Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

Tài liệu Đề tài “Hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam - Thực trạng và giải pháp phát triển” docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (244.88 KB, 52 trang )


LUẬN VĂN
“Hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài tại Việt nam - Thực trạng
và giải pháp phát triển”
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1 3
TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM - QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN.3
Ι.KHÁI NIỆM VỀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI 3
1.Khái niệm đầu tư nước ngoài nói chung 3
2. Khái niệm về FDI theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 5
3. Vai trò của đầu tư nước ngoài đối với việc phát triển kinh tế quốc dân 6
Π.QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM 7
1.Sự ra đời của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam 7
2.Các loại hình đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam 8
3.Sơ lược tình hình đầu tư nước ngoài tại Việt nam kể từ khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài cho đến nay 10
Ш.ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM 13
1. Thành tựu đạt được trong những năm qua 13
3. Môi trường đầu tư của các dự án FDI 1
CHƯƠNG II 4
THỰC TRẠNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP 4
NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM THỜI GIAN QUA 4
Ι.TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM 4
1. Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình thu hút đầu tư nước ngoài thời gian qua 4
2. Sự cần thiết phải tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài hiện nay 6
II- QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CÁC CHÍNH SÁCH THU HÚT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI 7
1.Các chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của Chính phủ 7
2. Những đóng góp của các Bộ, Ngành và Tỉnh, Thành trong việc thu hút đầu tư nước ngoài 10
3. Phần đóng góp của các doanh nghiệp 13
III. ĐÁNH GIÁ NHỮNG ƯU VÀ NHƯỢC ĐIỂM TRONG QUÁ TRÌNH THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP


NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM 14
1. Ưu điểm 14
2. Nhược điểm 15
IV- MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM 18
1. Nguyên nhân thất bại của các dự án 19
2. Quá trình vận động và thu hút vốn FDI 20
3. Thẩm định và cấp giấy phép 20
4. Công tác quản lý các dự án đã được cấp giấy phép 21
CHƯƠNG III 23
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THU HÚT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM 23
I- TRIỂN VỌNG THU HÚT ĐẦU TƯ TẠI VIỆT NAM 23
1. Thuận lợi: 23
2. Khó khăn: 24
II- NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM THU HÚT CÓ HIỆU QUẢ VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI VÀO VIỆT NAM. 26
1. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách về FDI 26
2. Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với hoạt động FDI 29
3. Cải tiến các thủ tục hành chính 30
4. Đẩy mạnh công tác vận động, xúc tiến đầu tư 30
5. Xây dựng một đội ngũ cán bộ có năng lực, công nhân kỹ thuật có trình độ cao trong khu vực FDI 32
KẾT LUẬN 34
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1
LỜI MỞ ĐẦU
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Invesment - FDI) là một hình thức
của đầu tư quốc tế. Nó ra đời và phát triển là kết quả tất yếu của quá trình quốc
tế hoá đời sống kinh tế và quá trình phân công lao động quốc tế theo chiều sâu.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã được xem như chiếc chìa khóa của sự tăng
trưởng kinh tế của mỗi quốc gia. Thông qua đó cho phép các nước sở tại thu hút
được các công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến nhằm khai thác lợi
thế so sánh của đất nước mình, thúc đẩy xuất khẩu, tăng năng lực cạnh tranh,

điều chỉnh và dịch chuyển cơ cấu kinh tế phù hợp với biến đổi thị trường khu
vực và thế giới.
Chiến lược mở cửa để dần đưa nền kinh tế nước ta hội nhập với nền kinh tế khu
vực và thế giới đã được Đảng và Nhà nước ta chủ chương thực hiện cách đây
hơn 10 năm. Một trong nhiều nội dung quan trọng của chiến lược này là chủ
chương thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ nhằm mục tiêu giải quyết nạn
khan hiếm về vốn cho đầu tư phát triển xã hội mà còn nhằm tạo thêm nhiều công
ăn việc làm cho người lao động, cung cấp cho nền kinh tế nước nhà những máy
móc, quy trình công nghệ tiên tiến, sản xuất nhiều mặt hàng có chất lượng và
hàm lượng kỹ thuật cao, góp phần thúc đẩy phát triển nội sinh nền kinh tế đất
nước, tạo nên sức mạnh tổng hợp phục vụ sự nghiệp cộng nghiệp hoá - hiện đại
hoá đất nước.
Sau khi Luật đầu tư nước ngoài được ban hành cùng với việc áp dụng hàng loạt
các chính sách khuyến khích đầu tư của Chính phủ cho một nền kinh tế mở cửa,
38 quốc gia và hàng trăm các tập đoàn, Công ty nước ngoài đã đầu tư và đang
tìm kiếm cơ hội đầu tư vào Việt nam, một thị trường mà các chuyên gia nước
ngoài đánh giá là còn nhiều tiềm năng để khai thác.
Để xây dựng Việt nam trở thàng một trong những điểm hấp dẫn các nhà đầu tư
trong khu vực, cần phải nhận thức rõ thực trạng đầu tư nước ngoài tại Việt nam,
từ đó đưa ra những giải pháp hữu hiệu, khoa học nhằm nâng cao hiệu quả của
đầu tư nước ngoài để từ đó tìm ra các giải pháp nhằm thúc đẩy việc thu hút đầu
tư nước ngoài phù hợp với thực tiễn. Đó là lý do thôi thúc tôi lựa chọn đề tài:
“Hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam - Thực trạng và giải
pháp phát triển”.
Kết cấu khoá luận:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục, Khoá
luận gồm 3 chương:
Chương I: Tổng quan về Đầu tư nước ngoài ở Việt nam.
Chương II: Tình hình thu hút đầu tư nước ngoài ở Việt nam.

Chương III: Những giải pháp chủ yếu nhằm thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt
nam.
Do thời gian và kiến thức có hạn, nên không tránh khỏi những sai sót, hạn chế, vì
vậy tôi rất mong được sự góp ý chân thành của các thầy cô giáo và các bạn để
khoá luận này hoàn thiện hơn.
Ngoài ra, tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của Cô giáo Nguyễn
Hoàng Ánh đã trực tiếp hướng dẫn tôi viết bản khoá luận này.
Hà nội, ngày 30 tháng 05 năm 2003
Sinh viên
Nguyễn Thị Hồng Hoa
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM - QUÁ TRÌNH
HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Ι.KHÁI NIỆM VỀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
1.Khái niệm đầu tư nước ngoài nói chung
Khái niệm “đầu tư nước ngoài” lần đầu tiên được đề cập đến trong các giáo trình
tư pháp và kinh tế quốc tế, trước tiên là ở Pháp năm 1955, sau đó được sử dụng
trong các cuộc hội thảo bàn về hợp tác kinh tế thế giới và chính thức đi vào các
hiệp định, các bộ luật về đầu tư. Tuy nhiên do những đặc điểm riêng phức tạp và
do sự vận động phong phú của thực tiễn mà khái niệm này không ngừng được bổ
sung, chỉnh lý cho sát với thực tế hơn.
Cùng với quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá đời sống kinh tế, đến nay đầu tư
trực tiếp nước ngoài không còn là vấn đề mới mẻ trên thế giới. Khái niệm về FDI
đều được ghi nhận trong luật đầu tư của các nước. Mặc dù không hoàn toàn
giống nhau bởi có sự khác biệt về việc sử dụng câu từ hay ngữ pháp, song về mặt
bản chất thì khái niệm FDI ở luật của các nước là như nhau do chúng đều xuất
phát từ khái niệm đầu tư quốc tế.
Tại Hội thảo của Đại hội Hiệp hội Pháp luật quốc tế Henxky 1966, người ta đã
cố gắng đưa ra một khái niệm chung nhất về đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm
phân biệt với các khoản kinh tế khác nhận được từ bên ngoài. Theo đó, “Đầu tư

