Tải bản đầy đủ (.pdf) (272 trang)

BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ ÁN “NGHIÊN CỨU CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ĐỂ ĐƯA SỞ HỮU TRÍ TUỆ VÀO GIẢNG DẠY VÀ ĐÀO TẠO TẠI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.46 MB, 272 trang )

BỘ KHOA HỌC VÀ CƠNG NGHỆ
CỤC SỞ HỮU TRÍ TUỆ

BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ ÁN NGHIÊN CỨU CẤP BỘ
“NGHIÊN CỨU CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ĐỂ
ĐƯA SỞ HỮU TRÍ TUỆ VÀO GIẢNG DẠY VÀ ĐÀO
TẠO TẠI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC”

Chủ nhiệm Đề án:
TS Trần Lê Hồng

Hà Nội – 01/2008


MỤC LỤC
NỘI DUNG

TRANG

DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI THỰC HIỆN

1

PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU

4

1. Tính cấp thiết của phải thực hiện Đề án

5


2. Mục tiêu của Đề án

7

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

8

4. Phương pháp nghiên cứu

8

5. Nội dung nghiên cứu

8

PHẦN II: KẾT QUẢ THỰC HIỆN ĐỀ ÁN

9

- Giới thiệu tổng quan .......................................................

10

- Chương 1. Thực trạng giảng dạy và đào tạo về sở hữu trí tuệ
trong các trường đại học

13

1.1 Nhận thức chung đối với giảng dạy và đào tạo về sở hữu

trí tuệ

13

1.2 Nhận định chung về thực trạng giảng dạy và đào tạo về sở
hữu trí tuệ trong các trường đại học của Việt Nam

15

1.3 Thực trạng giảng dạy và đào tạo về sở hữu trí tuệ trong
các trường đại học đào tạo chuyên ngành Luật

29

1.4 Thực trạng giảng dạy và đào tạo về sở hữu trí tuệ trong
các trường đại học đào tạo chuyên ngành Kinh tế - Tài
chính

45

1.5 Thực trạng giảng dạy và đào tạo về sở hữu trí tuệ trong
các trường đại học đào tạo chuyên ngành Xã hội – Nhân
văn

53

1.6 Thực trạng giảng dạy và đào tạo về sở hữu trí tuệ trong
các trường đại học đào tạo chuyên ngành Tự nhiên – Kỹ
thuật


61

1.7 Kết luận Chương 1

74

- Chương 2. Kinh nghiệm của thế giới trong giảng dạy và đào
tạo về sở hữu trí tuệ

76

2.1. Kinh nghiệm của thế giới trong giảng dạy sở hữu trí tuệ

76


dưới góc độ mơn học trong các trường đại học
2.2. Kinh nghiệm của thế giới trong giảng dạy sở hữu trí tuệ
dưới góc độ chun ngành

103

2.3. Kết luận Chương 2

119

- Chương 3. Giảng dạy về sở hữu trí tuệ trong các trường đại
học dưới góc độ mơn học
3.1. Tiếp cận chung đối với việc đưa sở hữu trí tuệ vào
Chương trình đào tạo cử nhân của các trường đại học

dưới góc độ mơn học

122
122

3.2. Xây dựng Chương trình các mơn học về sở hữu trí tuệ cho
các trường đại học đào tạo chuyên ngành về luật

134

3.3. Xây dựng Chương trình các mơn học về sở hữu trí tuệ cho
các trường đại học đào tạo chuyên ngành về kinh tế - tài
chính

142

3.4. Xây dựng Chương trình các mơn học về sở hữu trí tuệ cho
các trường đại học đào tạo chuyên ngành về xã hội và
nhân văn

152

3.5. Xây dựng Chương trình các mơn học về sở hữu trí tuệ cho
các trường đại học đào tạo chuyên ngành về khoa học tự
nhiên và kỹ thuật

161

3.6. Kết luận Chương 3


168

- Chương 4. Giảng dạy và đào tạo về sở hữu trí tuệ dưới góc
độ chuyên ngành

169

4.1. Tiếp cận chung đối với việc đưa sở hữu trí tuệ vào
Chương trình đào tạo cử nhân của các trường đại học
dưới góc độ chuyên ngành

169

4.2. Định hướng đào tạo chuyên ngành về sở hữu trí tuệ trong
các trường đại học thời gian tới

182

4.3. Kết luận Chương 4

228

- Chương 5. Các điều kiện cần thiết cho hoạt động giảng dạy
và đào tạo về sở hữu trí tuệ

229

5.1. Phát triển đội ngũ giảng viên giảng dạy về sở hữu trí tuệ
trong các trường đại học


229

5.2. Phát triển hệ thống tài liệu phục vụ giảng dạy và đào tạo
về sở hữu trí tuệ trong các trường đại học

233

5.3. Kết luận Chương 5

246

- Chương 6. Định hướng đề xuất với các cơ quan chức năng
nhằm phát triển hoạt động giảng dạy và đào tạo về sở hữu trí

248


tuệ trong thời gian tới
6.1. Đặt vấn đề đối với việc đề xuất với các cơ quan chức năng
nhằm phát triển hoạt động giảng dạy và đào tạo về sở
hữu trí tuệ trong các trường đại học

248

6.2. Đề xuất với các cơ quan có trách nhiệm chính trong việc
quyết định đưa sở hữu trí tuệ vào giảng dạy và đào tạo
trong các trường đại học

251


6.3. Kết luận Chương 6

258

- Kết luận

260

PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

262

PHẦN IV: DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

265

CÁC THAM LUẬN TỪ CÁC HỘI THẢO TRONG KHUÔN KHỔ
ĐỀ ÁN được tuyển chọn và tập hợp trong 2 tập riêng1
CÁC CHUYÊN ĐỀ NGHIÊN CỨU VÀ KẾT QUẢ KHẢO SÁT
được tập hợp trong 2 tập riêng2

1

Các tài liệu này có thể tham khảo tại Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo, Cục Sở hữu trí tuệ, Bộ Khoa học và
Công nghệ, 386 Đường Nguyễn Trãi, Q. Thanh xuân, Hà Nội.
2
Các tài liệu này có thể tham khảo tại Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo, Cục Sở hữu trí tuệ, Bộ Khoa học và
Cơng nghệ, 386 Đường Nguyễn Trãi, Q. Thanh xuân, Hà Nội.



BẢNG CHỮ VIẾT TẮT DÙNG TRONG BÁO CÁO

¾
¾
¾
¾
¾
¾
¾

SHTT – Sở hữu trí tuệ
SHCN – Sở hữu cơng nghiệp
ĐH – Đại học
CĐ – Cao đẳng
BLDS – Bộ luật Dân sự
WTO – Tổ chức Thương mại thế giới
TRIPs – Hiệp định về các khía cạnh thương mại liên quan đến quyền sở
hữu trí tuệ


DANH SÁCH NHỮNG NGƯỜI THỰC HIỆN
STT
1

Họ và Tên
TS Trần Lê Hồng

Chức danh

Thông tin liên hệ


Chủ nhiệm Đề án, Cục Sở ĐTCQ: 04.858 30 69/
hữu trí tuệ, Bộ Khoa học 205
và Công nghệ
ĐTDĐ: 095 331 2005
tranlehong2005@yahoo.
com

2

TS Đinh Trung Tụng

Thứ trưởng, Bộ Tư pháp

ĐTCQ: 04.843 88 37
ĐTDĐ: 091 466 1429

3

TS Nguyễn Tất Viễn,

Vụ trưởng, Vụ Phổ biến, ĐTDĐ: 091 265 9226
giáo dục pháp luật

4

TS Lê Viết Khuyến

Phó Vụ trưởng Vụ Đại ĐTCQ: 04.869 48 84
học và Sau đại học, Bộ ĐTDĐ: 091 301 6368

GD&ĐT


5

Lương Thị Tố Như

CVC, Vụ Đại học và Sau ĐTCQ: 04.868 14 74
đại học, Bộ GD&ĐT
ĐTDĐ: 091 233 9854
,


6

PGS TS Nguyễn Đức Trưởng Phòng Quản lý ĐTCQ: 04.869 21 36
khoa học, Trường ĐH ndthuanThuận
Bách khoa Hà Nội



7

PGS TS Văn Đình Đệ Trường ĐH Bách khoa ĐTCQ: 04.869 21 36
Hà Nội

8

TS Nguyễn
Đức


9

TS Tăng Văn Nghĩa

Trọng Trường ĐH Bách khoa ĐTCQ: 04.869 21 36
Hà Nội

Trưởng Khoa Quản trị ĐTCQ: 04.835 68 05
kinh doanh, Trường ĐH ĐTDĐ: 090 423 0929
Ngoại thương

