Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Một số kinh nghiệm hướng dẫn làm bài văn tự sự cho học sinh trường THCS đông hải

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.3 KB, 20 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HĨA

PHỊNG GD&ĐT TP. THANH HÓA

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ KINH NGHIỆM HƯỚNG DẪN LÀM BÀI VĂN
TỰ SỰ CHO HỌC SINH TRƯỜNG THCS ĐÔNG HẢI

Người thực hiện: Khổng Thị Biên
Chức vụ:
Giáo viên
Đơn vị công tác: THCS Đơng Hải
SKKN thuộc mơn: Ngữ văn

THANH HĨA NĂM 2021


MỤC LỤC
Tên mục lục
1. MỞ ĐẦU

Trang
2

1.1.

Lí do chọn đề tài

2


1.2.

Mục đích nghiên cứu

2

1.3.

Đối tượng nghiên cứu

3

1.4.

Phương pháp nghiên cứu

3

2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

4

2.1. Cơ sở lý luận của Sáng kiến kinh nghiệm

4

2.2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu

4


2.2.1. Về phía giáo viên

4

2.2.2 Về phía học sinh

5

2.2.3. Kết quả khảo sát thực trạng

6

2.3. Giải pháp thực hiện
2.3.1. Rèn luyện kĩ năng tìm hiểu đề (xác định yêu cầu của
đề)
2.3.2. Rèn luyện kỹ năng xây dựng, sắp xếp các sự việc
trong văn tự sự

6
6
8

2.3.3. Rèn luyện kỹ năng lập ý, lập dàn ý cho bài văn tự sự

10

2.3.4. Rèn luyện kỹ năng viÕt lêi văn, lêi tho¹i

14


2.4. Kết quả kiểm nghiệm

17

3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

18

3.1. Kết luận

18

3.2. Kiến nghị

18


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Văn học có vai trò rất quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển tư
duy của con người. Vì vậy ngay từ năm học đầu của cấp học THCS, chúng ta
phải giúp học sinh có thái độ u thích và học tốt môn Ngữ văn. Môn Ngữ văn
trong nhà trường Trung học cơ sở chia làm ba phân môn là: Văn bản, Tiếng Việt
và Tập làm văn. Trong thực tế dạy học phân môn Tập làm văn là phân môn
tương đối khó. Điều đó được thể hiện rõ trong q trình tạo lập văn bản đối với
học sinh lớp 6, nhất là phần văn tự sự. Mặc dù các em đã được làm quen với
kiểu bài tự sự ở bậc Tiểu học nhưng các em chỉ quen với cách viết đoạn văn đơn
thuần, diễn đạt vụng về, làm văn lại theo khn mẫu chưa có tính sáng tạo, năng
lực diễn đạt còn yếu....
Rèn luyện kĩ năng viết văn tự sự là một vấn đề khơng mới nhưng lại có

khả năng lớn trong việc rèn luyện và tích hợp được các kĩ năng khác như:
dùng từ, đặt câu, cách lập dàn ý, cách lựa chọn các chi tiết, sự việc tiêu biểu
trong toàn bộ nội dung câu chuyện.Việc rèn luyện kĩ năng này cần phải thể hiện
sự đổi mới trong phương pháp dạy học: tích hợp và tích cực giữa các chủ thể
học sinh trong quá trình dạy học.
Qua thực tế giảng dạy, tơi thấy học sinh cịn mắc nhiều lỗi mà nếu giáo
viên có thể giúp các em khắc phục được thì kết quả sẽ tốt hơn. Những hạn chế
trong bài làm văn tự sự của học sinh một phần là do bản thân các em, một phần
do giáo viên chưa có biện pháp giúp đỡ phù hợp. Là giáo viên được trực tiếp
giảng dạy môn Ngữ văn lớp 6, tôi luôn trăn trở trước thực trạng chất lượng bài
viết văn tự sự của học sinh. Bên cạnh đó, văn tự sự là một kiểu bài có vị trí quan
trọng trong chương trình ngữ văn của các em, giúp các em phát huy được năng
lực văn học của mình. Vì những lí do trên nên tơi chọn đề tài “ Một số kinh
nghiệm hướng dẫn làm bài văn tự sự cho học sinh trường THCS Đơng Hải”
để nghiên cứu.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Dạy học theo quan điểm tích hợp đang là vấn đề mang tính cấp thiết được
nhiều người quan tâm, nhất là phần Tập làm văn ở chương trình THCS. Trong
phạm vi đề tài này tôi đề cập việc rèn luyện kĩ năng viết bài Tập làm văn, đặc
biệt là tạo lập văn bản tự sự cho học sinh lớp 6. Qua đó, phân tích thực trạng
chất lượng bài viết của học sinh để rút ra kinh nghiệm rèn luyện kĩ năng viết bài
văn tự sự, góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng dạy - học.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- “Một số kinh nghiệm hướng dẫn làm bài văn tự sự cho học sinh trường
THCS Đông Hải”.
- Bài viết của học sinh ở các lớp 6A,B tôi được giảng dạy học kỳ I, năm
học 2020 - 2021.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
1



- Nghiên cứu tài liệu:
+ Nghiên cứu tài liệu nghiệp vụ dạy học môn Ngữ văn lớp 6, sách giáo
khoa, sách giáo viên, ý kiến của các nhà nghiên cứu, các giáo viên giỏi trong
toàn quốc trên các bài viết đăng trên các tạp chí khoa học…
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế:
+ Đối với học sinh lớp 6 bậc THCS với những bài viết thực tế của học sinh,
tìm ra những hạn chế chủ yếu của học sinh khi viết bài tự sự.
- Phương pháp đọc tài liệu :
+ Sách giáo khoa Ngữ văn 6 tập 1, tập 2.
+ Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Ngữ văn THCS
+ Các dạng bài Tập làm văn và cảm thụ thơ văn lớp 6 - Cao Bích Xuân Nhà xuất bản Giáo dục.
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu:
+ Kiểm tra việc học Tập làm văn của học sinh ở đầu năm, thống kê kết
quả .
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận
Trong chương trình Ngữ văn Trung học cơ sở, phân môn Tập làm văn đóng
vai trị quan trọng trong việc cung cấp các tri thức cơ bản về các kiểu văn bản,
hình thành các kĩ năng nghe-nói-đọc-viết, hiểu khái quát về văn bản và bố cục
chung của nó. Vấn đề là người giáo viên phải biết lựa chọn, linh hoạt các
phương pháp dạy học mới để tổ chức hoạt động nhận thức cho học sinh nhằm
đem lại hiệu quả cao nhất. Muốn vậy, khi tiến hành các phương pháp dạy học,
giáo viên phải thực hiện phối hợp khéo léo các phương pháp, chú ý phát huy
tính tích cực, chủ động của các em học sinh. Trong đó, dạy học theo bài văn tự
sự trong Ngữ văn 6 cũng là một phương pháp rất quan trọng. Phương thức tự sự
là kiểu bài các em học sinh lớp 6 được làm quen ở học kỳ I.
Tự sự là trình bày một chuỗi các sự kiện theo một trình tự nhất định, dẫn
đến một kết thúc có ý nghĩa, nhằm giải thích một sự việc, tìm hiểu một con
người, bày tỏ một thái độ nào đó. Muốn thế, người ta phải lựa chọn sự việc, liên