nước ngoài là vận động tư bản từ nước người đầu tư sang nước người sử dụng
đầu tư mà không có hạch toán nhanh chóng”. Sau đó, qua thảo luận Hiệp hội đã
đưa ra một khái niệm dưới dạng tổng quát như sau: “Đầu tư nước ngoài là sự vận
động tư bản từ nước người đầu tư sang nước người sử dụng đầu tư với mục đích
thành lập ở đây một xí nghiệp sản xuất hay dịch vụ nào đó”. Với khái niệm này,
việc đầu tư vào một nước nhất thiết phải gắn liền với việc thành lập một xí
nghiệp hay một cơ sở sản xuất, dịch vụ tại nước nhận đầu tư, do đó đã loại trừ
một số hình thức đầu tư khác không thành lập ra xí nghiệp hay cơ sở sản xuất
(như cho vay tiền của ngân hàng, tài trợ cho chương trình hay cho dự án…). Đây
chính là điểm hạn chế của khái niệm này so với yêu cầu hợp tác kinh tế trong
thời đại hiện nay.
Khái niệm về đầu tư nước ngoài được các nước hiểu và vận dụng khác nhau. Tại
các nước tư bản phát triển, đầu tư nước ngoài là việc giao vật có giá trị kinh tế
của nước này sang nước khác nhằm thu đuợc lợi nhuận, bao gồm cả quyền cầm
cố và quyền thu hoa lợi, quyền tham gia các hội cổ phần,quyền đối với nhãn hiệu
thương phẩm và tên xí nghiệp. Như vậy, quan niệm về đầu tư nước ngoài ở đây
rất rộng rãi, chỉ là quá trình chuyển tiền vốn từ nước này sang nước khác với
mục đích thu lợi nhuận, theo nguyên tắc lợi nhuận thu được phải cao hơn lợi
nhuận thu được trong nước và cao hơn lãi suất gửi ngân hàng, nếu kinh tế của
các nước tư bản phát triển là tương đối ổn định, thị trường đã được khai thác tối
đa và có hiện tượng tương đối thừa tư bản, do đó việc đầu tư ra nước ngoài là
cực kỳ cần thiết để lợi dụng nhân công rẻ, nguồn nguyên liệu dồi dào và chiếm
lĩnh thị trường xuất nhập khẩu. Do đó quan niệm rộng rãi về đầu tư nước ngoài
tồn tại như một tất yếu.
Các nước đang phát triển lại sử dụng khái niệm đầu tư nước ngoài với nội dung
là đầu tư trực tiếp như việc đưa bất động sản, vốn, thiết bị vào xây dựng, mở
rộng sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Như vậy, đầu tư nước ngoài tại các nước
đang phát triển chỉ được công nhận dưới hình thức đầu tư trực tiếp, loại trừ hình
thức đầu tư gián tiếp. Bởi vì đầu tư trực tiếp đem lại nguồn vốn, kỹ thuật hiện đại
thay thế cho kỹ thuật lạc hậu hiện có, tạo công ăn việc làm cho lực lượng lao

động, nâng cao mức sống, tăng tích luỹ thu nhập quốc dân. Còn đầu tư gián tiếp
cũng đưa vốn vào, nhưng không có kế hoạch sử dụng vốn, cùng với khả năng
quản lý non kém và trình độ sản xuất kinh doanh lạc hậu của các nước đang phát
triển đã không đủ khả năng sử dụng vốn vay có hiệu quả, dẫn đến tình trạng
không trả được nợ. Với lý do đó, việc tăng cường sử dụng hình thức đầu tư trực
tiếp là phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của các nước đang phát triển. Chính
sách này đã và đang là hình thức phổ biến trong chính sách “mở cửa nền kinh
tế” của nhiều nước, đặc biệt là các nước trong khu vực Châu Á - Thái Bình
Dương, trong đó có Việt Nam.
Định nghĩa về đầu tư nước ngoài theo Hội thảo Henxinki như trên là quá ngắn
gọn nên không nêu được bản chất của đầu tư nước ngoài, tuy nhiên đã có một
khuynh hướng đúng đắn cho rằng không nên coi bất kỳ tiền, vốn nào đưa ra
nước ngoài đều là đầu tư (ví dụ như hình thức tín dụng quốc tế, viện trợ quốc tế
…)
Chuyên gia luật quốc tế Iumarxep (trong cuốn sự điều chỉnh pháp luật của đầu tư
trực tiếp nước ngoài tại EC-Matxcơva, 1988) cho rằng, đầu tư nước ngoài khác
với những hành vi đầu tư thông thường (như đầu tư chứng khoán), nhằm mục
đích thu lợi nhuận hoặc tăng thu nhập dưới các hình thức hoa hồng, hoa lợi…
Định nghĩa về đầu tư nước ngoài còn gặp ở nhiều văn kiện pháp luật về đầu tư
hoặc các Hiệp định quốc tế về bảo hộ và thúc đẩy đầu tư. Chính sự định nghĩa
này đã tạo ra cơ sở pháp lý cho các nhà đầu tư nước ngoài trong hoạt động của
mình. Tuy nhiên, sự phức tạp của quan hệ đầu tư và do vấn đề ngữ pháp hoặc
cách sử dụng từ mà thuật ngữ “đầu tư nước ngoài” trong các văn kiện pháp luật
của mỗi nước có khác nhau.
Ví dụ : Luật về đầu tư nước ngoài của Liên bang Nga ngày 4/7/1991 quy định :
Đầu tư nước ngoài là tất cả những hình thức giá trị tài sản hay giá trị tinh thần
của nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các đối tượng của hoạt động kinh doanh và
các hoạt động khác với mục đích thu lợi nhuận. Định nghĩa tương đối đầy đủ,
vạch rõ bản chất của vấn đề đầu tư là lợi nhuận, tuy nhiên nếu đầu tư nước ngoài
được xem xét chỉ là “tài sản” được sử dụng với mục đích đem lại lợi nhuận thì

khái niệm này bị giới hạn. Trong Luật của Ucraina về đầu tư nước ngoài ngày
13/3/1992, thuật ngữ “đầu tư nước ngoài” được đề cập đến với phạm vi rộng hơn
: “Đầu tư nước ngoài là tất cả các hình thức giá trị do nhà đầu tư nước ngoài đầu
tư vào các đối tượng của hoạt động kinh doanh và các hoạt động khác với mục
đích thu lợi nhuận hoặc các hiệu quả xã hội”. Chính hình thức “hiệu quả xã hội”
đã mở rộng phạm vi hoạt động của luật đầu tư đối với các kiểu, các hình thức
khác của luật đầu tư nước ngoài.
Như vậy dù nhìn dưới góc độ nào thì FDI cũng đều là hoạt động kinh doanh dựa
trên cơ sở di chuyển tư bản giữa các quốc gia, chủ yếu do các pháp nhân và thể
nhân thực hiện, theo những hình thức nhất định, trong đó chủ đầu tư FDI tham
gia trực tiếp vào quá trình đầu tư.
2. Khái niệm về FDI theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành lần đầu vào ngày
26/12/1987, sửa đổi vào năm 1990,1992; sau đó được thay bằng "Luật Đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam " ban hành ngày 12/11/1996, đã được các nhà đầu tư
thế giới và khu vực đánh giá là một luật hấp dẫn, thông thoáng trong khu vực.
Ngày 9/6/2000 Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam lại được sửa đổi, bổ sung
lần thứ 4 "để mở rộng hợp tác kinh tế với nước ngoài, phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế quốc dân trên cơ sở khai thác và sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực của đất nước."
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1996 quy định rõ: " Đầu tư nước ngoài là
việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kì tài sản
nào để tiến hành đầu tư theo qui định của luật này".
Như vậy theo luật đầu tư khái niệm đầu tư nước ngoài được hiểu như sau:
- Là hình thức đầu tư trực tiếp.
- Là việc bên ngoài trực tiếp đưa vốn và tài sản khác vào đầu tư tại Việt Nam.
Chủ đầu tư nước ngoài có thể là 1 tổ chức nhà nước, tổ chức tư nhân hay 1 tổ
chức quốc tế hoặc tự nhiên nhân nước ngoài.
Vốn đầu tư ở đây không chỉ bao gồm tư bản mà còn bao gồm cả các bí quyết kỹ
thuật, quy trình công nghệ, dịch vụ kỹ thuật (Điều 7 Luật Đầu tư nước ngoài tại

Việt Nam năm 1996). Quy định này là nhằm mục đích tranh thủ được vốn kỹ
thuật hiện đại, kinh nghiệm và phương pháp quản lý tiên tiến, đào tạo đội ngũ
quản lý và công nhân có trình độ cao, góp phần nâng cao đời sống kinh tế, đưa
Việt Nam hoà nhập với khu vực và thế giới. Việc sử dụng vốn đầu tư nước ngoài
vào một quốc gia thường dẫn đến việc thành lập ở nước tiếp nhận đầu tư một cơ
sở sản xuất. Nhưng theo luật Việt Nam thì hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài
không nhất thiết phải như vậy mà có thể tồn tại trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh
doanh.
Như vậy, khái niệm đầutư nước ngoài đã trải qua một quá trình phát triển biện
chứng hết sức chặt chẽ. Từ quy định đầu tư nước ngoài là việc đưa vốn và tài sản
nhất định vào Việt Nam đến quy định về đối tượng được đầu tư và quy định về
hình thức đầu tư, thể hiện chủ trương của Nhà nước Việt Nam là mở rộng và thu
hút vốn đầu tư của nhiều nước trên thế giới, làm đòn bẩy mạnh mẽ để đưa nước
ta phát triển ngang tầm với sự phát triển chung của toàn thế giơí.
3. Vai trò của đầu tư nước ngoài đối với việc phát triển kinh tế quốc dân
Xuất phát từ những nhu cầu về vốn, về khoa học kỹ thuật và công nghệ của nước
ta còn thiếu chưa đủ sức khai thác những tiềm năng về tài nguyên và sức lao
động của mình. Do vậy Nhà nước chủ trương mở cửa cho nước ngoài đầu tư vào
Việt Nam. Hiện nay vẫn còn nhiều cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau về đầu
tư nước ngoài ở nước ta trong gần 15 năm qua, nhưng có một thực tế không thể
phủ nhận đó là ảnh hưởng tích cực của đầu tư nước ngoài đối với nền kinh tế
nước ta ngày càng rõ nét.
3.1. Góp phần tăng ngân sách xã hội
Đầu tư nước ngoài bước đầu đã góp phần đáng kể trong đầu tư vốn của toàn xã
hội, trong tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đóng góp vào ngân sách,
kim ngạch xuất khẩu và giải quyết việc làm. Nhiều công trình quan trọng đã đi
vào hoạt động, nhiều công nghệ khá hiện đại đang được chuyển giao, đã tạo ra
năng lực mới cho nền kinh tế. Cho tới nay các công ty nước ngoài đã tham gia
đầu tư vào nhiều ngành công nghiệp quan trọng của Việt Nam như dầu khí, xi
măng, sắt thép, điện tử

