Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Sử dụng phương pháp giao tiếp trong dạy học môn tiếng việt góp phần phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (485.94 KB, 28 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HỐ

PHỊNG GD&ĐT CẨM THỦY

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

TÊN ĐỀ TÀI
SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP GIAO TIẾP TRONG DẠY HỌC MƠN
TẬP LÀM VĂN GĨP PHẦN PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC GIAO TIẾP
CHO HỌC SINH LỚP 3

Người thực hiện: Nguyễn Thị Lan
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Cẩm Vân, huyên Cẩm Thủy
SKKN thuộc môn: Tiếng Việt

THANH HÓA, NĂM 2021


MỤC LỤC

TRANG

A. PHẦN MỞ ĐẦU

1

1. Lí do chọn đề tài :

1


2. Mục đích nghiên cứu:.............................................................................

2

3. Đối tượng nghiên cứu:............................................................................

2

4 . Phương pháp nghiên cứu.: .....................................................................

2

B. PHẦN NỘI DUNG

3

I. CƠ SỞ LÍ LUẬN.

3

1. Phương pháp giao tiếp:......................................................................

3

2. Phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh lớp 3:....……………..........

3

3.Vai trò của phân môn Tập làm văn trong môn Tiếng Việt lớp 3:...........


5

II. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC DẠY- HỌC TẬP LÀM VĂN THEO
PHƯƠNG PHÁP GIAO TIẾP Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC HIỆN NAY: .....

6

III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP

7

1. GV phải nắm vững nguyên tắc dạy TLV theo PP giao tiếp: ................

7

2. Giáo viên phải nắm vững nội dung, mục tiêu dạy học của phân môn
tập làm văn lớp 3 và các yêu cầu cần đạt đối với năng lực giao tiếp để
thiết kế và tổ chức các hoạt động dạy học phù hợp: ...............................

7

3. Xác định hình thức tổ chức hoạt động giao tiếp trong dạy học tập làm
văn qua từng bài học cụ thể:...................................................…............

9

4. Vận dụng linh hoạt phương pháp giao tiếp với các kỹ thuật dạy học
tích cực nhằm phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh.:.............…….

16


5. Vận dụng ưu điểm của phương pháp giao tiếp để tổ chức các hoạt động

trải nghiệm trong dạy học tập làm văn nhằm phát triển năng lực giao tiếp
cho học sinh: .....................................................…………...................

17

IV. MỘT SỐ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:…………………………………

18

C. PHẦN KẾT LUẬN:……………………………………………………

19


1
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài
Xuất phát từ quan điểm xây dựng chương trình Chương trình giáo dục
phổ thông 2018 môn ngữ văn (ở cấp tiểu học, môn học này có tên là Tiếng Việt;
ở cấp trung học cơ sở và cấp trung học phổ thơng có tên là Ngữ văn) lấy việc rèn
luyện các kĩ năng giao tiếp (đọc, viết, nói và nghe) làm trục chính xun suốt cả
ba cấp học nhằm đáp ứng yêu cầu của chương trình theo định hướng năng lực [1].
Do đó năng lực giao tiếp là một trong những nội dung cần được hình thành và
phát triển đối với học sinh tiểu học. Thông qua giao tiếp, giúp học sinh trao đổi
tri thức thông tin, học tập, rèn luyện, chia sẻ các vấn đề trong cuộc sống hoạt
động và vui chơi. Phát triển năng lực giao tiếp, các em sẽ bộc lộ khả năng vốn
hiểu biết của mình cũng như phát triển các thao tác tư duy qua các hoạt động

“nghe – nói - đọc - viết”. Qua giao tiếp các em biết bày tỏ thái độ và quan điểm
của mình trong quan hệ gia đình, nhà trường và xã hội. Khi có sự tương tác tốt
sẽ là lợi thế lớn trong việc xây dựng các mối quan hệ. Chính vì vậy mà năng lực
giao tiếp là một trong những năng lực cốt lõi cần được hình thành và phát triển
thơng các môn học và hoạt động giáo dục ở bậc tiểu học.
Nhận thức được tầm quan trọng của giao tiếp, từ lâu việc dạy học trong
nhà trường đã hướng tới mục đích giao tiếp. Các mơn học đều lồng ghép việc
phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh để đảm bảo sự phát triển về nhân cách.
Các môn học được gắn kết đặc biệt, sắp xếp phân bổ hợp lý, tạo điều kiện cho
sự phát triển toàn diện của học sinh , trong đó Tiếng Việt được xem là mơn học
có vị trí đặc biệt quan trọng đối với việc phát triển năng lực giao tiếp cho học
sinh. Do đặc thù môn học nên năng lực giao tiếp của học sinh có thể phát huy ở
nhiều phân mơn nhất là phân môn Tập làm văn. Tuy nhiên hiện nay việc phát
triển năng lực giao tiếp cho các em vẫn chưa được thực sự chú ý đúng mức.
Dạy học vẫn đề cao việc truyền tải kiến thức, chưa hướng vào làm nảy sinh
những nhu cầu mong muốn rèn luyện, chiếm lĩnh và phát triển năng lực giao
tiếp thông qua môn học và các hoạt động ngoài giờ lên lớp. Phát triển năng lực
giao tiếp cho học sinh còn thiếu đồng bộ, tồn diện. Vì vậy, nhiệm vụ phát triển
năng lực giao tiếp cho học sinh tiểu học ngày càng cấp thiết và đòi hỏi sự quan
tâm, đầu tư nhiều hơn những lợi ích mà nó mang lại cho các em.
Qua thực tế giảng dạy và dự giờ trao đổi với đồng nghiệp, tơi thấy việc
dạy và học mơn Tiếng Việt nói chung và mơn Tiếng Việt ở lớp 3 nói riêng phần
đa giáo viên thường quan tâm đến việc dạy và học khn mẫu sách giáo khoa,
máy móc, đảm bảo quy trình, thiếu tính chân thực. Học sinh trong giao tiếp vẫn
cịn học và nói, viết văn theo câu mẫu, học theo khn mẫu nhất định, cảm thụ
ít, khơng có sự sáng tạo riêng của mỗi cá nhân. Rõ ràng các em vẫn chưa phát
huy hết khả năng và tính chủ động của mình trong học tập, khả năng diễn đạt
bằng ngơn ngữ của các em cịn nhiều hạn chế.



2
Để chuẩn bị tiếp cận chương trình giáo dục phổ thông 2018, Bộ Giáo dục
và Đào tạo đã ban hành Công văn số 4612/BGDĐT-GVTrH ngày 03/10/2017
Hướng dẫn thực hiện chương trình giáo dục phổ thơng hiện hành theo định
hướng phát triển năng lực và phẩm chất học sinh từ năm học 2017-2028, trong
đó “đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học” và “đổi mới phương
pháp, hình thức kiểm tra, đánh giá” là những nội dung được các nhà trường đang
tập trung thực hiện.
Với ý nghĩa đó, trong những năm vừa qua tôi đã quan tâm thực hiện “Sử
dụng phương pháp giao tiếp trong dạy học môn Tập làm văn góp phần phát
triển năng lực giao tiếp cho học sinh lớp 3” đồng thời khái quát thành kinh
nghiệm để chia sẻ cùng đồng nghiệp nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy và
học Tiếng Việt ở lớp 3 cũng như đáp ứng các yêu cầu cần đạt về năng lực của
học sinh tiểu học.
2. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu, nghiên cứu một số biện pháp nâng cao kỹ năng giao tiếp cho
học sinh lớp 3 thông qua việc dạy học môn Tập làm văn theo phương pháp giao
tiếp.
- Vận dụng dạy học theo định hướng phát triển năng lực trong môn Tập
làm văn lớp 3.
3. Đối tượng nghiên cứu
Một số biện pháp nâng cao kỹ năng giao tiếpcho học sinh lớp 3
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận:
Nghiên cứu tài liệu liên quan , đọc và hệ thống hóa liên quan đến cơ sở lí
luận của vấn đề nghiên cứu và tài liệu liên quan đến cơ sở hình thành và nâng
cao kỹ năng giao tiếp cho học sinh tiểu học,
4.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
Dự giờ, quan sát và khảo sát thực trạng học tập làm văn theo quan điểm
giao tiếp của giáo viên và học sinh lớp 3.