kết các sự việc sao cho thể hiện được điều muốn nói. Tự sự có thể hiểu là kể
chuyện và kể sao cho có ý nghĩa. Tự sự gồm nhiều loại khác nhau như các văn
bản tự sự nghệ thuật (truyện, ký sự….), kể chuyện, tường trình, tường thuật….
Việc đưa tự sự vào phần đầu chương trình ngữ văn 6 là nhằm mục đích nối tiếp
những gì học sinh đã được học, rèn luyện về văn kể chuyện ở Tiểu học. Trong
trường Tiểu hoc, các em đã được làm quen với văn bản tự sự qua các giờ tập
đọc, các giờ học về văn kể chuyện. Trong ngữ văn 6, kiểu văn bản tự sự được
học ở phần văn là các loại văn bản: Truyện dân gian, truyện hiện đại, truyện
trung đại, truyện thơ hiện đại và ký hiện đại. Khi học sinh học văn bản tự sự
trong giờ văn thì ngay sau đó các em sẽ được học phương thức tự sự trong giờ
tập làm văn cũng như thực hành tạo lập văn bản theo phương thức tự sự. Kiến
thức về phương thức tự sự ở lớp 6 cung cấp những hiểu biết về nhân vật, sự
2


kiện, bố cục, đoạn văn, ngôi kể, thứ tự kể, kể chuyện dân gian, chuyện đời
thường, kể chuyện sáng tạo….tạo điều kiện cho các em nắm được những biến
hóa của tự sự, đồng thời giúp các em học tốt các văn bản có sử dụng phương
thức tự sự.
Do đó, khi viết bài văn tự sự, giáo viên cần hướng dẫn học sinh nắm được
các đặc điểm của văn tự sự để các em có thể hồn thành bài viết của mình.
2.2 Thực trạng
2.2.1. Về phía giáo viên
Đối với giáo viên, văn tự sự là dạng bài khó dạy. Giáo viên thường còn
thiếu linh hoạt trong vận dụng phương pháp và chưa sáng tạo trong việc tổ chức
các hoạt động học tập của học sinh. Vì vậy, khơng phải dạy loại văn nào cũng
đạt hiệu quả như mong muốn và không phải giáo viên nào cũng dạy tốt văn tự
sự. Việc tìm ra các phương pháp để hướng dẫn học sinh quan sát, tìm ý, lập dàn
ý, tưởng tượng…của đa số giáo viên cũng còn nhiều hạn chế.
Giáo viên chưa đảm bảo kết hợp và tích hợp giữa dạy Văn – Tiếng Việt

và Tập làm văn.
+ Giờ học văn bản, học sinh thụ động buộc giáo viên giảng nhiều, làm việc
nhiều, làm thay cho trò, làm tê liệt sự hào hứng học văn bản của học sinh. Giáo
viên cũng chưa giúp học sinh hiểu rõ và nắm vững các yếu tố cơ bản khi xây
dựng nên tác phẩm tự sự như: cốt truyện, nhân vật, hình ảnh có ý nghĩa biểu
tượng… để các em học tập, vận dụng.
+ Giờ Tiếng Việt đòi hỏi giáo viên dạy cho học sinh dùng tiếng Việt một
cách chính xác để giao tiếp, có cách diễn đạt tốt trong khi tạo lập văn bản, nhưng
giáo viên chưa vận dụng tối đa các tình huống giao tiếp, cho học sinh thực hành
ít nên nhiều em viết sai chính tả, nghèo vốn từ, dùng từ chưa chính xác, đặt câu
chưa đúng ngữ nghĩa, ngữ pháp. Đây là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến
chất lượng bài văn.
+ Giờ Tập làm văn học sinh chưa được học đến nơi đến chốn. Giáo viên
chưa có cách giúp học sinh có được những kiến thức và kĩ năng theo chuẩn bằng
những ví dụ mẫu linh hoạt sáng tạo, gắn với thực tế đời sống hàng ngày, có tác
dụng khắc sâu kiến thức.
Mặt khác, kinh nghiệm và sáng tạo trong giảng dạy của giáo viên là vấn đề
cần thiết để giảng được tốt, nó cũng tạo ra các biện pháp tối ưu để rèn kĩ năng
viết văn cho học sinh, nhất là với những em yếu kém thì giáo viên cần biện pháp
phù hợp để giảng dạy đạt hiệu quả tốt.

3


2.2.2. Về phía học sinh
Văn tự sự là loại bài mà các em đã được làm quen, được học ở tiểu học, các
em cũng đã được kể các chuyện dân gian, kể chuyện đời thường. Nhưng với
chương trình và yêu cầu của các lớp THCS, chương trình sách giáo khoa mới
hiện nay bài viết của các em thường đạt kết quả khơng cao. Là người thường dạy
chương trình Văn 6 nhiều năm, tơi nhận thấy trong chương trình Ngữ văn 6,

phương thức tự sự với những yêu cầu cao hơn về cốt truyện, nhân vật, ngôi
kể…. đã khiến cho một số đối tượng học sinh còn bỡ ngỡ. Các em còn lúng túng
khi bắt tay vào kể một câu chuyện theo yêu cầu đề ra. Tình trạng phổ biến nhất
đối với học sinh lớp 6 hiện nay là vấn đề nhận thức rất đơn giản và sơ lược khi
tiến hành làm bài văn tự sự không cần thiết lập dàn ý dẫn đến sắp xếp ý lộn xộn,
lặp ý hoặc thiếu ý, thiếu thời gian và chưa có động cơ thái độ đúng đắn trong
học tập.
Về khả năng nhận thức yêu cầu của đề: Nhiều học sinh không xác định
đúng u cầu của đề bài, thậm chí khơng đọc kĩ đề bài, chỉ cần đọc qua loa,
không cần lập dàn ý thường đặt bút viết luôn dẫn đến đề yêu cầu một đằng
nhưng nội dung bài viết lại trình bày một nẻo.
Trước một đề bài văn tự sự, các em ít chịu khó suy nghĩ, tưởng tượng sáng
tạo, mà chỉ đọc lống thống, viết dài nhưng khơng có ý, khơng cần xác định
phải kể theo trình tự nào, các tình tiết nào cần phải kể rõ ràng, cụ thể, tình tiết
nào nên lượt thuật, cách thể hiện các nhân vật nhân vật chính, phụ như thế nào…
cũng như ý nghĩa, bài học sâu sắc rút ra từ câu chuyện. Kể diễn biến sự việc
chưa sinh động, chân thực, hấp dẫn người đọc do chưa vận dụng phù hợp. Nhiều
bài văn chưa đạt yêu cầu do chưa biết cách kể chuyện, chưa xây dựng được cốt
truyện, tình huống, sự việc một cách chân thực, sinh động, lời văn như văn nói
hoặc khơng được trong sáng, rõ ràng.
Bên cạnh đó, nhiều em thiếu năng lực cảm thụ văn học, năng khiếu văn
chương, ý thức nhận thức cuộc sống. Vì vậy làm văn tự sự chỉ mang tính gượng
ép, nhằm mục đích đối phó là chính. Khơng biết lựa chọn chi tiết tiêu biểu, quan
trọng để kể nên viết lan man, dài dòng, lời thoại quá vụng về, thiếu tính thẩm
mỹ, chọn lọc.
Về ngữ pháp, kĩ năng dùng từ, viết câu của học sinh hiện nay còn bộc lộ
nhiều yếu kém. Kĩ năng dùng từ, đặt câu, dựng đoạn, lối diễn đạt, cách hành văn
còn nhiều hạn chế. Đặc biệt, nhiều em chưa biết cách trình bày bài văn tự sự,
ngắt đoạn khơng đúng chỗ, không phân biệt lời thoại với lời kể. Có bài viết từ
đầu đến cuối các em khơng sử dụng dấu câu nào hoặc sử dụng không đúng.

