Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm dạy tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số năm học 2016 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.1 MB, 32 trang )

BÁO CÁO SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu
Bên cạnh sự phát triển giáo dục của cả nước, trong những năm qua ngành
giáo dục và đào tạo tỉnh Thái Nguyên nói chung luôn quan tâm chỉ đạo sát sao
việc dạy tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số, năm học 2016-2017
UBND tỉnh Thái Nguyên cũng xây dựng kế họach cụ thể để thực hiện Quyết định
số 1008/QĐ-TTg, ngày 02 tháng 6 năm 2016 của Thủ tướng Chính phủ và Quyết
định số 2805/QĐ-BGDĐT ngày 15/8/2016 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về thực
hiện Đề án “Tăng cường chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ em mầm non và học sinh tiểu
học vùng dân tộc thiểu số (DTTS) giai đoạn 2016 - 2020, định hướng đến 2025”
nên chất lượng giáo dục cũng từng bước đạt được cải thiện.
Tuy nhiên trong thời gian qua giáo dục tỉnh Thái Nguyên nói chung, giáo
dục ở thị xã Phổ Yên nói riêng đối với các vùng dân tộc thiểu số chưa đạt được
kết quả như mong muốn, sự chênh lệch về chất lượng giữa học sinh vùng dân
tộc thiểu số với học sinh người kinh quá xa. Nguyên nhân cho thấy trước khi đến
trường, một phần học sinh người dân tộc thiểu số chưa biết sử dụng tiếng Việt,
thậm chí còn có em vào lớp 1 chưa qua mẫu giáo, vì vậy các em rất hạn chế về
tiếng Việt. Học sinh dân tộc thiểu số cấp tiểu học học tiếng Việt là ngôn ngữ thứ
hai. Mặc dù có những em cũng đã trải qua các lớp ở bậc Mầm non nhưng đối với
các em trường Tiểu học vẫn là môi trường mới, tiếng Việt là ngôn ngữ chưa thật sự
gần gũi các em. Sự tồn tại tình trạng này là do điều kiện sử dụng ngôn ngữ trong
đời sống sinh hoạt cộng đồng, do thói quen sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ còn mang tính
phổ biến, tự nhiên, những buổi sinh hoạt cộng đồng, những cuộc hội họp người địa
phương hầu như chỉ giao tiếp với nhau bàng ngôn ngữ mẹ đẻ, ngại sử dụng tiếng
Việt, có thể vì bản năng ngôn ngữ mẹ đẻ luôn thường trực trong họ, thói quen này
sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống gia đình của mỗi cá nhân, học sinh vẫn sử
dụng tiếng mẹ đẻ khi rời trường, thậm chí cả rời lớp. Học sinh thường có những
khó khăn tâm lý trong quá trình tiếp nhận kiến thức, kĩ năng tiếng Việt.
Giáo viên dạy tiếng Việt cho học sinh dân tộc còn một số hạn chế đặc biệt
là không biết hoặc không thành thạo tiếng dân tộc. Trong quá trình giảng dạy
1




chưa biết vận dụng linh hoạt các hình thức tổ chức dạy học nhằm tăng cường
tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số nên vốn tiếng Việt của các em còn nhiều
hạn chế.
Từ những vấn đề trên dẫn đến hiện trạng “ ngồi nhầm lớp” của học sinh
phổ thông trên cả nước nói chung, tỉnh Thái Nguyên nói riêng hiện nay vẫn rải
rác tồn tại cũng là vấn đề bức xúc của ngành giáo dục, được các cấp lãnh đạo,
những người làm giáo dục của địa phương và dư luận xã hội quan tâm.
Là một người làm công tác giảng dạy và quản lý ở xã Phúc Thuận, vùng
có học sinh dân tộc thiểu số gần 30 năm và trực tiếp quản lý ở trường tiểu học
Phúc Thuận III có gần 100% học sinh là dân tộc thiểu số đến nay là 4 năm, tôi
thấy được những khó khăn khi trình độ nhận thức của học sinh còn hạn chế, vốn
tiếng Việt của các em chưa đáp ứng được yêu cầu dẫn đến chất lượng dạy và học
ở đây còn rất thấp. Tôi cùng với đồng nghiệp luôn trăn trở và tìm ra những giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục học sinh dân tộc như tuyên truyền làm
tốt công tác xã hội hóa giáo dục, kêu gọi thu hút các nhà tài trợ để xây dựng cơ
sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho dạy và học, tích cực đổi mới phương pháp
dạy học... đặc biệt là tìm ra các giải pháp để tăng cường tiếng Việt giúp các em
có vốn tiếng Việt đủ để chủ động tiếp thu kiến thức và có khả năng giao tiếp
trong quá trình dạy và học, giáo viên và học sinh giảm bớt đi những khó khăn,
rào cản về ngôn ngữ nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và duy trì phổ cập giáo
dục Tiểu học đúng độ tuổi mức độ II mà xã Phúc Thuận đã đạt được.
Mặt khác dạy tiếng Việt lớp 1 theo chương trình công nghệ giáo dục của
giáo sư Hồ Ngọc Đại năm học 2015 – 2016 được thị xã Phổ Yên tiếp nhận đưa
vào giảng dạy. Do năm đầu tiên thực hiện chương trình mới tôi đã trăn trở tìm ra
một số biện pháp chỉ đạo trong dạy học tiếng Việt cho học sinh lớp 1 tại trường đạt kết
quả nhất định song chưa như mong muốn, năm học 2016-2017 là năm học thứ 2 nhà
trường tiếp tục thực hiện dạy tiếng Việt lớp 1 theo chương trình công nghệ giáo
dục với mong muốn đạt kết quả cao hơn năm học 2015-2016, với nhận thức đầy đủ về

tầm quan trọng và cần thiết của việc tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu
số nói chung và học sinh dân tộc trường tiểu học Phúc Thuận III nói riêng nên tôi tiếp
2