3
B. PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1. Phương pháp giao tiếp
Theo Richards (2006), phương pháp giao tiếp trong dạy học ngày nay là
sự tổng hợp của những yêu cầu của những yêu cầu: làm cho giao tiếp thực sự trở
thành trọng tâp của việc học ngôn ngữ, tạo cơ hội cho người học trải nghiệm
những gì họ biết; tạo cơ hội cho người học phát triển cả sự chính xác và sự trôi
chảy, việc này được đánh giá dựa trên sự liên kết các kỹ năng khác nhau như
nói, đọc và nghe cùng nhau, giáo viên cần đóng vai trò tổ chức các hoạt động
tương tác xã hội mà qua đó địi hỏi người học phải cân nhắc về ý nghĩa và tương
tác một cách có ý nghĩa.
Ở nước ta, cho đến thời điểm này, người ta đã quá quen thuộc với cụm từ
“dạy học theo định hướng giao tiếp” hay “dạy học theo quan điểm giao tiếp”,
song phương pháp giao tiếp chưa thực sự phổ biến. Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên
cứu, trong các tài liệu, bài báo khoa học đã sử dụng đến thuật ngữ này. Từ năm
2007, trong cuốn “Phương pháp dạy học tiếng Việt”, Lê A và cộng sự đã có đề
cập đến phương pháp giao tiếp, họ khăng định “Phương pháp giao tiếp là
phương pháp quan trọng trong dạy học tiếng Việt”.
Mục đích của dạy Tiếng Việt ở Tiểu học nhằm “Hình thành và phát triển ở
học sinh các kỹ năng sử dụng tiếng Việt (đọc, viết, nghe, nói) để học tập và giao
tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi” [2]. Việc dạy đọc, viết, nghe và
nói đều sử dụng phương pháp giao tiếp để giúp học sinh có khả năng diễn đạt,
trình bày bằng ngơn ngữ, trong đó việc dạy nói và nghe không chỉ phát triển
năng lực giao tiếp mà còn giáo dục phẩn chất và nhân cách của học sinh.
2. Phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh lớp 3
2.1. Phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh tiểu học
Năng lực giao tiếp là khả năng nhận biết mau lẹ những biểu hiện bên

ngồi và đốn biết tâm lý bên trong của con người (với tư cách là đối tượng giao
tiếp) đồng thời biết sử dụng phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ, biết cách định
hướng để điều khiến q trình giao tiếp đạt một mục đích nhất định.
Đối với học sinh tiểu học, năng lực giao tiếp yêu cầu ở các mức độ sau:
- Xác định mục đích, nội dung, phương tiện và thái đội giao tiếp. Yêu cầu
ở học sinh nhận ra được ý nghĩa của giao tiếp trong việc đáp ứng các nhu cầu
của bản thân; Tiếp nhận được những văn bản về đời sống, tự nhiên và xã hội có
sử dụng ngơn ngữ kết hợp với hình ảnh như truyện tranh, bài viết đơn giản;
Bước đầu biết sử dụng ngôn ngữ kết hợp với hình ảnh, cử chỉ để trình bày thơng
tin và ý tưởng; Tập trung chú ý khi giao tiếp; nhận ra được thái độ của đối tượng
giao tiếp.


4
- Thiết lập, phát triển các quan hệ xã hội; điều chỉnh và hoá giải các mâu
thuẫn. Yêu cầu ở học sinh Biết cách kết bạn và giữ gìn tình bạn; Nhận ra được
những bất đồng, xích mích giữa bản thân với bạn hoặc giữa các bạn với nhau;
biết nhường bạn hoặc thuyết phục bạn.
Như vậy, phát triển năng lực giao tiếp giúp cho mỗi học sinh trong quá
trình tương tác với cá nhân, tương tác trong nhóm với tập thể có hiệu quả hơn.
Giúp các em có kỹ năng bày tỏ suy nghĩ, cảm xúc và tâm trạng của mình, giúp
người khác hiểu rõ mình hơn. Bên cạnh đó, năng lực hợp tác và làm việc nhóm
là các yếu tố quan trọng trong việc phát triển năng lực giao tiếp, đem lại hiệu
quả làm việc trong nhóm và giúp cá nhân tăng cường sự tự tin và hiệu quả trong
việc thương thuyết, xử lý tình huống và giúp đỡ người khác.
2.2. Phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh thông qua phân môn
Tập làm văn
Mục tiêu của giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ
sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm
mĩ và các kĩ năng cơ bản, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam

xã hội chủ nghĩa, bước đầu xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị
cho học sinh tiếp tục học trung học cơ sở.
Chương trình Tiểu học được cấu trúc theo hai giai đoạn học tập:
- Giai đoạn các lớp 1, 2, 3 gồm 6 mơn học: Tiếng Việt, Tốn, Đạo dức,Tự
nhiên và xã hội, Nghệt thuật, Thể dục.
- Giai đoạn các lớp 4, 5 gồm 9 mơn học: Tiếng Việt, Tốn, Đạo đức, Khoa
học, Lịch sử và Địa lý, Kĩ thuật, Âm nhạc, Mĩ thuật, Thể dục.
Các mơn học có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, có vai trị bổ sung, hỗ trợ
cho nhau giúp cho các em phát triển một cách tồn diện. Trong đó phân mơn
Tiếng Việt chiếm số thời lượng nhiều nhất và bao gồm các phân môn: Học
vần, Tập đọc, Luyện từ và câu, Chính tả, Tập làm văn.
Mục tiêu cơ bản của môn Tiếng Việt ở Tiểu học là nhằm:
+ Hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt
(nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của
lứa tuổi.
+ Thông qua việc dạy và học Tiếng Việt góp phần rèn luyện các thao tác
của tư duy.
+ Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt và những
hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người về văn hóa, văn học của
Việt Nam và nước ngồi.
+ Bồi dưỡng tình u Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự
trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách của con
người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


5
Tập làm văn là phân môn sử dụng tổng hợp các kiến thức của các phân
mơn cịn lại trong Tiếng Việt. Phân môn Tập làm văn cung cấp cho các em một
số các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết để từ đó sử dụng để làm cơng cụ giao tiếp.
3. Vai trị của phân mơn Tập làm văn trong mơn Tiếng Việt lớp 3