3.2. Góp phần nâng cao năng lực các ngành công nghiệp
Cùng với việc nâng cao năng lực sản xuất của các ngành công nghiệp, hoạt động
đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần hình thành một số ngành công nghiệp
mới có ý nghĩa quan trọng trong nền kinh tế quốc dân như: Công nghiệp dầu khí,
công nghiệp sản xuất - lắp ráp ô tô, xe máy Nhiều dự án đầu tư nước ngoài đã
tạo ra các sản phẩm xuất khẩu mới góp phần nâng cao kim ngạch xuất khẩu cho
Việt Nam. Trong năm 2000, xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài khoảng 3.300 triệu USD so với kim ngạch xuất khẩu là 7 tỷ USD (chiếm
45%). Về nghĩa vụ tài chính các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đóng
góp vào ngân sách Nhà nước 300 triệu USD (chưa kể liên doanh dầu khí Việt Xô
Petro).
3.3. Hội nhập quốc tế
Bằng việc hợp tác với nước ngoài, Việt Nam đã tiếp nhận được một số kỹ thuật,
công nghệ tiên tiến trong một số ngành kinh tế như thông tin viễn thông, sản xuất
- lắp ráp ô tô, xe máy, hoá chất (dầu nhờn, sơn ). Ngoài ra Việt Nam cũng đã
tiếp nhận được một số phương pháp quản lý tiến bộ và một số kinh nghiệm về tổ
chức kinh doanh, sản xuất.
3.4. Giải quyết công ăn việc làm
Quá trình đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nền kinh tế cũng đã góp phần quan
trọng trong việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Đến giữa năm
1998, khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần tạo ra việc làm cho
khoảng 350.000 lao động là người Việt Nam. Trong số đó các doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài, thu hút 95.000 lao động, doanh nghiệp liên doanh với
thành phần kinh tế Nhà nước thu hút gần 165.000 người; doanh nghiệp liên
doanh với thành phần kinh tế tư nhân thu hút gần 16.000 người; doanh nghiệp
liên doanh với thành phần kinh tế hỗn hợp 15.000 người, các đơn vị hợp tác kinh
doanh gần 6.500 người. Bên cạnh đó khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
còn tạo ra việc làm gián tiếp cho hàng trăm nghìn người làm nghề xây dựng cơ
bản và dịch vụ
Trong những năm tới, cụ thể là từ nay đến năm 2003, để thực hiện mục tiêu công

nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đòi hỏi tăng trưởng kinh tế 9% - 10% mỗi
năm, chúng ta cần khoảng 42 tỷ USD. Trong đó dự kiến phải tranh thủ khoảng
15 - 17 tỷ USD vốn FDI. Cũng theo ước tính sơ bộ với mục tiêu duy trì tốc độ
tăng trưởng kinh tế cao, góp phần chống "nguy cơ tụt hậu", thì trong 10 năm đầu
của thế kỷ 21 đòi hỏi phải có nguồn vốn đầu tư không dưới 300 tỷ USD. Dự kiến
những lĩnh vực chủ chốt có thể thu hút được nhiều vốn FDI là: Tìm kiếm, thăm
dò, khai thác dầu khí; xây dựng nhà máy lọc dầu; sản xuất xi măng; luyện cán
thép; điện tử, ô tô, xe máy, công nghiệp hàng tiêu dùng, công nghiệp thực phẩm
hạ tầng cơ sở, nông-lâm-ngư nghiệp
Những phân tích trên cho thấy, FDI không phải chỉ cần thiết đối với nền kinh tế
trong giai đoạn trước mắt, mà còn có vai trò quan trọng trong suốt quá trình công
nghiệp hoá đất nước. Vì vậy trong thời gian tới cần có những biện pháp, chính
sách để góp phần thu hút nhiều hơn và có hiệu quả hơn vốn FDI.
Π.QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN ĐẦU TƯ NƯỚC
NGOÀI TẠI VIỆT NAM
1.Sự ra đời của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam
1.1. Điều lệ Đầu tư 77
Năm 1977 các nhà lãnh đạo cao nhất của Việt nam cho ban hành Điều lệ Đầu tư
nước ngoài ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam kèm theo Nghị định số
115/CP ngày 19-4-1977 của Chính phủ, gọi tắt là “Điều lệ đầu tư 77”
Tuy là văn bản pháp lý đầu tiên của Việt nam quy định về đầu tư nước ngoài
nhưng mối quan tâm về Điều lệ đầu tư 77 đã biến mất vào năm 1978, khi xảy ra
sự kiện Campuchia và tiếp theo là chiến tranh biên giới phía Bắc. Do sức ép từ
các thế lực thù địch, cánh cửa hợp tác kinh tế với hầu hết các nước tư bản phát
triển bị khép lại cùng với sự cắt đứt những khoản viện trợ phát triển chính thức
(ODA). Điều lệ đầu tư 77 trở thành một văn bản pháp lý không có đối tượng
điều chỉnh và không còn ý nghĩa nào khác ngoài việc là một tài liệu lưu trữ.
Dĩ nhiên Điều lệ đầu tư 77, do ra đời trong một điều kiện thiếu một hệ thống
quan điểm rõ ràng về đường lối tổng thể phát triển kinh tế, nên không tránh khỏi
những mặt hạn chế, kém hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Nhưng cho

dù đó là một văn bản pháp lý hoàn chỉnh hơn thì cũng khó có thể đi vào cuộc
sống, bởi vì đối với bất kỳ một quốc gia nào yếu tố quan trọng hàng đầu quyết
định khả năng thu hút đầu tư nước ngoài là tình hình chính trị đối ngoài và sự ổn
định an ninh chính trị trong nước. Các nhà đầu tư không thể mang tiền của vào
một nước chiến tranh hoặc đang nằm trong tình trạng “nửa chiến tranh” lại bị cô
lập, cấm vận bởi hầu hết các nước tư bản phát triển.
Cuối thập kỷ 70 xuất hiện một làn sóng mới khuyến khích đầu tư từ các nước tư
bản phát triển vào các nước xã hội chủ nghĩa trong sự cộng hưởng với nhu cầu
đổi mới và tổ chức lại các xí nghiệp quốc doanh xã hội chủ nghĩa bắt đầu bằng
việc CHND Trung Hoa ban hành Luật đầu tư nước ngoài ngày 08-07-1979,
CHND Mông Cổ và CHND Bungari 1980, Cuba 1982, CHDCND Triều Tiên
1984, Tiệp Khắc 1985, Liên Xô 1987 …
Tại Việt nam sau những năm tìm tòi và thử nghiệm, Đại hội VI Đảng Cộng sản
Việt nam đã đề ra đường lối đổi mới kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ
chế thị trường có định hướng XHCN. Chính sách đầu tư nước ngoài chính vì vậy
cũng buộc phải thay đổi nhằm “ra sức tranh thủ vốn, công nghệ và thị trường bên
ngoài, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại giành vị trí ngày càng có
ý nghĩa trong phân công lao động quốc tế”.
1.2. Luật Đầu tư nước ngoài 1987
Trong khung cảnh trong và ngoài nước như vậy, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt
nam đã được Quốc hội thông qua ngày 29.12.1987. Qua thực tiễn áp dụng, để
phù hợp với tình hình kinh tế xã hội của đất nước, tăng cường tính cạnh tranh
của các điều kiện khuyến khích đầu tư của nước ta so với nước khác trong khu
vực, để phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế và quyền lợi của các nhà đầu
tư nước ngoài, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi bổ sung Luật đầu tư nước
ngoài ngày 30-06-1990, Luật sửa đổi bổ sung Luật đầu tư nước ngoài ngày 23-
12-1992.
Mặc dù vậy, Luật Đầu tư nước ngoài 1987 với hai lần sửa đổi, bổ sung vẫn tồn
tại những hạn chế nhất định trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Do vậy Luật Đầu