tục quan tâm trăn trở tìm ra một số biện pháp chỉ đạo trong dạy học tiếng Việt cho
học sinh lớp 1. Sau nghiên cứu và áp dụng chỉ đạo thực hiện một số giải pháp cụ
thể chất lượng giáo dục đã được nâng lên, tôi mạnh dạn đưa ra để đồng nghiệp
cùng tham khảo.
2. Tên sáng kiến: “Một số biện pháp tiếp tục chỉ đạo dạy tăng cường
tiếng Việt cho học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số trường Tiểu học Phúc Thuận III
thị xã Phổ Yên tỉnh Thái Nguyên”.
3. Tác giả:
- Họ và tên: Lê Thị Kim Liên
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường Tiểu học Phúc Thuận III thị xã Phổ
Yên tỉnh Thái Nguyên.
- Số điện thoại: 0984298789.Email:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:
- Họ và tên: Lê Thị Kim Liên
- Địa chỉ: Trường Tiểu học Phúc Thuận III thị xã Phổ Yên tỉnh Thái Nguyên.
- Số điện thoại: 0984298789.Email:
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:
Sáng kiến được áp dụng trong công tác chỉ đạo chuyên môn.
Công tác giảng dạy của giáo viên dạy các môn học của lớp 1 trong trường
tiểu học Phúc Thuận III nói riêng, đồng thời có thể áp dụng ở một số trường có
học sinh dân tộc trên địa bàn thị xã và địa bàn thị xã Phổ Yên. Trong quá trình
áp dụng có thể lựa chọn các biện pháp dạy tăng cường Tiếng Việt với từng môn
học sao cho phù hợp với đối tượng học sinh cũng như đặc trưng môn học đó.
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử.
Tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số được ngành giáo dục

quan tâm chỉ đạo từ nhiều năm nay, là hiệu phó phụ trách chuyên môn tôi đã
thực hiện rất nghiêm túc, năm học 2015-2016 sáng kiến này đã được áp dụng,
sau một năm đúc rút kinh nghiệm, ngay từ đầu năm học 2016 – 2017, tôi đã xây
dựng kế hoạch hoạt động chuyên môn cụ thể, đề xuất một số giải pháp tiếp tục
thực hiện vấn đề này trước hội đồng sư phạm vào ngày 14/9/2016, trong giải
pháp nêu rõ “Tiếp tục chỉ đạo tăng cường dạy tiếng Việt cho học sinh lớp 1” để
các em có vốn tiếng Việt vững chắc học tiếp lên các lớp trên.
3


7. Mô tả bản chất của sáng kiến: thực trạng, giải pháp
7.1 Một số khái niệm:
Biện pháp chỉ đạo: Đó chính là cách làm, cách giải quyết một vấn đề của
nhà quản lý bằng cách xây dựng kế hoạch và hướng dẫn thực hiện kế hoạch một
cách cụ thể phù hợp với tình hình thực tế của đơn vị. Trong thực tế, muốn đạt
được hiệu quả cao trong công tác quản lý, chỉ đạo chủ thể phải vận dụng tổng
hợp các biện pháp vì mỗi biện pháp đều có những mặt mạnh, mặt yếu riêng. Khi
ta sử dụng hài hòa giữa các biện pháp để phát huy sức mạnh và hạn chế mặt yếu
của mỗi biện pháp thì sẽ tạo được sức mạnh tổng hợp để giải quyết vấn đề một
cách hiệu quả nhất.
Tăng cường tiếng Việt: Là các hoạt động nhằm giúp học sinh chưa biết
hoặc biết nói ít tiếng Việt có thể học tập các môn học trong hệ thống giáo dục
mà tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức. Tăng cường tiếng Việt được thực hiện
xuyên suốt, đồng thời với chương trình tiểu học thông qua các hỗ trợ cho giáo
viên và học sinh. Yêu cầu của tăng cường tiếng Việt là làm thế nào để giáo viên
dạy học sinh dân tộc có thể học chương trình tiểu học một cách có hiệu quả
trong môi trường học tập của địa phương.
Vậy biện pháp chỉ đạo dạy tăng cường tiếng Việt, chính là cách làm, cách
định hướng và hướng dẫn cho giáo viên áp dụng các phương pháp, biện pháp,
cách thức tác động cụ thể của người dạy và người học lên đối tượng dạy và học

qua đó thực hiện nhiệm vụ và mục đích dạy học đó là cung cấp thêm vốn từ
tiếng Việt nhằm mục đích làm giàu vốn tiếng Việt cho học sinh.
7.2. Thực trạng:
Trường Tiểu học Phúc Thuận III là một trường đóng trên địa bàn có trên
95% dân số là người dân tộc Sán Dìu. Là một vùng gồm 5 xóm thuần nông, số
học sinh thuộc hộ nghèo và cận nghèo năm sau đã giảm so hơn với năm trước
nhưng còn tương đối cao cụ thể qua theo dõi từ năm tôi về công tác tại trường
như sau:
Năm
HS con hộ nghèo và cận nghèo