1


10

TS Nguyễn Thị Quế Phó Chủ nhiệm Khoa ĐTCQ: 04. 754 70 49
Luật trực thuộc Đại học ĐTDĐ: 098 388 8628
Anh
Quốc gia Hà Nội


11

TS Nguyễn
Tuấn

12


TS Bùi Đăng Hiếu

Phụ trách Trung tâm Đảm ĐTCQ: 04.773 65 38
bảo chất lượng đào tạo, ĐTDĐ: 091 354 0934
Trường ĐH Luật Hà Nội
buidanghieu2005@yaho
o.com

13

TS Trần Văn Hải

Phó Chủ nhiệm Bộ mơn ĐTCQ: 04.640 80 73
Luật Sở hữu trí tuệ, ĐTDĐ: 090 321 1972
Trường ĐH KHXH&NV,

ĐH Quốc gia Hà Nội
m

14

TS Phạm Trí Hùng

Giảng viên Luật Thương ĐTDĐ: 090 454 8642
mại, Trường ĐH Luật phamtrihung2005@yaho
Thành phố Hồ Chí Minh o.com.vn

15

TS Ngơ Hồng Oanh


Giảng viên, Khoa Đào tạo ĐTCQ: 04.756 61 29/
luật sư, Học viện Tư pháp 129

Minh Phó chủ nhiệm Khoa ĐTCQ: 04.773 14 68
Luật Dân sự, Trường ĐH ĐTDĐ: 091 355 4631
Luật Hà Nội


ĐTDĐ: 098 311 0069

m
16

Ths Lê
Giang

17

ThS Lê Thị Thu Hà

GV, Trường ĐH Ngoại ĐTDĐ: 091 221 1178
Thương

m

18

ThS Hồ Thúy Ngọc


GV, Trường ĐH Ngoại ĐTDĐ: 090 416 4363
thương


Thị

Nam Chủ nhiệm Bộ môn Luật ĐTCQ: 08.726 93 21
Tư pháp quốc tế và Luật ĐTDĐ: 098 387 7897
So sánh, Trường ĐH Luật
Thành phố Hồ Chí Minh

2


19

Ths Nguyễn
Nam

Văn Giảng viên, Học viện An ĐTCQ: 069 455 48
ninh Nhân dân
ĐTDĐ: 091 336 6757

m

20

KS Hồ Thành Nam

Phòng Quản lý khoa học, ĐTCQ: 04. 2152950;

Trường ĐH Bách khoa 8692136
Hà Nội


3


PHẦN MỞ ĐẦU

4


1. Tính cấp thiết của phải thực hiện Đề án
SHTT có vai trị quan trọng trong nền kinh tế, nhất là đối với nền kinh tế tri
thức mà Việt Nam đang hướng tới. Đây là một trong những điều kiện quan trọng
giúp tạo ra, bảo vệ và phát triển tài sản trí tuệ - một trong những yếu tố quyết định
khả năng cạnh tranh của các nền kinh tế hiện đại. Nhận thức về vấn đề này, các
nước phát triển đã và đang tạo mọi điều kiện, thực hiện tất cả các biện pháp cần
thiết cho hoạt động đào tạo, phổ biến, nâng cao kiến thức và nhận thức của cá nhân
và tổ chức trong xã hội về SHTT. Thực tiễn giảng dạy và đào tạo về SHTT tại các
nước phát triển đã khẳng định điều này.
Giảng dạy và đào tạo về SHTT ở các nước phát triển có truyền thống lâu đời
với hệ thống đồng bộ, nhiều cấp độ và hình thức đào tạo khác nhau. Phụ thuộc vào
từng cơ sở đào tạo, giảng dạy và đào tạo về SHTT có thể chỉ dừng ở mức độ là một
mơn học, hoặc có thể các mức độ cao hơn như đào tạo chuyên ngành tiến sỹ và sau
tiến sỹ. Số lượng các cơ sở đào tạo và số học viên cũng rất khác nhau ở từng nước.
Hầu hết các trường đại học của các nước phát triển có mơn học “SHTT” trong
chương trình một cách độc lập hoặc lồng ghép với các mơn học chun ngành liên
quan như “Chính sách đổi mới trong doanh nghiệp”, “Sáng tạo với sự phát triển
của xã hội”, “Hoạt động nghiên cứu và triển khai”, “chuyển giao công nghệ”...

Những cơ sở đào tạo về SHTT có uy tín và được biết đến rộng rãi như Viện
Max Planck với Trung tâm đào tạo Luật SHTT (CHLB Đức), ĐH Tổng hợp
George Washington với Trường Luật trực thuộc (Mỹ), ĐH Tổng hợp Zurich với
Khoa Luật, ĐH Tổng hợp Queen Mary London với Viện nghiên cứu SHTT (Anh)...
Số lượng học viên và nghiên cứu viên chuyên về SHTT của các cơ sở này có thể
lên đến vài trăm người.
Qua nghiên cứu chương trình đào tạo của một số cơ sở đào tạo của các nước
phát triển có thể thấy những nội dung giảng dạy và đào tạo không chỉ dừng ở
những kiến thức cơ bản và thực tiễn bảo hộ quyền SHTT của quốc gia mà đó mở
rộng sang các vấn đề bảo hộ quốc tế, thực tiễn bảo hộ ở nước ngoài, bảo hộ các
quyền SHTT của quốc gia ở nước ngoài và những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội
có liên quan như bảo hộ quyền SHTT ở nước ngồi đảm bảo lợi ích kinh tế của
quốc gia, nâng cao tiêu chuẩn bảo hộ...
Việc giảng dạy và đào tạo SHTT của các nước trong khối ASEAN đã được
triển khai tương đối rộng và bắt đầu đi vào chiều sâu ở những nước phát triển hơn
như Singapore, Malaixia, Thái Lan. Điển hình là Singapore, các trường ĐH lớn
như ĐH Công nghệ Nanyang, ĐH Tổng hợp Quốc gia Singapore... đều có các khóa
đào tạo về SHTT: các khóa đào tạo dành cho cử nhân; các khóa đào tạo sau đại học
và các khóa đào tạo chuyên ngành.
Tóm lại, giảng dạy và đào tạo SHTT trên thế giới trở thành một hướng đào tạo
quan trọng trong các trường đại học. Việc đào tạo tuy dưới nhiều hình thức, cấp độ
khác nhau tùy thuộc vào trình độ phát triển của từng nước nhưng đều có điểm
chung là có định hướng và dựa trên sự nhận thức khá đầy đủ, kể cả nhận thức của

5


xã hội. Các trường ĐH tùy theo việc đánh giá nhu cầu có thể thực hiện đào tạo về
SHTT theo các cấp học khác nhau, từ thấp nhất là các khóa đào tạo tổng quát đến
đào tạo chuyên ngành hẹp bậc tiến sỹ.

Quay về thực trạng giảng dạy và đào tạo về SHTT của Việt Nam khiến
chúng ta lo ngại. Tình hình giảng dạy và đào tạo về SHTT hiện nay có thể khái
quát qua những điểm sau:
- Hiện nay chưa có Trường ĐH, Viện nghiên cứu nào có chuyên ngành đào
tạo về SHTT. Bắt đầu từ khóa học 2005-2006, Khoa Khoa học quản lý, trường ĐH
Khoa học xã hội và Nhân văn, ĐH Quốc gia Hà Nội đã mở chuyên ngành đào tạo
“Quản lý nhà nước về SHTT” với 11 sinh viên, tuy nhiên, việc đào tạo này chỉ
mang tính chất “định hướng” do các kiến thức chun mơn về SHTT chỉ được giới
thiệu một cách hạn chế và đội ngũ cán bộ giảng dạy chưa đầy đủ.
Thêm vào đó, chưa có trường ĐH kỹ thuật nào có nội dung về SHTT trong
chương trình đào tạo của mình. Một số nội dung cơ bản tối thiểu về SHTT chỉ
được giảng dạy tại các cơ sở đào tạo luật và cũng trong khuôn khổ của môn học
khác như Luật Dân sự hoặc Tư pháp quốc tế. Trong số các cơ sở đào tạo này, bắt
đầu có một số cơ sở tổ chức môn học về SHTT nhưng với thời lượng và nội dung
rất khác nhau, phần lớn chỉ dừng lại ở 15 đến 30 tiết học. Việc dạy và học này chủ
yếu dựa vào sự chuẩn bị và nhận thức của giáo viên dạy mà phải kiêm nhiệm các
môn học khác.
- Các giảng viên có giảng dạy về SHTT hầu hết chưa được đào tạo chuyên
ngành về SHTT. Họ chỉ được đào tạo về SHTT một cách hạn chế trong chương
trình đào tạo cử nhân luật tại các trường ĐH, do đó, cũng khơng dễ dàng để tự
mình xây dựng và hồn thiện chương trình đào tạo cho một mơn học phức tạp và
liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhất là kinh tế và luật, như SHTT. Chương trình học
có các nội dung SHTT được giới thiệu ở một số trường đại học có đào tạo cử nhân
Luật hiện nay khác nhau khá lớn về nội dung, thời lượng. Sở dĩ có sự khác biệt lớn
như vậy là do có sự khác nhau về nhận thức đối với chính mơn học: ý nghĩa, nội
dung, cũng như các khía cạnh liên quan.
- Phương pháp dạy và học SHTT ở Việt Nam chưa đem lại hiệu quả mong
muốn do chưa có kinh nghiệm. Đặc biệt, chưa có sự chuẩn bị đầy đủ và cần thiết
về tài liệu, thực tiễn cho việc giảng dạy và học tập. Kết quả tất yếu là sinh viên
chưa chủ động trong học tập, chưa có động lực và quyết tâm nghiên cứu những vấn

