Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Một số giải pháp nhằm phát huy tính tích cực, tư duy sáng tạo và gây hứng thú cho học sinh khi học phân môn kể chuyện lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.68 MB, 25 trang )

1
MỤC LỤC
Mục
1
1.1
1.2
1.3
1.4
2
2.1
2.2
2.3
2.4
3
3.1
3.2

Nội dung
Mở dầu
Lí do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến
kinh nghiệm.
Các giải pháp đã sử dụng:
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo
dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường:
Kết luận, kiến nghị


Kết luận
Kiến nghị

Trang
2
3
3
3
2
4
6
16
17
18

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài.
Giáo dục Tiểu học là bậc học nền tảng, đặt cơ sở ban đầu cho hệ thống giáo
dục phổ thơng. Chương trình Tiểu học gồm nhiều môn học khác nhau. Mỗi môn
học ở Tiểu học có vị trí quan trọng trong việc hình thành nhân cách học sinh, trong
đó Tiếng Việt là một trong hai môn chủ đạo.


2
Môn Tiếng Việt bao gồm nhiều phân môn: Tập đọc, Luyện từ và câu, Tập
làm văn, Chính tả, Kể chuyện. Dạy Tiếng Việt ở bậc Tiểu học là hình thành và phát
triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và
giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Các phân mơn Tiếng việt có
quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung kiến thức cho nhau, học tốt phân mơn này sẽ
góp phần học tốt các phân mơn khác.

Với kể chuyện, nói đến vị trí vai trị của nó trước hết ta phải nói đến nó là
một món ăn tinh thần không thể thiếu được trong cuộc sống con người mà đặc biệt
là đối với trẻ em. Các em rất thích nghe chuyện, ngay từ tuổi ấu thơ những lời kể
của ông bà, cha mẹ đã đi sâu vào tiềm thức của các em. Niềm say mê chuyện ngày
càng lớn dần theo độ tuổi. Mỗi câu chuyện lạ, mỗi tình huống hấp dẫn đều có sự
thu hút mạnh mẽ sự chú ý của các em. Do đó phân mơn Kể chuyện có trong
chương trình Tiểu học trước tiên là để thoả mãn nhu cầu muốn nghe kể chuyện của
các em. Nhưng bên cạnh đó, kể chuyện cịn là phương tiện giáo dục rất quan trọng
và rất có hiệu quả. Qua mỗi bài kể chuyện tất cả những hiểu biết của các em về vốn
từ ngữ - ngữ pháp, khả năng nghe - nói - đọc - viết, vốn hiểu biết về cuộc sống...
đều được vận dụng một cách hợp lý sáng tạo. Đặc biệt là qua kể chuyện mà kỹ
năng nghe và nói được rèn luyện nhiều hơn. Kể chuyện giúp cho các em biết diễn
đạt vấn đề một cách trơi chảy, lưu lốt, biết biến câu chuyện được nghe (hoặc được
đọc) thành sản phẩm của mình để kể lại. Mặt khác qua kể chuyện để giáo dục tình
cảm cho các em, giúp các em biết phân biệt rõ ràng giữa yêu và ghét, giữa thiện và
ác... biết sống có lý tưởng, vươn tới cái đẹp và hành động vì cái đẹp. Phân mơn Kể
chuyện cịn có nhiệm vụ rèn luyện và phát triển các kỹ năng Tiếng việt, phát triển
tư duy và góp phần tích lũy vốn sống vốn văn học cho học sinh. Đó là những kỹ
năng khó đối với học sinh Tiểu học vì khả năng khái quát của các em chưa cao, vốn
từ còn hạn chế. Phân mơn Kể chuyện có vai trị quan trọng như thế nhưng trong
thực tế giảng dạy giáo viên và nhà trường chưa có kinh nghiệm cũng như biện
pháp cụ thể nào để nâng cao chất lượng dạy học phân môn kể chuyện. Vậy làm thế
nào để nâng cao chất lượng giờ dạy kể chuyện? Liệu có một giải pháp hữu hiệu nào
để các giờ kể chuyện luôn hấp dẫn và lôi cuốn , gây hứng thú của các em khơng?
Đó là điều mà tơi cũng như bao giáo viên khác trong công tác làm giáo dục rất băn
khoăn và suy nghĩ. Chính vì vậy tơi đã chọn đề tài nghiên cứu: "Một số giải pháp
nhằm phát huy tính tích cực, tư duy sáng tạo và gây hứng thú cho học sinh khi
học phân môn Kể chuyện ở lớp 4"
1.2. Mục đích nghiên cứu: Qua đề tài này tơi mong muốn góp phần tìm ra phương
pháp dạy học, cách thức tổ chức các hoạt động phù hợp nhằm phát huy tích tích

cực, tư duy duy sáng tạo và gây hứng thú cho học sinh khi học phân môn Kể
chuyện ở lớp 4. Giúp học sinh hình thành và phát triển tư duy và nhân cách, giáo
dục học sinh say mê văn hóa đọc. Nâng cao chất lượng dạy và học phân môn Kể
chuyện.


3
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu về hoạt động dạy học phân môn Kể chuyện của giáo viên và học
sinh lớp 4 ở trường tiểu học Vĩnh Phúc, nghiên cứu các phương pháp dạy học,
nghiên cứu nội dung chương trình, nghiên cứu các tài liệu, tạp chí có liên quan.....
sau đó tổng kết đúc rút và đưa ra kinh nghiệm "Một số giải pháp nhằm phát huy
tính tích cực, tư duy sáng tạo và gây hứng thú cho học sinh khi học phân môn Kể
chuyện ở lớp 4."
1.4. Phương pháp nghiên cứu: Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử
dụng như sau:
1.4.1. Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết: Tơi tiến hành đọc, tìm
hiểu, nghiên cứu, chắt lọc từ một số tài liệu liên quan như: Tài liệu bồi dưỡng
thường xuyên cho giáo viên Tiểu học, Thiết kế bài giảng Tiếng việt 4, Sách giáo
viên Tiếng Việt 4, Các câu hỏi và đáp về việc dạy và học Tiếng Việt ở Tiểu học,
Báo Văn học Tuổi Thơ, chuyên san Giáo dục Tiểu học.
nguồn Internet.. và đặc biệt là khai thác nội dung chương trình sách giáo khoa
Tiếng Việt Tiểu học ở lớp 4.
1.4.2. Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế thu thập thơng tin: Tìm hiểu khả
năng đọc sách báo ở nhà và ở trường của học sinh. Khảo sát khả năng kể chuyện
của học sinh, dự giờ đồng nghiệp tiết dạy Kể chuyện so sánh, phân tích, đối chiếu
tìm ra cách dạy tốt hơn.
1.4.3. Phương pháp thực nghiệm: Để kiểm nghiệm và đánh giá hiệu quả của việc
vận dụng các biện pháp dạy học đã đề xuất, tôi soạn giáo án, tổ chức thực nghiệm
cách dạy mới để rút ra kết luận.