2013
44

2014
46
4

2015
36

2016
29

2017
17


Năm học 2016-2017: Nhà trường có 9 lớp học với 205 em là dân tộc Sán
Dìu trong tổng số 218 em chiếm 94%. Trình độ dân trí tương đối thấp vì thế việc

nhận thức về quyền lợi và nghĩa vụ tạo điều kiện cho con học tập của một bộ
phận không nhỏ người dân trong địa bàn chưa cao. Qua quá trình công tác tôi
nhận thấy:
* Về phía học sinh: Học sinh vào lớp 1 đã qua lớp mẫu giáo vì vậy các em
không còn bỡ ngỡ khi đến trường đến lớp cũng như tham gia vào các hoạt động
học tập và vui chơi. Tuy nhiên, vốn tiếng Việt của các em còn nghèo nên giao tiếp
của các em còn nhiều hạn chế. Mặt khác qua 3 tháng nghỉ hè các em ít có cơ hội
giao tiếp bằng tiếng phổ thông. Những kiến thức về tiếng Việt các em học được
qua lớp mẫu giáo hầu như đã quên hết. Do đó khi bước vào lớp 1 kiến thức về
tiếng Việt của các em như một trang giấy trắng nên giáo viên rất vất vả trong quá
trình truyền thụ kiến thức cho các em vì người giáo viên vừa phải dạy tiếng kết
hợp dạy chữ. Do vốn từ còn hạn chế nên các em thường rất khó khăn trong việc
diễn đạt một vấn đề một cách rõ ràng để người khác dễ hiểu. Học sinh dân tộc phát
âm thường không chuẩn nhất là tiếng có âm cuối là các âm khép n; m; p và các
tiếng có thanh hỏi, thanh huyền đi với các vần chứa âm ê, ơ, vần uân thường phát
âm thành vần uôn, vần uyên thành vần uên. Đặc biệt qua nhiều năm giảng dạy và
quản lý, tôi thấy đa số các em học sinh người kinh bước vào lớp 1 các em đã biết
đánh vần rất đúng theo thói quen truyền miệng khi chưa biết chữ như: m-e-melặng- mẹ; ă-t –ăt; ă- n – ăn.... nên khi được thầy cô dạy vần mới và tiếng mới các
em rất đễ nhớ và ghi nhớ lâu nhưng học sinh dân tộc Sán Dìu ở trường Tiểu học
Phúc Thuận III khi vào lớp 1 các em không có thói quen này, khi dạy các vần hoặc
tiếng mới các cô giáo phải hướng dẫn rất rõ ràng, cụ thể nhưng có em vẫn đánh
vần sai hoặc lúc học thì nhớ sau đó lại quên ngay và đánh vần sai thành những
vần, tiếng không liên quan như: ă-p –ưt; â-t- ân.... Do cách phát âm chưa chuẩn
nên trong các bài viết Chính tả thường các em phát âm như thế nào thì viết như
vậy do đó các em mắc rất nhiều lỗi chính tả trong bài viết của mình.
* Về phía giáo viên: Đội ngũ giáo viên nhà trường đảm bảo đủ về số
lượng và chất lượng, 100% giáo viên được đào tạo đạt chuẩn và trên chuẩn,
5



luôn nhiệt tình, năng nổ và có ý thức trách nhiệm trước công việc được giao.
Giáo viên trong trường chủ yếu là người dân tộc kinh, có 02 đồng chí là người
dân tộc Tày. Giáo viên chủ nhiệm và đồng thời dạy Tiếng Việt lớp 1 là 2 cô giáo
đã nhiều năm chủ nhiệm lớp 1 nên các cô đã có bề dày kinh nghiệm.
* Về phía gia đình học sinh: Do trình độ dân trí không cao cộng với nhiều hủ
tục lạc hậu như làm lễ cúng tế; ma chay,… gia đình thường cho con em nghỉ học
không lý do vào các dịp lễ tết. Đời sống của đa số nhân dân trong vùng còn gặp
nhiều khó khăn nên một bộ phận nhỏ học sinh còn hay phải phụ giúp công việc gia
đình để kiếm bát cơm manh áo dẫn đến sao nhãng việc học hành. Sự quan tâm đến
học tập của con em ít nhiều cũng có sự thay đổi so với những năm học trước
nhưng chưa thực sự sát sao, thầy cô có trao đổi về mặt tích cực hay hạn chế của
con em thì phụ huynh cũng không phản ứng gì, chỉ nghe để đấy. Sự đầu tư cho con
cái về thời gian cũng như sách vở, đồ dùng học tập hầu như là phó mặc cho thầy
cô. Mặt khác, trong sinh hoạt gia đình các thành viên vẫn ít sử dụng tiếng phổ
thông mà sử dụng nhiều bằng tiếng mẹ đẻ trong quá trình giao tiếp. Vì vậy, các em
thường ít được tiếp xúc với tiếng phổ thông, vốn tiếng Việt ở trên lớp mà các em
có được, những con chữ đầu tiên lại bị lãng quên trong tiềm thức của các em. Môi
trường giao tiếp bằng tiếng Việt hạn hẹp và không thuần nhất. Như vậy chính là
nguyên nhân dẫn đến việc hình thành và phát triển kỹ năng sử dụng tiếng Việt của
các em hết sức khó khăn. Với thực tế như vậy thì việc tăng cường Tiếng Việt cho
các em học sinh lớp 1 trường tiểu học Phúc Thuận III nhằm trang bị đầy đủ vốn
ngôn ngữ để các em học tiếp lên các lớp trên là việc làm thường xuyên và hết sức
cần thiết.
7.3. Giải pháp.
Trong những năm học vừa qua,đặc biệt năm học 2015-2016, nhà trường
đã cố gắng tìm nhiều giải pháp để nâng cao chất lượng giáo dục như đổi mới
phương pháp dạy học; tăng thời lượng một số môn học cơ bản như Toán, Tiếng
Việt; tăng cường phụ đạo học sinh chưa hoàn thành kiến thức môn học; tổ chức
các hình thức học tập như học theo nhóm, đôi bạn cùng tiến... chất lượng cũng
đã được cải thiện nhưng vẫn chưa được như mong muốn, vẫn thấy vốn tiếng