tư nước ngoài 1996 đã được Quốc hội thông qua với mục tiêu hoàn thiện hành
lang pháp lý và cải thiện môi trường đầu tư để thu hút vốn đầu tư trực tiếp của
nước ngoài với số lượng và chất lượng cao hơn, góp phần chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, đẩy mạnh xuất khẩu, đổi mới công nghệ, gia tăng năng lực sản xuất, sử
dụng hiệu quả các nguồn lực, góp phần thực hiện chiến lược phát triển kinh tế-xã
hội của đất nước, tăng cường sự hoà nhập kinh tế của nước ta với các nước trong
khu vực và trên thế giới.
1.3. Luật Đầu tư nước ngoài 1996
Luật đầu tư nước ngoài 1996 đã đóng góp vai trò quan trọng trong việc cải thiện
môi trường đầu tư nói chung và môi trường pháp luật đầu tư nói riêng. Với
những quy định cần tiếp tục chi tiết hoá, Luật đã thực sự hưởng ứng và thể chế
hoá đường lối, chủ trương của Đại hội đại biểu toàn quốc VII, khẳng định nhất
quán chính sách đổi mới liên tục và toàn diện tư duy kinh tế, góp phần cải thiện
bộ mặt đất nước, cải thiện đời sống xã hội nói chung.
2.Các loại hình đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam.
Có 6 hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài:
Hợp đồng hợp tác kinh doanh:
Là văn bản ký kết giữa hai bên hoặc nhiều bên (gọi tắt là các bên hợp doanh) để
cùng nhau tiến hành một hoặc nhiều hợp đồng kinh doanh ở Việt Nam trên cơ sở
quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên mà không
thành lập pháp nhân mới.
Xí nghiệp liên doanh:
Xí nghiệp liên doanh là xí nghiệp được thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp
đồng kinh doanh giữa bên hoặc các bên Việt Nam với bên hoặc các bên nước
ngoài, hoặc trên cơ sở Hiệp định giữa Chính phủ Việt Nam với Chính phủ nước
ngoài, nhằm hoạt động kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam.
Xí nghiệp 100% vốn nước ngoài:
Xí nghiệp 100% vốn nước ngoài là xí nghiệp hoàn toàn thuộc sở hữu của các tổ
chức kinh tế, cá nhân nước ngoài, do họ thành lập tại Việt Nam, tự quản lý và
chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh.

Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (B.O.T.):
Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT) là văn bản ký kết giữa
chủ đầu tư nước ngoài (cá nhân hoặc tổ chức nước ngoài) với cơ quan Nhà nước
Việt Nam có thẩm quyền để xây dựng các công trình hạ tầng, tiến hành khai thác
và kinh doanh trong một thời hạn nhất định và khi hết thời hạn thì chuyển giao
không bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước Việt Nam.
Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO):
Được thực hiện trên cơ sở hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh, là văn
bản được ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt nam và nhà đầu
tư nước ngoài để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong,
nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt nam, Chính
phủ Việt nam tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án khác để
thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý.
Hợp đồng đầu tư trong các khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao,
trong đó:
+ Khu chế xuất là khu công nghiệp tập trung các doanh nghiệp chế xuất chuyên
sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và
hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống; do
Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập.
+ Khu công nghệ cao là khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp kỹ thuật
cao và các đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao gồm nghiên
cứu- triển khai khoa học – công nghệ, đào tạo và các dịch vụ liên quan, có ranh
giới địa lý xác định; do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành
lập.
Các hình thức và phương thức trên đã được các nhà đầu tư nước ngoài chấp
nhận, vận dụng. Mỗi hình thức và phương thức đầu tư đều có mặt mạnh và mặt
hạn chế của nó, vì vậy Nhà nước Việt nam đang dần dần đa dạng các loại hình
đầu tư thông qua chính sách và pháp luật, nhằm đồng thời giải quyết nhiều vấn
đề của mục tiêu hợp tác như kết hợp lợi ích của bên đầu tư và bên nhận đầu tư,
kết hợp mục tiêu thu hút vốn và điều chỉnh cơ cấu FDI phù hợp với cơ cấu chung

của nền kinh tế và quy hoạch phát triển lực lượng sản xuất cả nước, từng ngành,
từng địa phương.
3.Sơ lược tình hình đầu tư nước ngoài tại Việt nam kể từ khi ban hành Luật
Đầu tư nước ngoài cho đến nay
Hoạt động FDI ngày càng được nhiều nước thừa nhận là một nhân tố quan trọng
đối với sự phát triển kinh tế đất nước. Ở Việt Nam, kể từ khi luật đầu tư nước
ngoài được ban hành và thực hiện, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài được
Đảng và Nhà nước ta khẳng định là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN, góp phần thúc đẩy sự phát triển các
nguồn lực trong nước.
3.1. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài đóng góp cho ngân sách Nhà nước
Cũng giống như nhiều quốc gia đang phát triển khác, để đạt được tốc độ tăng
trưởng cao và ổn định, Việt Nam cần phải có một khối lượng vốn rất lớn. Dẫu
rằng vốn trong nước là chính, có vai trò quyết định song khả năng huy động các
nguồn vốn này rất khó khăn. Bởi vì, nguồn vốn ngân sách còn hạn chế; nguồn
vốn đầu tư của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế cũng hạn chế do
nhiều doanh nghiệp đang bị thua lỗ, tích luỹ thấp và cũng đang trông đợi vào vốn
ngân sách cấp (doanh nghiệp quốc doanh) hoặc vốn đầu tư nước ngoài; nguồn
vốn nhàn rỗi của dân cư rất khó xác định vì tâm lý người dân còn thiếu tin tưởng
vào hệ thống tài chính ngân hàng, thiên về đầu tư tích trữ vàng, đôla, bất động
sản. Như vậy để huy động được lượng vốn cần thiết, Việt Nam cần phải chú
trọng thu hút các nguồn vốn nước ngoài.
Trong những năm vừa qua, các nguồn vốn nước ngoài ở Việt nam chủ yếu gồm:
FDI, ODA, tín dụng thương mại và các khoản vay nợ nước ngoài. Trong số đó,
nguồn FDI là quan trọng nhất, tạo ra một khu vực kinh tế có trình độ thiết bị kỹ
thuật công nghệ khá.
Tính đến năm 2002, Việt nam đã có 4500 dự án được cấp giấy phép với tổng
mức vốn đăng ký đạt trên 50 tỷ USD trừ các dự án giải thể trước thời hạn hoặc
đã hết hạn hoạt động, hiện còn 3669 dự án với tổng vốn đầu tư trên 39,2 tỷ USD,
vốn pháp định trên 18 tỷ USD. Số vốn đã đưa vào thực hiện là gần 21 tỷ USD

bao gồm các hình thức đầu tư BOT, hợp đồng hợp tác kinh doanh, 100% vốn
nước ngoài, liên doanh, chưa kể đến có nhiều hạn chế làm giảm vốn đầu tư nước
ngoài như cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong khu vực năm 1997-1998 và
sự kiện 11/9/2001.
3.2. Tiến trình thực hiện các dự án
Trong số đó gần 2000 dự án đang triển khai hoạt động kinh doanh, 980 dự án
đang trong thời kỳ xây dựng cơ bản và làm các thủ tục hành chính và gần 700 dự
án chưa triển khai do nhiều nguyên nhân, 33 dự án hết hạn với tổng số vốn đầu t-
ư 0,3 tỷ USD và 703 dự án giải thể với tổng số vốn khoảng 9 tỷ USD. Khoảng
một nửa tổng số vốn đầu tư được cấp trong giai đoạn 1996-2000 với 1648 dự án
được cấp phép có tổng số vốn đầu tư đạt 20,7 tỷ USD và trên 300 dự án tăng vốn
3,9 tỷ USD. Trong số các dự án đầu tư được cấp giấy phép, tính đến cuối năm
2002 đã thực hiện được khoảng 21 tỷ USD, chiếm 45% tổng số vốn của các dự
án.
BẢNG SỐ 1: ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI THEO HÌNH THỨC
ĐẦU TƯ TỪ 1988-2002
(Chỉ tính các dự án còn hiệu lực)
Đơn vị tính: đồng
Hình thức đầu tư Số
dự án
Tổng vốn
đầu tư
Vốn pháp
định
Vốn thực hiện
BOT 6 1.332.975.000 411.385.000 216.941.200
HĐ hợp tác Kinh
doanh
157 3.870.280.224 3.300.263.330 3.761.554.376
100% vốn nước

ngoài
2.417 14.202.336.482 6.298.792.863 6.725.903.405
Liên doanh 1.089 19.699.154.173 8.013.237.517 10.034.903.81
4
Tổng số 3669 39.104.745.879 18.023.678.71
0
20.739.302.79
5
(Trích dẫn: Thời báo Kinh tế Việt nam, số 17, ngày 29/1/2003)
Mặc dù Luật Đầu tư nước ngoài được ban hành năm 1988, nhưng phải đến năm
1991 đầu tư nước ngoài vào Việt nam mới bắt đầu thực sự ổn định và có chiều
hướng phát triển. Năm 1996, vốn đăng ký đầu tư đã tăng vọt với 2 dự án đầu tư
vào lĩnh vực phát triển đô thị ở Hà nội và Tp.HCM được phê duyệt với quy mô
lớn (hơn 3 tỷ USD/2 dự án). Thời kỳ đầu những năm 1991-1995 đầu tư nước
ngoài gia tăng cả về số dự án và vốn đầu tư, cho đến năm 1996 đạt mức kỷ lục là
8,6 tỷ USD về tổng số vốn đăng ký. Trong giai đoạn này tốc độ tăng trưởng bình
quân hàng năm vốn đầu tư nước ngoài đạt khoảng 50%/năm.
Đầu tư nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp vốn và công nghệ
vào Việt nam, đồng thời nó cũng có tác động trong việc chuyển đổi cơ cấu kinh
tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá và phát triển nền kinh tế.
Tuy nhiên sang năm 1997 – 2000, đầu tư nước ngoài đã bị chững lại và giảm sút
do ảnh hưởng của cạnh tranh quốc tế và khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực.
Trong giai đoạn này vốn đầu tư nước ngoài giảm trung bình 24%/năm trong khi
đó, đầu tư nước ngoài vào Việt nam chiếm tỷ trọng 7,2% trong GDP, cao hơn
nhiều nước trong khu vực như (Trung Quốc: 4,9%, Thái Lan: 2,4%, Malaysia:
5,2%, Indonesia: 2,2%, Philippines: 1,5% - số liệu của UNCTAD, Báo Đầu tư
Thế giới 1999). Tỷ lệ đầu tư nước ngoài đã giảm đáng kể từ mức vốn đầu tư
đăng ký khoảng 8,6 tỷ USD năm 1996 xuống còn 1,9 tỷ USD năm 2000. Ngoài
ra, trong giai đoạn này còn có một xu hướng khác rất đáng lo ngại đó là số dự án
và vốn đầu tư giải thể tăng cao hơn nhiều so với giai đoạn trước. Tổng số vốn