1.4.4. Phương pháp thống kê xử lí số liệu: Thu thập thống kê số liệu, phân tích và
xử lí số liệu điều tra khảo sát.
1.4.5. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Để tìm ra được phương pháp dạy học
vấn đề này một cách thiết thực và có hiệu quả, tơi học hỏi kinh nghiệm giảng dạy,
trao đổi ý kiến dạy học vấn đề này với nhiều giáo viên khác và đúc rút kinh nghiệm
từ bản thân qua dạy học nhiều năm ở lớp 4.
2. NỘI DUNG
2.1 Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Phân môn Kể chuyện ở bậc Tiểu học giúp bồi dưỡng tâm hồn, phát triển tư
duy ngôn ngữ, rèn kĩ năng nghe, nói và khả năng giao tiếp cho trẻ. Mặt khác, nó
cịn hình thành ở trẻ những phẩm chất như: “có lịng nhân ái, hiếu thảo với ơng bà,
u q anh chị em, kính trọng thầy cơ giáo, lễ phép với người lớn tuổi, giúp đỡ
bạn bè, yêu các em nhỏ, yêu lao động, có kỉ luật, có nếp sống văn hố, có thói quen
rèn luyện thân thể và giữ gìn vệ sinh, yêu quê hương đất nước”.
Trong chương trình Tiếng Việt lớp 4, phân mơn kể chuyện có ba kiểu bài
chính. Điều này đã làm phong phú cho cả hình thức và nội dung Kể chuyện. Sự đa
dạng về nội dung trong mỗi tiết Kể chuyện đã giúp cho trẻ rèn luyện khả năng ghi


4
nhớ, tái tạo văn bản, óc tưởng tượng, khả năng tư duy lơgic, …, rèn kĩ năng nói, kể
chuyện trước đám đông một cách tự nhiên, thành thạo, đầy sáng tạo và tự tin.
Ba kiểu bài của Kể chuyện lớp 4, đó là: Kể lại câu chuyện vừa nghe thầy,
cơ kể trên lớp; Kể chuyện đã nghe, đã đọc; Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham
gia. Ba kiểu bài này được dạy xuyên suốt, đan xen trong cả chương trình Tiếng Việt
lớp 4. Mỗi kiểu bài có một nhiệm vụ và đặc điểm riêng trong việc rèn kĩ năng nghe
- nói cho học sinh. Bên cạnh mục đích rèn luyện kĩ năng nghe - nói cho học sinh,
kể chuyện cịn có mục đích khác là kích thích học sinh ham đọc sách báo, sưu tầm
sách báo trong đời sống hàng ngày, mở rộng cánh cửa nhà trường, làm cho đời sống
văn học trong nhà trường gắn bó với đời sống văn học ngồi xã hội, cao hơn nữa,

đó là thúc đẩy và gây dựng ban đầu về văn hoá đọc cho thế hệ trẻ.
2.2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
2.2.1 Đối với giáo viên:
Thông qua việc dự giờ thăm lớp đồng nghiệp. Qua trao đổi, sinh hoạt chuyên
môn tôi nhận thấy đa số các giáo viên khi dạy kể chuyện cịn có những tồn tại sau:
- Hình thức tổ chức khi dạy học phân môn Kể chuyện chưa phong phú. Đa
phần là dạy theo kiểu: giáo viên kể - học sinh lắng nghe rồi kể lại nên tiết kể
chuyện thường đơn điệu, nhàm chán, chưa phát huy được tính tích cực và tư duy
sáng tạo của học sinh.
- Trong giờ dạy, giáo viên chưa quan tâm đến nhiều đối tượng tham gia kể,
chưa giúp mọi học sinh có sẵn điều muốn kể, nhu cầu kể cho thầy cơ và các bạn
câu chuyện của mình.
2.2.2 Đối với học sinh:
- Học sinh rất thích giờ kể chuyện vì giờ Kể chuyện khơng phải viết, thích
được kể câu chuyện của mình cho bạn nghe, cho cả lớp nghe, thích thể hiện mình,
mặc dù câu chuyện của em kể chưa suôn sẻ . Giờ học này thường hứng thú với các
em hơn.
- Nhiều em chưa biết cách kể, cách diễn đạt, cách dùng từ của các em còn
vụng, khi kể còn dùng nhiều từ đế, từ phụ, cách kể ê a, ngắc ngứ.
2.2.3. Kết quả của thực trạng:
Để nắm bắt được kết quả của thực trạng trên, tôi đã tìm hiểu cộng với khảo
sát như sau:
Vào đầu năm học, qua tiết học kể chuyện đầu tiên tôi đã khảo sát và phỏng
vấn các em về phân môn Kể chuyện.


5

PHIẾU KHẢO SÁT
1: Em thích học phân mơn kể chuyện khơng?

A . Có
B. Khơng
2: Em thích kiểu bài kể chuyện nào?
A. Kể chuyện đã nghe, đã đọc.
B. Kể chuyện được chứng kiến và tham gia.
C. Kể chuyện vừa nghe thầy cơ kể trên lớp.
3: Em có hay đọc sách, báo thiếu nhi, truyện nào?
A. Báo thiếu niên, nhi đồng.
B. Sách giáo khoa.
C. Truyện tranh.
4: Em thường kể chuyện gì cho bố mẹ nghe, cho bạn bè nghe.
A. Chuyện em thấy khi đi học, đi chơi.
B. Chuyện em đọc trong sách.
C. Chuyện ở trường.
Kết quả thu được trên 50 em tham gia khảo sát:
1. Em thích học phân mơn kể chuyện khơng?
- 50 em =100% thích học kể chuyện.
2: Em thích kiểu bài kể chuyện nào?
- 11 em = 22% thích kể chuyện đã nghe, đã học.
- 36 em = 72% thích kể chuyện vừa nghe thầy cơ kể trên lớp
- 3 em = 6% thích kể chuyện được chứng kiến và tham gia.
3: Em có hay đọc sách, báo thiếu nhi, truyện nào?
- 8 em = 16% đọc báo thiếu niên, nhi đồng
- 15 em = 30% đọc sách giáo khoa
- 27 em = 54 % đọc truyện tranh.
4: Em thường kể chuyện gì cho bố mẹ nghe, cho bạn bè nghe.
- 5 em = 10% chuyện trong sách, báo.
- 22 em = 44% chuyện thấy khi đi học, đi chơi.
- 23 em = 46% chuyện ở trường
Qua điều tra, tơi nhận thấy các em rất thích phân mơn kể chuyện, các em

thích nghe thầy cơ kể chuyện. Các em có đọc sách báo, nhưng chủ yếu là truyện
tranh và các câu chuyện ít phục vụ vào chủ điểm bài học. Các em cũng thích kể lại
những chuyện mình đã chứng kiến ở trường, lúc đi chơi cho gia đình và bạn bè
nghe. Vậy khi vào giờ kể chuyện thì các em học như thế nào? Tôi đã kiểm tra kết
quả học tập của học sinh với bài kiểm tra sau:
Đề bài: Kể lại câu chuyện Sự tích Hồ Ba Bể. (Tuần 1)