6


Việt rất hạn chế, để giải quyết 1 vấn đề giáo viên đưa ra câu hỏi đến 3 lần nhưng
các em vẫn không hiểu, không trả lời được. Học sinh sau khi lên lớp vẫn còn
tình trạng đọc chưa thông, viết chưa thạo so với học sinh trên cùng địa bàn của
thị xã Phổ Yên, tỷ lệ lưu ban sau năm học vẫn còn cao..... Xảy ra tình trạng này
không phải là do giáo viên cho học sinh lên lớp khi chưa đủ điều kiện lên lớp mà
do các em còn ít vốn tiếng Việt nên các em tiếp thu kiến thức một cách thụ động
(học vẹt) nên rất dễ quên. Do đó trong thời gian nghỉ hè các em đã quên khá
nhiều kiến thức trong đó đặc biệt quan trọng là quên việc đọc, viết và làm toán
dẫn đến tình trạng nhiều học sinh "ngồi sai lớp". Tiếp tục thực hiện chỉ đạo dạy
tăng cường tiếng Việt cho học sinh lớp 1, ngoài những biện pháp thực hiện có
hiệu quả của năm học 2015-2016, năm học này tôi tiếp tục thực hiện và có cải
tiến một số giải pháp sau:
7.3.1. Công tác chỉ đạo:
* Công tác tham mưu, tuyên truyền. Là cán bộ quản lý phụ trách công tác chuyên
môn của nhà trường, cần làm tốt công tác tham mưu với cấp ủy, Ban giám hiệu nhà
trường. Nhà trường thực hiện công tác tham mưu với chính quyền địa phương
trong công tác tuyên truyền để toàn thể nhân dân trong địa bàn cùng chung tay góp
sức ủng hộ công tác giáo dục. Thực hiện tốt công tác phổ cập giáo dục tiểu học
đúng độ tuổi. Thực hiện tốt công tác dân vận, động viên khuyến khích nhân dân
trong địa phương cũng như trong gia đình tăng cường kỹ năng giao tiếp bằng tiếng
phổ thông cho các em trong độ tuổi đến trường. Làm tốt công tác tuyên truyền tới
toàn thể cán bộ giáo viên, phụ huynh và học sinh trong công tác giáo dục trẻ. Tạo
môi trường tiếng Việt ở mọi nơi, mọi lúc để trẻ có nhiều cơ hội tiếp xúc, làm quen
và giao tiếp bằng tiếng Việt.
Tạo thói quen sử dụng tiếng phổ thông ở gia đình và cộng đồng: Gia đình
là trường học đầu tiên và vô cùng quan trọng đối với mỗi đứa trẻ đặc biệt là việc
hình thành ngôn ngữ cho trẻ. Thực tế ở nhà trường có đến trên 84% học sinh lớp

1 là người dân tộc thiểu số. Các em sống với gia đình, ít có điều kiện gặp gỡ,
giao lưu với người Kinh nên vốn tiếng Việt của các em rất hạn chế trong khi
những người trong gia đình ít sử dụng tiếng phổ thông.
7


Hiểu được tầm quan trọng của tiếng Việt đối với học sinh dân tộc thiểu số
trước khi vào lớp nên tôi thường xuyên chỉ đạo giáo viên phối hợp với ban đại
diện cha mẹ học sinh lồng ghép nhắc nhở phụ huynh học sinh trong các cuộc
họp phụ huynh quan tâm đến việc bảo tồn, phát huy tiếng nói, chữ viết của dân
tộc mình và tầm quan trọng của tiếng Việt trong việc tiếp thu kiến thức của học
sinh. Từ đó có thói quen sử dụng tiếng phổ thông trong sinh hoạt hàng ngày.
Trong nhà trường, bản thân tôi đã xây dựng kế hoạch thực hiện tốt công tác
chuyển giao cho trẻ từ Mầm non bước vào Tiểu học. Trong các cuộc họp Hội
đồng, sinh hoạt chuyên môn, chuyên đề... bản thân tôi luôn nhắc nhở giáo viên
phải thường xuyên gặp gỡ gia đình học sinh để phối hợp với phụ huynh quan
tâm đến việc sử dụng tiếng phổ thông, hướng dẫn phụ huynh dạy cho con em họ
tập đánh vần tiếng Việt theo cách truyền miệng để các em hình thành thói quen,
giúp các em dễ nhớ và nhớ lâu khi được các cô dạy tiếng mới, vần mới.
Hiện nay, nhiều gia đình dân tộc thiểu số trên địa bàn trường tiểu học Phúc
Thuận III đã có thói quen dùng tiếng phổ thông trong sinh hoạt gia đình. Vì vậy
trẻ được tiếp xúc với tiếng Việt ngay tại gia đình và ở cộng đồng, vốn tiếng Việt
của các em cũng được nâng lên rất nhiều góp phần thuận lợi cho việc tiếp thu
kiến thức ở trường.
* Công tác chỉ đạo: Thực hiện xây dựng kế hoạch, triển khai, tổ chức
thực hiện việc dạy tăng cường Tiếng Việt cho học sinh dân tộc như:
- Đối với việc thực hiện chương trình: Thực hiện dạy học Tiếng Việt lớp 1
cho học sinh dân tộc thiểu số theo hướng điều chỉnh kế hoạch dạy học từ 350
tiết/năm lên thành 560 tiết/năm (phương án tăng thời lượng Tiếng Việt), điều
chỉnh thời gian dạy học của các môn học khác để tăng thêm thời gian cho môn

Tiếng Việt. Cụ thể cho từng phần học như sau:
* Dạy Tiếng Việt 1- CGD Tập 1, Tập 2: Học Âm- Vần: Là phần chiếm
nhiều thời lượng nhất của môn Tiếng Việt. Nếu học sinh không thuộc được các
chữ cái, biết ghép các vần thì học sinh không thể đọc, viết cũng như học các môn
học khác được. Vì vậy trong công tác chỉ đạo, chúng tôi đưa ra một số giải pháp:
- Nhà trường và giáo viên chủ nhiệm lớp tạo mọi điều kiện về thời gian và
tài liệu, thiết bị dạy học để học sinh được thực hành các kỹ năng đọc, viết, nghe,
nói và phát triển nhiều nhất hai kỹ năng đọc, viết.
8


Tăng thời lượng dạy học mỗi bài từ 2 tiết lên 3 tiết hoặc 4 tiết, buổi sáng có
thể hoàn thành việc 1, việc 2 hoặc thêm việc 3, buổi chiều ôn lại việc 1, việc 2,
việc 3 dạy thêm việc 4, có thể việc 1, việc 2 dạy buổi sáng, việc 3, việc 4 dạy buổi
chiều. Sử dụng nhiều hình thức dạy học sinh động để tạo hứng thú cho học sinh
trước khi bước vào bài học mới: Hội thoại tự nhiên giữa giáo viên và học sinh.
Sử dụng triệt để các đồ dùng được cấp phát trong dạy học, giáo viên tăng
cường làm và sưu tầm các đồ dùng dạy học đơn giản, có sẵn ở địa phương.