đề liên quan đến SHTT. Các cơ sở đào tạo có nội dung đào tạo về SHTT đang tìm
cách đổi mới và phát triển hoạt động giảng dạy và đào tạo về SHTT như: trường
ĐH Luật Hà Nội, trường ĐH Khoa học xã hội và Nhân văn (ĐH Quốc gia Hà Nội),
trường ĐH Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Khoa Luật (trường ĐH Cần Thơ)...
Với thực trạng giảng dạy và đào tạo về SHTT như vậy, cũng dễ hiểu việc ở
Việt Nam chưa có một cơng trình nghiên cứu nào về việc giảng dạy và đào tạo
SHTT ở trường ĐH trừ một nghiên cứu cấp cơ sở của Cục Sở hữu công nghiệp
(nay là Cục SHTT) về “Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn hoạt động đào tạo sở

6


hữu công nghiệp” năm 2000. Tuy nhiên, Báo cáo chủ yếu đề cập đến kinh nghiệm
của một số nước và cũng chỉ đối với vấn đề hạn chế là đào tạo về sở hữu cơng
nghiệp, cịn các khía cạnh khác của quyền SHTT và nhất là vấn đề đưa vào giảng
dạy và đào tạo chính thức bậc cử nhân tại các trường đại học của Việt Nam thì Đề
án này hồn tồn chưa nghiên cứu.
Các cơng trình nghiên cứu cụ thể của Việt Nam:
1. Đề tài cơ sở của Cục Sở hữu công nghiệp (nay là Cục SHTT) về
“Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn hoạt động đào tạo sở hữu công
nghiệp” năm 2000.
2. Báo cáo về thực trạng giảng dạy và đào tạo SHTT của Việt Nam trong
khn khổ Chương trình hợp tác ECAP II (TS Trần Lê Hồng,
/>an_le_hong_vietnam_report_on_the_current_teaching_and_learning.p
df);
Như vậy, hoạt động giảng dạy và đào tạo ở Việt Nam thời gian qua mang
tính tự phát, manh mún và nội dung cịn nhiều bất cập, chính vì vậy, chưa đáp ứng
được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của Việt Nam. Đề tài
nghiên cứu sẽ giúp đánh giá một cách khách quan, toàn diện thực trạng giảng dạy
và đào tạo về SHTT trong các trường ĐH của Việt Nam, cũng như nhu cầu đối với

đào tạo SHTT, qua đó, đề xuất chuyên ngành đào tạo bậc cử nhân, chương trình,
và thời lượng giảng dạy về SHTT tương ứng. Việc giảng dạy và đào tạo về SHTT
sẽ mang tính hệ thống và chuyên nghiệp, phù hợp với điều kiện của các trường ĐH
của Việt Nam, cũng như điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của Viêt Nam
Tóm lại, thực tế hiện nay khẳng định tính cấp bách của việc đào tạo chuyên
ngành bậc cử nhân về SHTT trong trường ĐH của Việt Nam, vấn đề chuẩn hóa nội
dung, kiến thức giảng dạy phục vụ nhu cầu ngày càng tăng của nền kinh tế và xã
hội, hỗ trợ có hiệu quả quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Cho đến
nay, chưa có một nghiên cứu đầy đủ và toàn diện nào về giảng dạy và đào tạo
SHTT trong các trường ĐH của Việt Nam, đồng thời cũng chưa xây dựng được
những chuẩn mực về chương trình đào tạo, khung chương trình và những nội dung
đào tạo cụ thể. Đề tài nghiên cứu hướng đến mục tiêu này do đó có tính cấp thiết
cao.
2. Mục tiêu của Đề án
Xây dựng đề xuất khoa học đối với việc đưa SHTT vào giảng dạy và đào tạo
tại các trường đại học phù hợp với điều kiện của Việt Nam, trên cơ sở đó các cơ
quan có thẩm quyền của Việt Nam và các trường Đại học có thể tham khảo để phát
triển hoạt động giảng dạy và đào tạo về SHTT trong thời gian tới trong các trường
đại học.
7


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là hoạt động giảng dạy và đào tạo về SHTT của Việt
Nam và trên thế giới.
Phạm vi nghiên cứu là các hoạt động liên quan đến giảng dạy và đào tạo về
SHTT trong các trường đại học, tập trung chủ yếu vào các trường đại học của Việt
Nam trên phạm vi cả nước.
4. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu: phân tích, so sánh, tổng hợp,

khảo sát thực tế, sử dụng ý kiến chuyên gia... dựa trên nền tảng của phương pháp
luận duy vật biện chứng. Để tạo nên kết quả tốt nhất, các phương pháp khảo sát
thực tế được sử dụng nhiều như điều tra xã hội học, lấy ý kiến chuyên gia... Bên
cạnh đó, cũng nhờ những ý kiến chuyên gia mà các kết quả nghiên cứu được sâu
sắc, có cơ sở, có tính tin cậy cao.
5. Nội dung nghiên cứu
5.1. Thực trạng giảng dạy, đào tạo, học tập và nghiên cứu SHTT trong các trường
ĐH của Việt Nam. Trên cơ sở đó đánh giá về nhu cầu và khả năng đáp ứng
nhu cầu đối với giảng dạy và đào tạo về SHTT.
5.2. Nghiên cứu kinh nghiệm của nước ngoài đối với giảng dạy và đào tạo về
SHTT. Đề tài đã tập trung làm rõ hệ thống giảng dạy và đào tạo về SHTT của
các nước điển hình, đặc biệt là những nội dung chương trình, thời lượng,
phương pháp giảng dạy...
5.3. Xây dựng những đề xuất cụ thể cho việc đưa các nội dung về SHTT vào
Chương trình đào tạo cử nhân các ngành và chuyên ngành của các trường đại
học của Việt Nam dưới góc độ các kiến thức đại cương, kiến thức cơ sở ngành,
kiến thức ngành và kiến thức chuyên ngành.
5.4. Xây dựng cơ sở cho định hướng phát triển chuyên ngành đào tạo bậc cử nhân
về SHTT để đề xuất cho việc triển khai tại Việt Nam. Đề tài đã làm rõ những
yêu cầu đối với việc đào tạo về SHTT bậc cử nhân. Trên cơ sở này, xây dựng
hệ thống khung kiến thức cho việc đào tạo SHTT ở cấp cử nhân.
5.5. Xây dựng kế hoạch thực hiện việc đưa SHTT vào đào tạo cử nhân tại các
trường ĐH để đề xuất với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong đó, đặc
biệt quan tâm đến kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực (chuyên gia)
chất lượng cao về SHTT, nhất là đủ khả năng triển khai việc giảng dạy và đào
tạo trong các trường ĐH, cũng như kế hoạch phổ cập kiến thức SHTT trong
các trường đại học.
8