3.1. Mối quan hệ giữa Tập làm văn với các phân môn khác của Tiếng
Việt lớp 3
Phân mơn Tập làm văn có mối quan hệ rất chặt chẽ với các phân môn
khác của Tiếng Việt như: tập đọc, luyện từ và câu, chính tả.
Phân mơn Tập đọc giúp học sinh từ chỗ đọc đúng, đọc trôi chảy, diễn cảm
đến chỗ hiểu được nghĩa của từ, ý nghĩa của câu và nội dung của bài.
Phân mơn Chính tả: rèn cho học sinh biết các quy tắc và có thói quen viết
các chữ ghi Tiếng Việt đúng với chuẩn viết đúng chính tả, giúp cho học sinh có
điều kiện để sử dụng Tiếng Việt đạt hiệu quả cao trong việc học tập các bộ mơn
văn hóa, trong việc viết các văn bản, thư từ.
Phân môn Luyện từ và câu: có vai trị đặc biệt trong hệ thống ngơn ngữ.
Khơng có một vốn từ đầy đủ thì khơng thể nắm ngôn ngữ như là phương tiện
giao tiếp. Luyện từ và câu cịn phát triển năng lực, trí tuệ, ngơn ngữ, những
phẩm chất đạo đức ở trẻ em. Nó có vai trị hướng dẫn học sinh nghe nói, đọc,
viết…
Phân mơn Tập làm văn: là phân môn sử dụng tổng hợp các hiểu biết về
luyện từ và câu, chính tả, khả năng nghe nói tiếng Việt, vốn hiểu biết về đời
sống của học sinh do bài học khác nhau đem lại. Mỗi bài tập làm văn là sản
phẩm của từng cá nhân học sinh trước một đề tài. Sản phẩm này ít nhiều in
dấu ấn riêng từng em trong cách suy nghĩ, cách kể, cách tả, cách diễn đạt…Tập
làm văn lớp là sự tổng hợp nhưng cũng chắt lọc và áp dụng một cách sáng tạo
của các phân môn khác trong môn Tiếng Việt. Để viết được một đoạn văn thì
điều đầu tiên là ta ứng dụng phân môn tập đọc về cách diễn đạt văn bản. Trong
cách diễn đạt kể cả văn nói (miệng) hay viết phải lưu ý đến cách phát âm hoặc
viết đúng chính tả, cách dùng từ chính xác và diễn đạtcâu văn có đủ các bộ phận
chính, phụ của câu... dùng hình ảnh hoặc so sánh bằng các liên hệ từ... được học
từ phân môn Luyện từ và câu.
3.2. Mục đích dạy Tập làm văn cho học sinh lớp 3
Mục đích dạy học Tập làm văn cho học sinh lớp 3 là: hình thành và phát
triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) cung cấp

những kiến thức cơ bản để học sinh biết cách sử dụng tiếng Việt làm công cụ
tư duy, giao tiếp và học tập, tạo điều kiện cho học sinh độc lập về suy nghĩ,
chủ động sáng tạo, bồi dưỡng phương pháp tự học, tạo hứng thú và nhu cầu
sản sinh ngôn bản ở học sinh.


6
Như vậy, để đạt được mục tiêu đề ra mỗi nội dung địi hỏi một phương
pháp thích hợp. Các kĩ năng giao tiếp khơng thể được hình thành và phát triển
bằng con đường truyền giảng thụ động. Muốn phát triển những kĩ năng này, học
sinh phải được hoạt động trong môi trường giao tiếp dưới sự hướng dẫn của giáo
viên. Các kiến thức về ngơn ngữ, văn học, văn hố, tự nhiên và xã hội có thể
được tiếp thu qua lời giảng, nhưng học sinh chỉ làm chủ được những kiến thức
này khi các em chiếm lĩnh chúng bằng chính hoạt động có ý thức của mình.
Cũng như vậy, những tư tưởng, tình cảm và nhân cách tốt đẹp chỉ có thể được
hình thành chắc chắn thơng qua sự rèn luyện trong thực tế.
II. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC DẠY- HỌC TẬP LÀM VĂN THEO
PHƯƠNG PHÁP GIAO TIẾP Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC HIỆN NAY
Việc dạy học Tiếng việt nói chung và dạy học phân mơn Tập làm văn nói
riêng theo theo phương pháp giao tiếp ở các trường tiểu học hiện nay hết sức
được quan tâm từ việc chỉ đạo của nhà trường đến đổi mới phương pháp dạy học
của giáo viên. Tuy nhiên qua tìm hiểu, dự giờ và trao đổi với đồng nghiệp, tôi
nhận thấy số giáo viên thường xuyên chủ động, sáng tạo trong việc phối hợp các
phương pháp dạy- học cũng như sử dụng các phương pháp dạy- học phát huy
năng lực học sinh chưa nhiều. Dạy học vẫn nặng về truyền thụ kiến thức lí
thuyết, chưa tập trung cải tiến nội dung, phương pháp giảng dạy. Tình trạng "dạy
chay", bắt học thuộc lịng một cách máy móc vẫn là tình trạng phổ biến.
Việc rèn luyện kỹ năng đặc biệt là kỹ năng giao tiếp, kỹ năng giải quyết
các tình huống thực tiễn chưa thực sự được quan tâm. Nhiều giáo viên cịn gặp
khó khăn trong việc dạy học tiếng Việt theo định hướng giao tiếp nhất là phân

môn Tập làm văn.Trong tiết học, giáo viên quá chú trọng vào khâu truyền thụ
kiến thức, xem nhẹ việc thực hành rèn luyện kĩ năng nói - viết cho học sinh theo
các đối tượng khác nhau. Khi tổ chức các hoạt động trong giờ học, giáo viên
chưa phân định được hoạt động nào là trọng tâm. Hình thức tổ chức dạy còn
nghèo do giáo viên chưa thực sự đầu tư vào chất lượng của bài soạn. Ngoài ra,
bên cạnh đó vẫn cịn một số giáo viên chưa thực sự hiểu sâu về phương pháp
dạy học và kiến thức còn lệ thuộc vào sách giáo khoa, tức là chưa làm chủ được
kiến thức dẫn đến giờ học khô khan nhàm chán và nặng nề. Tình trạng này đã
làm mất đi tính hấp dẫn của phân mơn tiếng Việt. Hơn nữa, nhiều học sinh còn
thiếu các kỹ năng cơ bản của bộ môn và năng lực vận dụng liên hệ kiến thức đã
học để giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra là rất hạn chế.Đặc biệt là học
sinh lớp 3 các em vẫn đang ở lứa tuổi tò mò, ham học hỏi hay bắt chước nhưng
lại chóng chán, nhanh qn, ngại tìm hiểu những văn bản dài và khó như tập làm
văn, các em còn học thụ động, bắt buộc, trong giờ học còn tỏ ra uể oải, mệt mỏi
khơng thích học mơn Tập làm văn. Khả năng tự tin nói trước lớp của các em
khơng tốt, nhiều em cịn thiếu tự tin, ngại nói trước lớp. Nhiều học sinh không tự
tin giơ tay phát biểu trong giờ học, nếu được cơ gọi thì miễn cưỡng đứng lên trả
lời. Cịn nhiều học sinh lại khơng dám sáng tạo khi viết văn thường dập khuôn
vào gợi ý mẫu nên bài viết thiếu sự mềm mại và hay. Học sinh không được rèn


7
luyện nói trước lớp thường xuyên nên khi bạn nói cũng khơng tập trung nghe. Vì
vậy khả năng phân tích nhận xét đánh giá bài bạn cịn yếu chưa nói gì đến việc
chữa lỗi giúp nhau.Vốn từ ngữ, vốn sống, vốn hiểu biết của các em hạn hẹp.
Từ thực trạng việc dạy học phân mơn tập làm văn nói trên thì việc tổ chức
dạy phân mơn Tập làm văn bằng phương pháp giao tiếp là một giải pháp hữu
hiệu góp phần nâng cao hiệu quả chất lượng học tập, tạo điều kiện để học sinh tự
hiện thực hóa, tự khẳng định nhân cách cá nhân của mình, vạch ra tiềm năng
sáng tạo của cá nhân, hình thành những phương châm giá trị và phẩm chất đạo