Cô giáo Nguyễn Thị Duyên GVCN lớp 1A đang hướng dẫn học sinh tìm tiếng mới.

Rèn cho học sinh đọc đúng, viết đúng các âm, vần, tiếng dễ lẫn do ảnh
hưởng của cách phát âm địa phương: Phụ âm đầu: l/n; vần uân/uôn, uyên/uên
dấu thanh: hỏi/nặng; ngã/sắc...

Cô giáo Nguyễn Thị Mai GVCN lớp 1B hướng dẫn học sinh viết đúng chính tả.

9



Sử dụng ngữ liệu chứa nội dung hấp dẫn, sưu tầm các câu đồng giao, thơ
để giúp học sinh dễ thuộc, viết đúng các chữ cái. Ví dụ:
- i, t hai chữ giống nhau
i ngắn có dấu, t dài có ngang.
Hoặc sử dụng một số câu đố vui để giới thiệu một số âm, vần thay cho
việc yêu cầu học sinh quan sát tranh để tạo hứng thú trong học tập cho học sinh.
Ví dụ:
- Nét tròn em đọc chữ o
Khuyết đi một nửa sẽ cho chữ gì?

(Chữ c)

+ Khi dạy việc 1, việc 2: Kết hợp nhiều hình thức, biện pháp tổ chức dạy
đọc thích hợp để huy động được nhiều học sinh đọc. Một trong những hình thức
tối ưu đó là chia nhóm, đọc nối tiếp. Chú ý cho học sinh luyện đọc nhiều và sửa
sai kịp thời cho học sinh những phương ngữ địa phương.
Thực hiện dạy tập đọc linh hoạt phù hợp với từng thể loại văn bản và với
từng giai đoạn học tập của học sinh. Giáo viên cần lưu ý đọc mẫu cho học sinh
phải chuẩn về âm lượng, tốc độ, ngữ điệu.
+ Khi dạy việc 3:
- Giáo viên viết chữ mẫu đúng và đẹp từng kiểu chữ, mẫu chữ.
- Dạy học sinh viết đúng các nét chữ cơ bản như nét gạch ngang, nét xiên
phải, cong tròn,... Dạy viết theo nhóm các chữ có nét cơ bản giống nhau.
- Hướng dẫn học sinh thực hành luyện tập với số chữ, số dòng theo trình
độ học sinh: Giáo viên hướng dẫn học sinh cụ thể về các yêu cầu kỹ thuật viết
từng nét chữ, điểm đặt bút, điểm dừng bút trên dòng kẻ ly để hình thành nên một
chữ cái, rồi đến tiếng, từ, cụm từ và cả câu.
- Sử dụng có hiệu quả các phương tiện, thiết bị hỗ trợ dạy học Tập viết:
Bảng cài, bảng lớp, bảng con...; Rèn tư thế ngồi viết đúng cho học sinh.
+ Khi dạy việc 4:

- Giáo viên chuẩn bị và hướng dẫn học sinh chuẩn bị tốt các phương tiện
viết bài chính tả (vở, bút, bảng lớp, bảng con).
- Giáo viên chú ý cách đọc: Đọc to, rõ ràng, điều chỉnh tốc độ đọc cho
phù hợp với trình độ học sinh.
- Thường xuyên nhận xét bài, chữa lỗi cho học sinh, hướng dẫn học sinh
cách tự nhận xét bài, chữa lỗi cho nhau.
* Dạy Tiếng Việt 1 – CGD Tập 3: Đến thời điểm này đa số học sinh đã
đọc thông viết thạo, theo giáo sư Hồ Ngọc Đại nói khi học Tiếng Việt 1- CGD
Tập 3 học sinh sẽ tự học, giáo viên là người hướng dẫn, giúp đỡ khi học sinh
gặp khó khăn. Tuy nhiên vẫn còn có những em chậm hơn, có những em mới
đọc, viết được những bài học ở sách Tiếng Việt tập 1, đầu tập 2, đây là những
10


em chưa hoàn thành kiến thức môn học. Lúc này giáo viên quan tâm nhiều hơn
đối với những học sinh chưa hoàn thành kiến thức môn Tiếng Việt 1-CGD Tập 1
và Tập 2 để các em sớm theo kịp các bạn trong lớp.
- Đối với tổ khối: Tiếp tục chỉ đạo cho các tổ khối thảo luận đưa ra các biện
pháp giải quyết đồng bộ các vấn đề, các tình huống cụ thể của từng khối lớp trong
công tác giảng dạy. Phân công tổ trưởng chuyên môn chịu trách nhiệm việc tăng
cường tiếng Việt cho học sinh tại khối lớp mình, duy trì tổ chức dạy học 2
buổi/ngày, để học sinh có nhiều cơ hội cũng như thời gian giao tiếp bằng tiếng phổ
thông với cô giáo và bạn bè. Tăng cường công tác dự giờ, rút kinh nghiệm các tiết
dạy, đổi mới công tác đánh giá tiết dạy. Việc kiểm tra công tác dạy - học chú trọng
vào việc xem xét khả năng tiếp thu bài của từng đối tượng học sinh để có những
điều chỉnh về phương pháp và hình thức dạy học phù hợp, đẩy mạnh phụ đạo học
sinh chưa đạt chuẩn kiến thức kỹ năng môn học, duy trì thường xuyên việc bồi
dưỡng và tự bồi dưỡng của giáo viên. Động viên, tạo điều kiện cho cán bộ giáo
viên trong việc tự học, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ,
trình độ vi tính. Đổi mới hình thức tổ chức sinh hoạt chuyên môn ở từng tổ khối,

toàn trường nội dung sinh hoạt gắn liền với nội dung dạy Tiếng Việt cho học sinh.
Duy trì hiệu quả sinh hoạt chuyên môn cụm trường. Thường xuyên theo dõi đánh
giá kết quả học tập của học sinh để có những biện pháp chỉ đạo kịp thời.