PHẦN II: KẾT QUẢ THỰC HIỆN ĐỀ ÁN

9


GIỚI THIỆU TỔNG QUAN
SHTT có vai trị quan trọng trong nền kinh tế, nhất là đối với nền kinh tế tri
thức mà Việt Nam đang hướng tới. Đây là một trong những điều kiện quan trọng
giúp tạo ra, khai thác, bảo vệ và phát triển tài sản trí tuệ - một trong những yếu tố
quyết định khả năng cạnh tranh của các nền kinh tế hiện đại. Ngay Trung Quốc –
một nước khơng có truyền thống trong lĩnh vực SHTT - cũng đang thay đổi cách
tiếp cận vấn đề này. Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo khi thăm tỉnh Sơn Đông
từ ngày 20 đến 22 tháng 6 năm 2004 đã phân tích cụ thể, cạnh tranh quốc tế của
thế giới tương lai là cuộc cạnh tranh của quyền SHTT, và sẽ đặc biệt tập trung vào
cạnh tranh của các công nghệ và sản phẩm hàng đầu. Với nhận thức như vậy, các
nước, đặc biệt là các nước phát triển đã và đang tạo mọi điều kiện, thực hiện tất cả
các biện pháp cần thiết cho hoạt động đào tạo, phổ biến, nâng cao kiến thức và
nhận thức của cá nhân và tổ chức trong xã hội về SHTT, đặc biệt là trong các
trường ĐH. Thực tiễn giảng dạy và đào tạo về SHTT tại các nước phát triển đã
khẳng định điều này.
Sự kiện Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới ngày 7
tháng 11 năm 2006 như một hồi chuông cảnh báo mạnh mẽ việc chúng ta cần có
một chiến lược trong đào tạo để tận dụng những lợi thế và giảm thiểu những tác
động tiêu cực của hoạt động bảo hộ quyền SHTT trên phạm vi tồn cầu và ở Việt
Nam. Với vai trị là một trong ba trụ cột của thương mại quốc tế hiện đại1, SHTT
địi hỏi khơng chỉ sự nhận thức chung chung, mà là một hoạt động chuyên nghiệp
với tính chuyên nghiệp ngày càng tăng và phạm vi ngày càng mở rộng đối với hầu
hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Sự gia tăng vai trò của SHTT và các hoạt
động chun nghiệp có liên quan địi hỏi một đội ngũ cán bộ chuyên môn hiểu biết
về SHTT. Đội ngũ cán bộ này bao gồm: các cán bộ được đào tạo chuyên ngành về

SHTT; các cán bộ được đào tạo các chuyên ngành khác nhau và được trang bị
những kiến thức SHTT cần thiết, hỗ trợ cho hoạt động chuyên ngành của mình.
Trong bối cảnh hiện nay, nên thẳng thắn thừa nhận rằng, đã đến lúc cần thiết
nâng cao nhận thức của sinh viên về SHTT. Sinh viên là những cán bộ khoa học
trong tương lai, những người thực hiện hoạt động sáng tạo nên không thể thiếu
những kiến thức về SHTT. Những sinh viên ngay từ khi cịn ngồi trên ghế nhà
trường cần có một cách tiếp cận rõ ràng không chỉ đối với việc tôn trọng quyền
SHTT của người khác, mà cần tích cực hơn dưới góc độ mình có thể sử dụng, khai
thác gì từ việc bảo hộ quyền SHTT. Có như vậy, những cán bộ khoa học tương lai
mới có thể khai thác được thế mạnh của khoa học, làm chủ được công nghệ khi ra
lập nghiệp và phục vụ đất nước.
Nhận thức rõ về vai trò của vấn đề SHTT đối với sự phát triển của đất nước,
1

* Thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ và đảm bảo quyền SHTT là hoạt động của ba Ủy ban trụ cột của Tổ
chức Thương mại thế giới.

10 


Nhà nước đã xác định một cách cụ thể và rõ ràng những nội dung của Chính sách
SHTT trong Luật SHTT năm 2005:
1. Công nhận và bảo hộ quyền SHTT của tổ chức, cá nhân trên cơ sở bảo
đảm hài hồ lợi ích của chủ thể quyền SHTT với lợi ích công cộng; không bảo hộ
các đối tượng SHTT trái với đạo đức xã hội, trật tự cơng cộng, có hại cho quốc
phịng, an ninh.
2. Khuyến khích, thúc đẩy hoạt động sáng tạo, khai thác tài sản trí tuệ nhằm
góp phần phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân.
3. Hỗ trợ tài chính cho việc nhận chuyển giao, khai thác quyền SHTT phục

vụ lợi ích cơng cộng; khuyến khích tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài tài
trợ cho hoạt động sáng tạo và bảo hộ quyền SHTT. (Đ.8.1-3)
Việc triển khai những nội dung này vào cuộc sống trước tiên phải thông qua
hoạt động giáo dục và đào tạo với vai trò là cỗ máy cái để phát triển kinh tế, xã hội
và văn hóa. Cách thức triển khai này đảm bảo thành công do việc phát triển các
hoạt động giáo dục, đào tạo về SHTT một cách khoa học, có cơ sở, có hệ thống.
SHTT là một vấn đề phức tạp nên thực tế cần phát triển trước tiên là các hoạt động
giảng dạy và đào tạo về SHTT trong các trường ĐH. Xuất phát từ nhận thức này,
các nội dung về giảng dạy và đào tạo về SHTT đã trở thành một bộ phận cấu thành,
không thể tách rời của Chính sách quốc gia về SHTT. Cụ thể:
“Ưu tiên đầu tư cho việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức, các đối tượng liên quan làm công tác bảo hộ quyền SHTT và nghiên cứu,
ứng dụng khoa học - kỹ thuật về bảo hộ quyền SHTT” (Đ.8.4 Luật SHTT 2005).
Những nội dung giảng dạy và đào tạo về SHTT đã được cụ thể hóa trong các
Nghị định của Chính phủ, góp phần nhanh chóng đưa các nội dung này vào cuộc
sống. Việc cụ thể hóa các quy định đối với việc giảng dạy và đào tạo về SHTT
được thực hiện trên tất cả các lĩnh lực của quyền SHTT và đều dựa trên nguyên tắc
ưu tiên phát triển.
Nghị định số 100/2006/NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ
Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của BLDS, Luật SHTT về
quyền tác giả và quyền liên quan khẳng định yêu cầu đưa các nội dung quyền tác
giả và quyền liên quan SHTT vào toàn bộ hệ thống giáo dục và đào tạo của Việt
Nam. Bên cạnh việc “Tăng cường giáo dục kiến thức về quyền tác giả, quyền liên
quan trong hệ thống trường học các cấp”, Điều 5 của Nghị định này chỉ rõ: “Bộ
Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với Bộ Văn hố - Thông tin đưa nội dung
giảng dạy về quyền tác giả, quyền liên quan vào chương trình giáo dục ĐH, CĐ và
trung học chuyên nghiệp”. Đây chính là cơ sở pháp lý cho việc triển khai hoạt
động giảng dạy và đào tạo về SHTT trong các trường ĐH. Ở đây việc đưa hay
khơng đưa vào Chương trình đào tạo khơng cịn là câu hỏi nữa. Ngược lại, đây là
nghĩa vụ của các cá nhân, tổ chức có liên quan, mà trước tiên là Bộ Giáo dục và

11 


Đào tạo, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, cũng như của các trường ĐH. Việc
chậm trễ triển khai sẽ là sự vi phạm phát luật một cách có chủ ý, nhưng quan trọng
hơn, việc chậm trễ này sẽ làm giảm năng lực của Việt Nam để đáp ứng việc hội
nhập quốc tế và phát triển đất nước một cách chủ động và thành công.
Tương tự như vậy, trong lĩnh vực SHCN các yêu cầu đối với giảng dạy và
đào tạo được làm rõ trong Nghị định số 103/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm
2006 của Chính phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
SHTT về SHCN. Với chức năng chủ trì quản lý nhà nước về SHTT, Bộ Khoa học
và Công nghệ có trách nhiệm “Chủ trì, phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ
Tư pháp xây dựng chương trình đào tạo, tổ chức đào tạo, bồi dưỡng kiến thức,
pháp luật về SHCN” (Đ.3.1). Đối với các chương trình đào tạo pháp luật về SHCN,
“Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tư
pháp quy định cụ thể về Chương trình đào tạo pháp luật về SHCN” (Đ.27.1), trên
cơ sở đó thực hiện đào tạo nghề cho các cá nhân có nhu cầu trong xã hội đối với
dịch vụ đại diện SHCN. Quan trọng hơn, Nghị định cụ thể hóa các nhiệm vụ của
các cơ quan chức năng trong phát triển hoạt động giảng dạy và đào tạo về SHCN ở
các trường ĐH nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội một cách toàn diện và đầy đủ nhất.
Theo Đ.30 của Nghị định:
1. Bộ Khoa học và Cơng nghệ chủ trì, phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo,
Bộ Tư pháp quy định chi tiết về nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng về
SHCN.
2. Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ tổ chức xây
dựng nội dung, chương trình bồi dưỡng kiến thức SHCN cho các chức danh tư
pháp.
3. Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan tổ
chức việc bồi dưỡng về SHCN cho những người làm công tác quản lý nhà nước,
thẩm định, giám định, xử lý vi phạm, xâm phạm về SHCN.

4. Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Bộ Khoa học và
Công nghệ xây dựng chương trình và tổ chức việc đào tạo về SHCN trong các cơ
sở đào tạo.
Tóm lại, nhu cầu cán bộ có trình độ chun mơn cao đồng thời có kiến thức
về SHTT để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa sẽ tăng cao trong các năm tới. Với hoạt động giảng dạy và đào tạo về SHTT
của các trường ĐH khá nghèo nàn và lạc hậu hiện nay khiến chúng ta không thể
không đánh giá một cách toàn diện và xây dựng những định hướng cho hoạt động
giảng dạy và đào tạo về SHTT trong thời gian tới theo hướng thi hành tốt các quy
định có liên quan của pháp luật Việt Nam được nêu ra ở trên, góp phần vào thành
cơng của sự phát triển đất nước theo hướng đổi mới và hội nhập. Nghiên cứu của
Đề án này là một tiếng nói góp phần giải quyết nhiệm vụ này.

12 


CHƯƠNG 1
THỰC TRẠNG GIẢNG DẠY VÀ ĐÀO TẠO VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ TRONG
CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC
1.1.

Nhận thức chung đối với giảng dạy và đào tạo về SHTT

Nghiên cứu trong Đề án tuy chú trọng đến tính thực tiễn của vấn đề nhiều
hơn, song khơng vì thế bỏ qua các nội dung mang tính lý luận làm nền tảng cho
các nghiên cứu thực tiễn. Vấn đề cần được nghiên cứu là hai nội dung “giảng dạy
về SHTT” và “đào tạo về SHTT”.
Một số tác giả cho rằng bản thân thuật ngữ đào tạo có nội hàm rộng, bao
trùm nhiều nội dung khác, trong đó có giảng dạy. Hay nói một cách khác, giảng
dạy là một phần của đào tạo. Nhìn chung, ý kiến này có nhiều điểm hợp lý. Tuy

nhiên, việc đặt mục tiêu nghiên cứu của Đề án không chỉ dừng lại ở việc đào tạo
cán bộ chuyên môn về SHTT. Đề án đặt một trọng tâm nghiên cứu vào hoạt động
phổ biến kiến thức về SHTT trong các trường ĐH. Chính vì vậy, Đề án sử dụng cả
hai thuật ngữ “giảng dạy” và “đào tạo” tương ứng với hai hoạt động được tập trung
nghiên cứu.
Thực vậy, “giảng dạy” được hiểu là “Truyền thụ tri thức”1. Quá trình truyền
thụ tri thức về SHTT cho sinh viên là một trong những mục tiêu cơ bản mà Đề án
hướng tới. Việc truyền thụ kiến thức ở đây mang tính phổ cập. Những kiến thức
SHTT khá mới mẻ với các nhà khoa học – giảng viên trong các trường ĐH của
Việt Nam vốn quen với việc nghiên cứu theo kế hoạch và nhiệm vụ của Nhà nước,
và càng mới so với sinh viên. Hàng loạt vấn đề liên quan đến quyền SHTT trong
các trường ĐH, và tiếp đó là các cơng việc mà sinh viên sau khi tốt nghiệp chưa
được giới thiệu tính đến đặc thù của quyền SHTT. Điều này có nghĩa là mối quan
hệ giữa quyền SHTT với các hoạt động kinh tế, văn hóa và xã hội chưa được coi
trọng. Đây là thực tiễn đáng báo động do vai trò của quyền SHTT ngày càng lớn
đối với phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
Nhu cầu phổ cập kiến thức SHTT rất lớn. Thực khó tưởng tượng, một nhà
kinh tế lại chưa hiểu biết về một loại tài sản cơ bản trong nền kinh tế thị trường
thời kỳ tồn cầu hóa là tài sản trí tuệ. Chỉ một tài sản trí tuệ đã có thể so sánh được
với tổng thu nhập quốc dân của một nước như thương hiệu “coca-cola” với giá trị
67 tỷ US$2. Cũng như vậy, sẽ không hợp lý khi một nhà khoa học nghiên cứu về
một giải pháp kỹ thuật lại không biết rằng kết quả nghiên cứu của mình sẽ khơng
được bảo hộ độc quyền để khai thác thương mại nếu nó bị bộc lộ cơng khai, hoặc
đơn giản hơn là xác định xem mình có những quyền gì đối với các kết quả nghiên
cứu được tạo ra. Chính cái “khơng hợp lý” này tồn tại ở Việt Nam là một trong
những nguyên nhân dẫn đến thực trạng “đau lòng” là trong năm 2005 Việt Nam
1
2

Từ điển Tiếng Việt trực tuyến />* Theo Interbrand and BusinessWeek Rank the Best Global Brands by Value for 2006.


13 


chỉ có một bằng sáng chế đăng ký quốc tế theo Tổ chức SHTT thế giới (WIPO)1.
Tuy số liệu này có thể chưa chính xác và khách quan, nhưng cũng là một tiếng
chuông cảnh tỉnh về nhận thức của giới khoa học về SHTT. Cũng không kém phần
nghiêm trọng khi các cán bộ được đào tạo về khoa học xã hội và nhân văn không
biết cách làm thế nào để bảo vệ cho “đứa con tinh thần của mình” – những tác
phẩm, thành quả chính của hoạt động sáng tạo của mình. Đỉnh điểm của sự “khơng
hợp lý” trong thực tế của Việt Nam có lẽ là việc các luật gia chưa được trang bị
kiến thức cần thiết về quyền SHTT. SHTT đi vào cuộc sống chủ yếu thông qua
thực tiễn bảo hộ quyền SHTT. Như vậy, quyền SHTT được tiếp cập trước tiên
dưới góc độ pháp lý, địi hỏi các luật gia nhận thức rõ về loại tài sản trí tuệ. Tiếc
rằng, những sinh viên Luật của Việt Nam khi ra trường vẫn chưa định hình chính
xác về quyền SHTT và tài sản trí tuệ.
Từ phân tích trên, việc truyền thụ tri thức SHTT cần được nghiên cứu một
cách khoa học để trả lời chính xác những câu hỏi quan trọng như: Cần chuyển tải
những tri thức về SHTT nào cho giới sinh viên hiện nay? Những nhóm sinh viên
khác nhau cần tri thức về SHTT khác nhau như thế nào? Cách thức chuyển tải các
tri thức này? Định hướng khai thác và ứng dụng thông tin trong quá trình chuyển
tải tri thức cho sinh viên?... Trả lời cho các câu hỏi này được thực hiện thông qua
giải quyết nhiệm vụ “giảng dạy về SHTT” trong các trường ĐH. Ở đây khơng tập
trung khía cạnh chun mơn nghề nghiệp bởi các kiến thức về SHTT được phổ cập
không nhằm mục đích tạo nên các chuyên gia về SHTT. Các chuyên gia theo nghĩa
này đòi hỏi hoạt động đào tạo chuyên ngành về SHTT.
“Đào tạo” được hiểu là “làm cho trở thành người có năng lực theo những
tiêu chuẩn nhất định” 2. Đào tạo về SHTT là việc tạo ra các chuyên gia có năng lực
về SHTT. Tiêu chuẩn đối với các chuyên gia là sự am hiểu lĩnh vực SHTT, có khả
năng giải quyết các vấn đề liên quan đến SHTT dưới các góc độ kinh tế, văn hóa,

xã hội. Như vậy, đào tạo về SHTT là một quá trình có định hướng và mang tính
chun nghiệp sâu. Việc đào tạo này cũng rất đa dạng do SHTT là một lĩnh vực
liên ngành. Một chuyên gia về SHTT khó có khả năng hiểu biết mọi khía cạnh của
vấn đề. Bên cạnh đó, SHTT lại có mối liên hệ chặt chẽ với các chuyên ngành khác
như công nghệ, nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng... Chính vì vậy, việc tiếp
cận hoạt động đào tạo về SHTT đòi hỏi rất khoa học và cẩn thận để đảm bảo “tiêu
chuẩn” của người chuyên gia được đào tạo có thể giúp người này trong hoạt động
chuyên nghiệp sau khi tốt nghiệp ra trường.
Tóm lại, Đề án tiếp cận hai vấn đề “giảng dạy” và “đào tạo” nhằm hai mục
tiêu:
- Phổ cập kiến thức SHTT trong các trường ĐH cho sinh viên các chuyên
ngành đào tạo; và
1

