Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Một số giải pháp chỉ đạo giáo viên mẫu giáo tăng cường tiếng việt cho trẻ người dân tộc thiểu số theo quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm, tại trường mầm non cẩm thành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 30 trang )

MỤC LỤC
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9

Nội dung
1.Mở đầu.

1.1.Lý do chọn đề tài
1.2.Mục đích nghiên cứu
1.3.Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2.Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
1. 2.1.Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
2. 2.2.Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.3.Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Giải pháp 1: Chỉ đạo giáo viên xây dựng kế hoạch giáo
10
dục, hình thức tổ chức lồng tăng cường Tiếng việt cho trẻ mẫu
giáo người dân tộc thiểu số.
2.3.2. Giải pháp 2: Chỉ đạo giáo viên xây dựng môi trường
11
giáo dục lấy trẻ làm trung tâm lồng tăng cường tiếng Việt cho
trẻ người dân tộc thiểu số.


2.3.3.Giải pháp 3: Chỉ đạo giáo viên tăng cường tiếng Việt
12
bằng cách khai thác, sử dụng môi trường giáo dục và lồng tăng
cường tiếng Việt cho trẻ thông qua hoạt động học.
13

1.
2.
3.
4.

2.3.4.Giải pháp 4: Chỉ đạo giáo viên lồng tăng cường tiếng
Việt cho trẻ thông qua hoạt động vui chơi và một số hoạt
động khác

15

2.3.5.Giải pháp 5:Thực hiện tốt công xã hội hóa giáo dục và
phối kết hợp với phụ huynh trong việc tăng cường tiếng việt
cho trẻ dân tộc thiểu số.
2.4.Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm

16

3.Kết luận, kiến nghị

14

Trang
1

1
2
2
2
3
3
3
5
5
6

13

15

19
20
21

17

3.1.Kết luận.

21

18

3.2.Kiến nghị.

22


1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài
Thực tiễn cho thấy giáo dục mầm non là cấp học đầu tiên trong hệ thống giáo
dục quốc dân, đặt nền móng cho sự phát triển về thể chất, nhận thức, tình cảm xã
0


hội và thẩm mỹ cho trẻ em. Giáo dục mầm non có những nhiệm vụ đặc biệt mà
khơng một bậc học nào có được, đó là đồng thời thực hiện 3 nhiệm vụ: ni
dưỡng, chăm sóc và giáo dục. Trong lớp học, người giáo viên mầm non phải đóng
rất nhiều vai, vừa là cô, vừa là mẹ, vừa là bác sỹ, vừa là nghệ sỹ,...
Để thực hiện lời dạy của chủ tịch Hồ Chí Minh mn vàn kính u: "Vì lợi
ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người" Đảng
và nhà nước ta ln quan tâm đến cơng tác giáo dục nói chung và giáo dục mầm
non nói riêng. Trong những năm qua, nhiều chính sách đầu tư cho giáo dục, cả về
cơ sở vật chất, trang thiết bị đến chế độ cho nhà giáo, chế độ của trẻ cũng từng
bước được quan tâm, đưa giáo dục thật sự trở thành quốc sách hàng đầu.
Như chúng ta đã biết trẻ ở lứa tuổi mầm non là lứa tuổi mà tất cả mọi việc
đều bắt đầu làm quen với các nề nếp thói quen như: Bắt đầu ăn, bắt đầu nói, bắt
đầu nghe, nhìn và vận động bằng đơi chân, đơi tay của mình. Thế giới xung quanh
thật bao la rộng lớn có biết bao điều mới lạ hấp dẫn và cịn có bao điều lạ lẫm khó
hiểu, trẻ tị mị muốn biết, muốn được khám phá, cho nên cô giáo mầm non đã góp
phần khơng nhỏ vào việc giáo dục thế hệ trẻ, tạo nên nền tảng vững chắc, là chặng
đường khôn lớn của trẻ ở lứa tuổi này. Vì vậy ngơn ngữ ln giữ vai trị vơ cùng
quan trọng xun suốt đời sống con người đặc biệt là trong giai đoạn đầu tiên
của cuộc đời. Bởi ngôn ngữ là cơ sở hành trang của mọi suy nghĩ và công cụ của
tư duy, là công cụ để trẻ giao tiếp với người lớn và bày tỏ nhu cầu, mong muốn
của mình; là điều kiện quan trọng để trẻ tham gia vào mọi hoạt động và trở thành
một thành viên của xã hội loài người.

Trên thực tế địa bàn trường đóng là 1 xã miềm núi cao của huyện Cẩm Thủy,
đa số là người dân tộc mường, sống chủ yếu bằng nghề nông nghiệp và chăn nuôi
nhỏ, phần lớn người dân trong độ tuổi lao động đi làm ăn xa, gửi con cho ông bà.
Từ khi trẻ sinh ra cho đến khi trẻ bi bơ biết nói thì trẻ đã sử dụng ngơn ngữ tiếng
mẹ đẻ để giao tiếp với người thân và những người xung quanh trẻ. Đặc biệt trẻ dân
tộc thiểu số trường chiếm hơn 90%, khi trẻ đến trường trẻ giao tiếp bằng ngơn ngữ
tiếng việt cịn chưa thạo, cịn nói lẫn tiếng dân tộc như từ “đi học” trẻ nói là “ti
hóc”, hay “đi về” thì trẻ nói là “ti vền”, “con gà trống” trẻ gọi là “con kha khống”,
“con sâu” trẻ gọi là “con rôi” ; hay từ “bà nội ” trẻ nói là “Mệ khà”, ...Nên trẻ cịn
nhút nhát, thiếu tự tin trong giao tiếp. Vì vậy việc tăng cường tiếng Việt cho trẻ
mầm non vùng dân tộc thiểu số có ý nghĩa vơ cùng quan trọng, nhằm nâng cao
khả năng sử dụng tiếng Việt của trẻ, bảo đảm cho các em có kỹ năng cơ bản trong
việc sử dụng tiếng Việt, để hồn thành chương trình giáo dục mầm non, tạo tiền đề
cho việc học tập, lĩnh hội kiến thức của cấp học tiếp theo và là “chìa khóa” để
nâng cao chất lượng giáo dục vùng dân tộc thiểu số.
Bản thân tơi là phó hiệu trưởng được phân công nhiệm vụ phụ trách mảng
chuyên môn, hàng ngày tôi thường xuyên đi kiểm tra, thăm lớp, dự giờ nên tôi nắm
rõ được hạn chế giao tiếp bằng ngôn ngữ tiếng Việt của trẻ, vì vậy tơi ln băn
khoăn, trăn trở để tìm ra những giải pháp giúp trẻ dân tộc thiểu số lĩnh hội vốn từ
tiếng Việt một cách tốt nhất, để trẻ cảm thấy vui vẻ, thoải mái hơn hịa đồng với
các bạn khi đến trường, tích cực tham gia vào tất cả các hoạt động ở mọi lúc, mọi
nơi, giúp trẻ mạnh dạn, tự tin hơn trong giao tiếp. Từ đó nâng cao kỹ năng sử dụng
tiếng Việt cho trẻ.
1


Vì vậy tơi đã chọn đề tài: “Một số giải pháp chỉ đạo giáo viên lớp mẫu giáo
tăng cường tiếng việt cho trẻ người dân tộc thiểu số theo quan điểm giáo dục
lấy trẻ làm trung tâm, tại trường mầm non Cẩm Thành, huyện Cẩm Thủy,
tỉnh Thanh Hóa ”.

Nhằm góp phần vào mục tiêu chung của đề án “tăng cường tiếng việt cho
trẻ em mầm non vùng dân tộc thiểu số”`
1.2. Mục đích nghiên cứu
Nhằm giúp giáo viên có thêm kinh nghiệm trong công tác giáo dục trẻ, để
nâng cao chất lượng tăng cường tiếng việt cho trẻ dân tộc thiểu số tại lớp.
Giúp trẻ dân tộc thiểu số phát âm rõ ràng các tiếng trong tiếng việt, chủ động
và tự tin trong giáo tiếp, để trẻ có thể học tập và giao lưu, giao tiếp hằng ngày lưu
loát bằng tiếng Việt thứ tiếng chung của quốc gia.
Góp phần vào công tác đánh giá chuyên đề tăng cường tiếng việt cho trẻ dân
tộc thiểu số năm học 2020-2021 của huyện nhà.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Tổng hợp “Một số giải pháp chỉ đạo giáo viên lớp mẫu tăng cường tiếng
Việt cho trẻ người dân tộc thiểu số theo quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung
tâm, tại trường mầm non huyện Cẩm Thủy ”
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết: Bản thân tôi đã nghiên
cứu các tài liệu chuyên đề hướng dẫn tăng cường tiếng việt cho trẻ mầm non vùng
dân tộc thiểu số do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, tập san, tài liệu chuyên đề
hè hàng năm, mạng Internet, bồi dưỡng thường xuyên, tài liệu hướng dẫn tổ chức
thực hiện chương trình giáo dục mầm non (mẫu giáo) nghị quyết của Đảng nhà
nước và thực tế tình hình tại nhà trường để định hướng cho sáng kiến của mình.
Phương pháp điều tra khảo sát thực tế lớp tại các lớp mẫu giáo trường mầm
non Cẩm Thành - huyện Cẩm Thủy, thu thập thông tin.
Phương pháp thống kê sử lý số liệu: Qua trao đổi của giáo viên và khảo sát
thực tế tơi đã nắm được số lượng trẻ có khả năng phát âm được tiếng việt, qua số
trẻ không hiểu tiếng việt và khơng nói được tiếng việt để có biện pháp chỉ đạo tổ
chuyên môn nhà trường và giáo viên thiết kế hoạt động giáo mới mẻ phù hợp
mang tính giáo dục cao.
Phương pháp trao đổi, trị chuyện: Trao đổi, trò chuyện trực tiếp với trẻ để
biết được khả năng sử dụng tiếng Việt của trẻ

