngoan, chậm tiến là do ảnh hưởng từ
gia đình,bạn bè và xã hội).
Vào đầu năm học, tôi tiến hành nghiên cứu hồ sơ của học sinh bằng cách

phát cho mỗi học sinh một tờ phiếu điều tra, trong đó các em sẽ phải khai đầy đủ
thơng tin lí lịch của bản thân, sở thích ước mơ, nguyện vọng của học sinh... Qua
hồ sơ này, tôi dễ dàng nắm bắt được những đặc điểm tâm sinh lí của học sinh.
11


PHIẾU KHẢO SÁT
1. Họ và tên học sinh: ……………………………………………..……………
2. Chỗ ở hiện nay: ……………………………………………..……………….
3. Họ tên cha: …………………….., tuổi…………., nghề nghiệp: …………..
4. Họ tên mẹ: ……………………..., tuổi…………., nghề nghiệp: …….…….
5. Gia đình em có bao nhiêu anh, chị em; nghề nghiệp của anh, chị ……………
………………………………………………………………………..…………
6. Hoàn cảnh sống hiện tại của gia đình em thế nào? ……………..…………..
………………………………………………………………………...…………
7. Ước mơ của em sau này làm gì? ………………………………..……………
8. Ngồi giờ học em thường làm gì để giúp đỡ gia đình: ………………………
………………………………………………………………………………….
9. Trong học tập và trong cuộc sống em gặp phải khó khăn gì: ……………….
……………………………………………………………………….…………
10. Những người bạn thân của em tên gì, học lớp nào: ………………………..
………………………………………………………………………………….
Bản thân tơi tiếp tục nghiên cứu qua học bạ về kết quả học tập, rèn luyện
của học sinh qua những năm học trước đó. Đồng thời nghiên cứu qua những
nhận xét đánh giá của bạn bè, người thân của các em, cha mẹ các em, qua chính
quyền địa phương, qua các tổ chức của đồn, của đội.
Với những phương pháp trên, tôi thu được kết quả phân loại như sau:
Nhóm 1: Những học sinh chậm tiến do vi phạm nội quy của nhà trường,
của lớp, thường xuyên mất trật tự trong giờ học, không học bài và làm bài, đi
học muộn....

Nhóm 2: Những học sinh chậm tiến do ham chơi điện tử, sẵn sàng bỏ học,
lừa dối bố mẹ, thầy cơ giáo...
Nhóm 3: Những học sinh chậm tiến là do vi phạm những chuẩn mực đạo
đức, hỗn láo với thầy cô giáo, cha mẹ, hay văng tục, chửi bậy....
Nhóm 4: Những học sinh cá biệt là do vi phạm pháp luật, vi phạm các tai
tệ nạn xã hội như trộm cắp, chấn lột, cờ bạc....
Nhóm 5: Những học sinh chậm tiến là do tự ti, trầm cảm, ngại tiếp xúc
với thầy cô bạn bè, hoang mang, sợ hãi, thường xuyên tiêu cực trong suy nghĩ...
*Lập kế hoạch chủ nhiệm để giáo dục nhóm học sinh chậm tiến.
Công tác chủ nhiệm lớp là một công tác khó khăn vất vả và địi hỏi sự làm
việc khoa học. Tránh tình trạng tuỳ hứng tuỳ tiện, thiếu kế hoạch. Vì thế vấn đề
xây dựng kế hoạch là một yêu cầu cần thiết để bảo đảm hiệu quả giáo dục HS.
Dự kiến kế hoạch chủ nhiệm: Dự kiến được kế hoạch GV phải:
+ Nắm được kế hoạch, chương trình giáo dục chung của nhà trường.
+ Nắm bắt được tình hình cụ thể của lớp chủ nhiệm từ các thơng tin trên
nói trên GVCN dự kiến kế hoạch, đặt ra các yêu cầu trọng điểm cho từng giai
đoạn, từng nhóm học sinh cá biệt.
Chỉ đạo tập thể HS thực hiện tốt kế hoạch. Phổ biến rõ công tác cho tập
thể lớp, thống nhất quyết tâm thực hiện. Đồng thời, chuẩn bị các điều kiện vật
12


chất và kỹ thuật để thực hiện các hoạt động. Phối hợp với đội ngũ cán bộ tự
quản thực hiện và điều hành công việc.
Theo dõi kiểm tra và điều chỉnh hoạt động để các hoạt động luôn đi đúng
hướng. Kết thúc mỗi hoạt động cần tổng kết, đánh giá để phân tích ưu điểm và
hạn chế để rút kinh nghiệm.
Có sự khuyến khích tập thể hay cá nhân tốt, phê bình các cá nhân thiếu
tích cực, thiếu cố gắng, triển khai các hoạt động tiếp theo.
Trong kế hoạch CN cần đặt ra các yêu cầu ngày càng cao nhưng vừa sức

