Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Tiểu luận: Xây dựng văn hóa tổ chức trong giáo dục và quản lý giáo dục ở các nhà trường hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.86 KB, 19 trang )

XÂY DỰNG VĂN HOÁ TỔ CHỨC TRONG GIÁO DỤC
VÀ QUẢN LÝ GIÁO DỤC Ở CÁC NHÀ TRƯỜNG HIỆN NAY

Trước hết, về khái niệm gốc văn hoá, hiện nay, người ta đã thống kê trên
thế giới có tới ngồi 300 quan niệm khác nhau; mỗi quan niệm là chính kiến từ
một góc nhìn. Tuy nhiên, có thể thấy điểm chung cốt lõi và khá nhất quán thể hiện
một cách phổ biến qua hầu hết các khái niệm văn hố, đó là sự nhấn mạnh tới yếu
tố con người. Văn hoá là những gì gắn với con người, thuộc con người và đời
sống của con người; do đó, tất cả những gì mang bản chất tự nhiên đều khơng
phải là văn hố. Trong đó, một quan niệm được thừa nhận rộng rãi: văn hố là
tồn bộ những giá trị vật chất và giá trị tinh thần do con người sáng tạo ra.
Xét về bản chất, mỗi nhà trường là một tổ chức hành chính – sư phạm.
Đó là một thế giới thu nhỏ với những cơ cấu, chuẩn mực, quy tắc hoạt động,
những giá trị, điểm mạnh và điểm yếu riêng do những con người cụ thể thuộc
mọi thế hệ tạo lập. Với tư cách là một tổ chức, mỗi nhà trường đều tồn tại, dù ít
hay nhiều, một nền văn hố nhất định.
Như bất kỳ một cơ quan, công sở hoặc doanh nghiệp nào, mỗi khi bước
vào một nhà trường, người ta thường cảm nhận được bầu khơng khí đặc trưng
của nhà trường đó qua hàng loạt các dấu hiệu: hoặc hiển hiện dễ thấy, hoặc
ngầm định khó thấy. Mỗi nhà trường đều tự mình biểu lộ ra bên ngồi một hình
ảnh tốt đẹp hoặc tầm thường nào đó. Hình ảnh này được tạo nên bởi người dạy,
người học, người quản lý trong nhà trường, được chuyển tải và phản ánh bởi
đồng nghiệp trong địa phương và phụ huynh cũng như cộng đồng xã hội xung
quanh, bởi cơ quan quản lý và người sử dụng sản phẩm giáo dục – những đối
tượng phản ảnh chất lượng sản phẩm giáo dục của nhà trường một cách rõ nét
và khách quan.
Giáo dục gắn liền với lịch sử loài người. Đối với nhân loại, giáo dục là
phương thức bảo tồn và bảo vệ kho tàng tri thức văn hoá xã hội. Nhân dân Việt
nam vốn có truyền thống hiếu học và một nền giáo dục lâu đời, trải qua các
1



thời kỳ lịch sử, cộng đồng người Việt đã tiếp thu và chọn lọc, hình thành nên
đạo đức, tư tưởng văn hóa Việt nam. Nền tảng văn hóa ấy đã tạo nên bản sắc
về nhân cách con người Việt nam.
Cũng như sự tồn tại của giáo dục, văn hoá xuất hiện từ khi có lồi người,
có xã hội. Văn hố tồn tại khách quan và tác động vào con người sống trong
nó. Nếu mơi trường tự nhiên là cái nơi đầu tiên ni sống con người, để lồi
người hình thành và sinh tồn thì văn hóa là cái nơi thứ hai giúp con người trở
thành “người” theo đúng nghĩa, hoàn thiện con người, hướng con người khát
vọng vươn tới chân - thiện - mỹ.
Trong một tổ chức nói chung cũng như một Nhà trường, văn hóa ln
tồn tại trong mọi hoạt động tổ chức đó. Vấn đề là con người có ý thức được sự
tồn tại của nó để quản lý và sử dụng sức mạnh của nó hay khơng. Bản thân văn
hóa rất đa dạng và phức tạp. Do đó, khi có những tiếp cận nghiên cứu khác
nhau sẽ dẫn đến có nhiều quan niệm về văn hóa, nhưng tựu chung lại, các nhà
nghiên cứu đều có một nghĩa chung căn bản: văn hóa là sự giáo hóa, vun trồng
nhân cách con người, làm cho con người và cuộc sống con người trở nên tốt
đẹp hơn.
Việt nam, với sự phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, vào những năm gần đây, văn hoá tổ chức đã được nhận diện như
một tiêu chí khi xây dựng hoạt động của các tổ chức mang tính chun nghiệp.
Điều đó chứng tỏ khái niệm văn hố tổ chức tuy còn mới mẻ đối với Việt nam
nhưng các tổ chức đã ý thức được tầm quan trọng của văn hoá tổ chức. Và hơn
bất cứ tổ chức nào hết trong xã hội, Nhà trường phải là tổ chức có “hàm
lượng” văn hố cao nhất; là nơi hội tụ, kết tinh văn hoá để đào tạo ra những
chuẩn mực văn hố cho xã hội.
Về góc độ tổ chức, văn hoá tổ chức được coi như một mẫu thức cơ bản,
tạo ra một môi trường quản lý ổn định, giúp cho Nhà trường thích nghi với mơi
trường bên ngồi, tạo ra sự hồ hợp mơi trường bên trong. Một tổ chức có nền
văn hóa mạnh sẽ hội tụ được cái tốt, cái đẹp cho xã hội. Văn hoá tổ chức sẽ