11


Đồng chí Lê Thị Kim Liên – PHT, đồng chí Cao Thị Thủy – Khối trưởng
dự giờ Tiếng Việt 1 tiết 3,4 tuần 13 của 2 giáo viên dạy lớp 1.

12


Cô giáo Nguyễn Thị Duyên dạy bài Từng tiếng rời trong buổi sinh hoạt chuyên môn cụm.

- Đối với các tổ chức đoàn thể: Tổng phụ trách Đội TNTP làm tốt công tác xây
dựng kế hoạch, kết hợp với cán bộ thư viện tham mưu với Ban giám hiệu trong việc
chỉ đạo các tổ chức đoàn thể xây dựng kế hoạch hoạt động ngoài giờ lên lớp phù hợp
với tình hình thực tế của nhà trường, qua các hoạt động đó các em được giao lưu, học
hỏi và được thể hiện mình giúp cho các em sẽ mạnh dạn hơn trong giao tiếp và cũng
từ đó cung cấp cho các em vốn sống và kỹ năng giao tiếp trong học tập và cuộc sống
hàng ngày.

13


14


15



- Đối với cán bộ thư viện: Làm tốt công tác xây dựng kế hoạch hoạt động, tổ
chức các hoạt động thư viện phong phú, duy trì giới thiệu sách tới độc giả để thu hút
người đọc, làm tốt công tác theo dõi số lượng học sinh đọc của các lớp và đưa tiêu chí
này vào thi đua của các lớp, hàng tuần tổ chức giao ban tổ cộng tác viên thư viện để
tổng kết hoạt động thư viện trong tuần, kết hợp với Đội TNTP đánh giá thi đua của
từng lớp trong buổi chào cờ thứ 2 hàng tuần, có tuyên dương khen thưởng những lớp,
những cá nhân tích cực đọc sách ở thư viện để kích cầu phong trào đọc. Tạo điều kiện
về cơ sở vật chất, sắp xếp phòng đọc phù hợp để duy trì tiết đọc thư viện của các lớp
đạt hiệu quả, qua các tiết đọc, mỗi tuần lớp trực tuần bình xét những cá nhân tiêu biểu
của các lớp lên thi đọc, kể chuyện hoặc đọc thơ, đóng kịch... trong tiết chào cờ, như
vậy các em sẽ hang hái thi đua để được giao lưu, được thể hiện trước đông người, giúp
các em tự tin hơn, mạnh dạn hơn.

16


Các em học sinh lớp 1A. 1B thi đọc trong buổi chào cờ.

17


Góc thi vẽ trong ngày Hội đọc

Phần thuyết trình tranh của các nhóm trong ngày Hội đọc sách

Em: Ôn Văn Huy lớp 1A đạt giải Nhất phần thi đọc của khối 1 trong ngày Hội đọc sách.

18



Cô giáo Lê Thị Kim Liên- PHT nhà trường trao thưởng
cho các em đạt giải trong các phần thi

Cô giáo Nguyễn Thị Lý- HT nhà trường và ông Lâm Văn Trung – Phó Ban đại diện
CMHS trao thưởng cho các đội đạt giải Nhất, Nhì, Ba trong Ngày hội đọc.

- Đối với giáo viên: Giáo viên phải khai thác tốt việc “Tăng cường tiếng
Việt cho học sinh” các khối lớp, trú trọng lớp 1 vì ngay từ lớp 1 các em có kỹ
năng sử dụng Tiếng Việt tốt thì sẽ học tốt ở các lớp trên. Giáo viên rèn luyện
giao tiếp cho trẻ mọi lúc, mọi nơi. Việc soạn giảng tiếng Việt cần có mục tiêu,
nội dung, hoạt động cần ghi rõ các phương pháp, hình thức dạy học. Dạy tiếng
Việt lớp 1 theo hướng dạy đâu chắc đó, nội dung bài dạy trong 2 tiết buổi sáng
không đủ thời lượng thì hoàn thành tiếp ở 2 tiết buổi chiều để đảm bảo đạt được
mục tiêu bài dạy.
7.3.2.Chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học
19


- Định hướng đổi mới phương pháp dạy học :
+ Hướng hoạt động dạy học của thày và trò vào việc đáp ứng mục đích,
nhu cầu, lợi ích của người học. Chỉ đạo tốt việc dạy học theo Chuẩn kiến thức và
kỹ năng, lựa chọn nội dung, phương pháp dạy học phù hợp với từng đối tượng
học sinh, phù hợp với địa phương, dạy học tới từng học sinh.
+ Tăng cường việc sử dụng các thiết bị, phương tiện dạy học.
+ Đa dạng hoá hình thức tổ chức dạy học, xã hội hoá các phương thức học tập.
Dạy học theo hướng phân hoá các đối tượng học sinh, bám sát đối tượng, phù
hợp và phát huy được tính tích cực của nhiều đối tượng học sinh trong cùng một
lớp học.