Phương pháp thực nghiệm: Bản thân đã đưa ra các biện pháp khác nhau để
chỉ đạo giáo viên thiết kế , thực hành hướng dẫn trẻ và đã thực hiện ngay tại các
lớp mẫu giáo năm học 2020 - 2021.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Thực hiện quyết định số 1008/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Tăng cường tiếng
Việt cho trẻ em mầm non, học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 20162020, định hướng đến 2025” với mục tiêu chung đó là: “Tập trung tăng cường
2


tiếng Việt cho trẻ em mầm non, học sinh tiểu học người dân tộc thiểu số, bảo đảm
các em có kỹ năng cơ bản trong việc sử dụng tiếng Việt để hồn thành chương
trình giáo dục mầm non và chương trình giáo dục tiểu học; tạo tiền đề để học tập,
lĩnh hội tri thức của các cấp học tiếp theo; góp phần nâng cao chất lượng cuộc
sống và phát triển bền vững các dân tộc thiểu số, đóng góp vào sự tiến bộ, phát
triển của đất nước” [1]. Và mục tiêu cụ thể của Đề án đó là: “Đến năm 2020, có ít
nhất 35% trẻ em người dân tộc thiểu số trong độ tuổi nhà trẻ và 90% trẻ em người
dân tộc thiểu số trong độ tuổi mẫu giáo; trong đó, 100% trẻ em trong các cơ sở
giáo dục mầm non được tập trung tăng cường tiếng Việt phù hợp theo độ tuổi. Đến
năm 2025, có ít nhất 50% trẻ em người dân tộc thiểu số trong độ tuổi nhà trẻ và
95% trẻ em người dân tộc thiểu số trong độ tuổi mẫu giáo, trong đó, 100% trẻ em
trong các cơ sở giáo dục mầm non được tập trung tăng cường tiếng Việt phù hợp
theo độ tuổi” [1].
Như chúng ta đã biết ngơn ngữ chính là cơng cụ của giao tiếp, nhờ có ngơn
ngữ mà con người tham gia được vào đời sống xã hội, được hoạt động một cách
tích cực. Ngơn ngữ có vai trị đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển tồn diện
của trẻ em. Ngơn ngữ là công cụ giúp trẻ phát triển tư duy, nhận thức; đối với trẻ
mầm non, ngơn ngữ cịn là công cụ để trẻ học tập, vui chơi và phát triển nhân
cách. Có ngơn ngữ tư duy của trẻ được phát triển và ngược lại, tư duy phát triển sẽ
càng đẩy nhanh sự phát triển của ngôn ngữ.

Hơn nữa “Từ khi sinh ra, trẻ em người dân tộc thiểu số chỉ quen với việc
nghe, nói các âm và các thanh của tiếng mẹ đẻ, trong khi các âm và các thanh của
tiếng Việt có sự khác biệt so với tiếng mẹ đẻ của trẻ. Vì vậy trẻ em người dân tộc
thiểu số phát âm tiếng Việt dễ sai lệch do ảnh hưởng của cách phát âm tiếng mẹ
đẻ” [2]. Do vậy mà dạy tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số là một việc làm hết sức
quan trọng và cần thiết cần được bắt đầu ngay từ bậc học mầm non.
Trong những năm gần đây chuyên đề tăng cường tiếng Việt cho trẻ em vùng dân
tộc thiểu số đã trở thành một trong những chuyên đề trọng tâm trong các trường mầm
non. Từ đó các nhà trường đã xây dựng kế hoạch và đưa ra những biện pháp nhằm
giúp cho trẻ em người dân tộc thiểu số được tiếp xúc nhiều hơn với tiếng Việt và thực
hiện các mục tiêu của Đề án tăng cường tiếng Việt của Chính phủ.
2.2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
* Thuận lợi
Nhà trường luôn nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của phòng Giáo dục
và Đào tạo huyện Cẩm Thủy tạo điều kiện cho cán bộ giáo viên được tiếp thu các
chuyên đề năm học.
Bản thân tôi hàng năm được tham gia lớp tập huấn chuyên đề: “Xây dựng
mơ hình tăng cường tiếng việt cho trẻ em người dân tộc thiểu số” do Phòng Giáo
dục và Sở Giáo dục tổ chức.
Năm 2020 trường Mầm non Cẩm Thành đạt chuẩn quốc gia mức độ I, cơ sở
vật chất cơ bản đầy đủ, lớp học đầy đủ đảm bảo theo chuẩn, khang trang, rộng rãi,
thoáng mát đảm bảo cho cơng tác chăm sóc và giáo dục trẻ tại trường.

3


Có sự quan tâm sâu sắc của lãnh đạo địa phương, các ban ngành đoàn thể
trong xã đến giáo dục mầm non và đặc biệt là đơn vị đóng quân trên địa bàn đó là
trại giam Thanh Cẩm.
Ban giám hiệu nhà trường có sự đồn kết, thống nhất trong cơng tác lãnh chỉ

đạo, các đồng chí giáo viên trong trường ln nhiệt tình, u nghề, mến trẻ, trình
độ đạt chuẩn trở lên. Trường có 36 cán bộ giáo viên (Trong đó đại học là: 29 giáo
viên; Cao đẳng: 2 giáo viên; Trung cấp: 5 giáo viên; Giáo viên là người dân tộc
thiểu số (dân tộc mường): 20 đồng chí. Trường có 19 nhóm/lớp: 13 lớp mẫu giáo
và 6 nhóm trẻ với tổng số học sinh là: Có 417 học sinh được phân theo độ tuổi.
* Khó khăn:
Là một xã vùng cao của Huyện đến năm 2020 tồn xã vẫn cịn 3/8 thơn
thuộc chương trình 135 của chính phủ như thơn Bèo Bọt, thôn Trẹn, Thôn Ngọc
Khạt 100% số dân ở các thôn đều là người dân tộc thiểu số. Đời sống kinh tế vẫn
cịn nhiều khó khăn, người trong độ tuổi lao động đi làm ăn xa gửi con cho ơng bà,
trình độ dân trí cịn thấp, đường xá đi lại cịn rất khó khăn nhất là ở các thơn bản
cách xa khu trung tâm phải qua sơng qua đị như thôn Bèo Bọt.Việc tăng cường
tiếng việt cho trẻ chưa được phụ huynh quan tâm.
Năm học 2020-2021 Nhà trường có 377/417 trẻ là người dân tộc mường
chiếm 90,4% (trong đó trẻ dân tộc thiểu số mẫu giáo 316/349 chiếm 90,5%), đa số
trẻ rất nhút nhát nên khả năng học hỏi, giao tiếp còn nhiều hạn chế.
Các bậc phụ huynh chưa nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trị của việc dạy tiếng
Việt đối với trẻ, vì vậy ở nhà ông bà, bố mẹ đều giao tiếp với trẻ bằng tiếng mẹ đẻ
mà không giao tiếp với trẻ, dạy trẻ nói tiếng Việt.
Đồ dùng đồ chơi và cách sáng tạo thiết kế mơi trường giáo dục ở lớp chưa có
tính mở, trang trí cịn mang tính hình thức, đồ chơi ở các góc đang cịn ít chưa đảm
bảo cho trẻ tham gia hoạt động.
Do một số năng lực giáo viên đang còn hạn chế còn thiếu sự linh hoạt, sáng
tạo, thiếu chủ động. Lúng túng trong lựa chọn các biện pháp, hình thức tổ chức các
hoạt động để tăng cường tiếng Việt cho trẻ tại lớp chủ nhiệm.
Việc tuyên truyền đến các bậc phụ huynh chưa đạt hiệu quả cao.
Do những nguyên nhân trên. Nên hiệu quả tổ chức tăng cường tiếng Việt cho
trẻ ở các lớp mẫu giáo kết quả chưa cao
+ Kết quả của thực trạng:
Từ thực trạng trên dẫn đến phần nào hạn chế các quá trình hoạt động của trẻ.

Điều đó được thể hiện rõ khi tiếp xúc với trẻ, ta thấy trẻ nhút nhát, thiếu tự tin,
cảm nhận về ngơn ngữ chưa tốt, khơng tích cực hoạt động ít giao tiếp, ít hịa nhập,
hoặc giao tiếp cịn nói lẫn lộn giữa tiếng dân tộc và tiếng phổ thông…
Cụ thể tôi đã tiến hành chỉ đạo giáo viên trực tiếp đứng lớp mẫu giáo khảo sát
thực trạng mức độ phát triển của trẻ giai đoạn đầu năm học 2020-2021 vào thời
điểm tháng 9/2020 kết quả như sau

4


T
T
1
2
3
4

Tiêu chí
Trẻ phát âm rõ các tiếng
trong tiếng Việt
Trẻ lễ phép, chủ động
và tự tin trong giao tiếp
Trẻ nói rõ ràng, mạch
lạc
Trẻ sử dụng tiếng việt
để giao tiếp với mọi
người xung quanh