* Xem bài viết “2005: VN chỉ có 1 đơn đăng ký cấp bằng sáng chế!” đăng trên Báo điện tử Vietnamnet ngày
8/2/2006 ( />2
* Từ điển Tiếng Việt trực tuyến />
14 


- Đào tạo cán bộ chuyên môn về SHTT như một chuyên ngành đào tạo riêng
để tạo ra các chuyên gia về SHTT.
Việc xác định bản chất của hai hoạt động “giảng dạy” và “đào tạo” như trên
là nền tảng cho việc nghiên cứu trong Đề án theo hai hướng cụ thể: phổ cập kiến
thức SHTT dưới góc độ mơn học và đào tạo về SHTT dưới góc độ chuyên ngành
đào tạo.
1.2.

Nhận định chung về thực trạng giảng dạy và đào tạo về SHTT trong các
trường ĐH của Việt Nam


Việc bắt đầu tìm hiểu về thực trạng giảng dạy và đào tạo về SHTT có thể
thơng qua một số nét của thực tiễn sử dụng nguồn nhân lực về SHTT trực tiếp nhất
của tổ chức đại diện SHCN đối với các dịch vụ trong lĩnh vực SHCN, mà chưa tính
đến nhu cầu rộng và lớn của các chủ thể khác trong xã hội như doanh nghiệp, các
cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức khác trong xã hội. Nghiên cứu và tìm hiểu
về hệ thống đại diện SHCN và dịch vụ quyền tác giả ở Việt Nam, có thể thấy hiện
nay lực lượng này còn rất mỏng. Số chuyên gia cung cấp dịch vụ SHCN thực thụ
chỉ khoảng 230 người với khoảng 80 tổ chức dịch vụ tập trung chủ yếu tại các
thành phố lớn (Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh). Trong lĩnh vực quyền tác giả, hiện tại
Việt Nam có trên 30 tổ chức tư vấn và dịch vụ đăng ký hoạt động và cũng chỉ chủ
yếu đóng trụ sở tại Hà Nội và một số tổ chức có văn phịng đại diện hoặc chi nhánh
tại TP. Hồ Chí Minh. Trình độ chun mơn, nghiệp vụ của các Đại diện SHCN còn
nhiều hạn chế thể hiện qua chất lượng đơn bảo hộ SHCN được nộp qua Đại diện
còn chưa cao. Các hoạt động tư vấn và dịch vụ về quyền tác giả chủ yếu dừng lại ở
việc nộp hồ sơ đăng ký xin cấp giấy chứng nhận quyền tác giả. Trong vòng 10 năm
qua, tỷ lệ đơn đăng ký bảo hộ quyền SHCN của người Việt Nam chỉ chiếm khoảng
3% so với gần 97% là đơn đăng ký của người nước ngoài1. Tuy các số liệu thống
kê nêu trên chưa nói hết được thực trạng nhu cầu đối với giảng dạy và đào tạo về
SHTT, nhưng về cơ bản có thể thấy rõ nhu cầu chung của xã hội và nên kinh tế.
Việc đáp ứng các nhu cầu này theo thực tiễn và quy luật chung là thông qua hệ
thống giáo dục ĐH, CĐ của mỗi nước, kể cả Việt Nam.
Khẳng định nhu cầu phổ cập và đào tạo về SHTT càng làm gia tăng sự quan
ngại về việc thực hiện các hoạt động này trong các trường ĐH của Việt Nam vì
giảng dạy và đào tạo SHTT của các trường này khá nghèo nàn và lạc hậu.
Tình hình giảng dạy và đào tạo về SHTT hiện nay có thể khái quát qua
những điểm sau:
+ Hiện nay chưa có trường ĐH hoặc viện nghiên cứu nào có chuyên ngành
đào tạo về SHTT. Bắt đầu từ khóa học 2005-2006, Khoa Khoa học quản lý, trường
ĐH Khoa học xã hội và Nhân văn, ĐH Quốc gia Hà Nội đã mở chuyên ngành đào

tạo “Quản lý về SHTT” với 11 sinh viên, tuy nhiên, việc đào tạo này chỉ mang tính
1

ĐH Quốc gia Hà Nội, báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu về Hoàn thiện cơ chế thực thi pháp luật về SHTT
trong tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam (mã số: QGTĐ.03.05, chủ trì: PGS.TS. Nguyễn Bá Diến).

15 


chất “định hướng” do các kiến thức chuyên môn về SHTT chỉ được giới thiệu một
cách hạn chế và đội ngũ cán bộ giảng dạy chưa đủ. Mặc dù chuyên ngành đào tạo
“Quản lý về SHTT” chưa phải là chuyên ngành truyền thống đáp ứng nhu cầu
chính của xã hội nhưng số liệu về việc làm của sinh viên ra trường thể hiện khá rõ
nhu cầu của xã hội đối với kiến thức SHTT nói chung, và đội ngũ chuyên gia về
SHTT nói riêng. Cụ thể, 11 sinh viên nói trên đã tốt nghiệp tháng 6 năm 2006, cho
đến tháng 8 năm 2006 đã có 9/11 sinh viên tìm được việc làm đúng ngành đào tạo,
1/11 tìm được việc làm gần với ngành đào tạo, 1/11 tạm thời chưa tìm được việc
làm.
+ Cho đến nay, hầu như chưa có trường ĐH kỹ thuật nào có nội dung giảng
dạy về SHTT trong chương trình đào tạo của mình. Một số nội dung cơ bản tối
thiểu về SHTT chỉ được giảng dạy tại các cơ sở đào tạo luật và cũng trong khuôn
khổ của môn học khác như Luật Dân sự hoặc Tư pháp quốc tế. Trong số các cơ sở
đào tạo này, một số bắt đầu tổ chức môn học về SHTT nhưng với thời lượng và nội
dung rất khác nhau, phần lớn chỉ dừng lại ở 15 đến 30 tiết học. Việc dạy và học
này chủ yếu dựa vào sự chuẩn bị và nhận thức của giáo viên dạy kiêm nhiệm khi
phải phụ trách các môn học khác.
+ Các giảng viên có giảng dạy về SHTT hầu hết chưa được đào tạo chuyên
ngành về SHTT. Họ chỉ được đào tạo về SHTT một cách hạn chế trong chương
trình đào tạo cử nhân luật tại các trường ĐH, do đó, cũng khơng dễ dàng để tự
mình xây dựng và hồn thiện chương trình đào tạo cho một mơn học phức tạp và

liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhất là kinh tế và luật, như SHTT. Chương trình học
có các nội dung SHTT được giới thiệu ở một số trường ĐH có đào tạo cử nhân
Luật hiện nay khác nhau khá lớn về nội dung, thời lượng. Sở dĩ có sự khác biệt lớn
như vậy là do có sự khác nhau về nhận thức đối với chính mơn học: ý nghĩa, nội
dung, và các khía cạnh liên quan.
+ Phương pháp dạy và học SHTT ở Việt Nam chưa đem lại hiệu quả mong
muốn do chưa có kinh nghiệm. Đặc biệt, chưa có sự chuẩn bị đầy đủ và cần thiết
về tài liệu, thực tiễn cho việc giảng dạy và học tập. Kết quả tất yếu là sinh viên
chưa chủ động trong học tập, chưa có động lực và quyết tâm nghiên cứu những vấn
đề liên quan đến SHTT. Các cơ sở đào tạo có nội dung đào tạo về SHTT đang tìm
cách đổi mới và phát triển hoạt động giảng dạy và đào tạo về SHTT như: ĐH Luật
Hà Nội, ĐH Khoa học xã hội và Nhân văn, và Khoa Luật (ĐH Quốc gia Hà Nội),
ĐH Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Khoa Luật (ĐH Cần Thơ)...
Để kiểm chứng cho những nhận định nêu trên, trong khuôn khổ của Đề án đã
thực hiện một loạt các khảo sát quy mô dưới nhiều góc độ khác nhau liên quan
đến giảng dạy và đào tạo về SHTT nhằm đánh giá mức độ quan tâm đối với hoạt
động giảng dạy và đào tạo về SHTT và thực trạng của hoạt động này trong các
trường ĐH.
a) Khảo sát đối với cán bộ, giảng viên các trường ĐH
Việc khảo sát trước tiên được thực hiện với đội ngũ cán bộ, giảng viên ĐH –
16 