với HS để khích lệ sự tiến bộ khơng ngừng.
Căn cứ số lượng học sinh cá biệt trong các nhóm để đưa ra các chỉ tiêu giáo
dục theo từng tháng, từng kì để giảm thiểu số học sinh cá biệt.
*Xây dựng đội ngũ cán bộ lớp tự quản để quản lí theo dõi học sinh
chậm tiến.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ lớp tự quản là nền tảng cho công tác chủ
nhiệm và cũng là một việc làm quan trọng và khó khăn đối với GVCN.
- Đầu tiên GVCN cần xác định được tiêu chuẩn của cán bộ lớp bao gồm:
+ Có ý thức tổ chức kỉ luật tốt, có khả năng gương mẫu.
+ Tính tình thẳng thắn, giám đấu tranh, giám phê bình.
+ Năng nổ hoạt động và sẵn sằng hoạt động.
+ Có khả năng học tập tốt( Từ khá trở lên).
+ Được tập thể lớp tín nhiệm.
+ Có hồn cảnh gia đình thuận lợi.
Để xây dựng đội ngủ cán bộ lớp tơt cần tìm hiểu thơng qua GVCN cũ, bạn
bè trong lớp, quan sát sự hoạt động của các em khi ra chơi hoặc giao một số
công việc.
Khi đã tìm được đội ngũ cán bộ lớp, GVCN cần bồi dưỡng cho các em có
ý thức trách nhiệm cao đối với lớp, phục vụ tập thể lớp, biết phê bình và tự phê
bình. Bồi dưỡng cho các em có phương pháp quản lí lớp.
Mỗi tháng họp một lần để rút kinh nghiệm, giao kế hoạch nhiệm vụ tháng
tới, mua sổ theo dõi. Mỗi tuần giao ban một lần vào thứ 6 để thứ 7 có số liệu
sinh hoạt và khen, chê kịp thời.
Trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ lớp, GVCN cũng chú ý chọn đúng
nguồn, tránh việc thay cán bộ lớp, khơng phó mặc việc lớp cho đội ngũ cán bộ.
Đồng thời phân cho từng cán bộ lớp phụ trách từng nhóm học sinh cá biệt.
*Lập sơ đồ lớp học chú ý tới chỗ ngồi của học sinh chậm tiến.
Sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh tuy dễ nhưng sắp xếp như thế nào cho hiểu
quả lại không dễ chút nào. Để lập sơ đồ lớp tốt, GVCN dựa vào các căn cứ sau:
GVCN phải xem trước học bạ của từng học sinh trong năm học trước để

nắm được học lực, hạnh kiểm của từng học sinh. Khi sắp chỗ ngồi nên chia đều
những học sinh có học lực khá, giỏi ngồi xen lẫn với những học sinh có học lực
trung bình. Học lực của học sinh: xen kẽ học sinh yếu kém với học sinh khá giỏi
để các em giúp đỡ nhau trong học tập.
Thể chất của học sinh: học sinh thấp ngồi trước, cao ngồi sau; mắt yếu
ngồi gần bảng.
13


Nhiệm vụ của ban cán sự lớp: tổ trưởng(lớp trưởng) thường ngồi giữa
hoặc ngồi sau của tổ (lớp).
Ý thức của học sinh: học sinh nói chuyện nhiều, khơng chú ý học thì cho
ngồi trước. Trên cơ sở các căn cứ đó, GVCN lập sơ đồ lớp sao cho phù hợp và
dán tại bàn giáo viên để giáo viên bộ môn tiện theo dõi.
*Xây dựng tiêu chí đánh giá, xếp loại hạnh kiểm.
Một tập thể muốn hoạt động tốt, có nề nếp, khơng chỉ dựa vào người chỉ
huy mà cịn cần có những nguyên tắc hoạt động của nó. Với một lớp học, ngoài
những quy định chung của nhà trường cần có những quy định riêng của lớp
được xây dựng trên cơ sở quy định chung của trường.
VD: Ở lớp 6B, ngay từ những tuần đầu của năm học GVCN cùng ban cán
sự lớp đã xây dựng “Tiêu chí đánh giá, xếp loại hạnh kiểm” cho từng thành
viên trong lớp.
Tiêu chí đánh giá xếp loại được xây dựng trên cơ sở “Bảng thi đua” giữa
các lớp của Liên đội trường THCS Tào Xuyên. Giáo viên cho học sinh đăng kí
thi đua về xếp loại hạnh kiểm.
Sau khi xây dựng xong “Tiêu chí đánh giá, xếp loại hạnh kiểm”, trong tiết
sinh hoạt chủ nhiệm, lớp trưởng tiến hành lấy ý kiến của các thành viên trong
lớp để điều chỉnh cho hợp lý. Sau đó GVCN đưa ra quyết định cuối cùng.
Việc lấy ý kiến của học sinh là rất quan trọng vì các em sẽ thấy mình được
tơn trọng. Vì vậy, các em sẽ có ý thức tổ chức tốt hơn trong học tập.