Tổng
số

trẻ

316

Kết quả khảo sát
Tốt
76
= 24,1%
74
= 23,4%
81
= 26,6%
76
= 24,1%

Đạt
Khá
56
=17,7%
53
=16,8%
58
= 18,4%
56
=17,7%

Chưa đạt
TB
68
= 21,5%

69
=21,8%
65
= 20,6%
68
=21,5%

116
= 36,7%
120
= 38%
112
= 35,4%
116
= 36,7%

Đứng trước thực trạng trên là một người trực tiếp chỉ đạo chuyên môn tôi thấy
việc tăng cường tiếng Việt cho trẻ mẫu giáo ở trường mầm non là rất quan trọng.
Nhìn vào thực tế địa phương, Nhà trường có đa số trẻ là người dân tộc thiểu số tơi rất
băn khoăn, muốn tìm giải pháp làm sao để giúp cho trẻ học tiếng Việt một cách phù
hợp với tâm lý trẻ nhằm phát triển ngôn ngữ tốt một cách tốt nhất.
Từ thực tế trên tôi đã mạnh dạn tiến hành những biện pháp và giải pháp kinh
nghiệm để áp dụng vào quá trình “Thực nghiệm một số giải pháp chỉ đạo tăng
cường tiếng Việt cho trẻ mẫu giáo người dân tộc thiểu số theo quan điểm giáo dục
lấy trẻ làm trung tâm, tại trường mầm non Cẩm Thành” như sau:
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Tuy nhà trường đã được quan tâm xây dựng mới về cơ sở vật chất, nhưng đồ
dùng đồi chơi, trang thiết bị dạy và học còn thiếu rất nhiều, nhưng các lớp học vẫn
thực hiện đầy đủ đúng nội dung chương trình giáo dục mầm non do bộ giáo dục đề
ra. Thực tế cho thấy quá trình học của trẻ dân tộc thiểu số phụ thuộc rất nhiều vào

cô giáo; trẻ được tham gia các hoạt động tại trường như: học tập, vui chơi và lao
động, trẻ được sống trong một xã hội thu nhỏ của người lớn, trẻ giao tiếp và trao
đổi bằng ngơn ngữ tiếng Việt. Qua đó khả năng học nói tiếng Việt của trẻ được tốt
hơn, trẻ mạnh dạn, tự tin khi tham gia các hoạt động, tích cực giao tiếp qua đó trẻ
được nâng cao vốn từ tiếng Việt cho trẻ.
2.3.1. Giải pháp 1: Chỉ đạo giáo viên xây dựng kế hoạch giáo dục, hình thức
tổ chức lồng tăng cường Tiếng việt cho trẻ mẫu giáo người dân tộc thiểu số.
Trước hết tơi căn cứ vào chương trình Giáo dục mầm non do Bộ Giáo dục và
Đào tạo ban hành (Mục tiêu, nội dung và kết quả mong đợi của chương trình giáo
dục nhà trẻ và giáo dục mẫu giáo, căn cứ vào khung thời gian trong năm học do Bộ
giáo dục và đào tạo quy định, điều kiện cơ sở vật chất và tình hình thực tế tại nhà
trường tôi xây dựng kế hoạch giáo dục năm học lồng nội dung tăng cường tiếng Việt
cho trẻ người dân tộc thiểu số để tổ chuyên môn và giáo viên nắm chắc.
Sau đó tơi hướng dẫn, chỉ đạo giáo viên xây dựng kế hoạch giáo dục nhóm lớp
mình căn cứ vào kế hoạch nhà trường, cơ sở vật chất, đặc điểm nhận thức trẻ lớp
mình phụ trách và tình hình thực tế ở lớp để xây dựng kế hoạch nhóm lớp và hình
thức tổ chức nội dung lồng ghép tăng cường tiếng Việt cho trẻ mẫu giáo người dân
tộc thiểu số sao cho phù hợp như:
5


Về nghe: Để trẻ được nghe các từ chỉ người, sự vật hiện tượng, đặc điểm,tính
chất hoạt động và các từ biểu cảm, từ khái quát; nghe lời nói trong giao tiếp hàng
ngày; nghe kể chuyện đọc thơ, ca dao, đồng dao phù hợp với độ tuổi
Về nói: Chỉ đạo giáo viên dạy trẻ phát âm rõ tiếng Việt, bày tỏ nhu cầu, tình
cảm và hiểu biết của bản thân bằng các loại câu khác nhau, sử dụng đúng từ ngữ và
câu trong giao tiếp hằng ngày, trả lời và đặt câu hỏi...; Đọc thơ ca dao, đồng giao và
kể chuyện; Lễ phép, chủ động và tự tin trong giao tiếp
Về làm quen với việc đọc, viết: Làm quen với cách sử dụng sách, bút; Làm
quen với một số ký hiệu thông thường trong cuộc sống; Làm quen với chữ viết, với

việc đọc sách

( Hình ảnh nhà trường quán triệt triển khai chuyên đề tăng cường tiếng Việt )

Đối với trẻ mẫu giáo nội dung dạy tiếng Việt chủ yếu được thực hiện theo
hướng tích hợp và tích hợp theo các chủ đề gần gũi qua các hoạt động đa dạng, thích
hợp với trẻ và điều kiện thực tế của địa phương. Các nội dung giáo dục tăng cường
tiếng việt trong kế hoạch giáo dục tháng/chủ đề được thực hiện chủ yếu thông qua
hoạt động học, hoạt động chơi, hoạt động lao động và hoạt động ăn, ngủ, vệ sinh cá
nhân....Đặc điểm nhận thức của trẻ mầm non học rất dễ nhớ nhưng cũng rất nhanh
quên, vì vậy để việc học tiếng Việt có hiệu quả đối với trẻ cần phải được tiến hành
thường xun, liên tục. Do đó, tơi trực tiếp chỉ đạo giáo viên xây dựng kế hoạch
giáo dục tuần/ngày lồng tăng cường tiếng Việt trong tất cả các hoạt động trong
ngày từ đón trẻ đến trả trẻ và duyệt kế hoạch với tôi trước hai ngày khi thực hiện
tuần tiếp theo, và khi thực hiện giáo viên có thể vận dụng linh hoạt, tăng cường
tiếng việt cho trẻ bất cứ khi nào có thể, bởi vì trẻ học ở mọi lúc, mọi nơi. Và các từ
tiếng việt lồng ghép phải phù hợp với chủ đề.
2.3.2.Giải pháp 2: Chỉ đạo giáo viên xây dựng môi trường giáo dục lấy
trẻ làm trung tâm lồng tăng cường tiếng Việt cho trẻ người dân tộc thiểu số.
Năm học 2020 - 2021 trường Mầm non Cẩm Thành tơi được phịng Giáo dục và
Đào tạo chỉ đạo lự chọn là một trong các trường điểm của huyện về xây dựng mơ hình
tăng cường tiếng Việt cho trẻ người dân tộc thiểu số, đặt địa điểm tập huấn của
SGD&ĐT cho 5 huyện miềm núi về trường thăm quan và học tập kinh nghiệm, nên
được phòng Giáo dục huyện nhà rất quan tâm chỉ đạo sát sao về công tác xây dựng
môi trường giáo dục TCTV cho trẻ người dân tộc thiểu số. Là cán bộ quản lý chịu
trách nhiệm trực tiếp chỉ đạo về xây dựng môi trường giáo dục lồng tăng cường tiếng
Việt, bản thân đã được tham gia tập huấn, thăm quan ở các đơn vị huyện bạn, cùng với
sự hướng dẫn chỉ đạo của cấp trên và tôi đã căn cứ vào tình hình thực tế địa phương,
điều kiện cơ sở vật chất nhà trường, nhóm/lớp chỉ đạo giáo viên xây dựng môi trường
6



giáo dục trong và ngoài lớp học lấy trẻ làm trung tâm lồng TCTV, đảm bảo các tiêu chí
về thẩm mỹ, thiết thực, tiết kiệm là môi trường để học sinh rèn luyện tiếng Việt, học
tập trải nghiệm và sáng tạo. Vì vậy từ đầu năm học tơi tổ chức họp chuyên môn triển
khai và lựa chọn xây dựng lớp làm điểm, sau đó cùng tổ chất lượng thành lập đồn trực
tiếp đi các nhóm lớp, kiểm tra, đánh giá, góp ý và hướng dẫn giáo viên thực hiện.

+ Mơi trường trong lớp học.
Tôi chỉ đạo giáo viên căn cứ điều kiện thực tế của nhà trường và lớp học,
giáo viên phân chia lớp thành các góc khác nhau, xây dựng các góc phải mang tính
mở theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm để trẻ có nhiều cơ hội tham gia học tập
tại các góc đó. Và đồ dùng, đồ chơi, học liệu phải có giá đựng ngăn nắp, gọn gàng,
sắp xếp vừa tầm mắt của trẻ, để ở nơi trẻ dễ thấy, dễ lấy và dễ cất. Đồ dùng, đồ
chơi, nguyên vật liệu được thay đổi và bổ sung thường xuyên phù hợp với mục
tiêu chủ đề, phù hợp với từng hoạt động kích thích sự hứng thú của trẻ giúp trẻ
tham gia tích cực vào các hoạt động và các góc có gắn các chữ viết in thường cho
trẻ gọi tên. Ví dụ: Chủ đề gia đình có các đồ chơi là đồ dùng gia đình như: Đồ
chơi nấu ăn, các đồ dùng gia đình....đến chủ đề thực vật giáo viên bổ sung thêm
cây cối, các loại hoa, rau-củ-quả....
Ví dụ tơi chỉ đạo giáo viên xây dựng một số góc chính trong lớp như:
Với góc ngơn ngữ/tăng cường tiếng việt/thư viện: Chỉ đạo giáo viên cùng trẻ
chuẩn bị tranh, ảnh, lô tô theo chủ đề, sách tranh hoặc truyện tranh, các thẻ chữ cái
tiếng Việt. Trẻ vào góc này xem tranh, ảnh hoặc chơi với tranh ảnh, lô tô và gọi tên
đồ vật trong tranh ảnh, lô tơ từ đó giúp trẻ phát triển vốn từ tiếng Việt.

(Hình ảnh tăng cường tiếng việt cho trẻ ở góc ngơn ngữ)
Hoặc ở góc kể chuyện cho trẻ xem sách tranh hoặc truyện tranh, cho trẻ nói
về nội dung truyện tranh, giáo viên trò chuyện với trẻ theo nội dung tranh, chuyện
tranh hoặc sách tranh; trẻ chơi với các thẻ từ và gắn thẻ từ dưới tranh, ảnh chỉ vật

tương ứng. Hay giáo viên cùng trẻ trang trí, lựa chọn các nhân vật, tranh ảnh phù
hợp với các câu chuyện trong chủ đề để trẻ chơi “Kể chuyện sáng tạo”. Ở góc chơi
7


này trẻ được quan sát các tranh ảnh, lô tô và được kể chuyện, nhập vai các nhân vật
trong chuyện giúp trẻ mạnh dạn tự tin hơn, đồng thời cũng là cách tăng cường tiếng
Việt cho trẻ một các hiệu quả nhất.