đức cần thiết cho những chặng đường học tập và làm việc tiếp theo, góp phần
đáp ứng mục tiêu giáo dục đã được đặt ra.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP
1. Giáo viên phải nắm vững nguyên tắc dạy học tập làm văn theo
phương pháp giao tiếp.
Cơ sở của hoạt động giao tiếp trước hết là các yêu cầu của xã hội, bởi lẽ
hoạt động giao tiếp là một trong những hoạt động quan trọng của tất cả mọi
người, bảo đảm cho tất cả các hoạt động khác được thực hiện có kết quả. Thứ
hai là do ngơn ngữ có chức năng giao tiếp. Xét về khía cạnh phương pháp dạy
học thì các biện pháp dạy học theo phương pháp giao tiếp phải được dựa trên cơ
sở quan sát và phân tích ngơn ngữ trong giao tiếp, từ đó lựa chọn các biện pháp
yêu cầu người học phải giao tiếp gắn với tực tiễn đời sống càng nhiều càng tốt.
Hoạt động giao tiếp nhằm thực hiện các chức năng thông báo, biểu cảm và tác
động. Các chức năng này gắn với các hoạt động tìm kiếm thơng tin, tương tác xã
hội. Như vậy, muốn dạy học theo phương pháp giao tiếp thì phải tập trung các
hoạt động tìm kiếm thơng tin và tương tác xã hội của người học, sao cho những
gì được học gắn với thực tiễn, nhu cầu cuộc sống của người học.
- Các hoạt động tìm kiếm thơng tin bao gồm: điền khuyết thơng tin,
chuyển đổi thơng tin, xử lí thơng tin...Trong dạy học tiếng Việt nói chung và dạy
tập làm văn nói riêng, các hoạt động này thực chất là hoạt động mà người học
cần phải tìm thơng tin từ thực tiễn, tự quan sát, suy luận, tóm tắt...sau đó diễn
đạt lại bằng ngôn ngữ cá nhân để tạo thành dàn ý cho bài văn.
- Các hoạt động tương tác thông tin bao gồm: đóng vai , thuyết trình-tranh
luận, các trị chơi giao tiếp...Đây là nhóm hoạt động bổ trợ nhằm giúp người học
tiếp cận nhiều khía cạnh để hình thành và phát triển tư duy khi đánh giá vấn đề.
Đồng thời, qua tranh luận, chia sẻ, mỗi thành viên của lớp sẽ có thêm dữ liệu
cho bài làm của mình.
2. Giáo viên phải nắm vững nội dung, mục tiêu dạy học của phân
môn tập làm văn lớp 3 và các yêu cầu cần đạt đối với năng lực giao tiếp để
thiết kế và tổ chức các hoạt động dạy học phù hợp

Cũng như các môn học khác, khi dạy học phân môn tập làm văn giáo viên
phải nắm vững nội dung và mục tiêu môn học. Việc nắm vững nội dung và mục


8
tiêu mơn học là vơ cùng cần thiết, nó giúp giáo viên xác định được cần phải khai
thác vấn đề gì? Chú trọng tổ chức cho học sinh làm gì? ;Vận dụng kiến thức
nào? để giờ học phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của cả
người dạy và người học nhằm nâng cao tri thức, bồi dưỡng năng lực giao tiếp,
năng lực hợp tác, năng lực vận dụng tri thức vào thực tiễn, bồi dưỡng phương
pháp tự học, tác động tích cực đến tư tưởng, tình cảm, đem lại hứng thú học tập
cho người học. Và khi đã nắm vững nội dung và mục tiêu môn học, giáo viên sẽ
dễ dàng thiết kế các hoạt động dạy học phù hợp giúp học sinh nắm kiến thức
một cách vững chắc qua đó phát triển năng lực cho học sinh. Do đó, để dạy tốt
phân mơn tập làm văn theo phương pháp giao tiếp để triển năng lực học giao
tiếp cho học sinh, việc đầu tiên tôi làm đó là nắm vững nội dung và mục tiêu
mơn tập làm văn :
* Về nội dung :
Về cấu trúc phân môn Tập làm văn trong sách giáo khoa Tiếng việt 3 có
54 bài tập. Mỗi bài học được trình bày từ 1 đến 2 bài tập - gồm bài tập rèn luyện
kỹ năng nói và bài tập rèn kỹ năng thực hành viết. Trong đó bài tập rèn kỹ năng
nói chiếm hơn 70% nhất là kiểu bài “Nghe - kể lại chuyện” và “Kể hay nói, viết
về một chủ đề”. Đối với hai dạng bài này thì nội dung được phân bổ như sau:
a) Dạng bài: “Kể hay nói, viết” về một chủ đề gồm có 16 bài tập như:
+ Nói về Đội Thiếu Niên Tiền Phong Hồ Chí Minh.
+ Nói về thành thị hoặc nơng thơn.
+ Nói về quê hương.
+ Nói, viết về cảnh đẹp đất nước.
+ Nói về một ngày hội...
b) Dạng bài: “Nghe -Kể lại chuyện” gồm có 10 bài tập như :

+ Nghe - kể: Dại gì mà đổi.
+ Nghe - kể: Khơng nỡ nhìn.
+ Nghe - kể: Tôi cũng như bác.
+ Nghe - kể: Giấu cày...
Nhưng năm học 2011-2012, áp dụng chương trình giảm tải của Bộ Giáo
dục và Đào tạo (áp dụng từ ngày 19/9/2011) thì đã cắt bỏ một số bài tập khơng
u cầu học sinh làm đó là:
+ Nghe - kể: Tơi có đọc đâu (TLV tuần 11).
+ Nghe - kể: Tôi cũng như bác (TLV tuần 14).
+ Nghe - kể: Giấu cày (TLV tuần 15).
+ Nghe - kể: Kéo cây lúa lên (TLV tuần 16).


9
Như vậy dạng bài này trong chương trình Tập làm văn Lớp 3 dạy 6 bài
tập còn lại. Nội dung kiến thức và yêu cầu rèn luyện kỹ năng ở phân mơn Tập
làm văn lớp 3 khá khó, nhiều bài tập mang tính thực hành từ thực tế xung quanh
các em.
*Về mục tiêu của phân môn tập làm văn:
- Rèn luyện cho học sinh các kĩ năng nói, nghe, viết phục vụ cho việc học
tập và giao tiếp cụ thể là:
+ Biết dùng lời nói phù hợp với hồn cảnh giao tiếp trong sinh hoạt gia
đình, trong sinh hoạt tập thể. Biết giới thiệu các thành viên, các hoạt động của
tổ, của lớp.Nghe – hiểu nội dung lời nói, ý kiến thảo luận trong các buổi sinh
hoạt. Nghe – hiểu và kể lại được nội dung các mẫu chuyện ngắn, biết nhận xét
về nhân vật trong các câu chuyện.
+ Biết viết đơn, viết tờ khai theo mẫu, viết một bức thư ngắn để báo tin
tức, để hỏi thăm người thân hoặc kể lại một việc đã làm, biết kể lại nội dung một
bức tranh đã xem, một văn bản đã học.
+ Trau dồi thái độ ứng xử có văn hóa, tinh thần trách nhiệm trong cơng