Ví dụ:
Khi tiến hành lấy ý kiến của học sinh, các em có đề nghị về điểm số như sau:
Tổng điểm : 100 điểm
Nói tục, chửi bậy:
trừ 3 điểm tăng lên trừ 5 điểm.
Vô lễ với giáo viên:
trừ 20 điểm tăng lên trừ 30 điểm.
Vắng không phép:
trừ 2 điểm giảm xuống trừ 1 điểm.
Điểm tốt:
cộng 1 điểm tăng lên cộng 5 điểm.
Sau khi thống nhất thang điểm, GVCN cho tổ chức thực hiện. Mỗi tổ
trưởng có một cuốn sổ theo dõi các thành viên trong lớp dựa trên thang điểm đã
thống nhất. Cuối tuần, vào tiết sinh hoạt chủ nhiệm, các tổ trưởng lên báo cáo
trên bảng tình hình các thành viên trong tổ. Sau khi báo cáo xong, tổ trưởng sẽ
giải trình ý kiến của tổ viên (nếu có). Nếu ý kiến vượt quá nhiệm vụ của tổ
trưởng thì lớp trưởng hoặc GVCN giải trình.
Trên cơ sở báo cáo của tổ trưởng, lớp trưởng quy ra điểm rồi xếp loại
hạnh kiểm trong tuần cho các thành viên trong lớp.
Với việc xếp loại hạnh kiểm theo thang điểm như vậy thì việc đánh giá
hạnh kiểm của học sinh là tương đối chính xác. Tuy nhiên có những vi phạm của
học sinh là ngồi ý muốn của các em. Vì vậy trong q trình thực hiện GVCN
cần có cách xử lý phù hợp, nếu là trường hợp ngoài ý muốn thì khơng nên trừ
điểm của các em nhưng cần chú ý để khơng bị học sinh nói gạt. Những học sinh
vi phạm, giáo viên cũng nên cho các em “lập công chuộc tội”. Nếu như đẩy các
em vào đường cùng, khơng có điều kiện sửa sai thì dễ làm cho các em chán nản,
thất vọng, mất động cơ để phấn đấu.
14



Ví dụ 1: Trong thang điểm tơi có đưa ra trường hợp:
- Trong tuần nếu bị hạnh kiểm loại TB hoặc khá nhưng đạt 3 điểm
tốt và có ý thức sửa sai thì sẽ được nâng một bậc hạnh kiểm.
- Trong tuần đạt 3 điểm tốt, không vi phạm nội quy thì được tun
dương trước lớp và trước tồn trường vào buổi chào cờ đầu tuần.
Ví dụ 2: Học sinh nghỉ học khơng phép, giáo viên tìm hiểu lí do, nếu nghỉ
vì lý do chính đáng nhưng khơng kịp viết đơn thì chấp nhận cho các em nộp đơn
vào ngày đi học sau đó.
Một điều cần chú ý trong khi xử lí các hành vi phạm của học sinh nữa là
phải tìm hiểu lý do dẫn đến những vi phạm của học sinh. Nếu cách xử lí khơng
phù hợp với lý do, trừ điểm mà các em không “tâm phục khẩu phục” sẽ dễ dẫn
đến thái độ bất mãn nơi các em.
*Giáo dục học sinh cá biệt bằng cách “lấy độc trị độc”.
Ở tuổi các em, bạn bè có một vị trí rất lớn trong mối quan hệ xã hội của
các em, thường ở lứa tuổi này các em chưa ý thức được việc nào là cần thiết
hơn, chính vì thế đa phần trong quan hệ với thầy cô giáo các em thường có biểu
hiện bao che cho nhau, nhất là những khi đề cập tới các đối tượng học sinh cá
biệt, mặc dù biết việc làm của bạn là sai, tuy vậy khi hỏi đến phần lớn các em
đều trả lời một câu chung nhất (không biết), đối với những em có quan hệ gần
gũi với HS chậm tiến, cũng có thể các em ngại khơng dám nói ra sự thật vì sợ sự
đe doạ của các bạn...
Sau khi nắm được thơng tin, phân tích tình hình, tơi hướng dẫn các
em gần gũi và giúp đỡ bạn, nên tạo được quan hệ tốt và nhất là tạo cho những
em cá biệt có niềm tin với mình. Phải nói rằng trong quan hệ bạn bè các em sẽ
bộc lộ rõ cá tính khơng e ngại. Tơi thường xun giữ mối quan hệ với các em
này tìm hiểu những khó khăn khi phải thuyết phục HS cá biệt để tháo gở khó
khăn cho các em, thường xuyên cung cấp biện pháp xử lý kịp thời những biến
động của các đối tượng và động viên các em, tạo cho các em có niềm tin thuyết
phục, giúp đỡ học sinh cá biệt tiến bộ.
Dùng cách “lấy độc trị độc”. Qua các hoạt động của lớp, GVCN cần theo

dõi kỹ, qua từng hoạt động các em có những biểu hiện như thế nào: say mê,
hứng thú, nhiệt tình, tích cực hay qua loa chiếu lệ, đùn đẩy,.... . Hoạt động này
em thích dẫn đến nhiệt tình, hoạt động kia khơng thích thì né tránh.
Từ việc theo dõi trên GVCN có biện pháp phát huy sở trường của từng em
lấy đó làm địn bẩy để tiến hành ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực khác nảy
sinh ở các em.
Ví dụ: Em Nguyễn Hồng Anh là học sinh 6B thường xuyên nói chuyện
riêng trong lớp, khi ban cán sự lớp phê bình là em hăm doạ đánh bạn. Để vừa
ngăn chặn được sự mất đoàn kết trong lớp đồng thời xây dựng nề nếp tiết học tốt
tơi phân cơng em làm lớp phó kỷ luật - giao nhiệm vụ theo dõi các bạn đồng thời
trước lớp tôi quy định những em cán sự lớp phải luôn gương mẫu đi đầu trong
mọi hoạt động, nếu vi phạm thì hình thức kỷ luật sẽ nặng hơn. Khi nhận chức
danh lớp phó Hồng Anh rất thích, tuần đầu tiên Hồng Anh có tiến bộ nhưng
vẫn cịn một vài lần bị phê bình là nói chuyện riêng, cuối tuần nhận xét tình hình
15