6
Tôi tiến hành kiểm tra trong 2 tiết ở các tiết luyện Tiếng Việt ở buổi 2
+ Kết quả thu được:
Lớp
4A

Sĩ số
HS
36

Hồn thành tốt
SL
TL
6
16,6%

Hồn thành
SL
TL
23
64%


Chưa hồn thành
SL
TL
7
19,4%

Qua khảo sát tơi thấy: Số học sinh nhớ và kể lại câu chuyện bằng lời của mình
rất ít. Cịn nhiều em chưa nhớ được nội dung câu chuyện nên kể bập bõm, kể lại
các sự việc lộn xộn. Nhiều em chỉ kể được đoạn đầu câu chuyện mà không thể kể
được các phần tiếp theo. Chưa có em nào có sự sáng tạo khi kể chuyện.
2.2.4. Nguyên nhân của thực trạng:
- Phần lớn giáo viên rất ngại dạy kể chuyện vì nó địi hỏi phải chuẩn bị
nhiều đồng thời tổ chức giờ học khó. Chuẩn bị đồ dùng dạy học để minh họa câu
chuyện cịn ít, chủ yếu là tranh ảnh phóng to từ sách giáo khoa.
- Trong giờ dạy, giáo viên chưa hướng dẫn học sinh cách ghi nhớ nội dung
truyện để kể bằng ngơn ngữ theo cách của riêng mình nên học sinh không ghi nhớ
được nội dung diễn biến câu chuyện và bài kể của học sinh còn phụ thuộc vào ngôn
ngữ của giáo viên.
- Nhiều khi giáo viên yêu cầu học sinh kể quá cao, cứ nghĩ kể chuyện phải
thành một văn bản nói chau chuốt, diễn đạt phải rõ ràng, mạch lạc. Cho nên nhận
xét học sinh kể nhiều khi quá khắt khe, soi xét tỉ mỉ. Điều này khơng đúng với mục
đích của giờ Kể chuyện, và cũng đã làm giảm sự mạnh dạn của học sinh tham gia
kể, làm cho học sinh lúc nào cũng căng tai để nghe xem bạn có mắc lỗi nào khơng
để lát nữa ta phê bạn, làm cho học sinh buộc phải ghi nhớ câu, từ, chi tiết, .. mà
quên đi cái diễn biến, cái tổng thể của câu chuyện.
- Việc ghi nhớ và kể lại nội dung câu chuyện đã được nghe cơ giáo, thầy giáo
kể với các em cịn hạn chế. Các em khơng nhớ hết được các tình tiết, sự việc xảy ra
trong truyện nên khi kể lại nội dung câu chuyện chưa đầy đủ, chưa có sự sáng tạo.
- Các em ít đọc truyện, sách báo văn học thiếu nhi mà thường đọc truyện
tranh nước ngoài, truyện tranh dài tập, cho nên việc tìm đọc những truyện ngoài

nhà trường phục vụ cho chủ điểm đang học với các em cịn khó khăn. Trong tiết
này các em thường chỉ kể những câu chuyện ở trong chương trình mà các em vừa
học.
Từ thực trạng trên tôi đã nghiên cứu và mạnh dạn áp dụng một số giải pháp
để hạn chế những tồn tại trên. Đó là làm thế nào để giáo viên khơng cịn e ngại dạy
Kể chuyện. Sử dụng đồ dùng trong khi dạy kể chuyện như thế nào là hợp lý. Muốn
học sinh kể được câu chuyện theo yêu cầu của bài học, của chủ điểm thì phải làm
thế nào? Làm thế nào để tất cả đối tượng học sinh đều được kể chuyện. Học sinh
phân tích và kể lại câu chuyện vừa nghe như thế nào cho hợp lý?...


7
2.3 Các giải pháp đã sử dụng:
2.3.1. Giải pháp 1: Sử dụng Kĩ thuật "KWL-KWLH"
Để vận dụng hiệu quả kĩ thuật này vào dạy học thì trước hết giáo viên cần
thực hiện tốt một số yêu cầu sau:
- Thứ nhất tìm hiểu sự ra đời của kĩ thuật "KWL-KWLH":
K: kiến thức/hiểu biết HS đã có;
W: những điều HS muốn biết;
L: những điều HS tự giải đáp/trả lời;
H: cách thức để HS tìm tịi nghiên cứu mở rộng thêm về chủ đề học
"KWL do Donna Ogle giới thiệu năm 1986. Học sinh bắt đầu bằng việc
động não tất cả những gì các em đã biết về chủ đề bài đọc. Thông tin này sẽ được
ghi nhận vào cột K của biểu đồ. Sau đó học sinh nêu lên danh sách các câu hỏi về
những điều các em muốn biết thêm trong chủ đề này. Những câu hỏi đó sẽ được ghi
nhận vào cột W của biểu đồ. Trong quá trình đọc hoặc sau khi đọc xong, các em sẽ
tự trả lời cho các câu hỏi ở cột W. Những thông tin này sẽ được ghi nhận vào cột L.
(Trích từ Ogle, D.M. (1986). K-W-L: A teaching model that develops active
reading of expository text. Reading Teacher, 39, 564-570)"
Xuất phát từ kĩ thuật KWL, Ogle tiếp tục bổ sung thêm cột H ở sau cùng.

Sau khi học sinh đã hoàn tất nội dung ở cột L, các em có thể muốn tìm hiểu thêm
về một số thơng tin có liên quan. Các em sẽ nêu biện pháp để tìm thơng tin mở
rộng. Tất cả những ý tưởng, yêu cầu này sẽ được ghi nhận ở cột H.
- Thứ hai nắm vững mục đích sử dụngcủa kĩ thuật, đó là:
Tìm hiểu kiến thức có sẵn của học sinh trước khi học bài mới/chủ đề mới.
Đặt ra các mục tiêu cho hoạt động học tập.
Giúp học sinh tự giám sát, trải nghiệm quá trình học tập của mình.
Cho phép học sinh đánh giá quá trình học tập của mình.
Tạo cơ hội cho học sinh diễn tả ý tưởng của mình vượt ra ngồi khn khổ
bài mới/chủ đề mới, được liên hệ và vận dụng vào thực tiễn.
Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích hợp tiếp cận về nội dung,
hình thức tổ chức, phương pháp dạy học,…
Tất cả những mục đích trên đều hướng tới phát triển các năng lực của học sinh.
- Thứ ba nắm vững các bước thực hiện:
Bước 1: Chọn bài học/chủ đề. Phương pháp này đặc biệt có hiệu quả với
các bài học mang ý nghĩa gợi mở, tìm hiểu, giải thích.
Bước 2: Tạo bảng KWLH. Giáo viên vẽ một bảng lên bảng (hoặc trình chiếu
trên Slide), đồng thời yêu cầu mỗi HS cũng kẻ một bảng theo mẫu của giáo viên
(hình dưới).
Họ và tên học sinh:
Lớp:
K
W
L
H


8
Bước 3: Đề nghị học sinh động não nhanh và nêu ra các từ, cụm từ có liên quan
đến bài học/chủ đề. Học sinh cùng ghi nhận hoạt động này vào cột K.