việc; bồi dưỡng những tình cảm lành mạnh, tốt đẹp qua nội dung bài dạy.
Qua đó chúng ta nhận thấy, sử dụng phương pháp giao tiếp trong phân
môn tập làm văn lớp 3 sẽ đáp ứng các yêu cầu cần đạt về năng lực giao tiếp đó
là: Học sinh nhận ra được ý nghĩa của giao tiếp; Bước đầu biết sử dụng ngơn
ngữ nói kết hợp với cử chỉ để trình bày thơng tin và ý tưởng của mình; Tập trung
chú ý khi người khác trình bày; nhận ra được thái độ của đối tượng giao tiếp.
3. Xác định hình thức tổ chức hoạt động giao tiếp trong dạy học tập
làm văn qua từng bài học cụ thể.
3.1.Với thể loại nói - viết trong phân môn Tập làm văn lớp 3
Nội dung các bài tập thuộc dạng bài này nhằm rèn cho học sinh kỹ năng
diễn đạt bằng lời nói (viết) về một chủ đề nào đó: Nói viết về thành thị hoặc
nơng thơn; Kể về gia đình ; Kể về một buổi thi đấu thể thao..chúng ta có thể thấy
dạng đề này hầu như là sự kết hợp của nhiều thể loại: miêu tả, tưòng thuật,
thuyết minh và phát biểu cảm nghĩ.
3.1.1.Hướng dẫn học sinh tìm kiếm thơng tin (tìm ý)
Như đã nói ở trên, đây thực chất là hoạt động mà người học cần phải tìm
thơng tin từ thực tiễn, tự quan sát, suy luận, tóm tắt...sau đó diễn đạt lại bằng
ngơn ngữ cá nhân để tạo thành dàn ý cho bài văn. Muốn dạy học theo phương
pháp giao tiếp thì phải tập trung vác hoạt động tìm kiếm thơng tin và tương tác
xã hội của người học, sao cho những gì được học gắn với thực tiễn, nhu cầu
cuộc sống của người học.
Xác định đây là dạng bài nịng cốt trong mơn tập làm văn lớp 3. Nó địi
hỏi ở người học sinh phải có vốn sống hàng ngày, phải có vốn từ phong phú,


10
phải có đơi mắt quan sát tinh tường, phải có óc tưởng tượng sáng tạo nghệ thuật.
Bởi vậy, khi dạy dạng bài này tôi thường nhấn mạnh cho học sinh: khi em muốn
tả bất cứ cái gì thì các em phải hiểu rõ về cái đó. Em phải tìm hiểu thơng tin về
cái đó. Có thể hỏi bạn bè, gia đình, thầy cơ hay quan sát thực tế qua mơn tự

nhiên xã hội, qua đọc sách, đọc báo, …
Để thực hiện được điều đó, giáo viên sẽ hướng dẫn học sinh một cách
chặt chẽ từ sự liên tưởng về các sự vật, các hoạt động. Đây là một việc làm hết
sức quan trọng vì qua thực tế đơi khi tơi cho các em một bài tập tả về ngày hội,
có em bảo là con chưa bao giờ nhìn thấy ngày hội . Mặt khác Giáo viên khơi
gợi cho học sinh nhớ lại bằng những câu hỏi nhỏ,hình ảnh thực tế có liên quan
đến yêu cầu bài tập, phù hợp với thực tế và trình độ học sinh để các em dễ dàng
diễn đạt được đúng yêu cầu của đề tài.
- Ví dụ: Ở tuần 22 bài “Kể về một người lao động trí óc”, giáo viên gợi ý
người đó làm nghề gì? Bao nhiêu tuổi? Cơng việc em thường thấy là gì?
Hoặc cũng có thể sưu tầm những phim ảnh để có thể trình chiếu cho các
em, cho các em quan sát … Từ đó học sinh dễ dàng tìm ý và diễn đạt bài văn rõ
ràng, mạch lạc hơn.
Ví dụ: Ở tuần 29 : Kể lại một trận thi đấu thể thao
- Xem ảnh chụp buổi thi chạy đó, có học sinh nói:“Các vận động viên bắt
đầu xuất phát với các bước chạy khỏe khoắn.” Cũng có học sinh khác nói:“Khi
gần tới đích, các vận động viên dồn sức vào các bước chạy cuối cùng để cán
đích.”
Với cách làm như trên giúp học sinh nắm được mục đích yêu cầu của bài,
chủ động trao đổi với bạn, tích cực giơ tay trình bày khi nói, viết bài cũng mạch
lạc, rõ ràng hơn.
3.1.2.Hướng dẫn diễn đạt:
Theo quan điểm giao tiếp, phương pháp tốt nhất để dạy tiếng Việt bằng
quan điểm giao tiếp là phải hướng học sinh vào hoạt động nói năng. Đó là
phương pháp hướng dẫn học sinh vận dụng lí thuyết được học vào thực hiện
nhiệm vụ của q trình giao tiếp có chú ý đến đặc điểm và các nhân tố tham gia
và hoạt động giao tiếp.
Xác định tầm quan trọng của quan điểm giao tiếp, tôi đã tập trung vào
việc hướng dẫn học sinh diễn đạt ý. Bởi vì tơi nhận thấy đối với học sinh lớp 3,
thực tế bài văn thực hành tuy có ý tưởng, nhưng vẫn cịn nhiều sai sót về diễn

đạt như: dùng từ chưa chính xác, ý trùng lắp, các ý trong đoạn văn chưa liên kết
nhau nên trình bày chưa rõ ràng mạch lạc. Vì vậy, khi học sinh trình bày, giáo
viên phải hết sức chú ý lắng nghe, ghi nhận những ý tưởng hay, ý có sáng tạo
của học sinh để khen ngợi; đồng thời phát hiện những sai sót để sửa chữa. Giáo
viên cần đặt ra tiêu chí nhận xét thật cụ thể để học sinh làm cơ sở lắng nghe bạn
trình bày; phát hiện những từ, ý, câu hay của bạn để học hỏi và những hạn chế


11
của bạn để góp ý, sửa sai. Với hoạt động này, khi dạy ngoài phương án được nêu
trên trong sách giáo viên, tôi thường tổ chức cho học sinh làm việc với bản đồ
tư duy. để tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động học tập tích cực và hứng
thú hơn để các em tự chiếm lĩnh kiến thức cho bản thân; giúp học sinh hệ thống
hóa kiến thức, xác định được kiến thức cơ bản từ đó vận dụng kiến thức để giải
quyết các bài tập và các tình huống trong cuộc sống... Mặt khác sử dụng phương
pháp sơ đồ tư duy còn giúp học sinh rèn luyện, phát triển tư duy logic, khả năng
tự học, phát huy tính tích cực và sáng tạo của học sinh.
Ví dụ: Nói về quê hương em (BT2-TV3 -Tập1- Tr92), giáo viên thực
hiện các bước như sau:
- Cho học sinh đọc yêu cầu bài tập, giáo viên giúp học sinh tìm hiểu yêu
cầu của bài tập: Nói về quê hương em .
- Học sinh tập trung động não nghĩ về quê hương và viết ra bất kỳ những
từ ngữ nào liên quan đến quê hương.
- Giáo viên treo bảng phụ vẽ bản đồ tư duy lên bảng. Giới thiệu cho học
sinh biết một số từ ngữ liên quan đến quê hương. Học sinh nhìn bản đồ tư duy,
tự suy nghĩ và hồi tưởng. Có thể là:

Hoặc:

Sơ đồ tư duy bài “Nói về quê hương em”


- Thảo luận theo nhóm ghi vào giấy nháp về quê hương.
- Giáo viên gọi một vài em kể về quê hương cho cả lớp nghe.
- Cho học sinh nhận xét lời kể của bạn. Giáo viên nhận xét chung