chung của lớp tôi cho các em phát biểu phê bình vai trị trách nhiệm của Hồng
Anh. Sau đó tơi nhận xét chung."Tuy rằng trong tuần qua bạn Hoàng Anh vẫn
cịn sai sót - có vi phạm kỷ luật, nhưng so với các tuần trước nề nếp của lớp ta
tuần này tiến bộ hơn và bản thân Hoàng Anh cũng có tiến bộ, vì sự tiến bộ của
lớp ta có thể xí xố cho bạn và cho bạn cơ hội để khẳng định vai trị của mình ở
tuần học tiếp theo". Về sau Hoàng Anh đã ý thức được trách nhiệm của mình và
khơng cịn vơ kỷ luật như trước nữa.
GVCN lớp cần động viên HS trong lớp gần gũi khích lệ để các em hồ
nhập với tập thể.
*Phối kết hợp với giáo viên bộ mơn và các đồn thể để giáo dục học
sinh chậm tiến.
Qua trao đổi với các giáo viên bộ mơn, các đồn thể trong nhà trường,
giáo viên chủ nhiệm sẽ nắm vững hơn về kết quả học tập, tu dưỡng, rèn luyện

của học sinh chậm tiến qua các giờ học và các hoạt động tập thể trong nhà
trường để có kế hoạch điều chỉnh cũng như động viên theo dõi giúp đỡ các em
có ý thức chuyên cần hơn trong học tập, tu dưỡng.
Thông qua việc phối hợp với các giáo viên bộ môn trong nhà trường giáo
viên chủ nhiệm sẽ phát hiện ra năng khiếu cũng như sở thích của từng em để từ
đó phát hiện và bồi dưỡng kịp thời các năng khiếu đó giúp các em có cơ hội thể
hiện năng khiếu của mình.
Có những em thích học mơn này nhưng lại khơng thích mơn kia vì những
lý do khác nhau nên giáo viên chủ nhiệm cần tìm hiểu cặn kẽ các nguyên nhân
để cùng với giáo viên bộ môn đề ra các biện pháp thích hợp nhằm giúp các em
có thể có kết quả học tập tốt hơn từ đó các em sẽ hứng thú học tập và đi học đều
đặn hơn.
VD: GVCN lập danh sách hoặc trao đổi cụ thể đối tượng hay nghỉ học
nêu rõ lí do giúp cho giáo viên bộ mơn hiểu từng hồn cảnh của mỗi em để
thầy cô bộ môn sử dụng các phương pháp giảng dạy dễ hiểu nhất, tạo sự hứng
khởi, say mê cho các em thông qua các cách dẫn dắt từ thật dễ đến khó và có thể
lồng ghép những trị chơi có thưởng.
Tơi nghĩ rằng với cách làm đó sẽ lơi cuốn các em. Từ đó, các em nhận ra
được việc học rất hữu ích và cần thiết cho bản thân và gia đình. Vì ngồi việc
làm giàu cho kiến thức của mình, các em sẽ vui hơn khi được cơ khen, thầy
thưởng. Do đó việc nghỉ học chắc chắn sẽ giảm. Trường hợp ngoại lệ nếu biện
pháp giáo dục từ trường khơng có hiệu quả thì ta phải phối hợp chặt chẽ với phụ
huynh. Chắc chắn khi các em thấy giữa gia đình và cơ giáo có sự hợp tác chặt
chẽ thì việc bỏ tiết, bỏ học sẽ khơng cịn xảy ra nữa.
*Giáo dục HS cá biệt bằng phương pháp tác động tập thể.
Người GVCN muốn làm tốt công tác chủ nhiệm phải biết vận dụng nhiều
phương pháp giáo dục khác nhau trong đó có phương pháp giáo dục chậm tiến
và giáo dục tập thể.
Phương pháp giáo dục chậm tiến ở đây không nên hiểu là giáo dục học
sinh chậm tiến mà cần hiểu phương pháp giáo dục chậm tiến là sự tác động tới