đầu tư giải thể giai đoạn 1997-2000 khoảng 5,26 tỷ USD so với 2,69 tỷ USD của
8 năm trước đó cộng lại.
Nhưng sang đến năm 2001-2002, trong bối cảnh dòng đầu tư nước ngoài trên thế
giới liên tục giảm thì ở Việt nam đã có nhiều dự án đầu tư nước ngoài tăng vốn
nhất từ trước tới nay với 305 dự án, số vốn đăng ký tăng thêm 918,7 triệu USD
mở ra một bước phát triển mới của Thế kỷ 21.
3.3. Đối tác đầu tư
Cũng theo chiều hướng phát triển đó, nhiều nhà đầu tư thuộc 60 nước và vùng
lãnh thổ đã tham gia mạnh vào thị trường đầu tư Việt nam. Trong tốp dẫn đầu
đầu tư nước ngoài vào Việt nam, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Hồng Kông
chiếm vị trí quan trọng, với 2033 dự án và 15.976 triệu USD vốn đăng ký, chiếm
55,4% về số dự án và 40,8% về vốn đăng ký của tất cả các dự án đầu tư nước
ngoài đang còn hiệu lực. Bên cạnh đó, đầu tư của các nước Châu Âu vào Việt
nam cũng dần phát triển mạnh như Pháp, Hà Lan, Anh hơn nữa phải kể đến Hoa
Kỳ, một đất nước có nhiều rào cản khi đến với thị trường đầu tư Việt nam cũng
có 153 dự án với 1.111 triệu USD vốn đăng ký, đứng ở vị trí thứ 13.
Trong vài năm gần đây một số nước đã bứt lên dẫn đầu về số dự án tăng thêm
như Đài Loan, Hàn Quốc, Hồng Kông và Nhật Bản với 426 dự án, 768 triệu
USD vốn đăng ký, chiếm 61,3% tổng số dự án và 55% tổng số vốn đăng ký cấp
phép. Trong khi đó Châu Âu chỉ ở mức 56 dự án, với tổng vốn đăng ký là 82,5
triệu USD. Mỹ với 32 dự án, tổng số vốn đăng ký là 139 triệu USD, tăng 23% về
số dự án và 17,7% về số vốn đăng ký. Nhiều Tập đoàn, công ty xuyên quốc gia
lớn, có năng lực về tài chính và công nghệ đã xuất hiện tại Việt nam khiến cho
nền kinh tế của Việt nam đã có những bước chuyển biến mạnh như GDP liên tục
tăng qua các năm đạt mức thấp nhất là 2% vào năm 1992 và cao nhất là 13,25%
vào năm 2000.
Như vậy đầu tư nước ngoài đã trở thành một yếu tố quan trọng với hầu hết các
quốc gia trên thế giới. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài này ngày càng
chứng minh được tính ưu việt của mình so với các nguồn vốn đầu tư nước ngoài
khác nên nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển, coi là chìa

khoá cho sự tăng trưởng.
Tại Việt Nam nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần giải quyết
được những vấn đề kinh tế xã hội, góp phần thúc đẩy phát triển triển các nguồn
lực trong nước, thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Tuy nhiên nói như vậy không có nghĩa là việc tiếp nhận FDI chỉ đồng nghĩa với
việc đón nhận những lợi ích mà rất có thể FDI lại là không tốt đối với việc phát
triển tổng thể kinh tế - xã hội. Do vậy, các nước cần có một chính sách thu hút và
sử dụng FDI hợp lý nhằm phát huy những mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của
nó.
Ш.ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
1. Thành tựu đạt được trong những năm qua
Sau hơn 10 năm hoạt động trên lãnh thổ Việt nam, các doanh nghiệp có vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài đã tạo ra 34% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp,
khoảng 23% kim ngạch xuất khẩu (chưa kể dầu khí) và đóng góp 12% GDP của
cả nước. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã thu hút trên 35 vạn lao
động trực tiếp và hàng chục vạn lao động gián tiếp làm việc trong các ngành xây
dựng, thương mại, dịch vụ liên quan, góp phần quan trọng vào chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, nâng cao trình độ công nghệ, trình độ quản lý và mở rộng thị trường.
Song nhìn chung kể từ khi doanh nghiệp đầu tư nước ngoài ra đời cho đến nay
đã có những đóng góp tích cực đối với nền kinh tế Việt nam thể hiện qua 5 yếu
tố sau:
2.1. Phát triển ngành nghề
Các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đã tạo ra nhiều ngành nghề mới, sản phẩm
mới góp phần làm tăng năng lực của một số ngành kinh tế. Cụ thể khu vực kinh
tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng khá cao trong một số ngành như:
100% sản lượng dầu thô, ôtô, xe máy, máy lạnh, điều hoà nhiệt độ; 50% điện tử
gia dụng; 70% sản lượng thép cán; 30% sản lượng xi măng; 32% giày dép xuất
khẩu; 20% sản lượng thực phẩm và đồ uống; 16% sản lượng may mặc; 14% sản
lượng ngành hoá chất của cả nước.
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài cũng đã tạo ra cho nền kinh tế nước ta

nhiều công nghệ mới, hiện đại mà biểu hiện cụ thể nhất là ở trong các lĩnh vực
viễn thông, dầu khí, hoá chất, điện tử, tin học, ôtô, xe máy… làm tiền đề cho sự
phát triển của một số ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước như công nghệ khai
thác dầu khí ngoài khơi, lắp đặt tổng đài kỹ thuật số, rôbốt, dây chuyền tự động
lắp ráp hàng điện tử, mạch điện tử; công nghệ chế tạo máy biến thế, cáp thông
tin, cáp điện… Đây là những yếu tố thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước
không ngừng đổi mới công nghệ, phương thức quản lý để nâng cao chất lượng
và sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.
2.2. Góp phần chuyển dịch kinh tế
Đầu tư nước ngoài đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hoá - hiện đại hoá. Với tỷ trọng khoảng 35% giá trị sản lượng công
nghiệp của cả nước, khu vực kinh tế này đã góp phần quan trọng trong việc nâng
giá trị sản xuất công nghiệp trong cả nước từ 11%/năm lên 13%/năm. Từ năm
1996 đến 2000, tốc độ tăng bình quân giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 22,5%/năm. Năm 1996, trong lĩnh vực công
nghiệp, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp 26,2% giá trị tổng
sản lượng; tỷ trọng này đã tăng lên 36%. Nếu không có sự tăng trưởng nhanh của
công nghiệp khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài thì tốc độ tăng trưởng của
toàn ngành công nghiệp Việt nam chỉ đạt 11,3% thay vì mức thực đã đạt 14,5%
năm 1996. Đóng góp của khu vực kinh tế có vốn đầu tư trong tổng sản phẩm
quốc nội (GDP) đã tăng từ 6,3% năm 1995 lên 7,4% năm 1996 lên 13,3% năm
2000.
2.3. Cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và thêm nguồn thu ngân sách.
Nếu trong giai đoạn 1991-1995, kim ngạch xuất khẩu của khu vực kinh tế này
đạt 1,121 triệu USD thì thời kỳ 1996-2002 đạt 10.407 triệu USD tăng hơn chín
lần so với thời kỳ trước và chiếm 23% tổng kim ngạch xuất khẩu.
2.4. Tạo việc làm cho người lao động
Đầu tư nước ngoài đã góp phần tạo ra một khối lượng lớn việc làm cho người lao
động, tham gia phát triển nguồn nhân lực. Bình quân mỗi năm khu vực này đã
thu hút thêm 30-35 ngàn lao động trực tiếp và gián tiếp. Tính đến cuối năm