12
Kể về gia đình (BT1-TV3 - tập I - tr 28), giáo viên thực hiện các bước
như sau:
- Cho học sinh đọc yêu cầu bài tập, giáo viên giúp học sinh tìm hiểu yêu
cầu của bài tập: Kể về gia đình mình cho bạn mới quen biết.
- Học sinh tập trung động não nghĩ về gia đình mình và viết ra bất kỳ
những từ ngữ nào liên quan đến gia đình mình.
- Giáo viên treo bảng phụ vẽ bản đồ tư duy lên bảng. Giới thiệu cho học
sinh biết một số từ ngữ liên quan đến gia đình. Học sinh nhìn bản đồ tư duy, tự
suy nghĩ và hồi tưởng.
- Học sinh ghi vào giấy nháp về gia đình mình.
- Giáo viên gọi một vài em kể về gia đình mình cho cả lớp nghe.
- Cho học sinh nhận xét lời kể của bạn. Giáo viên nhận xét chung.
Ví dụ : Nói, viết về bảo vệ mơi trường (TV3 - tập 2 - tr 120) giáo viên
thực hiện các bước tương tự.
- Cho học sinh đọc yêu cầu bài tập, giáo viên giúp học sinh tìm hiểu yêu
cầu của bài tập: Nói, viết về bảo vệ mơi trường .
- Học sinh thảo luận theo nhóm nghĩ về những việc để bảo vệ môi trường
và viết ra bất kỳ những từ ngữ nào liên quan đến việc bảo vệ môi trường.
- Giáo viên treo bảng phụ vẽ bản đồ tư duy lên bảng. Giới thiệu cho học
sinh biết một số từ ngữ liên quan đến gia đình. Học sinh nhìn bản đồ tư duy, tự
suy nghĩ và hồi tưởng.

Sơ đồ tư duy bài “Nói, viết về bảo vệ mơi trường


- Học sinh thảo luận theo nhóm ghi vào giấy nháp về những việc để bảo
vệ môi trường.
- Giáo viên gọi đại diện một vài nhóm kể cho cả lớp nghe.


13
- Cho học sinh nhận xét lời kể của bạn. Giáo viên nhận xét chung.
Với cách làm trên, tôi nhận thấy học sinh rất hào hứng tham gia, các em
được thảo luận, tranh luận, chia sẻ, qua đó giúp các em tiếp cận nhiều khía cạnh
để hình thành và phát triển năng lực tư duy đặc biệt là năng lực giao tiếp.
3.2.Đối với dạng bài tập nghe : nghe và kể lại một mẫu chuyện ngắn,
nghe và nói lại một mẫu tin.
Đây là một dạng đề khá khó trong chương trình tập làm văn lớp 3. Ngữ
liệu học tập của dạng đề này phần lớn là các chuyện vui.
Có rất nhiều cách để tiến hành giờ học dạy dạng bài “Nghe-kể lại chuyện”
để làm sao đó giúp học sinh rèn luyện và phát triển kĩ năng nói và kể trước đám
đơng một cách có nghệ thuật, góp phần khêu gợi tư duy hình tượng của học
sinh. Giáo viên có thể tuỳ vào tình hình của lớp, trình độ học sinh để chọn cách
dạy phù hợp nhất. Với bản thân tôi, tôi đã chọn cách tiến hành như sau:
- GV kể lần 1 kết hợp hướng dẫn HS nắm các nhân vật có trong chuyện.
- Giáo viên kể lần 2, học sinh nghe rồi hoàn thành các sự kiện trong các
khung cịn trống của sơ đồ trình tự câu chuyện trên phiếu (có thể cho học sinh
làm việc theo nhóm hay theo cặp đơi) có thể đánh số hay vẽ mũi tên. Giáo viên
có thể để trống tất cả các ơ hoặc viết sẵn ý trong một vài ô. Các ô khác học sinh
nghe rồi hoàn thành.
Sau khi hoàn thành sơ đồ trình tự câu chuỵện, học sinh trao đổi sửa chữa.
- HS dựa vào trình tự câu chuyện để kể lại chuyện theo nhóm (hay cặp).
- Đại diện nhóm kể lại trước lớp.
- Học sinh trao đổi ý nghĩa câu chuyện, cả lớp theo dõi nhận xét, giáo viên

bổ sung nhận xét chung.
Ví dụ minh hoạ: Nghe - kể lại chuyện: Dại gì mà đổi.(BT1- SGK - TV3
- Tập 1 - Tr.36)
Cách tiến hành:
- Giáo viên kể chuyện lần 1 và hỏi học sinh: Câu chuyện có mấy nhân
vật? (có 2 nhân vật: bà mẹ và cậu bé)
- Giáo viên kể chuyện lần hai, học sinh nghe rồi hoàn thành các sự kiện
trong khung cịn trống của sơ đồ trình tự câu chuyện trên phiếu học tập.(Học
sinh hoạt động theo nhóm 4)


14
- Học sinh dựa vào trình tự câu chuyện để kể lại chuyện trong nhóm.
- Gọi đại diện các nhóm kể chuyện trước lớp.
- Cả lớp theo dõi nhận xét diễn biến của chuyện, giáo viên bổ sung.
- Cho học sinh trao đổi Truyện này buồn cười ở chỗ nào: Truyện này buồn
cười vì cậu bé nghịch ngợm mới 4 tuổi cũng biết rằng không ai muốn đổi một
đứa con ngoan lấy một đứa nghịch ngợm.
- Cho học sinh liên hệ thực tế bản thân: Sau khi học truyện này, em thấy
mình cần phải thế nào để được bố mẹ yêu quý ?
- Cho học sinh quan sát một số tranh, yêu cầu thảo luận và cho biết tranh
nào thể hiện là đứa con ngoan, tranh nào thể hiện là đứa con hư:

- Giáo viên nhận xét chung .
Ví dụ minh hoạ: Nghe - kể lại chuyện: Khơng nỡ nhìn.(BT1- SGK TV3 - Tập 1 - Tr.61)
Cách tiến hành:
- Giáo viên kể chuyện lần 1 và hỏi học sinh: Câu chuyện có mấy nhân
vật? Ở đâu?
- Học sinh sẽ trả lời:
+ Câu chuyện có hai nhân vật.



15
+ Chuyện xảy ra trên chuyến xe buýt.
- Giáo viên kể chuyện lần hai, học sinh nghe rồi hoàn thành các sự kiện
trong khung cịn trống của sơ đồ trình tự câu chuyện trên phiếu học tập.(Học
sinh hoạt động theo nhóm 4)

- Học sinh dựa vào trình tự câu chuyện để kể lại chuyện trong nhóm.
- Gọi đại diện các nhóm kể chuyện trước lớp.
- Cả lớp theo dõi nhận xét diễn biến của chuyện, giáo viên bổ sung.
- Cho học sinh trao đổi về tính khơi hài của chuyện: Anh thanh niên trên
chuyến xe buýt không biết nhường chổ cho người già, phụ nữ mà lại che mặt và
giải thích rất buồn cười là khơng nở nhìn các cụ già và phụ nữ phải đứng.
- Cho học sinh liên hệ thực tế bản thân: Nếu gặp người như anh thanh
niên trên chuyến xe đó thì em sẽ làm gì?
- Cho học sinh quan sát tranh, bày tỏ quan điểm (có thời gian thì cho các
em thảo luận sắm vai):

- Giáo viên nhận xét chung .
Với cách tiến hành dạy dạng bài “nghe-kể” trong phân môn tập làm văn
lớp 3 như trên, tơi nhận thấy có hiệu quả đối với học sinh, đặc biệt là những em
ngại nói, tức là ngại giao tiếp, sẽ làm cho các em hứng thú hơn trong học tập.
Thông qua việc được thảo luận, làm việc cá nhân, làm việc trong nhóm, lớp theo
sự phân công và tinh thần hợp tác đã tạo cơ hội cho học sinh tự hoạt động, tự
củng cố kiến thức, tự hồn thiện kỹ năng giao tiếp của chính mình. Qua đó cịn
giúp học sinh vận dụng vào việc giao tiếp trong đời sống hằng ngày.