từng cá nhân một cách chuyên biệt để đảm bảo tính phù hợp với đối tượng.
16


Ví dụ: cùng một biểu hiện có lỗi như nhau, nhưng có em phải phê bình
nghiêm khắc, có em lại nhắc nhẹ, có khi nhắc chung chung, có lúc lại nhắc nhở
riêng (trực tiếp), có khi phải tách học sinh ra khỏi tập thể để giáo dục riêng, …
Vận dụng phương pháp giáo dục chậm tiến và giáo dục tập thể người giáo
viên phải đo được mức độ hành vi, nắm được tâm lí chung của tập thể cũng như
tâm lý chung của cá nhân. Nếu không đáng khen mà khen quá lời, chỉ đáng nhắc
nhở nhưng vì lẽ nào đó giáo viên cảnh cáo, phê bình sẽ dễ làm cho học sinh
chán nản, mất lòng tin, bi quan, …
Để vận dụng phương pháp này hiệu quả, người giáo viên chủ nhiệm cần
nắm được tâm lý của từng cá nhân trong lớp cũng như tâm lí – tính cách chung
của học sinh lớp mình chủ nhiệm. Trên cơ sở đó việc chủ nhiệm sẽ hiệu quả
hơn.
Muốn hiểu tâm lý học sinh, giáo viên cần quan sát vào hoạt động thực tế
của học sinh ở lớp học, cộng đồng, gia đình, …Nghiên cứu đặc điểm học sinh là
việc làm hết sức quan trọng. Vì chỉ trên cơ sở hiểu biết từng em mới có khả năng
phân loại nhóm theo các đặc điểm về học lực, tính cũng như hồn cảnh.
Điều đặc biệt quan trọng đối với giáo viên chủ nhiệm là bằng các biện
pháp nghiên cứu, phân tích được nguyên nhân của các hiện trạng, đặc điểm của
từng học sinh. Chỉ trên cơ sở biết được nguyên nhân dẫn tới các đặc điểm tâm lý
của học sinh thì giáo viên chủ nhiệm mới có giải pháp tác động, giáo dục phù
hợp, mang lại hiệu quả cao.
Khi giáo viên đã nắm được nguyên nhân của hành vi thì trên cơ sở tâm lý,
tính cách của học sinh giáo viên đưa ra biện pháp xử lý kịp thời với học sinh.
Việc xử lý kịp thời các hành vi sai trái rất quan trọng. Nếu khơng xử lý kịp thời
thì có thể dẫn đến những hậu qủa khó lường bởi tính hiếu thắng, muốn khẳng
định mình của học sinh. Trong quá trình lý thì cần chú ý đến tính cách của học

sinh để có biện pháp phù hợp, nếu khơng sẽ phản tác dụng.
Ví dụ: Nếu một học sinh có lịng tự trọng cao thì khơng nên trách móc,
bới tội trước lớp. Trong trường hợp này giáo viên nên gặp trực tiếp.
Cách xử lý trên cũng phù hợp với học sinh có lỗi mà biết nhận lỗi và sửa,
học sinh dễ “mủi lòng”. Trong trường hợp này giáo viên nên sử dụng nhiều câu
biểu cảm, thể hiện thái độ, tâm trạng của chính mình.
Trước học sinh lỳ lợm, bất cần đời thì biện pháp tốt nhất là tìm hiểu điểm
yếu về tình cảm của đó, từ đó tác động trực tiếp. Những học sinh kiểu này giáo
viên khơng nên la mắng, khiêu khích vì các em rất dễ làm liều.
Với học sinh có tính ganh đua thì nên khiêu khích, so sánh em đó với một
học sinh nào đó hơn em.
Học sinh cũng như bất cứ người nào, khi có lỗi thường che dấu. Bởi vậy
trước khi xử lý, bằng mọi cách phải cho các em thấy lỗi và nhận lỗi của mình.
Làm vậy trước hết học sinh sẽ nể vì các em khơng thể dấu nổi hành vi sai trái
của mình và học sinh sẽ có cảm giác thầy ln biết những việc mình làm. Đó là
cơ sở để các biện pháp xử lý của mình có hiệu quả.
*Tổ chức buổi sinh hoạt:
17


Trong buổi sinh hoạt cuối tuần, GVCN đóng vai trị cố vấn, hướng dẫn
các em từng bước tiến hành. Sau đó GVCN sẽ là người kết luận cuối cùng. Đối
với những trường hợp vi phạm cho các em tự báo cáo về mình dựa theo nội quy
của lớp. (từng học sinh báo báo).
Ngày
Số lần
Nội dung báo cáo
vi phạm
vi phạm
1. Đến lớp phải đúng giờ quy định.

2. Phải học bài, làm bài đầy đủ trước khi đến lớp.
3. Tổ trực phải vệ sinh phòng học sạch sẽ trước
khi vào học.
4.Tác phong: quần …, áo …., đầu tóc …, giày dép
…., khăn qng.
5. Khơng mang thức ăn đóng hộp, thức uống bằng
chai, lon, bọc nylon vào lớp học.
6. Giữ gìn vệ sinh phịng học. Khơng được nhả
kẹo cao su xuống nền gạch.
7. Không được viết, vẽ trên tường, bàn ghế.
8. Không được đùa giỡn, chọc ghẹo, làm mất trật
tự trong giờ học.
9. Nếu nghỉ học, ngày sau đi học phải báo cáo với
GVCN…
10. Đi học phải mang theo nội quy lớp.
Sau đó lớp trưởng nhận xét xem còn ai chưa báo cáo, hoặc báo cáo khơng
chính xác để GVCN xử lý. Trong việc xử lý những học sinh vi phạm phải đúng
người, đúng tội theo nội quy đã đề ra. Tránh trường hợp cả nể, xử học sinh này
nặng, xử học sinh kia nhẹ làm mất đi tính nghiêm khắc, cơng minh của người
thầy. Những hình thức kỹ luật đã đưa ra bắt buộc học sinh đó phải thực hiện,
GVCN khơng bỏ qua với bất cứ trường hợp nào. Làm được điều đó sẽ giúp cho
nề nếp lớp học đi vào khn khổ nhất định, rèn luyện cho các em chấp hành tốt
Nội quy trường, lớp như vậy sẽ hạn chế tối đa trường hợp học sinh có biểu hiện
chậm tiến tái phạm.
Ngoài việc xử lý học sinh vi phạm, GVCN cần phải có hình thức biểu
dương, khen thưởng. Đây là hình thức rất có ý nghĩa, học sinh cá biệt thơng
thường vốn khó tính, khó dạy nếu GVCN thiên vị lập tức sẽ có sự phản ứng
ngược lại. Mỗi khi học sinh cá biệt làm được một việc tốt, đạt điểm tốt thì phải
động viên khuyến khích các em nên tiếp tục phát huy. Nếu các em sai phạm thì
cứ nhẹ nhàng xử lý như những học sinh khác, tránh nóng vội, kỳ thị để các em