(Hình ảnh ở góc sách truyện lồng tăng cường tiếng việt)

Và đặc biệt khi thực hiện chuyên đề “tăng cường tiếng Việt” tôi chỉ đạo giáo
viên xây dựng thêm ở góc học tập - sách mảng “Tăng cường tiếng Việt”. Ở đó giáo
viên tạo ra các bức tranh bằng cách vẽ tơ màu hoặc in màu, có các hình ảnh phù hợp
với nội dung các chủ đề trong năm và dưới mỗi hình ảnh đều có kèm các từ tiếng
Việt, từ các hình ảnh phong phú qua các chủ đề trẻ biết được tên của các bức tranh
từ đó phát triển vốn từ tiếng Việt cho trẻ ngày càng phong phú hơn.

(Hình ảnh góc tăng cường tiếng việt các lớp mẫu giáo)
Với góc phân vai: Chỉ đạo giáo viên chuẩn bị các đồ dùng đồ chơi thực tế để
trẻ được trải nghiệm những hoạt động của cuộc sống thường ngày và những đồ
dùng, đồ chơi đều được gắn biển tên bằng chữ in thường, trong q trình chơi
khuyến khích trẻ gọi đúng tên các đồ dùng, đồ chơi. Và tùy vào mỗi chủ đề mà
giáo viên chuẩn bị các các đồ dùng, đồ chơi phù hợp tạo sự mới lạ, lôi quấn trẻ
tham gia hoạt động. Trong khi chơi trẻ phải sử dụng ngôn ngữ để gọi tên các đồ
dùng, nguyên vật liệu; để phân vai chơi và thực hi ện q trình chơi, từ đó ngơn
ngữ của trẻ cũng được phát triển.

8



( Hình ảnh góc phân vai các lớp mẫu giáo )
Ở góc xây dựng: Tơi chỉ đạo giáo viên cùng trẻ sắp xếp các đồ chơi như:
gạch, đồ chơi lắp ghép, đồ chơi xếp hình, các loại cây xanh, cây hoa,…tùy vào
từng chủ đề mà bố trí sắp xếp các đồ chơi phù hợp cho trẻ chơi ở chủ đề đó. Các
đồ chơi phải được gắn tên trong rổ hoặc hộp đựng để trẻ gọi tên. Khi chơi ở góc
này, trẻ phải sử dụng ngôn ngữ để phân vai chơi, phải trao đổi với nhau để hồn
thành cơng trình của mình qua đó góp phần phát triển ngơn ngữ của trẻ.

(Hình ảnh góc xây dựng trong lớp)
Với góc âm nhạc: Âm nhạc là món ăn tinh thần khơng thể thiếu trong đời
sống của mỗi chúng ta. Đối với trẻ âm nhạc là thế giới kỳ diệu đầy cảm xúc, trẻ
được nghe, được biểu diễn từ đó giúp trẻ phát triển tai nghe, phát triển ngôn ngữ
trẻ được biểu diễn giúp trẻ mạnh dạn tự tin hơn. từ đó giúp trẻ phát triển một
cách toàn diện về mọi mặt. Để tạo thêm sự hứng thú cho trẻ tôi chỉ đạo giáo viên
tận dụng các nguyên vật thiệu từ thiên nhiên và phế thải làm nên các dụng cụ âm
nhạc mang bản sắc địa phương như: Cây sáo, các loại đàn, trống, thanh gõ...và
các dụng cụ âm nhạc có giá để và gắn biển tên, khi trẻ sử dụng cho trẻ gọi tên các
nhạc cụ âm nhạc từ đó cũng phát triển thêm vốn từ tiếng Việt cho trẻ.

(Hình ảnh trẻ biểu diễn góc âm nhạc)

9


Khi sắp xếp các góc chơi tơi chỉ đạo giáo viên sắp xếp góc ồn ào xa góc yên
tĩnh, các góc ồn ào có thể ở gần nhau và hỗ trợ cho nhau như góc xây dựng, góc
phân vai, góc học tập bố trí ở nơi có nhiều ánh sáng...
Ngồi ra củng cố thêm vốn từ cho trẻ ở tất cả mọi nơi ở trong lớp học như
ở cánh cửa lớp tơi chỉ đạo giáo viên trang trí các hình ảnh một ngày của bé, các

hình ảnh về nội quy lớp học dưới mỗi hình ảnh đều có kèm các từ tiếng Việt hoặc
dưới nền nhà ngay khi trẻ bước vào lớp học có các chữ cái chữ số phát triển vận
động nhằm mục đích để phát triển vốn từ tiếng Việt cho trẻ.

( ví dụ hình ảnh cửa các lớp học lồng tăng cường tiếng việt )
Hay cả với khu rửa tay, khu vệ sinh của trẻ tôi cũng chỉ đạo giáo viên treo
hình ảnh 6 bước rửa tay, hình ảnh bé trai bé gái để trẻ phân biệt được đâu là khu
vệ sinh bé trai, khu vệ sinh bé gái dưới mỗi hình ảnh có các từ tiếng Việt nhằm
giúp trẻ rửa tay đúng cách và trẻ đi vệ sinh đúng nơi quy định và củng cố vốn từ.

(hình ảnh khu rửa tay và khu vệ sinh của trẻ)
+ Với Mơi trường ngồi lớp học:
Mơi trường ngồi lớp học rất quan trọng đối với việc tăng cường tiếng Việt
cho trẻ dân tộc thiểu số. Bởi mơi trường ngồi trời trẻ được tiếp xúc với thiên
nhiên, thỏa mãn nhu cầu vận động, tham gia các hoạt động khám phá, trải nghiệm
theo sở thích. Trẻ được trực tiếp trải nghiệm với một xã hội thu nhỏ, có cuộc sống
gần gũi với trẻ, trẻ được tập làm người lớn, làm các cơng việc của người lớn từ đó
kích thích sự tị mị thích khám phá của trẻ, giúp trẻ được giao tiếp nhiều hơn, trẻ
mạnh dạn hơn, tự tin hơn. Đặc biệt là trẻ dân tộc thiểu số, được củng cố các vốn từ
mà trẻ đang cịn nói lẫn giữa tiếng mẹ đẻ của trẻ và tiếng Việt.
Mơi trường ngồi trời nhà trường tạo khơng gian rộng rãi, để trẻ có nhiều
cơ hội tham gia các hoạt động vận động như: Chạy, nhảy, leo trèo...từ đó trẻ thích
thú tham gia và được trải nghiệm đa dạng với các loại vận động. Khi thực hiện
động tác, trẻ trò chuyện với nhau bằng tiếng việt. Ngồi sân trường tơi chỉ đạo
giáo viên vẽ hình con sâu, con ếch, bơng hoa, quả...để trẻ chơi các trò chơi vận
động khác nhau kết hợp cho trẻ làm quen với chữ cái và từ chỉ sự vật. Ví dụ: Trị
chơi “Nhảy vào ơ chữ và đọc chữ cái trong ơ đó”... hay ở các gốc cây bụi cỏ ở sân
trường tơi chỉ đạo giáo viên trang trí các hình ảnh đẹp mắt, hấp dẫn trẻ như con
10



thiên nga làm từ sốp màu ở cánh thiên nga có gắn các hình ảnh kèm từ, và làm các
giọt nước treo lơ lửng ở gốc cây có gắn các chữ cái chữ số để khi trẻ dạo chơi
ngoài trời trẻ được đọc chữ cái, chữ số, gọi tên điền chữ cịn thiếu trong từ....

(Hình ảnh ngồi sân trường )

Với khu phát triển vận động tận dụng các nguyên liệu từ phế thải lốp xe
đạp, xe máy đã qua xử lý an toàn về vệ sinh nhà trường phối hợp với đơn vị trại
giam Thanh Cẩm làm các đồ chơi phát triển vận động cho trẻ như: bập bênh, xích
đu, thang leo, cổng chui...Đồng thời tôi chỉ đạo giáo viên trang trí hấp dẫn trẻ như
dùng chai lọ làm các chng gió có gắn các chữ cái chữ số, các đồ chơi và xung
quanh khu vận động đều được gắn biển tên các chữ cái chữ số, bụng các con vật
có các bài ca dao đồng dao phù hợp với lứa tổi mầm non và xung quanh hành lang
các lớp ở khu phát triển vận động cũng được tôi chỉ đạo giáo viên trang trí các
hình ảnh như “con cá heo” làm từ nắp chai để trẻ gọi tên điền chữ cịn thiếu trong
từ, các hình ảnh giáo dục trẻ về “phịng chống tai nạn thương tích”...khi giáo viên
trị chuyện với trẻ về các hình ảnh sẽ phát triển thêm vốn từ cho trẻ.

(Hình ảnh khu vui chơi phát triển vận động)

Còn với khu vườn rau, vườn thuốc nam, vườn hoa, vườn cổ tích đường đi
vào các khu vườn tơi chỉ đạo giáo viên tận dụng các viên gạch ở sân cũ rửa sạch,
sơn màu vẽ các chữ cái, chữ số, các hình học...các hình bắt mắt tạo hứng thú cho
11


trẻ muốn tìm hiểu về các hình ảnh được vẽ trên gạch và mỗi loại rau, loại hoa, loại
cây...cũng đều được gắn các biển tên khi trẻ tham gia hoạt động trẻ được gọi tên
để củng cố vốn từ nhằm tăng cường tiếng Việt cho trẻ.


(Hình ảnh vườn rau, vườn hoa, vườn thuốc nam, vườn cổ tích)
Ngồi ra tận dụng các nguyên liệu sẵn có từ thiên nhiên tại địa phương tôi chỉ
đạo giáo viên nhặt các viên đá sỏi có kích thước to, nhỏ khác nhau, nhẵn khơng sắc
cạnh đảm bảo an tồn, rửa sạch phơi khơ sau đó cùng trẻ sơn nhiều màu sắc khác
nhau, và dùng bút vẽ các hình, con số, chữ cái, các loại quả, con vật....vào trên các
viên đá đặt dưới gốc cây ngoài sân trường tạo thành “góc thư viện ngồi trời” cho trẻ
hoạt động, kích thích sự hứng thú của trẻ khi chơi với các viên đá sỏi có hình ảnh và
các sắc màu. Bên cạnh đó để tăng cường tiếng Việt cho trẻ tơi cịn chỉ đạo giáo viên
tận dụng các tranh ảnh, sách báo cũ, giấy bìa…cùng trẻ cắt, dán hình ảnh tạo thành
những câu truyện, bài thơ kể chuyện sáng tạo. Qua đó cho trẻ xem tranh, kể truyện,
đọc thơ theo sự sáng tạo của trẻ từ đó củng cố vốn từ tiếng Việt cho trẻ.