Lưu ý: Giáo viên phải chuẩn bị câu hỏi để giúp học sinh động não. “Hãy
nói những gì các em đã biết về ……”.
Bước 4: Giáo viên hỏi tiếp xem các em muốn biết/tìm hiểu thêm những gì về
bài học/chủ đề này. Học sinh sẽ ghi nhận câu hỏi vào cột W. Nếu học sinh trả lời
bằng một câu phát biểu bình thường, hãy biến nó thành câu hỏi trước khi ghi nhận
vào cột W.
Bước 5: Sau khi đã dạy xong bài học/chủ đề mới, yêu cầu học sinh đọc lại và tự
điền câu trả lời mà các em tìm được (trong quá trình học tập) vào cột L.
Bước 6: Sau khi học sinh đã hoàn tất nội dung ở cột L, học sinh có thể muốn
tìm hiểu thêm các thơng tin có liên quan, giáo viên hãy yêu cầu các em nêu biện
pháp để tìm kiếm mở rộng.Tất cả những ý tưởng, yêu cầu này sẽ được ghi nhận ở
cột H.
Ví dụ: Dạy tiết kể chuyện “ Bàn chân kì diệu.” ( Tuần 11)
Căn cứ vào mục tiêu của tiết học (Rèn kĩ năng nói: Dựa vào lời kể của GV và
tranh minh họa, HS kể lại được câu chuyện; rút ra được bài học từ tấm gương
Nguyễn Ngọc Kí. Rèn kĩ năng nghe: chăm chú nghe GV kể chuyện; nhớ câu
chuyện ; nghe bạn kể, nhận xét đúng lời kể của bạn, kể tiếp được lời bạn) tơi đã
tiến hành tiết dạy theo quy trình sau:
Khởi động tiết học bằng việc hoàn thành hai cột K và W trong sơ đồ KWLKWLH (như bảng dưới) mà học sinh đã được chuẩn bị trước.Tôi sẽ gợi ý cho học
sinh bằng câu hỏi“Hãy nói những gì các em đã biết về truyện Bàn chân kì diệu?”
và cho các em ghi những điều các em đã biết vào cột K. Sau đó tơi tiếp tục đặt câu
hỏi cho các em: “Các em muốn biết thêm những gì khi nghe cô kể về câu chuyện
này?” các em sẽ nêu những điều các em muốn biết về câu chuyện này vào cột W.
Sau khi nghe giáo viên kể, nghe bạn kể và kể lại thì học sinh có thể trả lời câu hỏi ở
cột W và hoàn thành cột L. Sau khi nghe kể và tìm hiểu câu chuyện các em muốn
tìm hiểu thêm về điều gì các em sẽ ghi vào cột H của sơ đồ KWL-KWLH (như
bảng dưới)
K
W
L

H
(Dự kiến)
(Dự kiến)
(Dự kiến)
(Dự kiến)
- Tên nhân - Nguyễn Ngọc Kí - Nguyễn Ngọc Kí - Tìm đọc các câu
vật
viết bằng cách
viết bằng chân
chuyện về Nguyễn
- Hồn cảnh nào?
Ngọc Kí
của Nguyễn - Nguyễn Ngọc Kí - Khó khăn khi cầm - Tìm đọc các câu
Ngọc Kí
gặp khó khăn gì
bút bằng chân, chân chuyện về những
trong quá trình
bị chuột rút...
người giàu nghị


9
luyện viết
- Ơng đạt kết quả
như thế nào?

lực, có ý chí vươn
-Chữ ơng mỗi ngày lên
một đẹp, đậu đại học
tổng hợp; được Bác

Hồ tặng huy hiệu
Sau khi vận dụng giải pháp này vào q trình dạy học tơi thấy rất vui mừng
vì học sinh rất hứng thú với bài học. Các em đã huy động và sử dụng kiến thức đã
biết của bản thân vào học bài mới. Vì vậy các em cảm thấy tự tin hơn, biết đặt ra
các mục tiêu cho hoạt động học tập.
Các em nhớ được nội dung câu chuyện cũng như nắm được ý nghĩa của câu
chuyện. Các em biết mở rộng nội dung bài học thơng qua việc tìm đọc các câu
chuyện về nguyễn Ngọc Kí, các câu chuyện liên quan đến người có ý chí, có nghị
lực vươn lên.
Các em cũng tự giám sát, trải nghiệm quá trình học tập và cho phép các em
đánh giá quá trình học tập của mình.
2.3.2. Giải pháp 2: Sử dụng kỹ thuật Sơ đồ tư duy:
Kiểu bài kể lại câu chuyện vừa nghe thầy, cô giáo kể trên lớp ở lớp 4 - 5 có
tác dụng rèn kỹ năng nghe cho học sinh vì văn bản của truyện không được in trong
sách giáo khoa, học sinh không được đọc trước, biết trước. Để học sinh chỉ nghe
một đến hai lần mà học sinh có thể ghi nhớ và kể lại được câu chuyện thật là khó.
Các em cố nhớ câu chuyện thì sẽ quên mất lời kể, giọng điệu, câu chuyện trở nên
khơ khan. Chính vì vậy việc sử dụng Kĩ thuật sơ đồ tư duy trong các tiết kể chuyện
này sẽ giúp các em ghi nhớ và kể lại được câu chuyện, đem lại hứng thú cho học
sinh, phát huy ở học sinh tính tích cực và tư duy sáng tạo.
Để sử dụng tốt sơ đồ tư duy, giáo viên cần nắm được:
+ Khái niệm sơ đồ tư duy:
Sơ đồ tư duy hay bản đồ tư duy là hình thức ghi chép sử dụng màu sắc, hình
ảnh để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. Kỹ thuật tạo ra loại sơ đồ này được phát
triển bởi Tony Buzan vào những năm 1960 và cho đến nay nó đã và đang được sử
dụng ở rất nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt Nam.
+ Cấu tạo sơ đồ tư duy:
- Ở giữa sơ đồ là từ khóa hay hình ảnh miêu tả chủ đề trung tâm.
- Từ chủ đề trung tâm vẽ các nhánh chính liên quan đến đến chủ đề, mỗi ý lớn
sẽ được thể hiện bằng một màu sắc hoặc kí hiệu khác nhau. Trên các nhánh chính

viết một nội dung liên qua đến chủ đề trung tâm.
- Từ mỗi nhánh chính vẽ tiếp các nhánh nhỏ để viết tiếp những nội dung thuộc
nhánh chính.Tiếp tục như vậy ở các tầng phụ tiếp theo.


10

Cấu tạo sơ đồ tư duy

+ Cách hướng dẫn học sinh kể chuyện bằng Sơ đồ tư duy:
Tôi hướng dẫn cho học sinh kể chuyện bằng sơ đồ tư duy qua 3 giai đoạn:
Giai đoạn đầu hướng dẫn học sinh thao tác vẽ sơ đồ, giai đoạn 2 giáo viên hướng
dẫn học sinh cách tóm tắt các ý chính bằng những từ, cụm từ và thể hiện lên sơ đồ,
giai đoạn cuối học sinh tự vẽ và hoàn thành sơ đồ với nhóm mình.
Giai đoạn 1: Hướng dẫn học sinh tóm tắt nội dung truyện bằng Sơ đồ tư duy
và kể chuyện bằng Sơ đồ tư duy qua 2 tiết kể chuyện: Một nhà thơ chân chính –
Tuần 4, Lời ước dưới trăng – Tuần 7. Tôi đã hướng dẫn học sinh cách vẽ sơ đồ tư
duy và kể chuyện bằng Sơ đồ tư duy theo các bước:
+ Bước 1: GV giới thiệu Sơ đồ tư duy và cách vẽ Sơ đồ tư duy cho HS xem (GV có
thao tác mẫu)
+ Bước 2: Hướng dẫn HS vẽ Sơ đồ tư duy tóm tắt nội dung câu chuyện: GV kể lại
câu chuyện(2 lần) yêu cầu học sinh dựa vào lời kể của GV kết hợp quan sát
tranh( hoặc câu hỏi) trong sách giáo khoa tự nêu các sự việc chính, sắp xếp các sự
việc thành cốt truyện.
+ Bước 3: GV cho học sinh hoạt nhóm 4, tóm tắt các sự việc thành cụm từ/ câu
ngắn gọn và viết lên Sơ đồ tư duy.
+ Bước 4: Mời đại diện nhóm dựa vào Sơ đồ tư duy trình bày bài kể của nhóm. GV
nhận xét, góp ý, chỉnh sửa, bổ sung. Sau mỗi phần kể của các nhóm , tơi cho các
nhóm khác phát hiện những chi tiết khơng chính xác hoặc những từ ngữ mà nhóm
bạn kể chưa đúng và sửa lại. Hoạt động này giúp các em phát hiện và lựa chọn từ