Trong bài viết của các em, lỗi chính tả cịn nhiều, lỗi dùng từ và đặt câu còn rất
phổ biến. Cá biệt có những học sinh khơng có ý thức về việc chấm câu và
nguyên tắc viết hoa.

4


2.2.3. Kết quả khảo sát thực trạng
Kết quả khảo sát đầu năm học của lớp 6 trường THCS Đông Hải năm học
2020-2021 về kĩ năng làm văn tự sự cho thấy:
Lớp

Sĩ số Giỏi Tỷ lệ Khá

Tỷ lệ

TB

Tỷ lệ Yếu Tỷ lệ Kém Tỷ lệ

6A

40

2

5%

7


17,5%

17

42,5% 11 27,5%

3

7,5%

6B

41

3

7,3%

8

19,6%

15

36,6% 13 31,7%

2

4,8%


6D

40

2

5%

6

15%

15

37,5% 13 32,5%

4

10%

(Lớp 6A,B là lớp thực nghiệm; lớp 6D là lớp đối chứng)
Qua số liệu trên, tôi nhận thấy rằng, tỷ lệ học sinh yếu kém vẫn còn nhiều,
kĩ năng viết văn tự sự của các em đang hạn chế. Từ thực tế đó, là người trực tiếp
giảng dạy bộ mơn Ngữ văn của lớp, tôi đã cố gắng rèn cho các em một số kĩ
năng để nhằm nâng cao được hiệu quả viết văn tự sự. Tôi đã thực nghiệm đề tài
này với 2 lớp 6A,B.
2.3. Giải pháp thực hiện
Qua thực trạng của vấn đề nghiên cứu, để nâng cao hiệu quả trong dạy
trong văn tự sự tôi đã thực hiện các giải pháp sau:
2.3.1. Rèn luyện kĩ năng tìm hiểu đề (xác định yêu cầu của đề)

Kĩ năng tìm hiểu đề là kĩ năng định hướng cho toàn bộ quá trình thực hiện
một bài tập làm văn. Thường trong khi làm bài học sinh khơng chú ý đến bước
tìm hiểu đề. Nhiều em chỉ đọc một cách hời hợt yêu cầu của đề rồi nhanh chóng
viết cho xong, có em thậm chí khơng biết viết về cái gì, hoặc viết dàn trải…dẫn
đến tình trạng lạc đề, xa đề, thiếu ý, lộn xộn, bỏ sót kiến thức. Vì thế, việc xác
định được đúng yêu cầu của đề sẽ giúp người viết lập được một dàn ý tốt, viết
đúng yêu cầu. Vì vậy trong q trình dạy tơi ln hướng dẫn học sinh thực hiện
thao tác này và được thực hiện ở mỗi bài viết cũng như trước các đề trong bài
học.
Bước đầu để học sinh xoáy vào trọng tâm của các dạng bắt buộc tơi phải
hướng dẫn học sinh cách tìm hiểu các dạng đề bài của văn kể chuyện. Khi đề
cập vấn đề này, tơi hướng dẫn học sinh tìm hiểu sự khác nhau của các hình thức
kể chuyện. Đó chính là yêu cầu giúp học sinh sau này khi kể chuyện sẽ phân biệt
được yêu cầu của đề bài khơng cịn nhầm lẫn về u cầu dạng bài. Sau khi đọc
kỹ đề bài yêu cầu học sinh gạch chân những từ, ngữ quan trọng trước. Trong văn
tự sự ở chương trình lớp 6, có các dạng kể ngun bản và kể sáng tạo, cụ thể
hơn có kể chuyện đời thường, kể chuyện dân gian, tưởng tượng. Mỗi đề văn đều
có yêu cầu riêng rất cụ thể. Ta phải đọc kĩ đầu đề, tìm hiểu kĩ lời văn, trên cơ sở
đó tìm ra u cầu của đề.
Khi ra đề bài, yêu cầu học sinh thực hiện trong các giờ học phụ đạo Ngữ
văn để giúp HS tìm hiểu đề, trước một đề bài, tôi thường yêu cầu học sinh:
Bước 1: Đọc kĩ đề, gạch chân những từ ngữ quan trọng.
5


Bước 2: Từ những phần đã gạch, xác định:
+ Thể loại: Kể (tự sự)
+ Nội dung kể
Như vậy, kết quả của bước tìm hiểu đề phải giúp học sinh xác định được tất
cả các yêu cầu của đề bài:

- Kiểu bài và nội dung đề bài yêu cầu: Tự sự hay miêu tả, tự sự về câu
chuyện đã học, về một nhân vật văn học hay tự sự về một câu chuyện đời
thường, hay yêu cầu tưởng tượng..
- Xác định lời yêu cầu của kiểu bài: theo lối trực tiếp - nói thẳng (Ví dụ:
Hãy kể lại…) hay lối gián tiếp - nói vịng (Ví dụ: Em đã lớn rồi; Quê em đổi
mới; Ngày sinh nhật của em …)
- Tìm hiểu giới hạn của đề bài: học sinh cần tìm hiểu qua từng từ ngữ để
xác định giới hạn của đề bài. Nếu xác định yêu cầu về giới hạn của đề bài sai
cũng có thể đưa các em đi xa đề hay lạc đề.
Ví dụ 1 :
Đề 1: Hãy kể lại truyền thuyết Sơn tinh, Thủy tinh bằng lời văn của em.
Đề 2: Em hãy tưởng tượng cuộc đọ sức giữa Sơn Tinh và Thuỷ Tinh trong
điều kiện hiện nay với máy ủi, máy xúc, xi măng cốt thép...
Yêu cầu trả lời :
- Kiểu bài của đề là gì?
- Lời yêu cầu ở mỗi đề là trực tiếp hay gián tiếp?
- Nội dung của đề bài nằm trong giới hạn nào (câu chuyện đã học, hay
tưởng tượng...).
Từ đây, giáo viên tổng hợp nhận xét bổ sung:
* Kiểu bài:
- Đề 1 và 2 đều là kiểu bài tự sự (đề 1: kể lại với một câu chuyện dân gian
đã học; đề 2: kể chuyện tưởng tượng).
- Đề 1, đề 2 là đề có yêu cầu trực tiếp
* Giới hạn của bi: 1: Yêu cầu phải kể bằng lời văn của
em, ngha l cỏc em phi cú ý thc tránh mượn lại nhiều lời kể của câu chuyện
có sẵn (Tìm và nhớ ý chính, sau đó diễn đạt bằng lêi cđa
m×nh, với những chi tiết phụ có thể lược bớt để câu chuyện tập trung hơn).
Đề 2: trọng tâm câu chuyện là cuộc giao đấu giữa hai vị thần. Nhưng đặt câu
chuyện vào thời điểm hiện nay cuộc chiến đấu chống Thủy Tinh bằng những
phương tiện kĩ thuật mới (yêu cầu kể vừa vẫn phải trung thành với truyện trong

sách Ngữ văn 6, vừa phải có những sáng tạo mới “tưởng tượng” phù hợp với
yêu cầu của đề).
Ví dụ 2: Tương tự như ví dụ 1, giáo viên cũng yêu cầu học sinh thực hiện
bước tìm hiểu đề.
6