( Hình ảnh góc thư viên ngồi trời)
Có thể nói mơi trường giáo dục trong trường mầm non là thực sự rất quan
trọng và cần thiết. Việc này được ví như “người giáo viên thứ 2” trong công tác tổ
chức, hướng dẫn cho trẻ nhằm thỏa mãn nhu cầu vui chơi và hoạt động của trẻ,
thơng qua đó nhân cách của trẻ được hình thành và phát triển toàn diện nhất.
Sau khi sử dụng giải pháp mơi trường giáo dục trong và ngồi lớp trường tôi
được cải thiện rõ rệt, trẻ hứng thú đến trường đến lớp phụ huynh khen ngợi động
12


viên. Đặc biệt tháng 11/2020 tổ chức chuyên đề tại trường được các đơn vị huyện
bạn, Phòng Giáo dục và Sở Giáo dục khen ngợi, ghi nhận về việc tạo mơi trường
trong và ngồi lớp đều mang tính mở theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm.
2.3.3. Giải pháp 3: Chỉ đạo giáo viên tăng cường tiếng việt bằng cách
khai thác, sử dụng môi trường giáo dục và lồng tăng cường tiếng việt cho trẻ
thông qua hoạt động học.
Dạy tăng cường tiếng Việt cho trẻ trong môi trường giáo dục lấy trẻ làm

trung tâm là cơng việc địi hỏi giáo viên phải tổ chức để trẻ hứng thú bước vào
hoạt động phát triển ngôn ngữ một cách tự nhiên. Trẻ làm chủ thể hoạt động tích
cực sáng tạo, khai thác tối đa môi trường giáo dục tăng cường tiếng Việt cho trẻ.
Vì vậy từ mơi trường giáo dục đã xây dựng tôi chỉ đạo giáo viên khai thác sử dụng
chúng một cách hiệu quả nhất. Tổ chức cho trẻ chơi các trị chơi kích thích trẻ
giúp trẻ học tiếng việt một nhẹ nhàng mà mang lại hiệu quả cao.
Ví dụ như: Trị chơi “Chỉ gọi tên”, giáo viên nói tên bộ phận cơ thể, trẻ chỉ
đúng vào bộ phận cơ thể của mình và gọi tên bộ phận đó. Giáo viên có thể cho trẻ
trải nghiệm và học từ câu nói như “mũi ngửi”/ “hít thở” (cho trẻ ngửi hoa, lá cây;
hít vào, thở ra, bịt mũi lại sẽ khơng thở được); lưỡi nếm (cho trẻ nếm các quả có vị
khác nhau), đồng thời cho trẻ học từ về các vị chua, ngọt, chát, mặn, đắng,
cay...Nâng cao hơn là trò chơi “Xem ai chỉ nhanh nói đúng” cho một trẻ chỉ vào bộ
phận hay đồ chơi bất kỳ trong lớp, các trẻ khác trong lớp phải quan sát kỹ và gọi
tên. Ai nói tên khơng đúng sẽ phải lặc lị cị hoặc hát...
Giáo viên có thể sử dụng trị chơi ngón tay, giúp trẻ vừa học nói tiếng việt ,
vừa rèn luyện vận động của các ngón tay. Ví dụ như trò chơi “Con kiến” đọc bài
đồng dao “Con kiến mà leo cành đa”; trò chơi “con voi” đọc bài đồng dao “con
vỏi con voi”; trò chơi “Con mèo” đọc bài “con mèo mà trèo cây cau”...
Giáo viên tổ chức hoạt động theo nhóm ở các góc khác nhau. Chia trẻ thành
các nhóm và giao nhiệm vụ cho trẻ trong các nhóm thực hiện chung. Khi thực hiện
cơng việc chung cả nhóm địi hỏi trẻ phải trao đổi và trịi chuyện với nhau từ đó
phát triển ngơn ngữ tiếng việt cho trẻ.
Ví dụ: Tổ chức các hoạt động khác nhau ở các góc như:
Góc ngơn ngữ/Tăng cường tiếng việt: Chơi trị chơi “xem và nói”; xem tranh
và trị chuyện theo tranh ảnh, xem truyện tranh và đoán nội dung câu chuyện, chơi
ghép chữ theo mẫu thành từ, các hoạt động chơi với bảng chữ cái...
Góc tạo hình: Góc này khơng chỉ để trẻ vẽ được những bức tranh đẹp, mà trẻ
còn được thực hành bút giấy, trải nghiệm cách cầm bút, gữ giấy và tạo thành các nét
mà trẻ muốn thể hiện , quan trọng là trẻ được tập và chuẩn bị cho việc học viết sau
này. Bên cạnh đó góc tạo hình tơi chỉ đạo giáo viên sử dụng các nguyên vật liệu từ

thiên nhiên như, lá cây, sỏi đá, hột, hạt...ví dụ như: Làm kèn bằng lá chuối, làm con
trâu từ lá mít, làm con chim từ lá dừa, hoặc hột hạt, sỏi để xếp thành chữ cái, chữ
số...Tạo hình với các nguyên vật liệu thiên nhiên giúp trẻ ln sáng tạo, khơi nguồn
trí tưởng tượng của trẻ. Để tăng cường tiếng Việt trẻ chơi ở góc này có thể trị chuyện
với nhau về cách sử dụng ngun vật liệu khác nhau, đồng thời có trẻ trao đổi, hướng
dẫn nhau tạo ra sản phẩm theo ý thích.
13


Có thể nói, mọi thứ trong thiên nhiên và đời sống đều có thể được dùng để
trẻ học và phát triển tiếng Việt, giáo viên cần quan tâm để ý mọi sự vật hiện tượng
xung quanh để tận dụng cho trẻ học từ trong môi trường và về môi trường gần
gũi....

(Hình ảnh trẻ làm con trâu từ lá mít và xếp chữ cái từ sỏi)
Chỉ đạo giáo viên tăng cường tiếng việt cho trẻ thông qua hoạt động học:
Ở trường mầm non trẻ mẫu giáo được tham gia các hoạt động học đó là: làm
với tác phẩm văn học, tốn, khám phá khoa học, tạo hình, âm nhạc, thể dục (đối
với trẻ 5-6 tuổi thêm hoạt động làm quen chữ cái). Trong hoạt động học, cơ và trẻ
ln phải có sự tương tác qua lại với nhau, giáo viên là người định hướng và hỗ
trợ trẻ trong hoạt động, còn trẻ thực hiện các hoạt động theo sự định hướng của cơ,
khi đó cơ và trẻ đều phải sử dụng lời nói để giao tiếp với nhau. Vì vậy tơi chỉ đạo
giáo viên lựa chọn các từ tiếng việt phù hợp với tiết dạy để lồng tăng cường tiếng
việt, đồng thời chỉ đạo tổ chuyên môn xây dựng giờ thực hành, lựa chọn giáo viên
có năng lực (giáo viên giỏi cấp tỉnh, cấp huyện) phát âm chuẩn tiếng việt để dạy
thực hành cho giáo viên học tập, rút kinh nghiệm.

(Hình ảnh dạy giờ thực hành phát huy tính tích cực lồng TCTV)

Hơn nữa đặc điểm của trẻ mầm non là tư duy trực quan hình tượng, khả năng

tập trung của trẻ cịn ngắn và chưa bền vững, nên các hình ảnh, âm thanh, màu sắc
sống động sẽ kích thích đến các giác quan của trẻ, lôi quấn trẻ muốn tham gia tìm
hiểu khám phá về chúng, trẻ được quan sát hình ảnh, trao đổi cùng cơ cùng bạn sẽ
phát triển thêm vốn từ cho trẻ. Đồng thời giúp trẻ tiếp thu các tri thức về thế giới
xung quanh một cách trọn vẹn nhất. Vì vậy tơi chỉ đạo giáo viên ứng dụng công
nghệ thông tin vào động học lồng tăng cường tiếng Việt và có kiểm tra thực hiện.
Ví dụ: Chủ đề “Thế giới động vật” tơi có thăm lớp dự giờ lớp 4-5 tuổi B cô
Trương Thị C hoạt động khám phá khoa học “trò chuyện về một số con vật ni
trong gia đình” tơi thấy giáo viên lựa chọn những hình ảnh sống động về một số
con vật số gia đình như: con gà, con chó, con mèo..., các hình ảnh được giáo viên
cài đặt các hiệu ứng có tình huống biến hóa, những video sinh động là các con vật
14


mà được ni trong gia đình rất thu hút, lơi cuốn trẻ. Dưới mỗi tranh, hình ảnh đều
có kèm từ cho trẻ đọc từ để tăng cường tiếng việt cho trẻ. Khi cơ đưa hình ảnh trên
màn hình là con gà trống, cơ C có hỏi trẻ đây là con gì? Có trẻ nói rất to đây là con
kha khống (có nghĩa đây là con gà trống), cơ C đã xử lý tình huống giúp trẻ nói rõ
ràng tiếng việt đó là cơ gọi bạn bên cạnh bạn A ơi con đây là con gì? Sau đó cơ
phát âm lại đây là “Con gà trống” đấy và dưới hình ảnh có từ “Con gà trống”, các
con hãy phát âm lại cùng cô nào, cô cho trẻ nhắc đi nhắc lại 3 lần sau đó gọi trẻ
nói cịn lẫn tiếng địa phương phát âm lại. Từ đó củng cố vốn từ cho trẻ, giúp trẻ
dân tộc thiểu số phát triển từ.