ngữ khi diễn đạt, trình bày.
Sau 2 tiết kể chuyện này bước đầu các em đã nắm được các thao tác vẽ Sơ đồ
tư duy, cách thể hiện nội dung lên Sơ đồ tư duy nhưng từ ngữ trên Sơ đồ tư duy cịn
dài dịng (Hình 1). Bài kể của các em hầu như là đọc lại các từ trên Sơ đồ tư duy,
chưa có sự sáng tạo, diễn đạt chưa trôi chảy.


11

Hình 1: Sơ đồ tóm tắt truyện Một nhà thơ chân chính.
Giai đoạn 2: Hướng dẫn học sinh cách tóm tắt các ý chính thành các từ khóa, thể
hiện lên Sơ đồ tư duy, dùng Sơ đồ tư duy đó để kể chuyện bằng ngơn ngữ của mình
qua tiết kể chuyện: Bàn chân kì diệu- Tuần 11. Các bước thực hiện:
+ Bước 1: GV kể chuyện( 2 lần). Sau đó yêu cầu cá nhân học sinh dựa vào lời kể
của GV và tranh vẽ trong sách giáo khoa, tóm tắt câu chuyện bằng Sơ đồ tư duy.
+ Bước 2: Cho học sinh thảo luận nhóm 4, chia sẻ sơ đồ của mình với nhóm, nhóm
thống nhất vẽ Sơ đồ tư duy của nhóm.
+ Bước 3: GV tổng hợp sơ đồ của các nhóm và chọn một sơ đồ tốt nhất. GV dựa
vào sơ đồ đó và kể mẫu(Hình 2). Sau đó cho học sinh lên kể, GV đánh giá phần kể
của học sinh.
Sau khi học xong tiết kể chuyện này học sinh đã biết vẽ Sơ đồ tư duy dưới sự
hướng dẫn của GV và dựa vào sơ đồ này bài kể của các em có tiến bộ hơn tuy
nhiên kĩ năng diễn đạt và trình bày cịn hạn chế. Các em cố gắng nhớ cách kể của
GV, câu chữ mà GV sử dụng để kể mẫu khiến cho bài kể của các em không được
mạch lạc, bị gián đoạn.


12

H

ình 2: Sơ đồ tóm tắt truyện Bàn chân kì diệu.
Giai đoạn 3: Học sinh tự tóm tắt nội dung bằng sơ đồ tư duy và kể lại qua tiết kể
chuyện: Búp bê của ai? – Tuần 14. Các bước thực hiện:
+ Bước 1: Sau khi nghe GV kể chuyện(2 lần) yêu cầu học sinh thảo luận nhóm
4, dựa vào tranh vẽ và lời thuyết minh dưới tranh tóm tắt câu chuyện bằng Sơ đồ tư
duy.
+ Bước 2: Cho học sinh dựa vào Sơ đồ tư duy của nhóm kể lại một đoạn câu
chuyện hay cả câu chuyện. GV nhận xét, góp ý, bổ sung.
Ở tiết học này, sơ đồ tóm tắt của các em trình bày đẹp, khái qt được toàn bộ
nội dung truyện kể một cách ngắn gọn. Bài kể của các em kể đầy đủ, giọng kể
truyền cảm, có sáng tạo.

.

Hình 3: Sơ đồ tóm tắt truyện Búp bê của ai? ( Nhóm 1)


13

Hình 4: Sơ đồ tóm tắt truyện Búp bê của ai? ( Nhóm 4)
Dựa vào sơ đồ tư duy bài kể của các em kể đầy đủ, giọng kể khá truyền cảm và
có sự sáng tạo. Sự sáng tạo ở chỗ các nhóm đã biết giới thiệu đưa người nghe đến
với câu chuyện Búp bê của ai?( Ví dụ: Mở đầu câu chuyện có em kể: Hơm ấy, Nga
được mẹ cho đi đến cửa hàng đồ chơi. Vừa nhìn thấy búp bê Nga đã địi mẹ mua
cho.), ngơn ngữ dùng có sự lựa chọn, cách kết thúc câu chuyện có sáng tạo(Ví dụ:
Kết thúc câu chuyện các em kể thêm về việc bé Nga gặp lại búp bê khi đến nhà cô
chủ mới chơi)
Với học sinh Tiểu học, làm việc theo nhóm gây hứng thú cho học sinh hơn
hẳn làm việc cá nhân. Bởi khi làm việc theo nhóm các em được bộc lộ suy nghĩ của
mình, các em được “thể hiện” sự hiểu biết của mình trước các bạn trong nhóm nhỏ,

làm giảm bớt sự e ngại của một số em chưa mạnh dạn. Và khi làm việc theo nhóm,
các em sẽ tích cực đưa ra những ý kiến của mình để được các bạn trong nhóm ghi
nhận. Chính vì vậy việc sử dụng Kĩ thuật sơ đồ tư duy trong các tiết kể chuyện sẽ
đem lại hứng thú cho học sinh.
2.3.3. Giải pháp 3: Tổ chức cho học sinh kể chuyện theo hình thức “ Sắm vai”
Để giúp học sinh có hứng thú học tập trong giờ Kể chuyện, góp phần nâng cao
chất lượng giờ học Kể chuyện ở Tiểu học thì hình thức “ Sắm vai” mang lại một
hiệu quả cao , gây hứng thú cho học sinh khi học tiết Kể chuyện.
Tôi đã xác định mục đích cơng việc sắm vai của HS và tiến hành hoạt động
sắm vai của HS để kể lại câu chuyện như sau:
* Mục đích của hoạt động sắm vai: Thơng qua thực hành sắm vai, HS sẽ hứng
thú kể lại chuyện một cách tự nhiên, giúp lớp học sinh động, nó cịn giúp cho HS