tự nhận lỗi và sửa chữa.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Tôi đã áp dụng SKKN “Một số kinh nghiệm “ giáo dục học sinh chậm
tiến ” của giáo viên chủ nhiệm lớp 6B Trường THCS Tào Xuyên” vào công
tác chủ nhiệm, với thiết kế sử dụng; kiểm tra trước và sau tác động với lớp 6B
18


trường THCS Tào Xuyên – Thành Phố Thanh Hóa – Tỉnh Thanh Hóa năm học
2020 - 2021.
Tơi đã tiến hành kiểm tra hai phần: kết quả xếp loại hai mặt giáo dục (ở
đầu học kì I) và một lần sau tác động(điểm tổng kết cuối học kì I) sau đó thống
kê kết quả kiểm tra được kết quả như sau:
Bảng 1: Kết quả kiểm tra trước tác động.
Lớp

Sĩ số

6B

34

Học Lực
Giỏi
2

Hạnh kiểm

Khá


Trung bình

Yếu

10

12

10

Tốt
24

Khá

Trung bình

Yếu

8

2

0

Tốt
31

Khá


Trung bình

Yếu

3

0

0

Bảng2: Kết quả kiểm tra sau tác động.
Lớp

Sĩ số

6B

34

Học Lực
Giỏi
5

Hạnh kiểm

Khá

Trung bình

Yếu


12

13

4

Qua thực nghiệm giảng dạy áp dụng SKKN đã cho thấy những hiệu quả
rõ rệt không những thể hiện qua kết quả xếp loại hai mặt mà còn thể hiện qua
thái độ, hứng thú và nhận thức của các em cụ thể như sau:
Bảng3:Kết quả kiểm tra sau tác động về hứng thú học tập, thái độ, cảm xúc.

Lớp

Sĩ số

6B

34

Trước tác động
Khơng
Có hứng Bình

thú, tích thường hứng thú, hứng
chưa tích thú,
cực
cực
tích
cực

5
12
17
20

Sau tác động
Bình
thường

Khơng
hứng thú,
chưa tích
cực

14

0

* Tham gia phong trào:
Lớp tham gia tất cả các phong trào do nhà trường cũng như các tổ chức phát
động. đạt được một số kết quả như sau:
- Chi đội vững mạnh.
- Trong phong thi đua 20.11 các em đạt rất nhiều điểm 9,10.
- Tham gia lập thành tích tốt chào mừng ngày 8/3, 26/3.
- Tập thể lớp luôn là tập thể vững mạnh.
- Phấn đấu cuối năm học 2020-2021: Lớp đạt danh hiệu tập thể lớp tiên tiến
xuất sắc cấp trường.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.
3.1. Kết luận.
3.1.1.Những nhận định chung về đề tài.

Công tác chủ nhiệm lớp ở các trường THCS là một nhiệm vụ quan trọng
và vô cùng cần thiết, cả nước đang thực hiện đổi mới chương trình giáo dục phổ
thông. Chất lượng giáo dục phổ thông được nâng lên phần lớn nhờ vào đội ngũ
GVCN lớp - người đóng vai trị quản lí trực tiếp hoạt động dạy và học ở mỗi
đơn vị lớp. Trong quá trình đổi mới giáo dục hiện nay, cùng với việc chuẩn hóa
19


trong giáo dục, những yêu cầu mới về người GV nói chung và GVCN lớp nói
riêng cũng thay đổi.
Trong quá trình thực hiện đề tài tơi đã rút ra được một số kinh ngiệm như
sau:
Người thầy, người cha, người mẹ và những người lớn tuổi phải là tấm
gương sáng cho các em noi theo. Hết lịng thương u và tơn trọng các em, biết
tìm ra nguyên nhân và phán xét một cách khách quan để các em có cơ hội tiến
bộ.
Muốn cho học sinh làm một việc gì đó thì người giáo viên phải tạo cho
các em ham muốn làm việc đó, cho các em thấy được lợi ích của nó.
Ln tơn trọng học sinh, nhất là ở nơi đơng người. Ln đặt lợi ích của
học sinh làm đầu, xem các em là trung tâm của mọi vấn đề trong lớp học.
Từng bước rèn luyện cho các em năng lực tự quản, tự giải quyết các vấn
đề. Từ đó học sinh sẽ cảm nhận được vai trò làm chủ của mình.
Người GVCN tuy cho lớp tự quản nhưng phải ln ln đồng hành cùng
các em, nhanh chóng nắm bắt tình hình lớp để giải quyết những vấn đề vượt
khỏi phạm vi của các em. Việc đồng hành cùng các em cũng làm cho học sinh
cảm thấy an tâm vì thầy cô luôn ở bên – các em sẽ tự tin hơn trong mọi hoạt
động.
Chúng ta không nên áp dụng rập khn máy móc bấc kỳ một phương pháp
giáo dục nào bởi lẽ sản phẩm đây chính là “con người”.
Để đạt được mục đích giáo dục, ta cần phải biết chọn điểm xuất phát thích