Đề 1: Cho đề bài: Kể lại một kỉ niệm sâu sắc trong ngày đầu tiên đi học của
em.
Đề 2: Trong cuộc đời mỗi chúng ta ai cũng có những kỉ niệm đáng nhớ, kỉ
niệm đáng nhớ nhất của em trong ngày đầu tiên đi học là gì?
Đề 3: Kể về một kỉ niệm đáng nhớ.
* Kiểu bài:
- Đề 1 và 2,3 đều là kiểu bài tự sự (kể chuyện đời thường).
- Đề 1,3 là đề có yêu cầu trực tiếp, đề 2 có yêu cầu gián tiếp.
* Giới hạn của đề bài: Đề 1,2 kể duy nhất một kỉ niệm ngày đầu tiên đi học,
đó là kỉ niệm đáng nhớ nhất; vì có rất nhiều học sinh kể ra hai, ba kỉ niệm và bắt
buộc phải là ngày đầu tiên đi học; Đề 3: Đây là một đề thuộc dạng mở, yêu cầu
kể về một kỉ niệm đáng nhớ nhất, ấn tượng sâu sắc nhất mà mình đã từng trải
nghiệm (có thể là kỉ niệm thời thơ ấu, ngày đầu tiên đi học,....)
Đối với giáo viên, trước một đề tập làm văn việc tìm hiểu đề là đơn giản
nhưng với học sinh bước này rất quan trọng. Vì vậy, trước bất cứ một đề văn nào
giáo viên luôn yêu cầu học sinh thực hiện bước này.
2.3.2. Rèn luyện kỹ năng xây dựng, sắp xếp các sự việc trong văn tự sự
Để làm tốt một bài tự sự các em cần nắm chắc một số đặc điểm về văn tự
sự, các yếu tố cơ bản để tạo nên một văn bản tự sự. Tự sự khơng có nghĩa chỉ là
“kể”, liệt kê các sự việc mà quan trọng là phải tạo cho câu chuyện ý nghĩa thông
qua cách kể. Dù ở mức độ nào trong quá trình làm bài các em phải đảm bảo câu
chuyện đó gồm một chuỗi các sự kiện nối tiếp nhau trong cùng một thời gian và
khơng gian cụ thể có ngun nhân, có diễn biến, có điểm mở đầu và điểm kết

thúc. Đặc biệt là truyện phải có ý nghĩa nhất định.
Muốn vậy, sự việc cũng phải được trình bày cụ thể, sắp xếp theo một trật
tự, diễn biến hợp lí. Và thực tế, học sinh trong quá trình làm bài các sự việc sắp
xếp còn thiếu chặt chẽ, hoặc cốt truyện xây dựng còn đơn điệu.
Trong q trình rèn kĩ năng, tơi ln ý thức cho các em về các sự việc trong
văn tự sự được trình bày một cách rõ ràng, đảm bảo 6 yếu tố: thời gian, địa
điểm, nhân vật, nguyên nhân, diễn biến, kết quả. Và phải chọn lọc sắp xếp theo
một trật tự, một diễn biến hợp lí thì mới có ý nghĩa.
Với dạng bài kể chuyện dựa trên các câu truyện đã học, tôi hướng dẫn các
em theo các bước như sau:
Ví dụ 1: H·y kĨ l¹i trun thut Sn tinh, Thy tinh bằng lời
văn của em.
Bc 1, cho học sinh xem xét hệ thống các sự việc chính trong truyện Sơn
Tinh, Thuỷ Tinh và chỉ rõ sự logic của các sự việc: (1) Vua Hùng kén rể; (2) Sơn
Tinh, Thuỷ Tinh đến cầu hôn; (3) Vua Hùng ra điều kiện chọn rể; (4) Sơn Tinh
đến trước, được vợ; (5) Thuỷ Tinh đến sau, tức giận, dâng nước đánh Sơn Tinh;
(6) Hai bên giao chiến hàng tháng trời, cuối cùng Thuỷ Tinh thua, đành rút quân
về; (7) Hằng năm Thuỷ Tinh lại dâng nước đánh Sơn Tinh, nhưng đều thua.
7


Bước 2, xác định được các yếu tố về: Thời gian: đời vua Hùng thứ mười
tám; Địa điểm: thành Phong Châu; Nhân vật: Sơn Tinh, Thủy Tinh; Nguyên
nhân: Thủy Tinh tức giận không lấy được Mị Nương; Diễn biến: Hai chàng trai
tài giỏi cùng muốn lấy Mị Nương, Thủy Tinh thua cuộc, Thủy Tinh và Sơn Tinh
đánh nhau quyết liệt; Kết quả: Thủy Tinh thất bại.
Bước 3, sắp xếp sự việc sao cho logic, học sinh phải nhận thấy được các sự
việc trong văn tự sự phải được sắp xếp, tổ chức đảm bảo tính liên tục của mạch
phát triển câu chuyện. Bảy sự việc trên là các sự việc chính của câu chuyện, bỏ
đi sự việc nào cũng đều ảnh hưởng đến tính liên tục, mạch liên kết các sự việc

của câu chuyện và truyện sẽ mất đi những ý nghĩa tương ứng. Ví dụ, nếu bỏ đi
sự việc (7), sẽ khơng thấy được ý nghĩa giải thích hiện tượng lũ lụt khi nhận
thức về tự nhiên của nhân dân ta cịn ở trình độ thấp.
Ví dụ 2: : Em hãy tưởng tượng cuộc đọ sức giữa Sơn Tinh và Thuỷ Tinh
trong điều kiện hiện nay với máy ủi, máy xúc, xi măng cốt thép...
Với kiểu bài tưởng tưởng, khi kể cần đảm bảo dựa vào cốt truyện đã có,
khơng làm sai lạc những diễn biến chính của câu chuyện. Việc kể chủ yếu thay
đổi nằm ở phần giao đấu giữa Sơn Tinh, Thủy Tinh.
Tôi cũng rèn cho học sinh xem xét hệ thống lại các hệ thống sự việc trong
truyện. Sau đó xác định 6 yêu tố như trên. Điểm khác là xác định về thời
gian: thời hiện đại; Diễn biến: Hai chàng trai tài giỏi cùng muốn lấy Mị Nương,
Thủy Tinh thua cuộc, Thủy Tinh và Sơn Tinh đánh nhau quyết liệt, Sơn Tinh
dùng máy xúc, máy ủi, máy trộn bê tông dựng thành những bờ đê “ bê tơng
hóa”. Cần cẩu, xe vận tải nặng được sử dụng liên tục trong việc cất giữ hàng hóa
và vận chuyển phương tiện hộ đê…. Gợi ý, sau đó để học sinh phát huy trí
tưởng tượng phong phú của các em.
Với trường hợp không sẵn cốt truyện, kể chuyện đời thường, việc tìm cốt
truyện của một số học sinh cũng rất khó khăn. Qua việc chấm bài của các em
thông thường tạo ra những cốt truyện đơn giản, khuôn sáo, thiếu sức hấp dẫn.
Trong câu chuyện kể của các em cịn q ít tình tiết, sự kiện, diễn biến câu
chuyện thường đơn giản, hời hợt, khơng có những tình huống bất ngờ khiến cho
người đọc bài văn cảm thấy nhạt nhẽo, nhiều bài chưa làm đúng trọng tâm yêu
cầu mà đề ra. Tôi đã hướng dẫn các em xây dựng cốt truyện khi làm bài.
Ví dụ 3: Kể về một việc tốt mà em đã làm.
Cơ thĨ, bài tập làm văn kể chuyện đời thường cần thiết có những chi tiết
sinh động chân thực, phong phú lấy từ những quan sát, ghi nhận ở cuộc đời. Câu
chuyện phải sâu sắc và có tác dụng giáo dục tình cảm tốt đẹp cho con người.
Tơi gợi ý để các em tìm cốt truyện: Truyện xảy ra bao giờ? Ở đâu? Truyện
có mấy nhân vật? Diễn biến và kết thúc câu chuyện ra sao? Ý nghĩa câu chuyện?
Bài học rút ra từ câu chuyện? Cụ thể, các em xây dựng cho mình một cốt truyện