(Hình ảnh giáo viên lồng TCTV thơng qua hoạt động học)

Ngồi ra tơi cịn nghiên cứu, hướng dẫn giáo viên ứng dụng cơng nghệ
thơng tin sử dụng phần mềm trị chơi phát triển ngơn ngữ, tư duy của trẻ như:
chương trình phần mềm Kidsmart, chương trình bé vui học...Trong mỗi chương
trình, phần mềm đã được thiết kế bằng ngôn ngữ trẻ thơ có hình ảnh, âm thanh,

nhạc giúp trẻ thích khám phá, học hỏi, kích thích cho việc phát triển vốn từ ở trẻ.
2.3.4.Giải pháp 4: Chỉ đạo giáo viên lồng tăng cường tiếng Việt cho trẻ
thông qua hoạt động vui chơi và một số hoạt động khác
Như chúng ta đã biết trẻ mầm non “Học mà chơi, chơi bằng học”. Vui chơi
là hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo.Thông qua hoạt động vui chơi trẻ giúp trẻ
phát triển một các tồn diện nhất, vì vậy việc hướng dẫn tổ chức hoạt chơi để tăng
cường tiếng việt cho trẻ ở trường mầm non là rất quan trọng vì: Phù hợp với khả
năng hiểu và nói tiếng Việt của trẻ, khuyến khích trẻ sử dụng và nói tiếng Việt để
bày tỏ nhu cầu trong quá trình chơi và giải quyết mâu thuẫn. Giáo viên là người
tạo tình huống để trẻ có cơ hội được tăng cường tiếng việt (Nhìn, nghe - hiểu lời
nói và giao tiếp bằng tiếng việt). Giáo viên nhập vai chơi cùng trẻ sử dụng các
biện pháp để giúp trẻ thảo luận khi tham gia góc chơi, vai chơi.
Tổ chức các hoạt động chơi tăng cường tiếng Việt theo chế độ sinh hoạt
Chơi trong giờ đón trẻ: Thời điểm đón trẻ, sau khi trẻ vào lớp, trẻ được chơi
tự do với các đồ chơi trong lớp. Giáo viên giới thiệu tên các đồ chơi trẻ đang chơi,
đối với trẻ 3 - 4 tuổi giáo viên có thể hỏi trẻ: Con đang làm gì? bạn con đang chơi
cái gì? con thích đồ chơi nào? đây là cái gì? dùng để làm gì?... với trẻ 4 -5 tuổi có
thể hỏi trẻ: Nhà con có ai? nhà con ở thơn nào? con thích chơi với bạn nào nhất?...
cịn với trẻ 5-6 tuổi hỏi trẻ: Bố con tên là gì? mẹ con tên là gì? nhà con có những ai?
nhà con ở đâu?...Qua đó rèn luyện cho trẻ biết trả lời đầy đủ câu, biết sử dụng câu
từ phù hợp với ngữ cảnh. Ngồi ra cho trẻ chơi nhẹ nhành như: Trị chơi “tay làm
gì?” hay “nhìn vào gương”, “con voi”... (trẻ đọc lời kèm tay làm hành động minh
họa) vừa phát triển thêm vốn từ, vừa tạo cảm giác hứng thú, thoải mái cho trẻ.
15


Chơi hoạt động ở các góc: Giáo viên để trẻ được tự lựa chọn góc chơi mà
trẻ thích như góc phân vai, góc xây dựng lắp ghép, góc học tập, âm nhạc, tạo
hình...giáo viên cùng trẻ chuẩn bị các đồ dùng, đồ chơi, nguyên vật liệu đa dạng,
nhiều chủng loại hấp dẫn lôi cuốn trẻ tham gia hoạt động. Quá trình thực hiện cơ

nhập vai chơi giúp trẻ nhận biết vai chơi mình là ai, đang làm gì thơng qua các câu
hỏi gợi mở, tạo tình huống trong quá trình chơi gây thêm sự hứng thú chơi, các
nhóm chơi có sự giao lưu với nhau và kích thích trẻ tích cực giao tiếp với nhau
trong các góc bằng tiếng Việt.

(Hình ảnh trẻ chơi hoạt động góc)
Chơi ngồi trời: Hoạt động ngồi trời là hoạt động mà trẻ thích thú và mong
đợi nhất, trẻ được tiếp xúc với bầu khơng khí trong lành của thiên nhiên, rèn luyện
sức khỏe, thiết lập các mối quan hệ giữa trẻ với môi trường xung quanh, góp phần
mở rộng vốn hiểu biết cho trẻ về môi trường tự nhiên – xã hội, thỏa mãn nhu cầu
vui chơi và hoạt động theo ý thích của trẻ. Đối với quan sát có chủ đích giáo viên
có thể dạo chơi tham quan, quan sát vườn cổ tích, sân trường, vườn hoa, vườn
rau, vườn thuốc nam, cây cảnh... cùng trẻ trị truyện về nơi trẻ được đến dạo
chơi. Ví dụ: Chủ đề “Gia đình” giáo viên có thể cho trẻ dạo chơi tham quan vườn
cổ tích, giáo viên trị chuyện các nhận vật trong câu truyện “nhổ củ cải” giáo
viên hỏi trẻ: Đây là hình ảnh câu chuyện gì? trong câu chuyện có những ai?
...Qua câu chuyện khuyên chúng ta điều gì?. Hoặc chủ đề “thế giới động vật” cho
trẻ “quan sát đàn cá đang bơi” giáo viên trò chuyện với trẻ về đặc điểm, cấu tạo,
thức ăn, môi trường sống của cá...Từ đó tăng cường tiếng việt phát triển thêm
vốn từ cho trẻ về thế giới xung quanh.

( Hình ảnh cơ và trẻ dạo chơi ngồi trời, quan sát có chủ đích)

Sau quan sát có chủ đích tơi chỉ đạo giáo viên tổ chức cho trẻ chơi các trò
chơi vận động và các trò chơi dân gian như: Mẫu giáo 3 - 4 tuổi chơi “Tìm về
đúng nhà” (nhà bạn trai, nhà bạn gái), “lộn cầu vồng”, thi xem ai nhanh, dung
dăng dung dẻ, cây cao cỏ thấp, trời nắng trời mưa..; mẫu giáo 4 - 5 tuổi chơi
16



“ném bóng vào rổ”, “chuyền bóng nhanh”, “chi chi chành chành”, mèo đuổi
chuột, kéo cưa lừa xẻ....; trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi chơi “về đúng nhà”, rồng rắn lên
mây, mèo đuổi chuột, bịt mắt bắt dê, gà vào vườn rau, gà con và diều hâu.... để
chơi được các trò chơi vận động và dân gian trẻ phải biết luật chơi hoặc thuộc lời
thoại của các bài ca dao, đồng dao để chơi trị chơi thơng qua các bài ca dao,
đồng dao từ đó giúp trẻ phát triển vốn từ một cách tốt nhất, trẻ mạnh dạn, tự tin,
hoạt bát hơn trong các hoạt động tiếp theo qua đó tăng cường tiếng V iệt cho trẻ.

( Hình ảnh trẻ chơi trò chơi vận động, trò chơi dân gian)

Chơi theo ý thích (buổi chiều): Giáo viên có thể cho trẻ chơi các loại trò
chơi hoặc tham gia các hoạt động lao động tự phục vụ, lao động trực nhật, lao
động nhóm, tập thể…cho trẻ tự chọn bạn chơi, góc chơi theo ý thích, khuyến
khích trẻ khởi xướng và tự chơi với nhau. Giáo viên thực hiện nội dung tăng
cường tiếng Việt cho trẻ thông qua việc sắp xếp đồ chơi, lựa chọn các trị chơi có
nội dung liên qua đến tăng cường tiếng Việt cho trẻ ở các khu vực chơi để tạo cơ
hội cho trẻ được tăng cường tiếng Việt theo khả năng của trẻ và điều kiện của
trường/ lớp, có thể ơn luyện từ, câu đã học. Ví dụ chơi nói nối tiếp, chơi “Ai nói
được tên nhiều con vật”, hoặc chơi với sách, tranh có hình ảnh từ liên quan đến
tăng cường tiếng Việt. Và tôi chỉ đạo giáo viên mỗi tuần dạy tăng cường tiếng Việt
cho trẻ vào 3 buổi trên tuần lồng vào hoạt động chiều, lựa cọn các từ phù hợp để
dạy tăng cường tiếng Việt cho trẻ.
Ngồi ra tơi cịn chỉ đạo giáo lựa chọn một số trò chơi dân gian địa phương
phù hợp với lứa tuổi của trẻ để khơi gợi hứng thú và phát triển vốn văn hóa dân
tộc của trẻ, chọn trị chơi phù hợp có dùng lời nói nhằm khuyến khích trẻ học nói
tiếng Việt bằng cách dịch từ tiếng dân tộc sang tiếng Việt để trẻ chơi và ơn luyện
tiếng Việt. Ví dụ: như trị chơi “Chằm chỉ, chằm chăn” (dân tộc Mường)...Chỉ đạo
giáo viên lưu ý nâng cao yêu cầu trò chơi ở những lần tiếp theo bằng cách thông
qua hoạt động chơi mà trẻ được phát âm chuẩn tiếng Việt.
Chỉ đạo giáo viên tăng cường tiếng việt cho trẻ thông qua các hoạt động

khác như:
Tăng cường tiếng Việt qua hoạt động lao động: Giáo dục lao động là một bộ
phận quan trọng của giáo dục phát triển tồn diện, nhằm hình thành ở trẻ những
phẩm chất của người lao động mới: yêu lao động, quý trọng người lao động, giúp
trẻ nắm được kỹ năng đơn giản tự phục vụ cho sinh hoạt và chuẩn bị sau này cho
trẻ tham gia vào đời sống lao động. Đối với trẻ dân tộ thiểu số, trong lúc lao động
trẻ được học các từ ngữ về đồ vật, hành động...đồng thời trẻ trị chuyện, phân cơng
lao động và trao đổi thúc đẩy quá trình sử dụng tiếng Việt trong thực tế cuộc sống.
Ví dụ: Khi giáo viên tổ chức hoạt động chăm sóc vườn rau cho trẻ, cho trẻ tự phân
công công việc cụ thể cho nhau, bạn nào làm công việc nhổ cỏ, bạn nào tưới nước,
17


lấy dụng cụ gì trong quá trình lao động, trong khi trẻ hoạt động cơ trị chuyện và
hướng dẫn trẻ thực hiện các thao tác. Khi trẻ gặp khó khăn trong hoạt động hay
còn chưa biết nhận vai chơi, chưa chủ động tham gia chơi cùng các bạn. Cô gợi
mở giúp trẻ tự tin hơn, cơ có thể hỏi trẻ “con đang làm gì? Con có biết cây rau này
tên là gì khơng? Muốn chăm sóc rau tươi tốt chúng mình phải làm sao?”…