14
tìm được ý nghĩa câu chuyện dễ dàng hơn.
* Chuẩn bị:
- Giáo viên:
+ Chia nhóm và giao nhiệm vụ cho các nhóm về nội dung sẽ Sắm vai trong tiết kể
chuyện tới
+ Đạo cụ ( mặt nạ, con rối)
+ Lời thoại
+ Địa điểm nhóm sẽ sắm vai
- Học sinh:
+ Các nhóm chuẩn bị, tìm hiểu nội dung truyện kể sẽ sắm vai.
+ Thử sắm vai.
- Thời gian thử sắm vai bằng thời gian kể trong nhóm
* Trình tự tiến hành:
- HS tìm địa điểm riêng để tiến hành tập sắm vai thử.
- Thời gian sắm vai thử bằng thời gian tập kể trong nhóm

* Các yêu cầu về kịch bản ( lời thoại): gợi ý sắm vai, phân vai, hướng dẫn HS
thuộc lời thoại và nhập vai, chuẩn bị đạo cụ.
* Soạn kịch bản:
Để đảm bảo thời lượng cũng như đảm bảo tính vừa sức cho HS, tơi chọn phần
nội dung sắm vai của các em có thể là tồn bộ truyện nếu là truyện ngắn, một phần
trọng tâm của truyện nếu là truyện dài. Sau khi đã tìm hiểu kỹ, nắm vững cốt truyện
nhớ các tình tiết, hiểu thấu đáo nội dung và nghệ thuật củatruyện, tôi tiến hành soạn
kịch bản dựa trên cốt truyện và lời kể trong truyện. Kịch bản cho sắm vai phải phân
định rõ lời dẫn truyện và lời thoại. Lời thoại cần ngắn gọn, đủ ý, tránh rườm rà
không cần thiết để học sinh mau thuộc dễ nhớ. Từ ngữ sử dụng trong lời thoại cần
phù hợp với khơng gian, thời gian, hồn cảnh xảy ra câu chuyện. Trong truyện,
thỉnh thoảng có xen vào lời nói có vần điệu, những câu cố định, thì trong lời thoại
phải giữ nguyên văn. Trong kịch bản nên gợi ý cụ thể về cử chỉ, nét mặt, điệu bộ và
ngữ điệu dựa theo kịch bản, để học sinh dễ hình dung về vai mình sẽ đóng.
Nhưng cần lưu ý kịch bản cho sắm vai không phải là kịch bản sân khấu hay
điện ảnh, nó chỉ nhằm giúp cho các em tổ chức hoạt động, sắm vai phục vụ cho tiết
học kể chuyện làm cho tiết học trở nên sinh động, mang tính nghệ thuật.
* Chuẩn bị đạo cụ:
Đạo cụ là những đồ vật nhằm hỗ trợ cho vai diễn thêm sinh động, góp phần minh
hoạ, dẫn dắt câu chuyện, chắp cánh cho trí tưởng tượng của các em bay bổng. Đạo
cụ dùng cho hoạt động sắm vai cần đạt được một số yêu cầu sau:
- Đạo cụ phải phù hợp với từng vai diễn, có tác dụng hỗ trợ cho vai diễn sinh
động, góp phần lột tả tính cách nhân vật, giúp các em dễ theo dõi truyện.
- Đạo cụ cần dễ kiếm, dễ làm, dễ sử dụng khơng nên q cầu kỳ, đắt tiền. Vì
nhiều khi đạo cụ quá cầu kỳ lại làm cho các em tham gia đóng vai bị lúng túng khi


15
sử dụng và làm mất sự chú ý vào nội dung diễn biến của câu chuyện đối với các em
khác.

- Đạo cụ có thể do giáo viên làm hoặc do học sinh tự chuẩn bị. Việc cho học sinh
tự chuẩn bị sẽ góp phần phát huy sự sáng tạo, kích thích trí tưởng tượng của các em
học sinh, giúp các em hiểu sâu hơn về vai diễn của mình.
*Phân vai:
Giáo viên nên để các em tự chọn các vai mà các em u thích, sau đó để các em
trong nhóm thảo luận rồi chủ động phân vai hay phân công nhau. Như vậy các em
sẽ hào hứng và đóng tốt vai của mình. Ngồi ra giáo viên cũng có thể chủ động
chọn một nhóm học sinh khá, giao vai cụ thể cho từng em. Đây sẽ là nhóm được
giáo viên xây dựng làm mẫu trong giờ học.Để các em đóng vai được thuận lợi, giáo
viên căn cứ vào tính cách, giọng nói, đặc điểm ngoại hình... của từng em mà phân
vai cho thích hợp. Trong giờ học, giáo viên có thể chỉ định một nhóm bất kỳ, khơng
được chuẩn bị để các em sắm vai nhằm mục đích rèn luyện cho các em tính tự tin,
đồng thời cũng là cách ta kiểm tra việc nắm bài cũng như việc rèn luyện các kỹ
năng nghe, nói, Kể chuyện của các em một cách thực chất. Căn cứ vào trình độ của
lớp mà giáo viên có thể lựa chọn hình thức phân vai phù hợp, sao cho em nào trong
lớp cũng có thể tham gia.
* Hướng dẫn học sinh thuộc lời thoại và nhập vai.
+ Đưa kịch bản vào phiếu học tập cho các nhóm thảo luận ngay tại lớp.
+ Học sinh luyện đọc giọng vai của mình để thuộc lời thoại.
+ Giáo viên gợi ý cho nhóm khá nhận xét lựa chọn nét mặt, cử chỉ, không nên
quá cường điệu mà chỉ là sự phối hợp tự nhiên với ngữ kể chuyện.
*Các yếu tố khác.
Ngoài các yếu tố cần chuẩn bị như đã nêu ở trên, để giờ học kể chuyện có sắm
vai được thành cơng, tơi có thể chuẩn bị thêm:
- Về địa điểm: Có thể tổ chức giờ học ở trong lớp hay ngoài trời. Nếu tổ chức ở
trong lớp, giáo viên có thể sắp xếp lại bàn ghế để thầy trị ngồi qy quần bên nhau,
tạo được khơng khí thân mật, ấm cúng trong tiết học đồng thời có đủ khoảng khơng
gian cần thiết cho các em sắm vai.
- Chuẩn bị, hướng dẫn các em nếp học, cách học giờ Kể chuyện để giờ học diễn ra
sôi nổi, hào hứng mang tính nghệ thuật nhưng cũng có kỷ luật.

Như trên đã nói: Dạy Kể chuyện góp phần thỏa mãn nhu cầu Kể chuyện của trẻ
em, đồng thời là một phương tiện giáo dục hữu ích. Dạy Kể chuyện góp phần giúp
học sinh rèn luyện các kỹ năng, mở rộng tầm hiểu biết, rèn luyện khả năng tư duy,
phát triển trí tưởng tượng ... Giờ Kể chuyện đem đến cho các em học sinh những
xúc cảm thẩm mỹ lành mạnh, giáo dục cho các em những tình cảm, phẩm chất đạo
đức cao đẹp, giúp các em có một nhân cách phát triển tồn diện.
Giờ Kể chuyện có hoạt động sắm vai đem đến những tác dụng sau:
- Hoạt động sắm vai gây hứng thú cho cho học sinh, giúp học sinh nắm nhanh