như: kể về một tấm gương giúp đỡ bạn. Em xây dựng các sự việc: kể về bạn và
hồn cảnh gia đình bạn (hồn cảnh gia đình bạn khó khăn ra sao? Những cố
gắng của bạn nhưng khó có thể vượt qua nếu khơng có sự động viên, giúp đỡ
8


của bạn bè); kể lại việc giúp đỡ bạn vượt hoàn cảnh (việc làm cụ thể: chú ý khai
thác sâu những khó khăn gặp phải, những biện pháp khắc phục, sự hỗ trợ của
bạn bè, thầy cô); kết quả đạt được (bạn vượt lên hoàn cảnh, đạt kết quả cao trong
học tập, sự đồng tình tán thưởng của mọi người về việc làm tốt của em); niềm
vui, cảm xúc của em.
Giáo viên lưu ý cho học sinh khi làm bài có thể thêm bớt tình tiết để cốt
truyện hay hơn, hấp dẫn hơn nhưng tránh bịa cốt truyện, không đưa vào cốt
truyện những tình tiết phi lí, thiếu thực tế. Điều quan trọng câu chuyện phải diễn
biến tự nhiên, hợp lí, và chứa đựng ý nghĩa xã hội. Với chuyện đời thường, để
truyện hấp dẫn, cần tạo tình huống cho cốt truyện để có sự bất ngờ. Các chi tiết
đưa vào chuyện phải được chọn lọc, không được gặp đâu kể đấy, nhớ gì kể đấy
mà phải kể có mục đích, nhằm làm nổi bật một chủ đề nào đó có ý nghĩa và gây
ấn tương đối với người đọc, người nghe. Dù là kể chuyện người thật, việc thật
hay kể chuyện sáng tạo thì cốt truyện cũng phải bắt rễ từ hiện thực cuộc sống.
Nhà văn Tạ Duy Anh đã từng chia sẻ rằng: “Hiệu quả cuối cùng là phải tạo
ra được ở người tiếp nhận một câu chuyện không chỉ sâu sắc cả về phương diện
tư tưởng lẫn thẩm mĩ mà còn gây cho họ sự hứng thú suy nghĩ” (Mấy mẹo vặt
khi viết văn kể, Văn học và tuổi trẻ, số tháng 10/2015). Như vậy, sức hấp dẫn rất
cần thiết cho câu chuyện kể. Vì thế, rèn kĩ năng xây dựng các sự việc, tình tiết
để được câu chuyện chặt chẽ, hấp dẫn, có ý nghĩa là cần thiết. Và các em khi
làm bài cũng đã có ý thức rèn cho mình về việc tìm các sự việc và sắp xếp hợp
lý.
2.3.3. Rèn luyện kỹ năng lập ý, lập dàn ý cho bài văn tự sự
Sau khi xây dựng các sự việc cho bài văn thì trong quá trình làm bài, rèn

luyện kĩ năng tìm hiểu đề, tìm ý, lập dàn ý sẽ giúp học sinh thành thạo viết được
bài văn có bố cục rõ ràng, mạch lạc, đúng yêu cầu từng kiểu văn bản cũng rất
quan trọng. Giúp học sinh hệ thống được toàn bộ nội dung và phạm vi vấn đề do
đề bài nêu ra. Trên cơ sở đó, học sinh xác định được các ý lớn của bài và từ đó
các em dựa vào cái sườn của dàn bài để phát triển đoạn; đồng thời giúp người
viết phân bố thời gian hợp lí trong quá trình làm bài. Tất cả đều phụ thuộc vào
bố cục bởi dàn ý là cái tự xây dựng, mang tính sáng tạo, rèn luyện được kĩ năng
cho mỗi học sinh. Chắc chắn rằng các em sẽ thành công trong việc tạo lập văn
bản. Thực tế, học sinh quen viết theo cảm hứng, hoặc ngại suy nghĩ chỉ thích dự
vào dàn ý của thầy, cô giáo hoặc sao chép bài mẫu nên phần lớn học sinh đã bỏ
qua thao tác này.
Trước hết phải cho học sinh hiểu được thế nào là lập ý, lập dàn ý. Bởi đó sẽ
là cái sườn mà người viết dựa vào để định hướng về nội dung, tránh được tình
trạng xa đề, lạc đề, người viết phải hình dung ra nội dung sẽ viết theo các yếu tố
như: nhân vật, sự việc, diễn biến, kết quả, ý nghĩa của câu chuyện. Học sinh phải
hiểu Lập ý là suy nghĩ, định hướng, xác định nội dung sẽ viết theo yêu cầu của
đề. Và Lập dàn ý là sắp xếp các tình tiết, diễn biến câu chuyện, việc gì kể trước,
việc gì kể sau để người đọc theo dõi được câu chuyện và hiểu được ý định của
người viết. Ngồi ra dàn ý cịn là sắp xếp các ý theo trình tự phù hợp và xác định
9


mức độ trình bày mỗi ý theo tỉ lệ hợp lý. Sau khi đã có dàn ý, người viết phải
tiến hành viết thành một bài văn tự sự hoàn chỉnh theo kết cấu ba phần. Tôi cũng
đã tiến hành rèn luyện kỹ năng lập dàn ý từ hệ thống bài tập, dựa vào vào nội
dung từng câu chuyện mà chia thành nhiều loại bài tập khác nhau. Trong văn tự
sự phân chia thành một số dạng như sau:
Kể truyện dân gian, kể chuyện tưởng tượng, kể chuyện đời thường: Phân
chia thành Kể về chuyến đi (về quê, ra thăm thành phố...) kể về một kỉ niệm
đáng nhớ (cuộc gặp gỡ, việc tốt ...) kể về người thân (ông, bà, bố, mẹ, thầy, cơ...)

v.v...Vì thế khi lập dàn ý học sinh phải lấy được dẫn chứng, quan sát thực tế
cuộc sống quanh mình để có vốn kiến thức liên quan giải quyết được đề b cơ
đọng trong phần thân bài.
Giáo viên vận dụng phương pháp gợi ý để giúp học sinh hình dung nội
dung viết có những ý nào: Giới thiệu truyện em định kể là truyện gì, vì sao em
lại thích kể lại truyện đó. nhân vật nào là nhân vật chính, câu chuyện mà em sẽ
kể bộc lộ chủ đề gì? truyện có các sự việc chính nào? Từ đây kể lại câu chuyện
theo cảm xúc, mục đích giao tiếp và dụng ý của em. Có thể lồng ghép thêm
những nhận xét, cảm nghĩ của cá nhân vào lời kể, kết hợp giải thích ý nghĩa lịch
sử xã hội của truyện.
Trên cơ sở đó, giáo viên yêu cầu HS lập dàn ý. Mở bài: giới thiệu nhân vật,
sự việc; Thân bài: Truyện có diễn biến như thế nào? Diễn biến truyện được sắp
xếp theo thứ tự nào? Trình bày diễn biến truyện theo thứ tự của truyện; Kết bài:
Kết thúc câu chuyện. Truyện có kết thúc như thế nào?
Ví dụ 1: Kể lại truyện truyền thuyết đã học bằng lời văn của em.
Học sinh chọn kể lại truyện truyền thuyết Thánh Gióng.
Khi tìm ý, tơi gợi ý theo các bước trên, ta có các ý chính về truyện Thánh
Gióng như sau:
- Kể câu chuyện về anh hùng Gióng đánh giặc Ân nhằm ngợi ca tinh thần
yêu nước, đánh giặc ngoại xâm của nhân dân ta ngay từ buổi đầu lịch sử.
- Nhân vật chính: Thánh Gióng; các nhân vật khác: cha mẹ Gióng, sứ giả,
dân làng
- Mở bài bằng việc giới thiệu sự ra đời kì lạ của Gióng; kết thúc bằng sự
việc vua nhớ công đánh giặc, phong cho là Phù Đổng Thiên Vương và lập đền
thờ ngay ở q nhà.
- Các sự việc chính: Gióng và sứ giả; Gióng ăn khoẻ lớn nhanh như thổi;
Gióng vươn vai thành tráng sĩ; Gióng giết giặc; Roi gãy, nhổ tre làm vũ khí;
Thắng giặc, Thánh Gióng cởi bỏ áo giáp, cưỡi ngựa bay về trời;
Sau đó tơi hướng dẫn học sinh lập dàn ý. Yêu cầu:
a. Mở bài: Truyện xảy ra vào đời Hùng vương thứ sáu, ở làng Gióng, tỉnh