những người trụ cột, đóng góp quyết định cho chất lượng giảng dạy và đào tạo về
SHTT. Số cán bộ, giảng viên các trường, học viện tham gia cung cấp ý kiến là 241
đại diện cho 57 khoa, trường, học viện thuộc các lĩnh vực hoạt động khác nhau với
các đặc điểm đào tạo khác nhau. Trên cơ sở sự tham gia đông đảo và đa dạng này,
kết quả khảo sát sẽ khách quan và toàn diện, phục vụ tốt cho những đánh giá liên
quan. Tuyệt đại bộ phận cán bộ, giáo viên tham gia khảo sát có quan tâm đến
SHTT (200/241 chiếm gần 83%), trong đó chỉ có 56 người hoạt động trực tiếp liên

quan đến SHTT, chiếm trên 23%. Điều này chứng tỏ ý kiến đưa ra có cơ sở thực
tiễn, qua đó đánh giá một cách cơ bản chính xác về thực trạng và nhu cầu đào tạo,
giảng dạy liên quan đến SHTT. Với sự quan tâm đến SHTT, tuyệt đại bộ phận cán
bộ, giáo viên tham gia khảo sát có kiến thức về SHTT tương đối tốt, về cơ bản hiểu
biết về SHTT với 193 người được hỏi, chiếm trên 80%. Từ đây, những đánh giá về
các khía cạnh liên quan của SHTT, đặc biệt trong lĩnh vực đào tạo, sẽ chính xác
hơn. Đặc biệt, có tới 19 cán bộ, giáo viên có sự hiểu biết rất tốt về SHTT (chiếm
7,9%) và khơng những có những đánh giá xác đáng mà còn đưa ra những ý kiến
đóng góp có giá trị cho việc phát triển hoạt động giảng dạy và đào tạo về SHTT ở
Việt Nam.
Một trong số các kiến có giá trị là của TS. Đinh Trung Tụng, Thứ trưởng
Bộ Tư pháp, giảng viên kiêm nhiệm của Khoa Luật trực thuộc ĐH Quốc gia Hà
Nội và trường ĐH Luật Hà Nội. Ông khẳng định “Cần sớm có một mơn học độc
lập về SHTT để đáp ứng yêu cầu đào tạo cử nhân Luật và đào tạo sau ĐH”.
Những thày giáo và là những nhà quản lý hàng đầu tại nhiều trường ĐH (Hiệu
trưởng, hay Trưởng phòng Đào tạo, nghiên cứu khoa học...) nhận định rất tích cực
về nhu cầu giảng dạy và đào tạo về SHTT. Hầu hết trong số được khảo sát này cho
rằng nên phát triển hoạt động giảng dạy và đào tạo về SHTT trong các trường ĐH,
các học viện.
Thực trạng giảng dạy và đào tạo về SHTT hiện lên khá rõ qua ý kiến của các
cán bộ, giảng viên các trường ĐH. Theo khảo sát, đến 161 ý kiến chiếm 66,8%
khẳng định khoa, trường, học viện chưa có nội dung SHTT trong chương trình đào
tạo của mình. Nếu tính cả số 45 ý kiến về việc nội dung SHTT mới được đưa vào
giảng dạy thì con số này chiến đến 206 ý kiến, tức 85,5%. 45 ý kiến chỉ ra các cơ
sở đào tạo đã bắt tay vào giảng dạy và đào tạo về SHTT trong thời gian vừa qua,
chiếm 18,7%, đồng thời cho thấy có sự chuyển biến trong nhận thức mạnh mẽ của
các trường, học viện, khoa đối với vấn đề SHTT nói chung và giảng dạy SHTT nói
riêng. Bên cạnh đó, một thực trạng đáng lo ngại khi còn tới 110 ý kiến, chiếm
45,6% cho thấy các khoa, trường, học viện chưa có kế hoạch để đưa nội dung
SHTT vào Chương trình đào tạo của mình, kể cả dưới góc độ đơn giản nhất là một

phần trong một mơn học có liên quan.
Một nội dung đáng quan tâm nữa liên quan đến những nội dung SHTT được
đưa vào các trường ĐH. Ở đây chủ yếu dừng lại ở một nội dung trong một mơn
học mà chưa có vị trí độc lập trong Chương trình đào tạo (chiếm 52% số ý kiến
được hỏi). Việc xây dựng một môn học độc lập về SHTT hầu như chỉ có trong các
17 


cơ sở đào tạo về Luật, trong đó rất hiếm khoa, trường hay học viện có từ 2 mơn
học về SHTT trở lên (chiếm 17,7%). Ngay những cơ sở đào tạo đã có nội dung về
SHTT trong Chương trình đào tạo thì việc đáp ứng yêu cầu đào tạo vẫn còn là vấn
đề lớn. Phần lớn các ý kiến được hỏi cho rằng những nội dung về SHTT được đưa
vào Chương trình hiện chưa đáp ứng được yêu cầu đào tạo (47 ý kiến, chiếm
59,5%). Trong đó có tới 12 ý kiến khẳng định nội dung về SHTT hoàn toàn chưa
đáp ứng yêu cầu đào tạo, chiếm 15,2%, cao hơn rất nhiều so với 3 ý kiến cho rằng
nội dung về SHTT đã đáp ứng tốt yêu cầu đào tạo (chiếm 3,8%). Điều này khẳng
định nhu cầu đối với việc hồn thiện chương trình đào tạo nhằm xác định đúng vị
trí của nội dung SHTT, cải thiện chất lượng các chuyên ngành đào tạo của các
khoa, trường, học viện.
Ngay tính hợp lý của việc đưa các nội dung về SHTT vào giảng dạy và đào
tạo cũng đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện. Về cơ bản, các ý kiến cho
là việc dành thời lượng cho nội dung SHTT của khoa, trường, học viện mình là
hợp lý (43 ý kiến, chiếm 54,4%). Đây là đánh giá dựa trên nội dung về SHTT hiện
đang được giảng dạy ở các trường mà 59,5% các ý kiến đã khẳng định là chưa đáp
ứng được yêu cầu đào tạo và được chỉ ra ở trên. Khi có sự thay đổi nội dung về
SHTT trong chương trình đào tạo của các khoa, trường, học viện thì thời lượng
cũng cần được thay đổi theo một cách tương ứng. Trong bối cảnh đánh giá dựa trên
những nội dung về SHTT hiện có, đến 30 ý kiến cho rằng thời lượng dành cho các
nội dung này là chưa hợp lý, chiếm 38%. Đây thực sự vẫn là một tỷ lệ khá cao.
Những điều kiện cần thiết cho giảng dạy và đào tạo về SHTT được thể hiện

qua những con số đáng báo động. Mặc dù phần lớn các ý kiến cho rằng đội ngũ
giảng viên của khoa, trường, học viện về cơ bản đáp ứng yêu cầu (56 ý kiến, chiếm
70,9%), nhưng cần nhận thấy là đội ngũ giảng viên này thực tế chỉ giới thiệu một
vài khía cạnh rất hẹp của SHTT trong một mơn học không chuyên về SHTT
(chiếm 52%). Để tăng cường nội dung SHTT trong Chương trình đào tạo với các
mơn học riêng và chuyên sâu về SHTT thì số giáo viên này khó đáp ứng vì hầu hết
giảng dạy khơng chun trách về SHTT. Lĩnh vực giảng dạy chính của họ thường
là các lĩnh vực chuyên môn khác. Ngay ở các khoa, trường, học viện có giảng dạy
về SHTT thì đội ngũ cán bộ giảng dạy đối với nội dung này rất mỏng. Những cơ sở
đào tạo có cán bộ có chun mơn hẹp về SHTT lại càng ít, như Khoa Khoa học
quản lý (Trường ĐH Khoa học xã hội và Nhân văn, ĐH Quốc gia Hà Nội) có
chuyên ngành đào tạo “khoa học quản lý chuyên về SHTT” cũng chỉ có 3 giảng
viên về SHTT và họ trước đây cũng không được đào tạo chuyên về SHTT. Tương
tự như vậy, Khoa Luật trực thuộc ĐH Quốc gia hoặc Khoa Luật kinh tế thuộc
Trường ĐH Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội chỉ có 2 giảng viên tham gia giảng
dạy về SHTT. Thực tế, một số lượng lớn các khoa, trường, học viện phải sử dụng
đội ngũ giảng viên kiêm nhiệm, giảng dạy theo hợp đồng... để đáp ứng nhu cầu
giảng dạy về SHTT của mình.
Một điều kiện khác khơng thẻ thiếu trong giảng dạy và đào tạo về SHTT là
tài liệu, nhưng thực tế có thể khẳng định việc hầu như khơng có tài liệu giảng dạy
18 