16

4. Vận dụng linh hoạt phương pháp giao tiếp với các kỹ thuật dạy học
tích cực nhằm phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh.
Trong dạy học nói chung và trong dạy học tập làm văn nói riêng, có
nhiều phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực nhằm phát huy tính chủ động
sáng tạo của học sinh. Tuy nhiên tùy thuộc vào điều kiện từng trường, nội dung
từng bài mà giáo viên sử dụng sao cho phù hợp. Đối với bản thân, trong quá
trình dạy tập làm văn lớp 3 tôi thường sử dụng các phương pháp và kỹ thuật sau:
a). Kỹ thuật đặt câu hỏi
Đặt câu hỏi là một trong những kỹ năng hết sức hữu ích mà giáo viên cần
phát triển. Trong một giờ dạy, người giáo viên giỏi luôn biết sử dụng nhiều câu
hỏi với nhiều mục đích khác nhau. Ở một chừng mực nhất định, việc đặt câu hỏi
là quá đơn giản bởi đó là việc mà tất cả chúng ta làm hàng ngày. Tuy nhiên,
người đặt câu hỏi cũng phải có kỹ năng, kĩ thuật và hiểu biết thì mới có thể diễn
đạt câu hỏi một cách rõ ràng, chính xác, tung ra câu hỏi đúng thời điểm để đem
lại hiệu quả tối đa, và khai thác câu trả lời để đặt câu hỏi tiếp theo. Trong quá
trình nêu câu hỏi, giáo viên là người tổ chức, học sinh chủ động tìm tịi, sáng
tạo, phát hiện kiến thức mới. Đồng thời qua đó học sinh có được niềm vui, hứng
thú của người khám phá và tự tin khi thấy mình được cùng với các bạn tìm ra
kiến thức mới. Kết quả là học sinh vừa lĩnh hội được kiến thức mới đồng thời
biết được con đường tìm ra kiến thức đó, trưởng thành thêm một bước về trình
độ tư duy. Như vậy khơng những khắc sâu được kiến thức mà còn phát triển kỹ
năng giao tiếp cho học sinh.
Ví dụ: Kể về gia đình em:
Câu hỏi gợi ý
- Gia đình em gồm có mấy người? Đó là những ai?
- Kể từng người trong gia đình em.
- Mỗi người trong gia đình quan tâm nhau như thế nào?
- Tình cảm của em đối với gia đình như thế nào?
c)Kỹ thuật “Chúng em biết 3”
Kỹ thuật này dùng trong thảo luận nhóm nhằm tập hợp những thơng tin

được chọn lọc từ thảo luận. Nó tạo cơ hội cho nhóm học sinh có khả năng hồn
thành tốt và hỗ trợ tích cực cho nhóm học sinh khác.
Cách thực hiện :
- Bước 1 : GV nêu chủ đề thảo luận (có thể bằng câu kể hoặc câu hỏi, Ví
dụ : Hãy nêu 3 điều em biết về quê hương.
- Bước 2 : Mỗi nhóm 3 (có thể hơn 3) học sinh sẽ chia sẻ những điều các
em biết rồi chọn ra 3 điều quan trọng nhất.


17
- Bước 3 : Đại diện mỗi nhóm trình bày 3 điều nhóm đã chọn.
Sau khi đại diện mỗi nhóm trình bày 3 điều nhóm đã chọn, giáo viên có
thể chốt ý và yêu cầu các em viết đoạn văn hồn chỉnh.
Tóm lại, việc vận dụng linh hoạt phương pháp giao tiếp cùng với các kỹ
thuật dạy học tích cực nhằm giúp cho học sinh lớp 3 xác định đúng mục đích,
nội dung của từng bài tập làm văn cụ thể; Với mỗi hoạt động học tập giúp xây
dựng và phát triển mối quan hệ tốt đẹp với các bạn trong nhóm, lớp. Qua đó
góp phần phát triển năng lực giao tiếp.
5. Vận dụng ưu điểm của phương pháp giao tiếp để tổ chức các hoạt
động trải nghiệm trong dạy học tập làm văn nhằm phát triển năng lực giao
tiếp cho học sinh
Trong dạy học tập làm văn, ngoài việc dạy học trên lớp, tôi thường quan
tâm đến việc dạy thơng qua hoạt động trải nghiệm sáng tạo. Bởi vì thông qua
các hoạt động thực hành, những việc làm cụ thể, học sinh sẽ phát huy vai trị cụ
thể, tính tích cực, chủ động, tự giác và sáng tạo của bản thân. Các em được tham
gia vào tất cả các khâu của q trình hoạt động .
Bên cạnh đó, các em còn được bày tỏ quan điểm ý tưởng và lựa chọn ý
tưởng của chính mình. Do vậy mà các em thật sự hào hứng và rất tích cực khi
được học tập dưới dạng hoạt động trải nghiệm sáng tạo.
khi tổ chức học tập dưới dạng hoạt động trải nghiệm nhất là mơn tập làm

văn các em rất tích cực tham gia. Nhiều em tỏ ra có năng lực thật sự khi thể hiện
các hoạt động. Đó là một điều mà giáo viên chúng tôi rất mừng.

Học sinh lớp 3 trải nghiệm hoạt động
“Đọc sách tại thư viện”

Học sinh lớp 3 trải nghiệm hoạt động
“Giao lưu câu lạc bộ Tiếng Việt”


18

Học sinh lớp 3B trình bày hiểu biết “Tìm hiểu kiến thức về ATGT”

IV. MỘT SỐ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:
Sau khi sử dụng các giải pháp trên, tôi nhận thấy:
1. Đối với học sinh kết quả học tập phân môn Tập làm văn của lớp tơi có
nhiều tiến bộ, các em thích thú, háo hức, chờ đợi đến phân mơn Tập làm văn để
thể hiện mình trong phần kể, nói trước bạn bè và cô giáo. Trong giờ học các em
mạnh dạn tham gia vào các hoạt động, hăng hái phát biểu ý kiến. Nhất là thơng
qua các trị chơi sắm vai, các tranh ảnh sinh động, phong phú …đã giúp học sinh
nắm và vận dụng tốt hơn các kiến thức, kĩ năng sống, kĩ năng Tiếng Việt vào
phân môn Tập làm văn.
2. Về năng lực giao tiếp của học sinh từng bước được phát triển đáp ứng
yêu cầu cần đạt theo mục tiêu của môn học cũng như chương trình lớp học.
3. Đối với giáo viên, việc sử dụng phương pháp giao tiếp trong dạy học
tiếng Việt ln địi hỏi sự linh hoạt, sáng tạo và phù hợp với đối tượng học sinh.
Đây là động lực để giáo viên tìm tịi, chuẩn bị bài kỹ lưỡng trước khi lên lớp.
4. Thực hiện các biện pháp phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh cần
có sự phối hợp, hỗ trợ của các giáo viên trong tổ khối chuyên môn nhất là tổ

chức các hoạt động trải nghiệm. Việc làm này đã tác động tích cực đến giáo viên
nhà trường trong việc đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học nâng cao
chất lượng giáo dục.
.