Bắc Ninh (cũ), nay thuộc ngoại thành Hà Nội. Cậu bé làng Gióng có cơng đánh
đuổi giặc Ân, được nhân dân suy tơn là Thánh Gióng.
b. Thân bài:
10


- Cậu bé làng Gióng ra đời..
- Sự lớn lên kì diệu của cậu bé Gióng
Cậu Gióng lớn nhanh như thổi (ăn mấy cũng không no, áo vừa mặc xong
đã căng đứt chỉ), cha mẹ Gióng nhờ bà con, làng xóm gom góp thóc gạo ni
Gióng, ai cũng sẵn lịng.
- Chàng trai làng Gióng xung trận
+Thế nước rất nguy, giặc đến chân núi Trâu, người người hoảng hốt, sứ giả
đem ngựa, roi, áo giáp sắt đến cho Gióng.
+ Cậu bé vươn vai biến thành tráng sĩ, mặc giáp sắt, cầm roi sắt, cưỡi ngựa
sắt: vỗ vào mơng ngựa, ngựa hí vang.
+ Tráng sĩ phi ngựa tiến thẳng tới nơi có giặc; đánh đón đầu giặc; giết hết
lớp này đến lớp khác; giặc chết như rạ. Roi sắt gẫy, tráng sĩ nhổ tre cạnh
đường quật vào giặc; ngựa phun lửa. Giặc tan tác.
- Tráng sĩ Gióng bay lên trời..
c. Kết bài: Vết tích cịn lại. Niềm ao ước được một lần về dự hội Gióng,
vềthăm quê hương Phù Đổng Thiên Vương, niềm tự hào củà nhân dân nước
Việt, của thiếu niên Vit Nam.
Vớ d 2: Em hÃy tởng tợng cuộc đọ sức giữa Sơn Tinh và
Thuỷ Tinh trong điều kiện hiện nay với máy ủi, máy xú, xi măng
cốt thép...
Vic tỡm ý tập trung chủ yếu nằm ở phần giao đấu gia Sơn Tinh và
Thuỷ Tinh. Giỏo viờn cú th gi ý: đặt câu chuyện vào thời điểm nào?
Sơn tinh, Thuỷ Tinh có những phương tiện kĩ thuật tiên tiến nào? Sơn Tinh đã sử
dụng các phương tiện hiện đại trong cuộc chiến ra sao? KÕt qu¶ cuèi cïng

như thế nào? Trên cơ sở này, các em lập dàn ý:
a. Mở bài:
Giới thiệu trận đánh giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh với nhiều thứ vũ khí
hiện đại
b. Thân bài:
- Nguyên nhân Sơn Tinh và Thủy Tinh đánh nhau. Sơn Tinh đón Mị Nương
và sự tức giận của Thủy Tinh.
- Cuộc giao chiến ác liệt giữa Sơn Tinh và Thuỷ Tinh
+ Trong trận chiến Sơn Tinh và Thủy Tinh dựng những loại vũ khí nào?
+ Thủy Tinh điều quân ra sao?
+ Sơn Tinh ứng phó thế nào?
- Kết quả của trận giao chiến
c. Kết bài:

11


Hàng năm Thủy Tinh vẫn đánh Sơn Tinh: sự thù hằn không quên của Thủy
Tinh và dù hung hăng đến đâu, Thủy Tinh vẫn không thắng nổi Sơn Tinh và
đành chấp nhận phần thất bại cay đắng.
Với bài tập lập ý từ văn bản kể chuyện đời thường, kể về người, tụi hướng
dẫn phải làm nổi bật được nét riêng biệt của từng người (hình dáng, phẩm chất,
tính cách, tấm lòng).
Chú ý tránh nhầm sang văn tả người bằng cách kể về công việc, những
hành động, sự việc mà người đó đã làm như thế nào. Giới thiệu về hình dáng
tính cách thể hiện đan xen trong lời kể việc, tránh sa đà vào miêu tả nhân vật đó.
Giới thiệu khái quát về người định kể (là ai, có quan hệ với em như thế nào, tình
cảm của em và lí do vì sao em lại kể về người đó). Giới thiệu về ngoại hình, tính
cách người đó (những nét tiêu biểu, gây ấn tượng, nói đúng bản chất nhân vật).
Chọn kể những kỉ niệm sâu sắc, không thể nào quên về người đó hoặc giữa kỉ

niệm về người đó với em. Những cảm xúc, suy nghĩ của em về người đó: u
q, kính trọng, nhớ ơn, khơng qn, mong ở gần,...
Dựa trên cơ sở đó giáo viên rèn cho học sinh lập dàn ý
Ví dụ 3: Người để lại trong em ấn tượng sâu đậm nhất.
a. Mở bài: Giới thiệu người định kể và mối quan hệ giữa em với người đó.
b. Thân bài:
Ý 1: Giới thiệu đơi nét về tên, tuổi, ngoại hình, nghề nghiệp, hồn cảnh gia
đình của người đó.
Ý 2 (trọng tâm): - Kể về việc làm của người đó đối với mọi người xung
quanh để bộc lộ tính cách của người đó.
- Kể về tài năng, sở thích của người đó.
Ý 3: Kể một kỉ niệm thể hiện sự gắn bó giữa em và người đó. Qua kỉ niệm
ấy, tình cảm người đó dành cho em như thế nào?
c. Kết bài:
Tình cảm của em dành cho người được kể và mong ước của em dành cho
người đó.
+ Kể việc: nguyên nhân, diễn biến, kết quả -> ý nghĩa.
Ví dụ với ý 2, kể về mẹ, hướng dẫn học sinh lập dàn ý về những công việc
của mẹ như: Chưa ngày nào thấy mẹ làm ngừng làm việc: dậy sớm, chuẩn bị ăn
sáng cho cả nhà, tất bật đi làm, chiều về dọn dẹp... Tuy bận rộn mệt mỏi vậy mà
lúc nào mẹ cũng vui vẻ, dịu dàng, quan tâm tới con cái... Với hàng xóm, mẹ
cũng rất quan tâm đến mọi người, hòa đồng. Mẹ là hình ảnh đẹp đẽ nhất trong
trái tim tơi, một phụ nữ đảm đang, ý chí quyết tâm, ham học hỏi là điểu tôi khâm
phục nhất ở mẹ. Phần kết bài: Lời hứa cố gắng chăm chỉ để mẹ vui lịng, bớt mệt
mỏi trong cuộc sống; vơ cùng u q và tự hào về mẹ của mình; ln khắc ghi
hình ảnh mẹ.
Như vậy, muốn lập được một dàn ý tốt cần lập ý, học sinh xác định các
nhân vật, sự kiện, chọn và sắp xếp các sự việc, chi tiết tiêu biểu thành cốt
12