(Hình ảnh trẻ nhặt lá vàng rơi, chăm sóc vườn rau)
Tăng cường tiếng việt qua hoạt động ngày hội, ngày lễ, thăm quan và hội
thi: Hoạt động lễ hội, thăm quan danh lam thắng cảnh và tổ chức các hội thi có
một vị trí rất quan trọng trong việc giáo dục tăng cường tiếng Việt cho trẻ. Phát
triển những kỹ năng, phẩm chất của trẻ như: phát triển và mở rộng vốn hiểu biết
về thế giớ xung quanh, hình thành và phát triển một số phẩm chất cho trẻ như
mạnh dạn, tự tin, thoải mái, vui vẻ, chia sẻ và hợp tác cùng bạn trong thực hiện
các bài hát, điệu múa, đóng vai. Vì vậy ngồi các lễ hội do nhà trường tổ chức tôi
chỉ đạo giáo viên xây dựng kế hoạch tổ chức cho trẻ thăm quan các địa danh, lễ
hội của địa phương duyệt Ban giám hiệu để thực hiện.
Ví dụ: Ngày tết trung thu tơi phối hợp với chi đồn thanh niên trại giam

Thanh Cẩm mời đội múa lân biểu diễn văn nghệ, giao lưu các trò chuyện về ngày
tết trung thu cùng trẻ…hay tổ chức sinh nhật theo tháng cho trẻ, trẻ được giao lưu
trị chuyện với nhau qua đó mà củng cố thêm vốn từ tiếng Việt cho trẻ.

(Hình ảnh tổ chức ngày tết trung thu và sinh nhật tháng)
Ngoài ra để nâng cao chất lượng phong trào thi đua “Dạy tốt, học tốt” và
thực hiện có hiệu quả chuyên đề “tăng cường tiếng Việt cho trẻ người dân tộc
thiểu số” nhà trường tổ chức hội thi “Đồ dùng đồ chơi” để góp phần bổ sung đồ
dùng dạy học, đồ chơi cho trẻ vui chơi và học tập phong phú và đa dạng hơn.

18


(Hình ảnh tổ chức hội thi đồ dùng, đồ chơi cấp trường)
2.3.5 Giải pháp 5: Thực hiện tốt công xã hội hóa giáo dục và phối kết
hợp với phụ huynh trong việc tăng cường tiếng việt cho trẻ dân tộc thiểu số.
Như chúng ta đã biết chăm sóc giáo dục trẻ mầm non là trách nhiệm của toàn
Đảng, toàn dân và của tồn xã hội. Xã tơi là một xã giàu truyền thống hiếu học,
nhất là cơng tác chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ mầm non luôn được quan
tâm sâu sắc và đặt lên hàng đầu, nắm được thuận lợi đó Ban giám hiệu nhà trường
tham mưu làm tờ trình đề nghị địa phương xây dựng thêm phịng học, được đầu tư
xây mới 17 phòng và các phòng chức năng đạt chuẩn theo yêu cầu trường chuẩn
quốc gia. Tháng 6 năm 2020 trường đạt chuẩn quốc gia mức độ I, cơ sở vật chất
khang trang, phòng học đầy đủ tất cả các nhóm/lớp trong Nhà trường học sinh học
theo độ tuổi, chất lượng dạy và học được nâng lên. Đặc biệt trẻ em dân tộc thiểu
số ở các thôn ra lớp đạt tỷ lệ gần 100%.
Nhằm thực hiện tốt phong trào: “Xây dựng trường học thân thiện - Học sinh
tích cực” và thực hiện các chuyên đề trọng tâm “Xây dựng môi trường giáo dục lấy
trẻ làm trung tâm”; và “Tăng cường tiếng việt cho trẻ dân tộc thiểu số” trong trường
Mầm non, trên địa bàn xã có đơn vị trại giam Thanh Cẩm đóng qn. Tồn bộ con

em cán bộ chiến sĩ đều học tại trường, Ban lãnh đạo trại giam cũng rất quan tâm đến
nhà trường luôn mong muốn con em họ được học trong một môi trường tốt nhất. Và
nắm được điều này Ban giam hiệu Nhà trường đã đề xuất, phối hợp với ban giám thị
trại giam chỉ đạo chi đồn thanh niên đóng góp tiền và ngày cơng lao động xây dựng
khu vui chơi phát triển vận động và khu vườn cổ tích. Trẻ được chơi, được khám phá,
được vận động, được học tập trong mơi trường trong lành có đủ trang thiết bị, đồ chơi
vận dụng từ thiên nhiên sẽ là cơ hội cho trẻ phát triển tốt về tất cả các mặt “Đức – Trí
– Thể - Mĩ”. Đặc biệt đối với trẻ dân tộc thiểu số là môi trường tiếng việt phong phú
để giáo viên tăng cường cho trẻ.

Hình ảnh: Lễ bàn giao, cắt băng khánh thành khu vườn cổ tích, khu vui chơi vận động

19


Bên cạnh đó Ban giám hiệu cịn chỉ đạo giáo viên phối hợp với hội phụ nữ
xã, hội nông dân, hội chữ thập đỏ và phụ huynh quyên góp các nguyên vật liệu sẵn
có ở địa phương như: Tre, nứa, luồng, tranh, viên sỏi.. từ nguyên vật liệu sẵn có ở
địa phương để cùng giáo viên sáng tạo ra nhiều đồ dùng, đồ chơi đẹp có giá trị sử
dụng, mang tính giáo dục cao để thu hút sự chú ý của các bé như “Góc địa
phương”, trẻ được chơi với các sản phẩm đặc trưng của địa phương củng cố vốn
từ tiếng Việt cho trẻ. Bản thân còn chú ý đến cơng tác tun truyền về lợi ích và ý
nghĩa của việc tăng cường tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số cho đồng nghiệp,
phụ huynh và các đoàn thể trên địa bàn thơn, xã.

(Hình ảnh phối hợp với phụ huynh, các tổ chức đồn thể xây dựng góc địa phương)

Đồng thời trong các cuộc họp chun mơn tơi cịn thường xuyên nhắc nhở
giáo viên thực hiện tốt công tác phối kết hợp với phụ huynh trong việc tăng cường
tiếng việt cho trẻ.Vì trẻ mầm non sống chủ yếu ở hai mơi trường gia đình và nhà

trường. Thói quen của phụ phụ huynh là toàn giao tiếp với trẻ bằng tiếng dân tộc.
Ngay cả khi đến trường tôi thường xuyên bắt gặp phụ huynh nói tiếng dân tộc với
con em mình.Ví dụ như: “giâu có ti mâu lênh pao lớp cho mệ ho còn vền ti mần
ăng...(dịch ra tiếng kinh là: Mày có đi nhanh lên vào lớp để mẹ cịn về đi làm
khơng..). Nên sự phối hợp với phụ huynh trong việc dạy tiếng việt cho trẻ là rất
cần thiết vì gia đình là nhân tố quan trọng trong việc tạo môi trường và hỗ trợ các
biện pháp của giáo viên đưa ra để phát triển tăng cường ngôn ngữ tiếng Việt cho
trẻ. Vì vậy tơi chỉ đạo giáo viên thực hiện tốt công tác tuyên truyền với phụ huynh
qua họp phụ huynh, góc trao đổi với phụ huynh, trao đổi hàng ngày với phụ huynh
qua giờ đón trả trẻ, trang zalo hoặc facebook của nhóm lớp để phụ huynh huynh
hiểu được tầm quan trọng của việc tăng cường tiếng việt cho trẻ, phụ huynh
thường xuyên giao tiếp với trẻ bằng tiếng việt khi ở nhà, và giao tiếp bằng ngôn
ngữ chuẩn mực để trẻ học tập.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
* Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với trẻ mẫu giáo.
Đã cho thấy bằng sự đoàn kết phấn đấu của ban giám hiệu nhà trường, sự nỗ
lực của tập thể giáo viên, sự nhiệt tình của giáo viên phụ trách lớp mẫu giáo. Cùng
với sự quan tâm giúp đỡ của cấp uỷ Đảng, Chính quyền các tổ chức xã hội ở địa
phương, đơn vị trại giam Thanh Cẩm đặc biệt là sự quan tâm đóng góp nhiệt tình
của hội cha mẹ trẻ. Trường mầm non Cẩm Thành đã áp dụng một số giải pháp phù
20


hợp vào chuyên đề tăng cường tiếng Việt và thu được những kết quả tốt. Kết quả
đó được thể hiện trong việc chăm sóc giáo dục trẻ mầm non nói chung và kết quả
phát triển ngôn ngữ cho trẻ dân tộc thiểu số nói riềng. Thơng qua đó đã giúp trẻ
phát triển nhiều mặt như: Đức-Trí-Thể-Mỹ. Đặc biệt là ngơn ngữ của trẻ độ tuổi
mẫu giáo được phát triển rất tốt đạt mục tiêu đề ra đầu năm học.
+ Đối với trẻ: Trẻ vui vẻ, hứng thú đến trường; mạnh dạn hơn, tự tin hơn, nói
rõ ràng, mạch lạc, phát âm rõ các tiếng trong tiếng việt. Trẻ lễ phép, chủ động và

tự tin trong giao tiếp và sử dụng tiếng việt để giao tiếp với mọi người xung quanh.
Về phía phụ huynh:Phụ huynh đã có sự quan tâm sát sao đến việc học tập
của con em mình, ln phối kết hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường trong
cơng tác chăm sóc và giáo dục trẻ đặc biệt trong công tác dạy “Tăng cường tiếng
việt cho trẻ em người dân tộc thiểu số”. Cha mẹ trẻ tham gia tích cực vào cơng tác
xây dựng mơi trường giáo dục an tồn, lành mạnh cho trẻ và nhất là cơng tác
quyên góp các nguyên vật liệu sẵn có ở gia đình, địa phương trong việc xây dựng
mơi trường tăng cường tiếng việt cho trẻ DTTS tại trường Mầm non A
Kết quả được thể hiện trong đợt khảo sát lần hai như sau: Tổng số trẻ mẫu
giáo dân tộc tiểu số 316 cháu
T
T
1

Tiêu chí
Trẻ phát âm rõ các
tiếng trong tiếng Việt

Tổng
số
trẻ

Kết quả khảo sát
Tốt
108
=34,2%

Đạt
Khá
101

= 32%

Chưa đạt
TB
103
= 32,6

4
= 1,3%

2

Trẻ lễ phép, chủ động
107
99
103
7
và tự tin trong giao tiếp
= 33,9% = 31,3%
=32,6
= 2,2%
3 Trẻ nói rõ ràng, mạch
103
101
106
6
lạc
=32,6%
=32%
= 3,5%

=1,9%
316
4 Trẻ sử dụng tiếng việt
110
101
105
0
để giao tiếp với mọi
= 34,8%
= 32%
= 33,2%
người xung quanh
Từ đánh giá trên đã thấy được việc tăng cường tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số
tại trường mầm non cho ta thấy được sự tăng lên về mức độ nhân thức về ngôn ngữ, và
khả năng nhận biết, phát âm của trẻ so với giai đoạn đầu năm tăng lên rất rõ rệt.