về SHTT trong các trường ĐH. Các khoa, trường, học viện thực tế chưa chuẩn bị
được điều kiện cần thiết cho giảng dạy và đào tạo về SHTT. Ngoài việc các cơ sở
đào tạo chưa xây dựng được giáo trình về SHTT, các cơ sở này cũng chưa có hệ
thống tài liệu tham khảo cần thiết phục vụ cho việc giảng dạy và đào tạo về SHTT.
49 ý kiến (62%) khẳng định cho nội dung này. Đặc biệt không một ý kiến được hỏi
cho rằng cơ sở đào tạo đã đáp ứng được tài liệu cho nhu cầu giảng dạy và đào tạo
về SHTT. Đây là thực tế đáng lo ngại mà quá trình phát triển hoạt động giảng dạy

và đào tạo về SHTT ở các khoa, trường, học viện phải tính đến.
Trong bối cảnh rất đáng lo ngại về thực trạng giảng dạy và đào tạo về SHTT
như trên, vẫn có các ý kiến lạc quan về triển vọng phát triển giảng dạy và đào tạo
SHTT trong các trường ĐH. Không một ý kiến nào phản đối khả năng đưa các nội
dung về SHTT vào chương trình đào tạo của các khoa, trường, học viện. Tới 228 ý
kiến (chiếm 94,6%) khẳng định sự cần thiết đưa nội dung về SHTT vào giảng dạy
trong các khoa, trường, học viện. Trong đó tới 141 ý kiến (chiếm 58,5%) nhất trí
với việc đưa ngay các nội dung về SHTT vào giảng dạy. Những tỷ lệ cao này chỉ ra
nhu cầu thực tế đối với kiến thức SHTT phục vụ cho hoạt động đào tạo, đáp ứng
nhu cầu của nền kinh tế thị trường thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. Để đáp ứng
nhu cầu thực tiễn này, tuyệt đại bộ phận các ý kiến (153 ý kiến, chiếm 63,5%) thấy
cần thiết xây dựng môn học độc lập về SHTT cho phù hợp với đặc thù của đối
tượng và yêu cầu đào tạo. SHTT có liên quan đến mọi mặt của đời sống xã hội thì
việc đầu tư cho một mơn học cũng là điều dễ hiểu. Ở đây cần lưu ý kiến về khả
năng đưa các nội dung về SHTT vào thành một phần của môn học khác và đồng
thời xây dựng môn học độc lập. Đây là xu hướng phổ biến hiện nay trên thế giới,
theo đó, tùy thuộc vào đặc thù đào tạo và đối tượng đào tạo, nhiều môn học về
SHTT hoặc nhiều môn học chuyên ngành khác nhau đưa nội dung SHTT vào được
xây dựng và triển khai.
Những khó khăn mà các trường phải đối mặt khi phát triển hoạt động giảng
dạy và đào tạo về SHTT khá nhiều và đều là những vấn đề lớn, khó giải quyết.
Các kiến được hỏi quan tâm hàng đầu là có được đội ngũ giảng viên đáp ứng được
yêu cầu mà hiện nay chưa có một cơ sở đào tạo nào ở Việt Nam có được. Cụ thể,
160 ý kiến (chiếm 66,4%) khẳng định sự lo ngại này. Những vấn đề khác mà
những người được hỏi lo ngại lần lượt là: Nội dung về SHTT được đưa vào giảng
dạy (112 ý kiến, chiếm 46,5%); Tài liệu tham khảo (101 ý kiến, chiếm 41,9%); Và
thời gian dành cho môn học SHTT dự định đưa vào (100 ý kiến, chiếm 41,5%).
Chương trình đào tạo của các trường hiện có sự quản lý khá chặt thơng qua
Chương trình khung của Bộ Giáo dục và Đào tạo, việc đưa thêm môn học mới vào
Chương trình khó thực hiện. Vì vậy, tỷ lệ cao các ý kiến lo ngại về khả năng tìm ra

thời gian thích hợp cho mơn học SHTT. Ngồi ra, những vấn đề khác như sự quan
tâm của nhà trường đối với phát triển hoạt động giảng dạy SHTT và sự quan tâm
của sinh viên đối với nội dung SHTT được giới thiệu cũng dành được tỷ lệ quan
tâm cao, đến 70 ý kiến (chiếm 29%) và 64 ý kiến (chiếm 26,6%).
Ngoài những điều lo ngại nêu trên, nhiều ý kiến bày tỏ những lo ngại khác
19 


có thể ảnh hưởng đến việc đưa các nội dung về SHTT vào giảng dạy tại các khoa,
trường, và học viện. Đó là những lo ngại về các vấn đề cụ thể sau:
- Trang thiết bị giảng dạy;
- Cập nhật thơng tin bằng tiếng nước ngồi;
- Chưa có kinh nghiệm về giảng dạy SHTT;
- Kinh phí của Nhà nước hỗ trợ cho trường và cho giáo viên nếu có liên quan
đến khoa học, kỹ thuật;
- Xác định tính thực tiễn hay tính thực hành của việc giảng dạy về SHTT;
- Điều kiện thực tập và kiến tập của sinh viên ở các cơ quan pháp luật và cơ
quan quản lý nhà nước về SHTT là khó khăn;
- Khơng có kinh phí mua tài liệu gốc (có bản quyền) để tham khảo;
- Khả năng cập nhật nội dung giảng dạy;
- Xã hội sẽ tiếp nhận nguồn nhân lực liên quan đến chun mơn này như thế
nào?
- Việc xác định vị trí, vai trị của mơn học và các tài liệu tham khảo chun
sâu có liên quan tới vấn đề SHTT khơng chỉ trong nước mà cả quốc tế;
b) Khảo sát đối với sinh viên các trường ĐH
Sinh viên là đối tượng trực tiếp chịu sự tác động của việc đưa hay không đưa
SHTT và giảng dạy và đào tạo tại các trường ĐH. Nhận thức của sinh viên là một
yếu tố quan trọng trong việc quyết định phát triển hoạt động này trong thời gian tới.
Sự hưởng ứng của sinh viên là một minh chứng rõ nét về nhu cầu thực. Những
nhận xét của sinh viên về thực trạng rất thực tế và khách quan vì sinh viên là

những người “trong cuộc”. Khảo sát được thực hiện với những số liệu sau: tổng số
phiếu khảo sát được phát ra là 700 phiếu, thu về được 496 phiếu của các sinh viên
đại diện cho 8 khoa, trường trong các lĩnh vực đào tạo khác nhau: luật, tự nhiên,
khoa học xã hội – nhân văn, kinh tê - tài chính theo một tỷ lệ khá cân đối, trong đó
có tính đến mối liên quan của các chuyên ngành đào tạo với SHTT. Do đó, ý kiến
của các sinh viên khá tồn diện đối với vấn đề giảng dạy và đào tạo về SHTT.
Mặc dù các sinh viên được khảo sát từ hầu hết các lĩnh vực đào tạo, nhưng
đáng mừng là hầu hết sinh viên đều nhận thấy mối liên quan giữa SHTT với
chun ngành học và hoạt động của mình, trong đó chỉ có 3 sinh viên cho rằng
khơng có liên quan, chiếm 0,6%. Đây là một bước tiến dài trong nhận thức của
sinh viên, trên cơ sở đó có tiền đề để thể thúc đẩy hoạt động SHTT trong các
trường ĐH, trước tiên là hoạt động giảng dạy và đào tạo.
Một điều đáng mừng nữa là trong số 99,4% sinh viên nhận thấy mối quan hệ
giữa SHTT và chuyên ngành học thì chỉ có 59 sinh viên, chiếm 11,9%, cho rằng
SHTT có ít liên quan. Trong khi đó đến 434 sinh viên, chiếm 87,5%, khẳng định
mối liên quan chặt chẽ giữa chuyên ngành học và SHTT, nhất là 37,5% còn cho có
20 


×