2000, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã thu hút khoảng 35 vạn lao
động trực tiếp. Một số lượng đáng kể người lao động đã được đào tạo nâng cao
năng lực quản lý, trình độ chuyên môn, kỹ thuật đủ sức thay thế chuyên gia nước
ngoài. Thu nhập bình quân của người lao động cũng được cao hơn.
2.5. Thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế
Đầu tư nước ngoài góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế với khu vực và
thế giới, tham gia có hiệu quả vào phân công lao động quốc tế.
BẢNG 2: MỘT SỐ CHỈ TIÊU ĐÓNG GÓP CỦA ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI:
Đơn vị tính: triệu
USD
Chỉ tiêu 199
1
199
2
199
3
199
4
199
5
199
6
199
7
199
8
199
9
200
0

1. Doanh thu 151 228 505 1.02
6
2.06
3
2.74
3
3.81
5
3.91
0
4.60
0
6.16
7
2. Xuất khẩu 52 112 269 352 336 788 1.79
0
7.98
2
2.54
7
3.30
0
3. Tỷ trọng
trong GDP (%)
6,3 7,39 9,07 10,0
3
12,2
4
13,2
5

4. Tốc độ tăng
công nghiệp
(%)
45,6 40,4 13,6 12,8 8,8 21,7 23,2 24,4 20 23
5. Tỷ trọng
trong công
nghiệp (%)
22,4 26,2 26,2 26,2 25,1 26,2 28,9 32 34,4 36
6. Nộp ngân
sách
128 195 263 315 317 271 260
7. Lao động
trực tiếp đến
cuối năm
(1.000 người)
220 250 270 296 327
(Nguồn: Báo cáo tổng kết về Đầu tư nước ngoài của Bộ Kế hoạch - Đầu tư)
Năm 2001 và 2002, số lượng các dự án đầu tư nước đã tăng nhiều hơn và đặc
biệt trong năm 2002 là một năm thu hút được nhiều dự án tăng vốn nhất từ trước
tới nay.
Vốn thực hiện tăng 2% (đạt khoảng 2,345 tỷ USD); doanh thu tăng 23% (đạt
khoảng 9 tỷ USD); xuất khẩu tăng 23% (đạt 6,5 tỷ USD); nhập khẩu tăng 30%
(6,5 tỷ USD); nộp ngân sách tăng 23% (đạt 459 triệu USD); số lao động tăng 8%
(tính luỹ kế đến cuối kỳ đạt 472 nghìn lao động).
3. Môi trường đầu tư của các dự án FDI
3.1. Nguyên nhân khách quan:
3.1.1. Tỷ trọng vốn:
Bên cạnh những mặt tích cực của đầu tư nước ngoài, nó cũng đặt ra một số vấn
đề cần quan tâm như mối quan hệ giữa tỷ trọng vốn đầu tư nước ngoài với vốn
đầu tư trong nước trong tổng vốn đầu tư xã hội, thâm hụt cán cân thanh toán, một

vấn đề đã được đánh giá rất khác nhau trên các tài liệu nghiên cứu thế giới.
3.1.2. Chuyển giao công nghệ
Ngoài ra việc chuyển giao công nghệ qua đầu tư nước ngoài cũng đặt ra nhiều
vấn đề cho nước chủ nhà, trong đó nổi bật là công nghệ cũ (bãi thải công nghệ),
công nghệ không phù hợp với điều kiện của các nước đang phát triển, gây ô
nhiễm môi trường, giá cả đắt hơn thực tế, hơn nữa còn hạn chế nguồn hàng hoá
và dịch vụ trong nước kém phát triển.
3.1.3. Tác động môi trường
Trong quá trình thu hút đầu tư nước ngoài, chúng ta luôn phải đứng trước sự lựa
chọn giữa: một mặt cố gắng tạo ra sự hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước ngoài
(hạn chế các quy định về tiêu chuẩn môi trường) và mặt khác lại muốn tăng
cường bảo vệ môi trường của mình trước chất thải của các công ty nước ngoài và
việc khai thác của họ làm cạn kiệt các nguồn lực tự nhiên.
3.1.4. Vấn đề xã hội
Bên cạnh đó, nó còn ảnh hưởng tới sức khoẻ con người từ những hoạt động sản
xuất và quảng cáo tiêu thụ các đồ uống, thuốc lá và thực phẩm sử dụng nhiều
hoá chất đang phổ biến ở nước ta trong thời gian qua. Một hiện tượng nữa có thể
nói là được nảy sinh từ đầu tư nước ngoài đó là hiện tượng “chảy máu chất
xám”, gia tăng bất bình đẳng về thu nhập, sa thải lao động (trực tiếp và gián
tiếp), xúc phạm nhân phẩm người lao động và khai thác cạn kiệt sức lao động
của người làm thuê.
Đầu tư nước ngoài còn được coi như là nguyên nhân của các vấn đề xã hội như:
làm tăng khoảng cách giầu nghèo giữa các cá nhân (những người làm việc trong
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài với những người làm việc trong các khu vực
khác), các vùng; làm băng hoại thuần phong mỹ tục; góp phần tích cực vào sự
nghiệp “giải phóng” phụ nữ thông qua tạo việc làm cho họ nhưng lại phá vỡ trật
tự gia đình, giảm thiên chức phụ nữ và làm gia tăng tình trạng sống độc thân và
ly hôn…
3.2. Nguyên nhân chủ quan:
Bên cạnh những hạn chế khách quan vẫn còn những yếu tố chủ quan như:

Hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài cho đến nay còn thiếu những quy định
chặt chẽ để đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật, loại trừ những mâu
thuẫn chồng chéo đặc biệt là trong quy định của các Bộ, Ngành và địa phương.
Hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài hiện chưa phát huy hết hiệu quả định
hướng thu hút đầu tư
Hình thức tổ chức doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chưa đa dạng, luật
mới chỉ cho phép các doanh nghiệp được tổ chức dưới hình thức Công ty trách
nhiệm hữu hạn.
Những biện pháp bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của nhà đầu tư trong
trường hợp có sự thay đổi chính sách, pháp luật chưa cụ thể, chưa thể hiện sự
nhất quán và ổn định của pháp luật, do vậy gây tâm lý thiếu tin tưởng cho các
nhà đầu tư.
Các quyền tự do lựa chọn đối tác và cơ hội đầu tư của nhà đầu tư còn nhiều hạn
chế.
Sau khi ban hành Luật, những biện pháp ưu đãi đầu tư về tài chính, ngân hàng,
ngoại hối … chưa được cụ thể hoá đầy đủ hoặc chưa có quy định rõ ràng làm
yên tâm các nhà đầu tư, đặc biệt là những biện pháp ưu đãi đối với những địa
bàn và lĩnh vực khuyến khích đầu tư.
Thủ tục đầu tư đã được cải tiến đơn giản và thuận tiên hơn nhưng ở một số khâu
như thủ tục liên quan đến đất đai, hải quan, xuất nhập khẩu còn chậm, phức tạp,
gây phiền hà cho các nhà đầu tư.
Những biện pháp quản lý, kiểm tra còn thiếu cụ thể và chặt chẽ để vừa đảm bảo
tính hiệu lực của Nhà nước, vừa tránh phiền hà cho hoạt động của các dự án đầu
tư nước ngoài.
Sự hiểu biết pháp luật chính sách về đầu tư nước ngoài của cán bộ các cấp các
ngành còn nhiều hạn chế dẫn đến việc vận dụng tuỳ tiện, thiếu nhất quán trong
không ít trường hợp làm giảm tính hấp dẫn và hiệu lực của hệ thống pháp luật về
đầu tư.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP

NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM THỜI GIAN QUA
Ι.TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI VÀO VIỆT NAM
Có thể nói Việt nam sau những năm thực hiện công cuộc đổi mới đã đưa nền
kinh tế tiến lên và không ngừng phát triển, bắt kịp với các nước láng giềng trong
khu vực và sánh vai với các cường quốc trên thế giới. Bên cạnh những chuyển
biến đáng kể của thời kỳ đổi mới đất nước phải nói đến việc thực hiện chính sách
mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài từ đó các nền công nghiệp, dịch vụ bắt đầu
phát triển, hội nhập khu vực, đất nước thoát khỏi sự cấm vận kinh tế, được cộng
đồng Quốc tế nối lại nguồn vốn ODA … đưa đất nước tiến vào thời kỳ thực hiện
chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Một trong những thành công lớn của sự nghiệp đổi mới là sự không ngừng hoàn
thiện tư duy kinh tế. Những chính sách phát triển nền kinh tế thị trường theo định
hướng XHCN, chính sách mở cửa, chủ động hội nhập Quốc tế có hiệu quả đã và
đang tạo ra các động lực kinh tế. Đi đôi với việc củng cố và phát triển kinh tế
quốc doanh, Nhà nước đề cao, khuyến khích kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
với phương châm “Việt nam sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước trên thế giới vì
hoà bình, bình đẳng và cùng phát triển” đã tạo nên không khí an bình và trong
lành cho môi trường đầu tư ở Việt nam.
1. Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình thu hút đầu tư nước ngoài
thời gian qua
1.1. Thuận lợi:
Một nước có môi trường đầu tư tốt thực chất là nơi có nhiều yếu tố đảm bảo cho
các nhà đầu tư thực hiện được mục đích của mình. Đối với chúng ta hiện nay
đang có nhiều lợi thế trong cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài trên mọi lĩnh
vực, đồng thời với sự nỗ lực của Chính Phủ, các Bộ, Ngành liên quan đã giúp
cho các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm hơn khi đầu tư vào Việt nam. Điều này
thể hiện qua những khó khăn và thuận lợi sau:
1.1.1. Môi trường xã hội và tiềm năng phát triển của nền kinh tế
Việt nam có lợi thế về một tình hình chính trị ổn định, môi trường đầu tư tốt, hơn