19
C. PHẦN KẾT LUẬN
Từ thực tiễn giảng dạy và và thực hiện các biện pháp sử dụng phương
pháp giao tiếp trong dạy học mơn Tập làm văn góp phần phát triển năng lực giao
tiếp cho học sinh lớp 3, chúng ta có thể rút ra một số kết luận sau đây:
1. Năng lực giao tiếp là một trong những năng lực cốt lõi cần được hình
thành và phát triển đối với học sinh tiểu học. Trong quá dạy học thông các môn
học và hoạt động giáo dục người giáo viên cần vận dụng sáng tạo, linh hoạt các
phương pháp, hình thức tổ chức dạy học để đáp ứng yêu cầu cần đạt đối với
từng khối lớp.
2. Sử dụng phương pháp giao tiếp trong dạy học tiếng Việt, giáo viên phải
dạy cho học sinh được học, được tập giao tiếp ở trong bài học, ở lớp rồi biết
cách giao tiếp trong thực tế cuộc sống hàng ngày. Biết nói năng, quan hệ ngơn
ngữ đúng vai trị, đúng mục đích với người xung quanh, biết nêu nhận xét, đánh
giá trước sự vật, sự việc ... (khơng phải chỉ nhằm tới mục đích là biết làm văn
như trước đây). Quan điểm giao tiếp quán triệt tư tưởng giao tiếp vừa là điểm
xuất phát lại vừa là đích hướng tới, vừa là nội dung lại vừa là định hướng
phương pháp và môi trường tổ chức dạy học của tất cả các đơn vị kiến thức.
Hơn nữa, việc dạy tiếng Việt không phải chỉ đơn thuần nhằm cung cấp cho học
sinh một số những khái niệm hay qui tắc ngơn ngữ mà mục đích cuối cùng cần
phải đạt đến lại là việc giúp các em có được kỹ năng, kĩ xảo trong việc sử dụng
ngơn ngữ. Học sinh không thể chỉ biết những lý thuyết về hệ thống ngơn ngữ
Tiếng Việt, mà khơng có khả năng sử dụng những hiểu biết ấy vào giao tiếp.
3. Trong dạy học tập làm văn, giáo viên nên vận dụng phương pháp giao

tiếp nhằm phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh. Để làm được điều đó, trước
hết người giáo viên cần phải xác định rõ vị trí, mục tiêu, chuẩn kiến thức và kỹ
năng, nội dung cơ bản và trọng tâm của từng bài dạy. Tổ chức dạy học đúng đặc
trưng bộ môn, loại bài, phù hợp với tâm sinh lý của học sinh và thực tế của lớp
mình phụ trách. Ngồi ra, giáo viên phải có kiến thức sâu rộng về phương pháp
kết hợp vận dụng linh hoạt, sáng tạo phù hợp với từng nội dung và kiểu bài.
4. Sử dụng phương pháp giao tiếp trong dạy học mơn Tập làm văn góp
phần quan trọng trong việc phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh lớp 3. Giúp
các em biết sử dụng ngôn ngữ kết hợp với hình ảnh, cử chỉ để trình bày thơng tin
và ý tưởng của mình; Biết tập trung chú ý, lắng nghe khi giao tiếp và nhận ra
được thái độ của đối tượng giao tiếp với mình. Để làm được điều đó, trong dạy
học giáo viên cần phải khơi gợi được sự húng thú, phát huy được sự chủ động,
sáng tạo của học sinh trong học tập.
Việc vận dụng khéo léo, linh hoạt, kết hợp nhuần nhuyễn các phương
pháp và kỹ thuật dạy học của giáo viên sẽ góp phần quan trong trong việc hình
thành và phát triển các năng lực và phẩm chất của học sinh, trong đó có năng lực
giao tiếp. Từ đó thái độ học tập của các em cũng có sự thay đổi, tiết học trở lên


20
sơi động bởi sự hăng say góp ý xây dựng bài, số lượng các em sẽ u thích, mơn
học nhiều hơn.
Trên đây chỉ là một số biện pháp cơ bản được rút ra từ thực tiễn quá trình
giảng dạy của cá nhân tôi ở Trường Tiểu học Cẩm Vân, chắc chắn rằng sẽ chưa
đảm bảo được sự toàn diện và khơng tránh khỏi những thiếu sót. Bản thân tơi
rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến và bổ sung thêm của các đồng nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

Cẩm Vân, ngày 01 tháng 3 năm 2021

Người viết
Tơi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, khơng sao chép nội dung
của người khác.

Nguyễn Thị Lan


TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Chương trình giáo dục phổ thơng môn ngữ văn (Ban hành kèm
theo Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26/12/2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo)
2. Chương trình giáo dục phổ thơng cấp tiểu học (Ban hành kèm
theo Quyết định số 16/2006/ QĐ-BGDĐT ngày 05/06/2006 của Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo)
3. Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 3 – NXB Giáo dục
4. Sách giáo viên– Tiếng Việt lớp 3 – NXB Giáo dục
5. Chuẩn kiến thức - KN các môn học ở tiểu học lớp 3-NXB Giáo Dục.
6. Phương pháp dạy học các môn học ở tiểu học- NXB Giáo dục.
7. Một số tài tiệu khác.


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI
CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Lan
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên Trường Tiểu học Cẩm Vân
TT


1

2

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh giá
xếp loại

Kết quả đánh
giá xếp loại

Năm học
đánh giá
xếp loại

Một số kinh nghiệm gây hứng
thú học toán cho học sinh lớp 2 Phòng GD&ĐT
Loại A
2008-2009
Cẩm Thủy
qua việc tổ chức các trò chơi tốn
học
Một số kinh nghiệm xây dựng
Loại C
(Số
904/QĐmơi trường lớp học thân thiện ở Sở GD&ĐT
SGD&ĐT ngày 2009-2010
Trường Tiểu học Cẩm Vân.
Thanh Hóa

14/12/2010 của
GĐ Sở GD&ĐT)

3

4

5

Một số kinh nghiệm tăng cường
giáo dục kỹ năng sống cho học
Phòng GD&ĐT
sinh tiểu học thơng qua hoạt
Loại B
Cẩm Thủy
động giáo dục ngồi giờ lên lớp
ở Trường Tiểu học Cẩm Vân.
Tổ chức trò chơi dân gian cho
HọC SINH lớp 4A góp phần
nâng cao hiệu quả phong trào thi Phòng GD&ĐT
Loại C
Cẩm Thủy
đua "XD trường học thân thiện,
HọC SINH tích cực" ở Trường
Tiểu học Cẩm Vân.
Sử dụng phiếu học tập trong giờ
Loại C
(Số 62/QĐtập đọc để góp phần nâng cao
Phịng
GD&ĐT

PGD&ĐT
ngày
hiệu quả của việc dạy đọc hiểu
Cẩm Thủy
08/5/2014 của
cho học sinh lớp 5.

2010-2011

2011-2012

2013-2014

Trưởng phòng
GD&ĐT)

6
7

Một số kinh nghiệm sử dụng đồ
dùng, thiết bị dạy học trong phân
môn Lịch sử lớp 5.

Loại C
Sở GD&ĐT
Thanh Hóa

(Số 988/QĐSGD&ĐT ngày 2014-2015
03/11/2015 của
GĐ Sở GD&ĐT)


Một số biện pháp giúp học sinh Phòng GD&ĐT
Lọai A
Cẩm
Thủy
(số
22/QĐlớp 5A Trường Tiểu học Cẩm
PGD&ĐT ngày
Vân học tốt các bài liên kết câu

05/5/2017 Trưởng

2016-2017


8

9

phịng GD&ĐT
trong phân mơn Luyện từ và câu”
Một số biện pháp nâng cao hiệu
quả nội dung dạy học lịch sử lớp Phòng GD&ĐT
Lọai A
Cẩm Thủy
5 theo định hướng phát triển
năng lực học sinh
Một số biện pháp nâng cao hiệu
quả nội dung dạy học lịch sử lớp Sở GD&ĐT
Loại C

Thanh Hóa
5 theo định hướng phát triển
năng lực học sinh

2017-2018

2017-2018


×