16
cốt truyện, hiểu sâu nội dung cũng như tính cách của từng nhân vật trong truyện.
- Việc thể hiện tính cách nhân vật giúp học sinh rèn luyện các kỹ năng nghe, nói,
khả năng tư duy và phát huy trí tưởng tưởng phong phú.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường:
Sau khi áp dụng biện pháp cải tiến giúp học sinh học tốt hơn phân môn Kể
chuyện , tôi đã kiểm tra kết quả học tập của học sinh trên 2 lớp 4, lớp 4A (lớp tôi
trực tiếp giảng dạy và vận dụng biện pháp nâng cao chất lượng dạy học), lớp 4C
(lớp đối chứng) với bài kiểm tra sau:
Đề bài: Hãy kể lại một câu chuyện mà em đã nghe hoặc được đọc về một
người có nghị lực.
Tôi kiểm tra mỗi lớp trong 2 tiết luyện Tiếng Việt ở buổi 2.
+ Kết quả khảo sát sau khi thực hiện biện pháp nâng cao chất lượng:
Lớp
4A

Sĩ số
HS
36


Hoàn thành tốt
SL
TL
14
38,8%

Hoàn thành
SL
TL
22
61,2%

Chưa hoàn thành
SL
TL
0
0

Sau khi vận dụng các biện pháp trên vào giảng dạy phân môn Kể chuyện cho
học sinh lớp 4A, tôi nhận thấy chất lượng giờ học được nâng lên, khơng khí học tập
sơi nổi, mọi đối tượng học sinh đều tích cực tham gia học tập. Những em học sinh
yếu đã mạnh dạn hơn kể chuyện cho bạn cùng nghe và mạnh dạn xung phong kể
chuyện trước lớp.
Đối với dạng Kể chuyện nghe thầy, cô kể trên lớp, sau khi thực hiện bước
hoạt động nhóm vẽ sơ đồ tư duy cho nội dung câu chuyện. mỗi học sinh đóng góp
một ý, ghi nhớ một ý để hồn thành câu chuyện. Như thế chính là các em đã được
luyện kể cho nhau nghe một lần, giúp các em ghi nhớ nội dung câu chuyện tốt hơn,
nhanh hơn. Trong hoạt động này, học sinh phát huy khả năng hoạt động nhóm, tính
đồn kết trong nhóm được nâng cao, em nào cũng được đóng góp ý kiến để hồn

thành so đồ tư duy, hồn thành nội dung câu
Tơi nhận thấy thành công lớn nhất với học sinh lớp tôi là các em đã say mê
đọc sách báo. Trong giờ ra chơi, thay vì nghịch ngợm, trêu ghẹo nhau các em tìm
đọc truyện ở thư viện.( Hình 1,2- Phụ lục) Các buổi sinh hoạt sao, giờ ra chơi các
em kể chuyện cho nhau nghe, kể chuyện cho các em khối dưới nghe, các em học
sinh khối dưới vơ cùng thích thú khi được nghe những câu chuyện mới lạ do các
em học sinh lớp tơi kể (Hình 3,4 - Phụ lục)
-Trong các buổi sinh hoạt tập thể dưới cờ, các em học sinh lớp tôi luôn
mạnh dạn xung phong kể chuyện cho các bạn trong toàn trường nghe.Trong hội thi
kể chuyện cấp trường chào mừng ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, em
Nguyễn Thị Ngân Hà lớp tôi đã giành giải nhất (Hình 5-Phụ lục)


17
-Học tốt phân mơn Kể chuyện đã góp phần nâng cao chất lượng mơn Tiếng
Việt. Trong kì kiểm tra định kì cuối học kì 2 lớp tơi có 24/36 em đạt điểm 9, 10.
Cuối năm, lớp tơi có số học sinh có thành tích vượt trội trong mơn Tiếng Việt là 8
em, số học sinh có thành tích xuất sắc trong học tập là 16 em( Hình 6-Phụ lục)
.-Qua sự đánh giá của đồng nghiệp, tiết học của lớp tôi sôi nổi hơn, nội dung
phong phú, hấp dẫn các em, cuốn hút các thầy cô tham gia dự giờ lớp học. Đó là
một thành cơng trong việc áp dụng các giải pháp vào trong dạy kể chuyện cho học
sinh lớp 4. Vì ham đọc sách báo mà kỹ năng nói, đọc và viêt của các em cũng được
nâng lên. Các em biết vận dụng kiến thức, cách viết văn trong sách báo để viết bài
có hình ảnh đẹp, từ ngữ trau chuốt hơn.
3 - KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Qua quá trình nghiên cứu nội dung chương trình SGK Tiếng Việt lớp 4, tìm
hiểu thực trạng dạy và học Kể chuyện, tôi nhận thấy rằng phân môn Kể chuyện
theo chương trình mới có tính thiết thực cao, phù hợp với xu thế phát triển của thời
đại, thúc đẩy, kích thích HS có thói quen đọc sách báo, xây dựng văn hố đọc cho

giới trẻ. Song dù sao, để tìm ra cách dạy phù hợp với đối tượng HS mỗi vùng miền,
mỗi địa phương, với từng đề bài cụ thể, đòi hỏi người thầy phải nắm vững mạch
kiến thức sáng tạo, linh hoạt, làm chủ được phương pháp dạy học tích cực hố các
hoạt động của HS.
Tơi nhận thấy rằng phân mơn Kể chuyện có mục đích rất rõ ràng ngồi mục
đích chung rèn kĩ năng nghe – nói thì phân mơn Kể chuyện cịn có mục đích là kích
thích học sinh ham đọc sách, mở rộng cánh cửa nhà trường, làm cho đời sống văn
học trong nhà trường gắn bó với đời sống văn học ngồi xã hội. Chính vì vậy cần
phải chú trọng và nâng cao chất lượng dạy và học tiếng Việt nói chung và Kể
chuyện nói riêng. Dưới sự tổ chức dẫn dắt của thầy, cô, học sinh ln có cơ hội và
có nhu cầu tham gia các hoạt động kể và các em kể chuyện một cách có chủ động
và đầy sáng tạo.
- Kinh nghiệm trong việc vận dụng kĩ thuật "KWL-KWLH" vào dạy học:
Trước khi dạy kể chuyện, giáo viên cần nghiên cứa kĩ bài, tìm đọc các câu chuyện
có liên quan đến tiết kể chuyện sẽ dạy. Giáo viên cần nghiên cứu kĩ xem những có
kiến thức cũ nào liên quan mà học sinh đã học cần được huy động vào bài. Tổ chức
cho học sinh ôn tập, nhắc lại trước khi vào bài mới, dự kiến những băn khoăn thắc
mắc mà học sinh cần được giải đáp, cách thức để tìm tịi nghiên cứu mở rộng thêm
về chủ đề học. Cần lưu ý rằng kĩ thuật "KWL-KWLH" có thể vận dụng vào tất cả
các bài học.
- Hướng dẫn học sinh vẽ Sơ đồ tư duy để kể lại câu chuyện không chỉ giúp
các em biết tóm tắt khái qt, lựa chọn ngơn ngữ để diễn đạt cho phù hợp mà còn
giúp học sinh rèn kĩ năng nói trước mọi người. Để làm được điều này giáo viên cần