hợp với đặc điểm riêng của từng trường, từng lớp, từng HS,…
3.1.2.Điều kiện áp dụng, bài học kinh nghiệm.
* Điều kiện áp dụng:
Giáo viên cần chuẩn bị kế hoạch, phương án cụ thể đối với tập thể lớp,
đặc biệt đối với nhóm học sinh cá biệt theo từng tuần, từng tháng, có sự điều
chỉnh linh hoạt cho phù hợp với tình hình thực tế…Trong quá trình giáo dục học
sinh cá biệt tuyệt đối khơng được nóng nảy, vội vàng, phải kiên trì, nhẫn nại,
giáo viên cần tìm ra những yếu tố ảnh hưởng tới thành công hay thất bại để điều
chỉnh, khắc phục và có những lưu ý với học sinh. Đồng thời thông qua việc
kiểm tra việc phấn đấu, rèn luyện, cũng như những biểu hiện về tâm tư tình cảm
của học sinh, giáo viên sẽ có những ý tưởng mới để có những biện pháp tích
cực, hiệu quả hơn. Giáo viên nên ghi lại những kinh nghiệm đó để áp dụng trong
những năm học sau.
* Bài học kinh nghiệm:
Sau một thời gian thực hiện và áp dụng SKKN này tôi nhận thấy một vấn
đề khác cần phải nghiên cứu, đó là: “Vai trị giáo viên chủ nhiệm lớp trong
việc xây dựng tập thể lớp vững mạnh của học sinh đầu cấp THCS” rất quan
trọng. Sự thành công trong công tác chủ nhiệm lớp, một nhân tố quan trọng mà
chúng ta nên thận trọng cân nhắc khi quyết định lựa chọn, đó chính là “lớp
truởng”.
Muốn làm tốt được những điều trên đòi hỏi người GVCN lớp phải là người
có uy tín, có năng lực thực sự để chỉ đạo, dám nghĩ, dám làm đi trước, đề xuất
20


được các vấn đề giá trị, tập hợp được sức mạnh tổng hợp, vai trò con chim đầu
đàn là yếu tố có phần lớn lao, tạo nên sự thành cơng hay thất bại ở mỗi HS, mỗi
lớp học, mỗi trường học…
Qua q trình thực hiện đề tài này, tơi nhận thấy để đáp ứng được với nhu
cầu đào tạo con người mới hiện nay với mục tiêu phát triển toàn diện, có năng

lực sáng tạo, có kiến thức phổ thơng vững chắc, có sự say mê và nhiệt tình sáng
tạo và khả năng cống hiến thì người thầy vẫn đóng vai trò then chốt. Người thầy
giữ vai trò là người tổ chức các hoạt động dạy học, cần luôn luôn nhiệt tình, tâm
huyết với nghề, ln ln có ý thức tự rút kinh nghiệm, học hỏi nâng cao trình
độ chuyên môn nghiệp vụ, không ngừng đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh và phát triển năng
lực học sinh. Làm được điều đó thì chất lượng dạy và học, chất lượng giáo dục
sẽ được nâng lên góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ năm học theo tinh thần
đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo của Hội nghị Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa XII, thực hiện mục tiêu giáo dục.
3.1.3.Triển vọng phát triển đề tài.
Tôi mới chỉ áp dụng đề tài vào giáo dục học sinh cá biệt ở lớp 6B, lớp tôi
chủ nhiệm trong năm học 2020 - 2021 và đã thu được kết quả là: chất lượng học
tập và tu dưỡng đạo đức cũng như hứng thú học tập của học sinh trong lớp nói
chung, nhóm học sinh cá biệt của lớp nói riêng được nâng lên rõ rệt, khẳng định
được tính hiệu quả của đề tài.
Vì vậy có thể triển khai áp dụng rộng rãi kết quả của đề tài vào cơng tác
chủ nhiệm ở các khối lớp THCS, qua đó góp phần nâng cao chất lượng dạy học,
giáo dục chung của trường.
3.1.4. Những vấn đề cần bỏ ngỏ.
Trên đây là những ý tưởng và kinh nghiệm của cá nhân tôi, dù đã rất cố
gắng xong do kinh nghiệm cịn ít, năng lực bản thân còn hạn chế, phạm vi của
sáng kiến không cho phép nên không tránh khỏi những thiếu sót. Cụ thể, tơi tự
nhận thấy cịn những vấn đề bỏ ngỏ như tơi mới chỉ lấy ví dụ ở một số lớp
nhưng tôi chưa hệ thống được những biện pháp, kinh nghiệm, kết quả cụ thể cho
từng khối, từng lớp. Nếu thực hiện được điều này sẽ dễ dàng, thuận lợi hơn cho
các giáo viên chủ nhiệm lớp.
3.2. Kiến nghị.
3.2.1. Với đồng nghiệp.
Tơi mong muốn nhận được sự đóng góp ý kiến cho đề tài này cũng như sự