giúp cho Nhà trường thực sự trở thành một trung tâm văn hóa giáo dục, là nơi
2


hội tụ sức mạnh của trí tuệ và lịng nhân ái trong xã hội, góp phần quan trọng
tạo nên sản phẩm giáo dục toàn diện.
Đối với đội ngũ cán bộ, giáo viên Nhà trường, văn hoá tổ chức thúc đẩy
sự sáng tạo cá nhân, tạo nên tình thương yêu chân thành giữa các thành viên và
đảm bảo cho sự hợp tác vì mục tiêu chung. Thầy cơ giáo là người trực tiếp
tham gia hoạt động dạy học. Và hơn ai hết, chính Nhân cách Nhà giáo sẽ ảnh
hưởng trực tiếp tới nhân cách học trị. Vì vậy, chúng ta rất cần những Nhà giáo
ngồi kiến thức chun mơn, phải hiểu biết rộng về cuộc sống, có kiến thức
sâu sắc về văn hóa xã hội.
Đối với học sinh, sinh viên văn hóa tạo nên giá trị đạo đức và có vai trò
điều chỉnh hành vi. Khi được giáo dục trong một mơi trường văn hóa và thấm
nhuần hệ giá trị văn hóa, học trị khơng những hình thành được những hành vi
chuẩn mực mà quan trọng hơn là ẩn chứa trong tiềm thức các em là niềm tin
nội tâm sâu sắc vào những điều tốt đẹp, từ đó, khao khát cuộc sống hướng
thiện và sống có lý tưởng. Đồng thời, Văn hóa Nhà trường cịn giúp các em về
khả năng thích nghi với xã hội. Một con người có văn hóa thì trong con người
đó ln hội tụ đầy đủ những giá trị đạo đức căn bản, đó là đức tính khiêm tốn,
lễ độ, thương yêu con người, sống có trách nhiệm với bản thân và xã hội... Do
vậy, khi gặp những tình huống xã hội phát sinh, dù là những tình huống mà các
em chưa từng trải nhưng nhờ vận dụng năng lực văn hóa để điều tiết hành vi
một cách hài hịa, các em có thể tự điều chỉnh mình phù hợp với hồn cảnh,
ứng xử hợp lẽ, hợp với lòng người và cuộc sống xung quanh.
Quan niệm về “văn hoá tổ chức” (organizational culture)
Đối với bất kỳ nhà quản lý nào, hoạt động quản lý đều diễn ra trong một
bối cảnh, một mơi trường văn hố cụ thể. Một người hiệu trưởng có thể thành
cơng ở trường này, nhưng chưa hẳn đã thành công ở trường khác. Cũng như

vậy, một kinh nghiệm giáo dục hay ở nước này, nhưng áp dụng vào nước khác
sẽ thất bại; việc đổi mới giáo dục ở miền núi diễn ra theo một lộ trình với
những diễn tiến khác so với miền xi; v.v… Đương nhiên điều này phụ thuộc
vào nhiều yếu tố, song rõ ràng, yếu tố mơi trường, trong đó có hệ giá trị, có
3


truyền thống văn hoá, v.v… đã ảnh hưởng đến động thái và kết quả cuả hoạt
động quản lý. Do đó, nhà quản lý phải thơng qua văn hố tổ chức để tiến hành
hoạt động quản lý. Đây là yêu cầu tất yếu của quản lý một tổ chức nói chung,
trong đó có cơ sở giáo dục.
Văn hố tổ chức (hay văn hoá của tổ chức) là quan niệm giá trị cơ bản
của tổ chức được đoàn thể các thành viên trong tổ chức tự giác chấp nhận. Nó
quy định cung cách tư duy, cung cách hành động của mọi thành viên trong tổ
chức, đến mức trở thành những thói quen, nếp nghĩ của mọi người. Đây cũng
là tài sản chung, là truyền thống của tổ chức. Một tổ chức mạnh là tổ chức tạo
được một nền văn hố của nó gồm những quan niệm giá trị cơ bản, ý thức
trách nhiệm của tất cả các thành viên trong tổ chức, một khơng khí tâm lý thúc
đẩy mọi người phấn đấu, bảo đảm cho tổ chức ln ln thành cơng, góp phần
tích cực thúc đẩy q trình đổi mới q trình đổi mới và phát triển của tổ chức.
Trên sách báo, đơi khi ta bắt gặp một số tác giả nói về “văn hoá quản
lý”. Nhưng “văn hoá tổ chức” vừa đề cập được hiểu là văn hoá của cả một tổ
chức, trong đó diễn ra hoạt động quản lý. Như vậy “văn hố tổ chức” có nghĩa
rộng hơn “văn hố quản lý”. Vả lại, trong một tổ chức nếu có văn hố quản lý
mà khơng có văn hố tổ chức, khơng dựa trên văn hố tổ chức thì quản lý sẽ
không phát triển bền vững. Lẽ dĩ nhiên, hai nền văn hố này có quan hệ gắn bó
với nhau, hỗ trợ nhau để cùng làm thành các yếu tố không thể thiếu của sự phát
triển tổ chức.
Có thể nói chưa bao giờ “văn hố” lại được bàn đến sơi nổi như hiện
nay, bởi nó, một cách khách quan, đang thấm vào tất cả các hoạt động của đời