truyện.Và để rèn luyện tốt kĩ năng lập dàn ý cho đề văn tự sự lớp 6 tôi cũng đã
tận dụng trong các tiết như: Luyện nói văn tự sự; luyện tập văn tự sự hoặc tiết
trả bài Tập làm văn hướng dẫn học sinh một cách tối đa. Và tôi cũng đã tạo ra
được một hiệu quả nhất định.
2.3.4. Rèn luyện kỹ năng viÕt lêi văn, lêi tho¹i
Nhiều học sinh thường lúng túng khi viết lời văn. Có thể các em có nội
dung kể nhưng khơng biết phải kể như thế nào cho sinh động, bài được dài. Lời
kể thường đơn điệu. Cho nên việc rèn kĩ năng để thơng qua lời kể các em phải
làm tốt lên nội dung của cốt truyện, chủ đề của câu chuyện cũng như thái độ,
tình cảm của mình. Trong quá trình viết văn tự sự việc rèn cho học sinh viết lời
văn, đoạn văn cũng rất quan trọng. Và với các em lớp 6 lời văn tự sự chủ yếu là
lời văn kể người và kể việc.
Trước tiên phải giúp học sinh hiểu thế nào là lời văn kể người? Kể việc? Và
trong q trình khi học các văn bản truyện, tơi thường xuyên cho học sinh nhận
diện các lời văn kể người, kể việc.
Với lời văn kể người, có thể giới thiệu họ tên, lai lịch, tài năng, tính tình,
tâm hồn của nhân vật.
Ví dụ: Khi học truyện “Sơn Tinh, Thủy Tinh”, đoạn giới thiệu về Sơn
Tinh “Một hơm có hai chàng đến cầu hôn. Một người ở vùng núi Tản Viên
có tài lại: vẫy tay về phía đơng, phía đơng nổi cồn bãi; vẫy tay về phía tây, phía
tây mọc lên từng dãy núi đồi. Người ta gọi chàng là Sơn Tinh...” Trong cả hai
đoạn văn, lời giới thiệu đều có hàm ý ca ngợi.
Lời văn kể việc là kể các hành động, việc làm, kết quả và sự đổi thay do
các hành động ấy đem lại.
Ví dụ: Khi học truyện cổ tích “Thạch Sanh”, các em chỉ ra đoạn văn kể
hành động “Nửa đêm, Thạch Sanh đang lim dim mắt thì Chằn tinh sau miếu hiện
ra, nhe nanh, giơ vuốt định vồ lấy chàng.Thạch sanh với lấy búa ném lại. Chằn
tinh hóa phép, thoắt biến, thoắt hiện.Thạch Sanh khơng núng dùng nhiều võ
thuật đánh con quái vật.”

Hay đây là một đoạn văn kể sự việc mẹ thầy Mạnh Tử một lần dạy con: Lại
một hôm, thầy Mạnh Tử đang đi học, bỏ học về nhà chơi. Bà mẹ đang ngồi dệt
cửi, trông thấy, liền cầm dao cắt đứt tấm vải đang dệt trên khung, mà nói rằng:
“Con đang đi học mà bỏ học, thì cũng như ta đang dệt tấm vải này mà cắt đứt đi
vậy” (truyện Mẹ hiền dạy con).
Có thể nói, trong q trình học, học sinh được học rất nhiều văn bản tự sự.
Cho nên khi học tơi đã tích hợp phân mơn tập làm văn. Đó là điều kiện giúp các
em viết tốt đoạn văn tự sự.
Rèn cho học sinh khi viết lời kể việc thì phải chú ý kể theo hành động, việc
làm của nhân vật, để câu chuyện hấp dẫn lời kể phải có kịch tính.
Ví dụ: khi kể cuộc giao chiến giữa Thủy Tinh, Sơn Tinh: Hành động của
nhân vật trong lời kể mỗi lúc một căng thẳng, kịch tính được đẩy dần lên, hành

13


động sau là kết quả của hành động trước, cứ thế cho đến cao trào: đến sau →
nổi giận → đuổi theo → hơ mưa, gọi gió → dâng nước → đánh ... nước ngập...
- Kết quả của hành được diễn tả trong câu văn cuối đoạn: Nước ngập
ruộng đồng, nước ngập nhà cửa, nước dâng lên lưng đồi, sườn núi, thành
Phong Châu như nổi lềnh bềnh trên một biển nước.
- Hình thức lời văn diễn đạt được độ căng của hành động: các động từ
với sắc thái mạnh, dồn dập (đùng đùng nổi giận, đem quân đuổi theo đòi
cướp, hơ mưa gọi gió, rung chuyển cả đất trời,...);
Với dạng bài kể chuyện đời thường, lời văn kể người, kể việc tôi cho học
sinh rèn viết theo đoạn, theo ý để luyện diễn đạt. Bởi nhiều học sinh cách dùng
từ của các em cịn sáo rỗng, tối nghĩa, sai nghĩa...
Ví dụ: Hãy kể về người ơng kính u của em.
Khi luyện viết đoạn kể việc, có học sinh viết: Ơng em thích nhất là việc
chăm sóc cây cảnh, cây ăn quả. Ông em đúng là một thiên tài. Chẳng thế mà

vườn cây của ông xinh xắn hơn”. Hay “bữa trưa ơng tiếp đãi cả nhà rất hồnh
tráng, buổi tối thì ông với tôi cùng chạy bộ”.. hoặc “ông có thể đọc lành mạnh
và rõ ràng các chữ không như các cụ khác”...
Như vậy, ngồi việc sửa lỗi diễn đạt, tơi rèn cho các em theo các ý: giới
thiệu về ngoại hình, tính cách người đó (những nét tiêu biểu, gây ấn tượng,
nói đúng bản chất nhân vật); chọn kể những kỉ niệm sâu sắc, khơng thể nào qn
về người đó (những gì em đã được trải nghiệm, được ảnh hưởng từ người đó).
Các em ý thức được trong kể người, thì kết hợp kể các hoạt động của người đó,
đấy cũng chính là kể việc.
Bên cạnh lời kể thì lời đối thoại cũng đóng một vai trị khá quan trọng. Tuy
nhiên không phải bài tự sự nào cũng đưa ra lời thoại q nhiều thì câu chuyện sẽ
lỗng, mà nếu lời thoại ít, đưa cho có lệ thì sẽ ảnh hưởng đến nội dung. Phải
nắm bắt viết lời thoại cho văn tự sự, trước hết phải nắm bắt được đặc điểm tính
cách, tuổi tác, nghề nghiệp, giới tính của nhân vật tham gia hội thoại. Chính đặc
điểm của nhân vật người làm văn tự sự sẽ lựa chọn lời thoại cho phù hợp.
Ví dụ: Lời thoại của em bé phải nũng nịu, ngây thơ, lời thoại của thầy giáo
thì phải mực thước rõ ràng; lời thoại của nhân vật có tính xấu thì tốt lên vẻ cộc
lốc…
Khi viết lời thoại các em cần bổ trợ các dấu câu: dấu chấm than, dấu chấm
hỏi, dấu chấm lửng.
Trong lời thoại cũng cần chú ý đến vai trị của những từ có tính chất kèm
đệm chêm xen lời thoại một cách khéo léo.
Ví dụ: Dùng để bày tỏ thái độ ngạc nhiên, bất ngờ: chao ôi, chà chà, trời..;
dùng để bày tỏ thái độ sợ hãi: eo ôi, ối…; thái độ nghi ngờ: lẽ nào, phải
chăng….
Ví dụ: đoạn đối thoại đến nhà thầy trong cuộc gặp gỡ lại thầy giáo cũ:
“ Một người đàn ơng bước ra. Sau một thống ngỡ ngàng, tơi reo lên:
14