18
có sự chỉ dẫn cụ thể, chỉnh sửa cho các em từ cách dùng từ, cách trình bày, cách thể
hiện các yếu tố phi ngơn ngữ góp phần vào biểu đạt nội dung kể. Ngoài ra giáo viên
cũng cần lưu ý đến các dạng bài kể để hướng dẫn học sinh vẽ sơ đồ và kể lại cho
phù hợp bởi lẽ mỗi câu chuyện hay dạng bài kể có cấu trúc khác nhau và do tính

mở của sơ đồ tư duy nên sơ đồ của các nhóm khơng nhất thiết phải giống nhau.
Giáo viên cần có sự gợi ý thích hợp để khuyến khích học sinh thực hành vẽ và tạo
được nhu cầu , động cơ kể cho học sinh. Để học sinh có thói quen làm việc với Sơ
đồ tư duy, giáo viên nên tạo điều kiện cho các em được thể hiện các ý tưởng trên sơ
đồ, tích hợp sử dụng Sơ đồ tư duy trong các môn học khác nhau ví dụ như dùng Sơ
đồ tư duy để đọc hiểu văn bản, mở rộng vốn từ…
- Kể chuyện theo hình thức sắm vai mang lại hứng thú cho học sinh khi học
phân môn Kể chuyện. Khi tổ chức cho học sinh kể chuyện qua hình thức sắm vai
giáo viên cần chủ động giao việc cho học sinh từ tiết trước để học sinh có sự chuẩn
bị. Giáo viên không nên đặt ra yêu cầu quá cao và bắt buộc học sinh thực hiện đúng
theo mong muốn của mình. Chỉ cần các em biết thể hiện được nhân vật là tiết học
đã đạt yêu cầu.
- Điều quan trọng nhất đối với bản thân tôi là: việc viết sáng kiến kinh
nghiệm này đã giúp tôi rèn luyện khả năng nghiên cứu khoa học, làm cơ sở và làm
tiền đề để cho tơi tiếp tục tìm hiểu các mảng kiến thức khác trong chương trình
Tiếng Việt mới. Theo chủ quan của cá nhân, tơi nhận thấy có thể mở rộng phạm vi
áp dụng trước hết là cho học sinh toàn khối 4 ở trường tiểu học Vĩnh Phúc, huyện
Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa khi dạy phân mơn kể chuyện nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục.Với chuyên đề này, tôi rất mong được chia sẻ những kinh nghiệm thông
qua thực tế giảng dạy Kể chuyện. Các đồng nghiệpcó thể tham khảo chuyên đề này
của tôi để thấy được những thuận lợi và những khó khăn của học sinh và giáo viên
ở phân mơn này. Hay áp dụng nó vào thực tế giảng dạy của lớp các bạn, để tôi cùng
các bạn đều nhận ra rằng dạy Kể chuyện đâu có khó.
3.3. Kiến nghị:
a Đối với đồng nghiệp:
- Tiết học kể chuyện thành công hay không là ở khâu chuẩn bị ở học sinh.
Chính vì vậy, ngay tiết kể chuyện trước giáo viên cần giao việc rõ ràng.
- Phải nắm chắc được nội dung các câu chuyện mà sách giáo viên đề cập đến.
Đọc câu chuyện nhiều lần và kể câu chuyện cho học sinh nghe chứ không phải là
đọc chuyện.

- Cần và năng đọc sách văn học dành cho thiếu nhi.
- Áp dụng phương pháp dạy học một cách linh hoạt, tránh máy móc rập khn,
khơng phải bài kể chuyện nào ở kiểu này chúng đều có yêu cầu giống nhau.
- Khi học sinh kể hãy tạo cho trẻ một tâm thế thật thoải mái, đừng nặng về soi
xét câu từ, mà cái chính là học sinh chọn đúng chuyện đúng chủ đề.
b) Đối với cấp lãnh đạo:


19
- Cần tăng cường sách, báo truyện thiếu nhi trong thư viện nhà trường.
- Nhà trường nên tổ chức các cuộc thi kể chuyện để kích thích khả năng đọc
của các em.
- Nên có những buổi sinh hoạt chun mơn bàn sâu về cách rèn kĩ năng kể
chuyện cho học sinh.
Do có nhiều hạn chế của bản thân, phạm vi nghiên cứu đề tài hẹp, đối tượng
học sinh chưa chắc đã là điển hình, những kinh nghiệm bản thân cũng chỉ mang
tính cá nhân. Sáng kiến kinh nghiệm viết ra, tơi khơng tránh khỏi sai sót. Các bạn
đồng nghiệp đọc và chỉ cho tôi những hạn chế, để giúp cho đề tài lần sau tơi viết
tốt hơn, hồn chỉnh hơn.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ
................................................................
................................................................
................................................................
................................................................
................................................................
................................................................

Vĩnh Lộc, ngày 6 tháng 5 năm 2021
Tơi xin cam đoan đây là SKKN của

mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.

Nguyễn Thị Thu Hiền


20

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên Tiểu học.
2. Thiết kế bài giảng Tiếng việt 4, Sách giáo viên Tiếng Việt 4.
3. Các câu hỏi và đáp về việc dạy và học Tiếng Việt ở Tiểu học.
4. Báo Văn học Tuổi Thơ. – NXB Giáo dục
5. Tạp chí Giáo dục Tiểu học. - NXB Giáo dục

6. Dạy học kể chuyện ở Tiểu học - Lê Phương Nga
7. Giải đáp 88 câu hỏi về giảng dạy Tiếng Việt ở tiểu học – Lê Hữu Tỉnh –
Trần Mạnh Hưởng
8. Giáo trình Tiếng Việt – Đỗ Xuân Thảo- Lê Hữu Tỉnh.
9. Phương pháp dạy kể chuyện – Cao Đức Tiến.
10. Sử dụng Sơ đồ tư duy trong kể chuyện. Tạp chí trường Đại học Cần Thơ


21

DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC CẤP
CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Thu Hiền.

Chức vụ và đơn vị công tác: Trường Tiểu học Vĩnh Phúc.

TT
1.
2.

3.
4.
5.
...

Tên đề tài SKKN
Biện pháp giúp học sinh học
tốt phần từ ghép và từ láy ở
lớp 4.
Biện pháp giúp học sinh học
tốt bài tốn tìm hai số khi biết
tổng và hiệu ở tiết luyện toán
buổi 2.
Một số biện pháp giúp học
sinh làm tốt bài văn miêu tả
cây cối ở lớp 4.
Một số biện pháp giúp học
sinh khắc phục sai lầm khi
học số thập phân.

Cấp đánh giá
xếp loại
(Ngành GD cấp
huyện/tỉnh; Tỉnh...)


Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B, hoặc C)

Năm học
đánh giá
xếp loại

Huyện

B

2006-2007

Huyện

C

2008-2009

Huyện

B

2011-2012

Huyện


B

2016-2017


22
PHỤ LỤC

Hình 1: Học sinh đọc sách tại thư viện.

Hình 2: Học sinh tìm đọc sách tại thư viện.


23

Hình 3: Học sinh kể chuyện cho nhau nghe trong giờ ra chơi.

Hình 4: Học sinh kể chuyện cho các em khối dưới nghe trong giờ ra chơi.


24

Hình 5: Em Nguyễn Thị Ngân Hà – Lớp 4A đạt giải nhất cuộc thi kể chuyện
cấp trường( Năm học 2019-2020)


25

Hình 6: Học sinh lớp 4A nhận khen thưởng cuối năm học 2019-2020



×