thế nữa Việt nam có một vị trí thuận lợi tại Đông Nam Á và tiềm năng lớn về tài
nguyên thiên nhiên.
1.1.2. Thị trường lao động
Việt Nam là nước có lực lượng lao động rất dồi dào về số lượng, đa dạng cũng
như giá nhân công thấp, có trình độ học vấn trung bình tương đối cao, có nhiều
khả năng tiếp thu các kiến thức tiên tiến. Trong điều kiện trình độ có nền sản
xuất (kể cả các cơ sở sản xuất trong nước cũng như các cơ sở có vốn FDI) như
hiện nay thì về mặt cơ bản người lao động Việt Nam đáp ứng được yêu cầu và có
mặt bằng tiền lương tương đối thấp. Cộng thêm đó, Việt Nam ít có đình công,
bãi công tự do, đồng thời là một thị trường tiêu thụ 75 triệu dân và là nước nằm
trong khu vực phát triển nóng. Chính điều này đang trở thành một trong những
yếu tố hấp dẫn các nhà FDI.
1.1.3. Tham gia vào các quá trình hội nhập
Quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt nam tiếp tục phát triển, việc triển khai Hiệp
định thương mại Việt - Mỹ sẽ tạo thêm tính hấp dẫn trong thu hút đầu tư nước
ngoài và khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài mở rộng sản xuất để
hướng xuất khẩu vào thị trường Mỹ.
Xu hướng toàn cầu hoá tiếp tục mở rộng, cuộc cách mạng công nghệ ngày càng
phát triển mạnh mẽ cùng với việc đẩy nhanh vòng đàm phán gia nhập WTO sẽ
tạo ra những cơ hội mới để Việt nam tham gia có hiệu quả vào phân công lao
động Quốc tế và tận dụng sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế - đầu tư của các nước
công nghiệp phát triển.
Hơn nữa việc tham gia vào quá trình hội nhập đầu tư Quốc tế, gia nhập AFTA,
ký các hiệp định khung và bảo hộ đầu tư với với các nước nhằm tăng cường khả
năng mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài. Tham gia các diễn đàn doanh nghiệp và
tổ chức nhiều đoàn vận động đầu tư tại các nước Châu Âu, Mỹ, Nhật …
Khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi của quá trình thu hút đầu tư nước ngoài, Việt nam vẫn
còn phải đối mặt với những khó khăn:
1.2.1. Tác động bên ngoài

Sự cạnh tranh trong thu hút đầu tư nước ngoài trên thế giới và khu vực gia tăng
mạnh mẽ, nhất là sự cạnh tranh của Trung Quốc và các nước ASEAN, trong khi
tỷ lệ đầu tư nước ngoài vào các nước đang phát triển nói chung, vào khu vực
ASEAN giảm mạnh. Cạnh tranh của Trung Quốc càng mạnh mẽ hơn khi Trung
Quốc gia nhập vào WTO vào tháng 11-2001
Những nền kinh tế có mức đầu tư nước ngoài lớn vào Việt nam như Nhật Bản,
Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc những năm qua gặp nhiều khó khăn nên sẽ hạn
chế việc đầu tư ra nước ngoài. Đầu tư nước ngoài của Mỹ và EU chưa đáng kể
tuy Hiệp định thương mại Việt Mỹ đã có hiệu lực
Sự phát triển chững lại của các nền kinh tế lớn, sự yếu kém của thị trường tài
chính quốc tế và sự đi xuống của thị trường công nghệ thông tin toàn cầu đã và
đang tác động mạnh đến đầu tư thương mại quốc tế, do đó việc triển khai hoạt
động của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài cũng gặp khó khăn.
Đặc biệt trong thời gian vừa qua nền kinh tế Thế giới phải chịu ảnh hưởng của
dịch viêm đường hô hấp cấp (SARS) và chiến tranh tại Iraq, điều này phần nào
sẽ gây khủng hoảng cho các nền kinh tế Châu Á kể từ khi bị cơn bão khủng
hoảng tài chính tiền tệ trong các năm 1997-1998.
1.2.2. Yếu tố trong nước
Môi trường đầu tư nước ngoài của Việt nam vẫn còn nhiều hạn chế ảnh hưởng
đến sức cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài, nhất là độ mở trong lĩnh vực
thương mại dịch vụ còn hạn hẹp, liên quan đến các cam kết quốc tế.
Các hình thức thu hút đầu tư nước ngoài còn chưa đa dạng. Chi phí đầu vào
(điện, nước, viễn thông, vận chuyển, dịch vụ cảng, thuế thu nhập cá nhân …) còn
cao hơn các nước trong khu vực là giảm sức cạnh tranh hàng hoá của các doanh
nghiệp đầu tư nước ngoài và trong nước.
2. Sự cần thiết phải tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài hiện nay
Từ một nước nghèo nàn lạc hậu bị tàn phá nặng nề sau chiến tranh, Việt nam với
quá trình phát triển và thực hiện chiến lược công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất
nước, sẽ không tránh khỏi những thiếu sót trong quá trình thực hiện các chính
sách thu hút đầu tư nước ngoài. Cụ thể như sau:

Do các dự án đầu tư còn chậm vì số dự án chưa bắt đầu xây dựng cơ bản còn
chiếm tỷ lệ lớn do nhiều nguyên nhân, trong đó có những nguyên nhân do thủ
tục cấp đất, đền bù giải phóng mặt bằng còn chậm, chi phí đền bù cao, có dự án
mất 2-3 năm mới hoàn thành thủ tục. Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài
chính - tiền tệ khu vực năm 1997 - 1998 cùng với sự kiện 11/9/2001, nên việc
triển khai các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài bị chững lại, các dự án xin dừng
hoặc giãn tiến độ triển khai tăng lên.
Tỷ lệ vốn thực hiện so với vốn đăng ký chỉ đạt mức trung bình là 52%, trong khu
vực, vì bình quân một dự án cần từ 4 đến 5 năm mới thực hiện đủ vốn đăng ký,
đối với những dự án có quy mô lớn thì thời gian này còn kéo dài hơn, mà phần
nhiều các dự án được cấp giấy phép từ năm 1995 trở lại đây. Mặt khác, chính
sách về kinh doanh bất động sản của Việt Nam chưa rõ ràng cùng với ảnh hưởng
của khủng hoảng trong khu vực đã làm cho các chủ đầu tư không triển khai
nhanh các dự án đã được cấp giấy phép.
Phần góp vốn pháp định của Việt Nam còn thấp, mới đạt 1.726 triệu USD, chiếm
14% vốn thực hiện và 23,7% vốn pháp định thực tế. Trong đó, đối tác Việt Nam
chủ yếu góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất (chiếm khoảng 90%), còn lại là
góp vốn bằng tài sản ngoài đất đai, thiết bị (chiếm 8%) và góp bằng tiền mặt
cùng các phương tiện thanh toán khác (khoảng 2%).
Nguồn vốn vay của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là 5.055
triệu USD, chiếm 41% vốn thực hiện, trong đó phần lớn là vay từ các công ty mẹ
(4.510 triệu USD), còn lại là vay từ các ngân hàng hoặc các tổ chức tài chính
quốc tế (515 triệu USD).
Số dự án đầu tư bị thu hồi giấy phép trước thời hạn tính đến tháng 8/2001 là 703
dự án (chiếm 4,5% tổng số dự án) với số vốn đăng ký là 9 tỷ USD (chiếm 5%
vốn đăng ký). Trên 75% số dự án này được cấp giấy phép trong thời kỳ đầu thực
hiện Luật Đầu tư nước ngoài (1988-1992) và phần lớn có quy mô nhỏ, 80% số
này có vốn đăng ký dưới 10 triệu USD. Những nước và vùng lãnh thổ có dự án
bị rút giấy phép nhiều nhất là Hồng Kông (27% số dự án và 12% vốn đăng ký),
Pháp và Australia (15% số dự án và 30% vốn đăng ký)