- Thầy, em chào thầy ạ! Thầy còn nhận ra em không?”
- Nhận ra, nhận ra rồi! Mai phải không? Chà, thế là đã hơn chục năm rồi
cịn gì!”
Hướng dẫn học sinh viết lời thoại phải thể hiện được tính cách, thái độ của
nhân vật.
Ví dụ: Với đề bài nhập vai Dế mèn kể chuyện “Bài học đường đời đầu
tiên”, lời thoại chị Cốc “Nghe thấy thế, chị Cốc nổi giận và quát hỏi:
- Ai thế? ai trêu ta thế?
... Một lúc sau, Dế Mèn bò sang hang Dế Choắt. Trong thấy tình trạng Dế
Choắt, Dế Mèn mới bắt đầu ân hận. Dế Mèn hỏi một câu ngớ ngẩn:
- Sao? Sao? Trời ơi! Chuyện gì thế này?”
Có thể nói, tạo ra một câu chuyện hấp dẫn nhằm lôi cuốn người đọc là
một yếu tố cần thiết, cho dù là kể về chuyện đời thường, hay tưởng tượng.
Và lựa chọn lời kể, lời thoại góp một phần quan trọng vào điều đó. Trong q
trình làm văn tự sự, tơi đã thực hiện điều đó, và các em thêm một lần nữa được
rèn luyện kĩ năng viết văn tự sự.
2.4. Hiệu quả
* Sau khi áp dụng đề tài ở 2 lớp 6A,B thì kết quả rất khả quan, cụ thể như
sau:
Lớp

Sĩ số Giỏi Tỷ lệ Khá Tỷ lệ TB Tỷ lệ Yếu Tỷ lệ Kém Tỷ lệ

6A

40

7

17,5% 13 32,5% 16


6B

41

9

22%

6D

40

4

10%

4

10%

0

0%

15 36,6% 14 34,1%

3

7,3%


0

0%

8

7

17,5%

2

5%

20%

40%

19 47,5%

(Lớp 6A,B là lớp thực nghiệm; lớp 6D là lớp đối chứng)
Qua bảng số liệu trên, ta thấy 3 lớp đều có sĩ số và chất lượng ban đầu
ngang nhau. Nhưng lớp áp dụng đề tài lại cho kết quả cao hơn rõ dệt. Điều đó
chứng tỏ các biện pháp, hình thức đưa ra trong đề tài này là thiết thực. Các em
học sinh lớp 6A,B có kỹ năng và chất lượng làm bài văn tự sự được nâng cao
hơn so với lớp 6D.
Bên cạnh đó, nó cịn góp phần nâng cao chất lượng học tập của học sinh:
tính tích cực, chủ động, sáng tạo, khuyến khích động cơ, thái độ học tập, rèn các
kỹ năng trình bày rõ ràng, mạch lạc, lập ý, lập dàn ý và viết thành bài văn hoàn

chỉnh. Tránh việc nghĩ sao viết vậy đã biết lập dàn ý sơ lược, dàn ý chi tiết, sắp
xếp bố cục rõ ràng, xây dựng được một bài tự sự hồn chỉnh làm cho chất lượng
bộ mơn tăng lên rõ rệt.
Về phía giáo viên qua giờ dạy thực tế tôi nhận thấy được ưu thế của
phương pháp này mở ra một khả năng dạy học kiểu bài văn tự sự sẽ được vận
dụng có hiệu quả.
15


3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Giảng dạy và ôn tập bộ môn Ngữ văn, đặc biệt là phần tự sự văn học là một
vấn đề không dễ bởi đây là mảng kiến thức rất quan trọng giúp học sinh vừa
củng cố các kiến thức đã học, các kỹ năng làm bài mà còn gợi mở hướng cho
học sinh lĩnh hội kiến thức để học lên THCS. Để thực hiện tốt đòi hỏi giáo viên,
học sinh làm tốt một số vấn đề sau:
- Học sinh phải có vốn ngơn từ phong phú, cách sử dụng ngôn ngữ trau
chuốt, diễn đạt tình cảm, rung động chân thành của mình về tác phẩm văn học.
- Giáo viên phải bồi dưỡng cho học sinh lòng say mê viết văn.
Nếu sáng kiến được áp dụng sẽ phần nào đơn giản hóa, cụ thể hóa khi dạy
dạng văn tự sự. Từ đó mà giáo viên có những định hướng đúng mục tiêu, xác
định đúng đối tượng tự sự và có những phương pháp cụ thể phù hợp khi giảng
dạy văn tự sự.
3.2. Kiến nghị
- Đối với Nhà trường: cần khuyến khích động viên mỗi giáo viên nghiên
cứu, thực hiện và áp dụng những sáng kiến hay để đẩy mạnh phong trào nâng
cao chất lượng chun mơn trong nhà trường.
- Đối với Phịng GD & ĐT: cần quan tâm đầu tư thêm trang thiết bị dạy học
hiện đại trong các trường học và có những định hướng về nội dung phương pháp
giảng dạy từng phân môn để giáo viên thực hiện tốt việc ôn tập, giúp học sinh

đạt kết quả cao trong các kỳ thi.
- Đối với giáo viên: phải ln có ý thức tự học hỏi, trau dồi kiến thức, nâng
cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trao đổi kinh nghiệp với các đồng nghiệp để
nâng cao hiệu quả giảng dạy.
Trên đây chỉ là một vài kinh nghiệm của riêng tôi. Tôi rất mong sự đóng
góp của lãnh đạo chun mơn và các thầy cô đồng nghiệp để sáng kiến kinh
nghiệm của tôi ngày càng được hồn thiện hơn, có hiệu quả hơn trong những
năm dạy tiếp theo .
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Tp. Thanh Hoá, ngày 29 tháng 3 năm 2021

Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh nghiệm
của mình viết, khơng sao chép nội dung của
người khác.
Người viết

16


Khổng Thị Biên

17


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG
KIẾN KINH NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO XẾP LOẠI


Họ và tên tác giả: Khổng Thị Biên
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Đông Hải

TT Tên đề tài SKKN
1.

2.

3.

4
5

Một số biện pháp khai thác,
sử dụng kênh hình trong dạy
học Lịch sử 8 phần Lịch sử
Việt Nam.
Kinh nghiệm hướng dẫn HS
lớp 6A,B – Trường THCS
Đông Hải học tốt tiết “Luyện
nói kể chuyện”.
Kinh nghiệm hướng dẫn HS
học tốt tiết “Luyện nói: Kể
chuyện theo ngơi kể kết hợp
với miêu tả và biểu cảm” ở
lớp 8 – Trường THCS Đông
Hải.
Kinh nghiệm hướng dẫn học

sinh học tốt phần văn biểu
cảm ở lớp 7 trường THCS
Đông Hải
Kinh nghiệm hướng dẫn học
sinh lớp 8 trường THCS
Đông Hải cảm thụ về một số
tác phẩm văn học nước ngồi

Cấp đánh
giá xếp loại
(Phịng, Sở,
Tỉnh...)
Phịng GD
Triệu Sơn
Phịng
GD & ĐT
TP Thanh
Hóa
Phịng
GD & ĐT
TP Thanh
Hóa
Phịng
GD & ĐT
TP Thanh
Hóa
Phịng
GD & ĐT
TP Thanh
Hóa


Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B,
hoặc C)

Năm học
đánh giá xếp
loại

C

2013-2014

B

2015-2016

A

2016-2017

B

2017-2018

C

2018-2019


18



×