+ Đổi mới cách kiểm tra, đánh giá kết quả; tăng cường việc chấm, chữa
bài tay đôi giữa giáo viên và học sinh, chỉ ra những lỗi sai của học sinh để giúp
các em tự sửa những lỗi của mình; kịp thời động viên, khích lệ những cố gắng
của học sinh.
- Chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học :
+ Việc đổi mới phương pháp dạy học là vấn đề cốt lõi trong quá trình dạy
học, nó là nhân tố quyết định cơ bản, trực tiếp tới việc nâng cao chất lượng và
hiệu quả dạy học. Quản lý chỉ đạo việc đổi mới phương pháp dạy học được xem
như là một nhiệm vụ trung tâm yêu tiên trong chỉ đạo dạy học. Vì vậy, cần phải
thực hiện một cách nghiên túc, khoa học theo một quy trình chặt chẽ, sát thực,
phù hợp, khách quan.
- Các bước chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học.
* Bước 1 :
Bước chuẩn bị điều kiện cho việc chỉ đạo cải tiến phương pháp
* Bước 2 :
Chỉ đạo cải tiến phương pháp dạy học.
Đây là thực nghiệm, chỉ đạo điểm bước này cần tập trung vào :
+ Định hướng thống nhất về chuẩn đánh giá các tiết dạy theo tinh thần đổi mới.
+ Định hướng thống nhất về cách thiết kế bài giảng theo tinh thần đổi mới.
+ Chọn đối tượng thực hiện: Môn học, bài học, người dạy, lớp học.
+ Dự giờ, kiểm tra, đánh giá, xác định kết quả.
+ Sơ kết rút ra bài học kinh nghiệm bước đầu để mở rộng đại trà.
* Bước 3 :
Chỉ đạo đại trà
* Bước 4 :
Tổng kết đánh giá
7.3.3.Chỉ đạo bồi dưỡng những học sinh thành thạo tiếng Việt để làm
"trợ giảng" cho giáo viên trong giờ học.
Vào đầu năm học sinh mới bỡ ngỡ bước vào lớp 1 giáo viên nên “nhờ”
vài em có vốn tiếng Việt tương đối nhằm giúp giáo viên trong quá trình tổ chức

lớp học giống như những "phiên dịch". Sau đó, giáo viên bồi dưỡng, hướng dẫn
những em học sinh này giống như một "trợ giảng" đắc lực cho giáo viên nhằm
thực hiện phương pháp hỏi đáp trong quá trình dạy học. Phương pháp này rất
20


gần gũi và nhẹ nhàng giúp cho giáo viên và học sinh cảm thấy thoải mái, không
còn sự ngăn cách mà không tốn nhiều thời gian. Việc hỏi đáp (phỏng vấn) giữa
giáo viên và học sinh, giữa học sinh và học sinh... Đây là một hình thức tổ chức
dạy học không mới nhưng rất phù hợp với đối tượng học sinh dân tộc thiểu số
còn hạn chế về vốn tiếng Việt.
*Chỉ đạo sử dụng học sinh thành thạo tiếng Việt để trợ giảng cho giáo
viên phụ đạo học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức môn học ngoài giờ lên lớp.
Trong quá trình giảng dạy, giáo viên đã sát sao giúp đỡ học sinh mà các
em vẫn không đạt được kiến thức môn học, tôi trực tiếp kiểm tra phân loại đối
tượng, với những em học sinh này chỉ đạo giáo viên nên gần gũi động viên các
em nhiều hơn để khích lệ các em tự tin, đồng thời nhờ các em học sinh lớp 4,5,
các em trong đội Sao đỏ thường xuyên kèm cặp hướng dẫn các em học vào 15
phút đầu giờ, giờ sinh hoạt sao, hoặc giờ ra chơi, qua theo dõi tôi thấy được các
anh chị dạy, các em rất hứng thú học và nghe lời, mặt khác các anh chị được tập
làm cô giáo cũng rất nhiệt tình mà phong cách ngôn ngữ khi dạy các em cũng rất
mẫu mực. Lúc này các cô chỉ là người đứng nghe với tư cách dự giờ để rút kinh
nghiệm cho các em làm tốt hơn.
Hình thức này cũng nhằm khuyến khích mọi học sinh mạnh dạn và hình
thành kỹ năng đọc, viết, đặt câu hỏi, trả lời trước đám đông, giúp các em có
động lực tìm tòi, học hỏi để tự nâng cao vốn tiếng Việt của mình khi được thầy
cô tin tưởng giao nhiệm vụ. Những em học sinh lớp 1 cũng có động lực cố gắng
có được vốn tiếng Việt để đọc, viết, trả lời được những câu hỏi do các anh chị
đặt ra bằng tiếng Việt.


Em Ôn Thị Huyền lớp 5A hướng dẫn em Lê Hồng Nhung lớp 1B viết vần anh.

21


Nhóm các em học sinh lớp 5A kèm các em lớp 1 chưa đạt chuẩn kiến thức môn Tiếng Việt
trong 15 phút hoạt động đầu giờ các buổi học.

Em Ôn Thị Kim Xuyến lớp 5A hướng dẫn em Lý Thị Oanh lớp 1A đọc.

Qua thời gian thực hiện giải pháp này ở 2 lớp 1 của trường Tiểu học Phúc
Thuận III kết quả đem lại rất khả quan. Số học sinh chưa hoàn thành kiến thức
môn học được giảm đáng kể. Các tiết học rất nhẹ nhàng, các em rất hứng thú với
phương pháp dạy học này vì được tham gia vào các hoạt động. Các em học sinh
lớp 4,5 được hỗ trợ thầy cô kèm cặp các em lớp 1 các em cũng tự tin hơn, nhiều
em học sinh được bồi dưỡng đã trở thành những học sinh học giỏi, có kỹ năng
nghe và diễn đạt tiếng Việt rất tốt như em Bích, em Hân, em Diễm, em Huyền,
em Xuyến ở lớp 5A, em Nguyệt ở lớp 4B...
22


c. Tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp
Là một trường ở vùng dân tộc thiểu số điều kiện còn gặp nhiều khó khăn
nhưng tôi đặc biệt quan tâm đến việc tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp và
xem đây là điều kiện thuận lợi để các em có được những khoảng thời gian hoạt
động vui chơi tập thể giúp các em mạnh dạn, tự tin và có cơ hội để bồi dưỡng
tiếng Việt một cách hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng giáo dục vì học sinh của
trường chiếm trên 94% là học sinh dân tộc thiểu số, việc nâng cao chất lượng
giáo dục gặp rất nhiều khó khăn do phần lớn học sinh vốn tiếng Việt chưa đáp
ứng được yêu cầu nên việc tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp là một trong

những giải pháp hiệu quả để tăng cường tiếng Việt cho các em. Do đó, tôi đã có
kế hoạch cụ thể cho các đoàn thể, khối lớp thường xuyên tổ chức các hoạt động
ngoài giờ lên lớp.
Một số hoạt động nhằm tạo sân chơi lành mạnh giúp học sinh hứng thú để
học tập tốt hơn và tăng cường tiếng Việt mà trường tiểu học Phúc Thuận III tổ
chức hàng năm như:
- Sinh hoạt Đội- Sao Nhi đồng
Nhà trường đã tổ chức đưa các trò chơi dân gian vào chương trình sinh hoạt
Đội và sao Nhi đồng. Tổng phụ trách đội cùng với giáo viên chủ nhiệm các lớp
đã chọn lựa nhiều trò chơi liên quan đến việc hình thành và phát triển ngôn ngữ
tiếng Việt cho học sinh dân tộc. Trong tất cả các trò chơi đều bắt buộc học sinh
sử dụng ngôn ngữ tiếng phổ thông. Giáo viên thường phân ra từng nhóm và
phân một học sinh phụ trách. Đặc biệt nhà trường có tủ sách thiếu nhi rất phong
phú nên thường tổ chức cho học sinh đọc và xây dựng thư viện tạo điều kiện cho
các em mượn để đọc nhằm tăng cường tiếng Việt cho các em một cách hiệu quả.
Qua việc sinh hoạt với nhiều hình thức đa dạng, phong phú, tạo cho các em
một sân chơi bổ ích, các em được tham gia rất nhiều trò chơi hấp dẫn nên đã lôi
cuốn được các em, giúp các em thêm ham muốn được đến trường và tạo điều
kiện để bổ sung thêm vốn tiếng Việt cho mình.
- Giao lưu tiếng Việt giữa các khối lớp.

23


Chương trình "Giao lưu tiếng việt của chúng em" là hoạt động với ý nghĩa
nhằm khơi dậy ở các em học sinh dân tộc lòng ham thích tiếng việt, yêu quý trân
trọng bản sắc văn hóa dân tộc, tạo không khí vui tươi "Học mà chơi, chơi mà
học" góp phần xây dựng các tiêu chí trường học thân thiện, đồng thời phát hiện
năng khiếu, khả năng nghe, nói, đọc, viết, khả năng diễn thuyết của học sinh dân
tộc thiểu số cấp tiểu học. Qua hoạt động giao lưu tiếng Việt giúp các em học sinh

dân tộc thiểu số hình thành kĩ năng sử dụng tiếng Việt và tình yêu tiếng Việt.
Nhà trường đã tổ chức giao lưu giữa các lớp trong khối, giữa các khối với
nhau và xây dựng nhiều hình thức gồm nhiều hoạt động liên quan đến việc sử
dụng tiếng Việt dựa trên hướng dẫn của phòng Giáo dục- Đào tạo như kể
chuyện, hát dân ca, diễn kịch, đọc thơ...trong các buổi sinh hoạt tập thể đầu tuần.
Qua quá trình chuẩn bị và luyện tập, các em được hướng dẫn một cách bài bản
để có được những kỹ năng sử dụng tiếng Việt. Chương trình này, các em có
nhiều cơ hội giao lưu, tiếp xúc và bổ sung vốn tiếng Việt giúp cho các em rất
nhiều trong học tập.

Em: Đỗ Đăng Khôi lớp 1B kể chuyện trong buổi chào cờ đầu tuần.

24


Em Lục Thị Bích lớp 5A đọc thơ trong buổi mít tinh chào mừng ngày Quốc tế Phụ nữ.

7.3.4.Tăng cường tích hợp dạy Tiếng Việt trong các môn học và các hoạt
động giáo dục. Kế thừa các biện pháp chỉ đạo dạy tăng cường tiếng Việt cho học
sinh lớp 1 từ những năm học trước đạt hiệu quả trong năm học này tôi tiếp tục
chỉ đạo vận dụng các phương pháp dạy học Tiếng Việt với tư cách dạy học ngôn
ngữ thứ hai; tăng thời gian luyện nói cho học sinh trong tất cả các môn học cũng
như các hoạt động giáo dục.
7.4. Về khả năng áp dụng của sáng kiến:
Những giải pháp mà tôi đưa ở trên đã được áp dụng và thực hiện có hiệu quả
tại đơn vị (có thể các đơn vị khác và các bạn đồng nghiệp đã thực hiện một trong
những giải pháp này) để cùng đồng nghiệp chia sẻ. Tôi thiết nghĩ, nếu những
trường có nhiều học sinh dân tộc thiểu số mà thực trạng giống như trường tiểu học
Phúc Thuận III cũng đưa những giải pháp này và áp dụng một cách khoa học, phù
hợp tại đơn vị chắc chắn chất lượng giáo dục học sinh dân tộc thiểu số sẽ được

nâng lên.
8. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
8.1. Đối với giáo viên.
Để tăng cường tiếng Việt lớp 1 cho học sinh dân tộc thiểu số đạt kết quả tốt,
việc lựa chọn giáo viên dạy lớp 1 hết sức quan trọng: Giáo viên phải có năng lực,
phải tự học tự rèn, phát âm chuẩn, nhiệt tình, phải có đức tính kiên trì, cẩn thận.
25


×