Nguyên nhân của việc các dự án bị rút giấy phép đầu tư là do đối tác nước ngoài
không thực hiện đúng cam kết góp vốn, do biến động của thị trường giá cả làm
đảo lộn tính toán của các nhà đầu tư, do bên đối tác nước ngoài phá sản ở các nơi
khác làm họ không có khả năng thực hiện dự án ở Việt Nam, do biến động về thị
trường và khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực nên các chủ đầu tư không dàn
xếp được nguồn vốn cho dự án. Mặt khác, sự thiếu ổn định trong chính sách,
những mâu thuẫn giữa đối tác nước ngoài với bên Việt Nam trong liên doanh
cũng góp phần làm dự án không triển khai được.
Yếu tố cạnh tranh trong khu vực cũng rất gay gắt. Các nước trong khu vực đều
hiểu được tầm quan trọng của việc thu hút đầu tư nước ngoài. Do vậy việc cạnh
tranh giữa các nước trong khu vực càng diễn ra quyết liệt hơn.
Từ những thực tế nêu trên, việc đưa ra các chính sách phù hợp, tạo thêm nhiều
ưu đãi cho các nhà đầu tư nước ngoài là cả một quá trình nỗ lực của Chính phủ,
các Ban ngành cũng như các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài. Việc xoá bỏ rào cản, mở cửa mọi lĩnh vực, tạo thêm nhiều
hành lang thông thoáng cho các nhà đầu tư nước ngoài sẽ còn là mục tiêu của
Chính phủ ta.
II- QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CÁC CHÍNH SÁCH THU HÚT ĐẦU TƯ
NƯỚC NGOÀI
1.Các chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của Chính phủ
Kể từ khi công cuộc đổi mới được tiến hành, Việt nam đã đạt được những thành
tựu to lớn và quan trọng trên tất cả mọi lĩnh vực của quá trình tăng trưởng kinh
tế. Trong 10 năm trở lại đây đạt mức bình quân từ 7-8%/năm, thuộc vào nhóm
các nước có mức tăng trưởng cao nhất trong khu vực và trên thế giới. Trong bối
cảnh nền kinh tế toàn cầu tiếp tục suy giảm, tình hình chính trị kinh tế trong khu
vực và thế giới có nhiều biến động phức tạp thì Việt nam với tổng sản phẩm
quốc nội (GDP) tăng gấp đôi trong 10 năm trở lại đây, tỷ lệ đói nghèo giảm một
nửa đã nổi lên thành điểm đầu tư an toàn và hấp dẫn.
Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ IX khẳng định quyết tâm tiếp tục đổi mới,
đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước và đề ra nhiều chủ trương,

quyết sách trong phát triển kinh tế, tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường, đổi mới
nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, qua đó tạo môi trường kinh doanh thuận lợi
cho hoạt động của đầu tư nước ngoài. Nghị quyết của Chính phủ về nâng cao
hiệu quả thu hút, sử dụng đầu tư nước ngoài đã đề ra hệ thống giải pháp tương
đối toàn diện nhằm tháo gỡ khó khăn đối với hoạt động doanh nghiệp và cải
thiện môi trường đầu tư để thu hút thêm nguồn đầu tư nước ngoài mới. Do vậy
Chính phủ đã chủ trương đưa ra nhiều chính sách nhằm hỗ trợ và khuyến khích
các nhà đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư vốn góp phần tích cực vào quá trình
công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước cụ thể như sau.
1.1. Cải thiện chính sách
Việc ban hành Luật đầu tư nước ngoài cùng với việc sửa đổi và bổ sung bộ luật
của Chính phủ cho phù hợp với tình hình đầu tư, đã giúp các Nhà đầu tư nước
ngoài cảm thấy thoải mái, và họ sẵn sàng tham gia bỏ vốn vào các dự án có ý
nghĩa quan trọng của Việt nam.
Những bộ luật cũ dần được chỉnh sửa, khắc phục những khiếm khuyết còn
vướng mắc và xoá dần những bất bình đẳng quá lớn trong việc ưu đãi giữa luật
khuyến khích đầu tư trong nước và luật đầu tư nước ngoài, tạo nên môi trường
cạnh tranh lành mạnh giữa các loại hình doanh nghiệp thuộc mọi thành phần
kinh tế và tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc hơn cho công tác quản lý Nhà nước,
bảo đảm cho việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài phù hợp với những yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội.
Ngoài ra, Nhà nước đang thực hiện các chính sách giảm và miễn thuế đối với
một số danh mục, cải tiến các chính sách đầu tư, đặc biệt Chính phủ vừa ban
hành Nghị định bổ sung số 27/2003/NĐ-CP thay cho Nghị định số 24/2000/NĐ-
CP ngày 31/07/2000 với nội dung cơ bản là mở rộng các lĩnh vực đầu tư kinh
doanh trong sản xuất và dịch vụ phù hợp với lộ trình hội nhập kinh tế khu vực và
quốc tế, đơn giản hoá thủ tục cấp phép đầu tư. Một quyết định mới nữa là Quyết
định của Thủ tướng Chính phủ về việc nhà đầu tư nước ngoài được phép mua cổ
phần của công ty Việt nam trong giới hạn quy định. Một phương thức huy động
vốn, công nghệ, phương pháp quản lý của nước ngoài nhằm mở rộng thị trường,

tăng sức cạnh tranh.
Hơn nữa, hiện Chính phủ cũng đang xem xét để ban hành văn bản về hình thức
công ty cổ phần, đẩy nhanh thực hiện lộ trình thu hẹp sự khác biệt trong chính
sách đầu tư nước ngoài và trong nước.
Bên cạnh đó việc phát triển thị trường vốn, dịch vụ tiếp tục mở rộng và nâng cao
chất lượng hoạt động của thị trường chứng khoán cũng là điều đang được Chính
phủ quan tâm. Chính phủ sẽ bổ sung chính sách và biện pháp phát triển các
doanh nghiệp dịch vụ trong nước, mặt khác tăng cường thu hút đầu tư nước
ngoài vào những dịch vụ cần thiết. Điều này giúp đẩy mạnh sự cạnh tranh của
các công ty trong nước một nội lực để phát triển đất nước. Đồng thời trong thời
gian tới đó là hệ thống thuế. Chính phủ sẽ thống nhất thuế thu nhập tạo sự bình
đẳng giữa các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài.
1.2. Thúc đẩy quan hệ hợp tác với các nước
Quá trình thúc đẩy hợp tác với các nước trên thế giới là một bước tiến lớn của
Chính phủ nhằm mở cửa kinh tế và tạo thêm những cơ hội lớn cho việc thu hút
đầu tư. Đặc biệt trong những năm trở lại đây những sự kiện hoạt động dồn dập
về xúc tiến đầu tư nước ngoài vào Việt nam đang được tiến hành ngày một mạnh
mẽ.
Việc ký kết các Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư với các nước được
Chính phủ đã và đang thực hiện như Vương Quốc Anh, Nhật Bản, … Nhật Bản,
một nước có vốn đầu tư vào Việt nam rất lớn và luôn là trong một trong 10 nước
và lãnh thổ dần đầu về đầu tư nước ngoài tại Việt nam.
Theo số liệu thống kê của Sứ quán Nhật và Bộ Kế hoạch & Đầu tư, đầu tư trực
tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam từ năm 1995 đến năm 2000 đã chứng tỏ điều
đó.
BẢNG SỐ 3: TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ CỦA NHẬT BẢN TỪ 1995-2000
Đơn vị tính: Triệu USD
Năm Vốn đầu tư
1995 1.129,9

1996 591,3
1997 657,3
1998 138,0
1999 62,10
2000 81,0

Chính phủ cũng tăng cường hợp tác với các nước có vốn đầu tư lớn như: Thái
Lan, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore, Trung Quốc, Ấn độ, Hàn Quốc, … nhằm
huy động được nhiều nguồn vốn đầu tư nước ngoài, đồng thời tổ chức nhiều
đoàn vận động đầu tư tại các nước Châu Âu, Mỹ, EU … tạo được sự quan tâm
chú ý của cộng đồng doanh nghiệp nước ngoài đối với thị trường Việt nam.
1.3. Khuyến khích các hình thức đầu tư và hỗ trợ phát triển các KCN,
KCX
Chính phủ đang khuyến khích các nhà đầu tư tham gia vào các hình thức đầu tư
BOT, liên doanh liên kết nhằm mở rộng khả năng thu hút các nguồn vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài. Cụ thể ta thấy hiện nay hình thức đầu tư là doanh nghiệp
liên doanh chiếm 61% số dự án và 70% số vốn đầu tư. Điều này là kết quả của
việc đưa ra những chính sách đối xử công bằng giữa doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài và doanh nghiệp liên doanh của Chính phủ. Hơn nữa do tin tưởng
vào môi trường đầu tư ở Việt nam, nên những năm gần đây bên cạnh các doanh
nghiệp liên doanh thì đầu tư theo hình thức 100% vốn nước ngoài đã tăng lên và
hiện chiếm 30% số dự án và 20% vốn đầu tư.
Chính phủ cũng khuyến khích phát triển các KCN, KCX bằng sự hỗ trợ mạnh
mẽ của mình. Các khu công nghiệp và khu chế xuất đã được hình thành và phát
triển từ cách đây 12 năm với việc thành lập KCX Tân Thuận vào năm 1991.
Theo Quy định 519/TTg ngày 6/8/1996 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê
duyệt tổng thể phát triển công nghiệp và kết cấu hạ tầng thời kỳ 1996-2010, và
cho đến nay để thu hút ngày càng nhiều những nhà đầu tư vào các KCN-KCX,
Nhà nước đã từng bước sửa đổi để phù hợp với yêu cầu của sự phát triển cụ thể

×