+ Đối với giáo viên: Cô giáo có sự tích cực trong nghiên cứu tài liệu, nhất là
chuyên đề tăng cường tiếng Việt và chương trình giáo dục mầm non theo thơng tư
28/TT-BGD&ĐT, chủ động tìm tịi phát minh ra một số giải pháp, hình thức tổ
chức phù hợp với trẻ độ tuổi và địa phương để tăng cường tiếng Việt được hiệu
quả. Giáo viên biết cách xây dựng kế hoạch hình thức tổ chức lồng ghép vào tất cả
các hoạt động nhằm cung cấp những kinh nghiệm mang tính tích hợp cần cho cuộc
sống và đặc biệt ngôn ngữ của trẻ được phát triển tốt hơn.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
Tăng cường tiếng Việt cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số có ý nghĩa vô cùng
quan trọng nhằm nâng cao khả năng sử dụng tiếng Việt cho trẻ, giúp trẻ có các kỹ
năng cơ bản trong việc sử dụng tiếng Việt, tạo tiền đề cho việc học tập và lĩnh hội
21



kiến thức ở các cấp học tiếp theo. Từ những áp dụng trên cho thấy trên thực tế việc
chỉ đạo chuyên đề tăng cường tiếng Việt cho trẻ mầm non người dân tộ thiểu số, đã
đem lại kết quả trên. Nên bản thân tôi đã rút ra những kinh nghiệm như sau:
Thứ nhất: Cần quán triệt sâu sắc đến toàn bộ giáo viên trong nhà trường; về
chuyên đề trọng tâm và các cuộc vận động và các phong trào như: Cuộc vận động
“Mỗi thầy cô giáo là tấm gương đạo đức tự học và sáng tạo.” Và đặc biệt là phong
trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” nghiên cứu tập san, các
tạp chí giáo dục mầm non hàng năm để chắt lọc những nội dung cần thiết phục vụ
cho chuyên đề và công tác nghiên cứu.
Thứ hai: Cần đẩy mạnh công tác tham mưu với các cấp chính quyền tăng
cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, tài liệu, học liệu phục vụ dạy, học tiếng
Việt cho trẻ vùng dân tộc thiểu số. Đổi mới phương pháp dạy học, hình thức tổ
chức hoạt động giáo dục nhằm phát huy tính tích cực của trẻ.
Thứ ba: Cần linh hoạt, sáng tạo thiết kế môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung
tâm; tạo điều kiện cho trẻ được tắm mình trong mơi trường chữ viết, nhận biết và
phát âm tiếng Việt ở mọi lúc, mọi nơi bằng cách gắn chữ cái lên các thiết bị đồ
chơi, đồ dùng...Tổ chức xây dựng khơng gian phịng học tại các lớp giàu chữ viết
tiếng Việt để giúp trẻ có nhiều cơ hội nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt, giúp các em
có nhiều cơ hội và thuận tiện trong việc sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt.Thường
xuyên cung cấp mở rộng vốn kinh nghiệm cho giáo viên qua việc đi thăm quan học
tập kinh nghiệm và rút kinh nghiệm qua mỗi chủ đề.
Thứ tư: Đẩy mạnh cơng tác xã hội hóa giáo dục nhằm huy động các nguồn
lực hỗ trợ công tác tăng cường tiếng Việt cho trẻ, đặc biệt quan tâm đến việc vận
động gia đình tạo điều kiện để trẻ đi học chuyên cần, thường xuyên sử dụng tiếng
Việt ở gia đình và cộng đồng.
Qua đó ta thấy được kết quả như trên là nhờ ban giám hiệu, tổ chuyên môn và
tập thể giáo viên trong nhà trường đã áp dụng một số giải pháp đúng đắn phù hợp
với điều kiện hoàn cảnh của địa phương, của lớp và đặc điểm tâm sinh lý của trẻ
trong các độ tuổi. Ban giám hiệu thường xuyên chỉ đạo nâng cao chất lượng tăng

cường tiếng Việt cho đa dạng, phong phú về hình thức tổ chức, nội dung tăng
cường tiếng việt cho trẻ; phương pháp chỉ đạo giáo viên phải có sự vận dụng linh
hoạt sáng tạo trong hoạt động tăng cường tiếng việt cho trẻ. Theo đó là nhờ sự
quan tâm của Đảng, chính quyền các tổ chức xã hội của địa phương, đơn vị kết
nghĩa trại giam Thanh Cẩm và đặc biệt là sự quan tâm nhiệt tình, trách nhiệm đóng
góp của các bậc cha mẹ trẻ với một mong muốn “Tất cả vì tương lai con em chúng
ta” cùng chung sức vì một mục tiêu chung là chăm sóc giáo dục trẻ từ cái gốc để
sau này sẽ phát triển tốt hơn cho gia đình và xã hội
Trên đây là một số giải pháp cơ bản mà bản thân tôi rút ra từ thực tiễn công tác
chỉ đạo giáo viên mẫu giáo tăng cường tiếng Việt cho trẻ em người dân tộc thiểu số.
Các biện pháp trên tuy nghiên cứu chưa sâu nhưng đối với nhà trường và bản thân
cũng là một phần nhỏ bé góp phần vào thực hiện chuyên đề trọng tâm, và thực hiện đề
án tăng cường tiếng Việt cho trẻ em người dân tộc thiểu số địa phương tôi. Tuy nhiên
những nghiên cứu này của tơi sẽ khơng tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự
góp ý, bổ sung của hội đồng sáng kiến kinh nghiệm các cấp.
3.2. Kiến nghị: Không
22


XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Hiệu trưởng

Phạm Thị Thắng

Cẩm Thành, ngày 28 tháng 02 năm 2021
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, khơng sao chép nội dung của
người khác.
Người viết

Trần Thị Thảo

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]- Quyết định số 1008/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Tăng cường tiếng Việt
cho trẻ em mầm non, học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016-2020,
định hướng đến 2025”.
Quyết định số 2805/QĐ-BGDĐT ngày 15/8/2016 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục
và Đào tạo về Ban hành kế hoạch thực hiện Đề án “Tăng cường chuẩn bị Tiếng
Việt cho trẻ mầm non và học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 20162020, định hướng đến năm 2025”;
[2] - Hướng dẫn tăng cường tiếng Việt cho trẻ mầm non vùng dân tộc thiểu
số (Nhà xuất bản giáo dục)

3- Hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trình giáo dục mầm non mẫu
giáo Theo Thông tư 28/2016/TT-BGD&ĐT ngày 30/12/2016 sửa đổi bổ sung
một số nội dung chương trình giáo dục mầm non
4-Tài liệu hướng dẫn tăng cường tiếng việt cho trẻ mầm non vùng dân
tộc thiểu số ( Dành cho cán bộ quản lý và giáo viên mầm non) tái bản lần thứ
nhất tháng 3 năm 2019
5 -Tài liệu chuyên đề “Tăng cường tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số”
6 -Tạp chí giáo dục mầm non
7- Mạng Internet
8- Hướng dẫn thực hành áp dụng quan điểm giáo dục: Lấy trẻ làm
trung tâm trong trường mầm non.

23


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC

CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Trần Thị Thảo
Chức vụ và đơn vị cơng tác: Phó hiệu trưởng trường Mầm Non Cẩm Thành, huyện
Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa.

TT

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh giá
xếp loại
(Phòng, Sở,
Tỉnh...)

Kết quả
đánh giá xếp
loại (A, B,
hoặc C)

Năm học
đánh giá xếp
loại

1.

Một số biện pháp phối hợp
với phụ huynh làm đồ dùng,
đồ chơi tự tạo từ các nguyên
vật liệu sẵn có ở địa phương
cho trẻ 5 tuổi


Phịng
GD&ĐT
Cẩm Thủy

A

2014- 2015

2.

Một số biện pháp phối hợp
với phụ huynh làm đồ dùng,
đồ chơi tự tạo từ các nguyên
vật liệu sẵn có ở địa phương
cho trẻ 5 tuổi

Sở GD&ĐT
Thanh Hóa

C

2014 - 2015

3.

Một số biện pháp giúp trẻ 56 tuổi học tốt môn khám phá
khoa học tại trường Mầm
non A


Phòng
GD&ĐT
Cẩm Thủy

B

2017 - 2018

4.

Một số giải pháp chỉ đạo
giáo viên lớp mẫu giáo tăng
cường tiếng việt cho trẻ
người dân tộc thiểu số theo
quan điểm giáo dục lấy trẻ
làm trung tâm, tại trường
mầm non Cẩm Thành

Phòng
GD&ĐT
Cẩm Thủy

B

2020-2021

24



×