trao đổi kinh nghiệm chủ nhiệm của đồng nghiệp để bản thân tơi được học hỏi,
tích luỹ kinh nghiệm, nâng cao trình độ chun mơn, nghiệp vụ để thực hiện có
hiệu quả nhiệm vụ dạy học và giáo dục.
3.2.2. Với tổ, nhóm chun mơn.
Đề nghị nhóm giáo viên chủ nhiệm và tổ Đặc thù của trường tổ chức hội
thảo chuyên đề tiếp tục thử nghiệm đề tài, rút kinh nghiệm để hồn thiện đề tài
này, và áp dụng vào quản lí học sinh trong công tác chủ nhiệm, đặc biệt là công
tác giáo dục học sinh yếu kém của trường, cũng như tổ chức nhiều hơn những
chuyên đề nghiên cứu về thực trạng cơng tác chủ nhiệm lớp, tìm ra những vấn
21


đề từ đó đề ra phương pháp tích cực giải quyết những vấn đề đặt ra. Qua đó mỗi
giáo viên được bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ và nâng
cao chất lượng dạy học nói chung trong nhà trường.
3.2.3. Với BGH nhà trường và cấp trên.
* Đối với trường THCS Tào Xuyên.
- Xây dựng kế hoạch quản lý công tác chủ nhiệm lớp hữu hiệu, phù hợp
với đặc điểm nhà trường.
-Nhà trường cần quan tâm đến điều kiện làm việc của các GVCNL sao
cho họ có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
- Nhà trường cần tổ chức tập huấn cho đội ngũ GVCNL qua các kỹ năng trên,
cũng như cần tố chức các hoạt động khác nhau, tạo cơ hội cho các GVCN được học
tập, chia sẻ kinh nghiệm và giúp đỡ nhau trong công tác CNL.
*Đối với cấp trên.
Cần có quy định bổ sung điều chỉnh tăng số tiết cho công tác chủ nhiệm
lớp cho phù hợp với thực tế của công tác CNL.
Cần có phụ cấp cho đội ngũ GV làm cơng tác CNL sao cho phù hợp vừa
bù đắp được công sức của các thầy cô vừa làm cho các thầy cô cần có trách
nhiệm hơn với nhiệm vụ được giao.

Tổ chức tập huấn về kỹ năng làm công tác CNL cho tất cả các GVCN vào
dịp trước mỗi năm học, tất cả các GVCN đều được tham dự tập huấn và trực tiếp
được bồi dưỡng các kỹ năng từ các chuyên gia, chuyên viên.
Tổ chức hàng năm hội thi GVCNL giỏi hoặc đại hội GVCN giỏi để tôn
vinh những thầy cô có thành tích cao và tạo ra một phong trào thi đua tích cực
trong cơng tác này.
Phịng giáo dục cần có kế hoạch chỉ đạo cơng tác chủ nhiệm đến các
trường THCS theo từng chuyên đề, từng tháng.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 18 tháng 3 năm 2021
Tơi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, khơng sao chép nội dung của người
khác.
Người viết sáng kiến

Mai Thị Thanh Huyền

22


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đặng Quốc Bảo và Nguyễn Đắc Hưng (2004), Giáo dục Việt Nam
hướng tới tương lai vấn đề và giải pháp, NXB Chính trị quốc gia.
2. Nguyễn Thanh Bình (2000), Cơng tác chủ nhiệm lớp ở trường THPT,
mã số: SPHN-09-465 NCSP.
3. Nguyễn Thị Bình (ngày 04/12/2002), “Về một số vấn đề trong giáo dục
và đào tạo hiện nay”- Báo Nhân Dân.
4. Phạm Văn Đồng (1986), Mấy vấn đề văn hóa, giáo dục, NXB Sự thật

Hà Nội.
5. Phạm Minh Hạc (1986), Một số vấn đề về QLDG và khoa học GD,
NXBGD, Hà Nội.
6. Nguyễn Sinh Huy- Nguyễn Văn Lê (1985), Giáo dục học đại cương,
NXB Giáo dục.
7. Đặng Vũ Hoạt- Hà Thế Ngữ (1986), Giáo dục học(t.I), NXB Giáo dục.
8. Luật giáo dục (2009), NXB Chính trị Quốc gia,Hà Nội.
9. Nguyễn Dục Quang, Lê Thanh Sử, Nguyễn Thị Kỷ (2000), Những tình
huống giáo dục học sinh của người GVCN, NXB ĐHQG Hà Nội.
10.Hà Nhật Thăng (2001), Phương pháp công tác của người GVCN trường
THPT, NXB ĐHQG Hà Nội.
11.Hà Nhật Thăng, Nguyễn Dục Quang, Nguyễn Thị Kỷ (1998), Cơng tác
GVCN ở trường phổ thơng, NXBGD.
12.Nguyễn Cảnh Tồn (2002), Tuyển tập tác phẩm bàn về giáo dục Việt
Nam, NXB Lao động, Hà Nội.
13.Phạm Viết Vượng (2004) Giáo dục học (Chương XVI. Người GVCNL),
NXB ĐHQG Hà Nội.
14.Bôn-đư-rép N.I. (1984) Phương pháp công tác chủ nhiệm lớp, NXB
Giáo dục, Mátxcơva.

23


24


×