sống xã hội. Ngày nay, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hố như sau:
“Văn hố hơm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần
và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của một
nhóm người trong xã hội. Văn hoá bao gồm nghệ thuật và văn chương, những
lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống giá trị, những tập
tục và những tín ngưỡng văn hoá đem lại cho con người khả năng suy xét về
bản thân. Chính văn hố làm cho chúng ta trở thành sinh vật đặc biệt nhân bản
4


có lý tính, có óc phê phán và dấn thân một cách đạo lý. Chính nhờ văn hố mà
con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết mình là một thực thể
chưa hồn chỉnh đặt ra để xem xét những thành tựu của bản thân, tìm tịi khơng
biết mệt những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo những cơng trình vượt trội lên bản
thân.
Văn hố là tổng thể những nét đặc trưng tiêu biểu nhất của xã hội thể
hiện trên các mặt vật chất, tinh thần, tri thức và tình cảm.
Di sản văn hố (hay cịn gọi là tài sản văn hoá) gồm di sản văn hoá vật
thể và di sản văn hoá phi vật thể.
Di sản văn hoá vật thể và di sản văn hoá phi vật thể gắn kết với nhau tạo
nên một hệ thống các giá trị chuẩn mực xã hội và khẳng định bản sắc riêng của
một cộng đồng, của một dân tộc”7.
Ở nước ta, công cuộc CNH, HĐH đang được xây dựng, vấn đề văn hoá
và phát triển nguồn lực con người luôn luôn phải đặt ra và giải quyết trong mối
quan hệ không thể tách rời. Nếu con người được chăm sóc đầy đủ và phát triển
tốt đẹp, thì nguồn lực con người phát triển; ngược lại, nguồn lực con người
phát triển sẽ làm cho các quan hệ văn hoá phát triển, các giá trị tinh thần của
con người mang đầy tính nhân văn. Việc bồi dưỡng và phát huy nguồn lực con
người ở nước ta là xác định, định hướng cho sự chọn lựa của cá nhân nhằm
khẳng định một nhân cách trong đó có sự kết hợp giữa cái độc đáo cá nhân với

các quan hệ xã hội. Hiện nay chúng ta đang
xây dựng nền văn hoá mang đậm bản sắc dân tộc gắn liền với các giá trị hiện
đại trên nền tảng của chủ nghĩa nhân văn cao đẹp, trong đó nhân tố con người
trở thành mục tiêu và động lực của sự phát triển xã hội. Và, con người sẽ trở
thành một nhân cách văn hoá, đó là “Con người phát triển cao về trí tuệ, cường
tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực
của sự nghiệp xây dựng xã hội mới, đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã
hội” như lời nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười phát biểu trong buổi khai mạc Hội
nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khoá VII1.

5


Có thể coi văn hố tổ chức là mơi trường trong đó diễn ra hoạt động của
mọi thành viên, trong đó có hoạt động của chủ thể quản lý. Sự khác nhau về
quản lý thể hiện trong các nền văn hoá tổ chức khác nhau. Song, dù thế nào đi
nữa thì văn hố tổ chức địi hỏi mọi thành viên, trước hết là người lãnh đạo tổ
chức phải hành động bắt nguồn từ con người, vì con người, vì lợi ích của tổ
chức và của xã hội. Nghĩa là tổ chức và những thành viên của nó phải giải đáp
các câu hỏi sau đây:
Trách nhiệm đối với sự phát triển xã hội, phát triển mội trường và phát triển cá
nhân?. Sự đối xử với đối tượng phục vụ?. Sự đối xử giữa các thành viên trong
tổ chức?. Sự đối xử với các liên đới?. Quan niệm về chất lượng sản phẩm của
tổ chức?. Quan niệm về hợp tác và cạnh tranh?
Việc giải đáp những câu hỏi nêu trên tạo thành bộ ba chỉnh thể: nhận
thức, hành vi và thái độ của các thành viên về văn hoá tổ chức của mình.
Biểu hiện của văn hố tổ chức trong giáo dục và quản lý giáo dục
Nói văn hố tổ chức trong giáo dục là muốn đề cập đến văn hoá trong tổ
chức giáo dục. Nó được xem là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật
chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của các thành viên trong tổ chức

giáo dục đó.
Cụ thể hố điều trên, trong tổ chức giáo dục (chẳng hạn cơ quan quản
lý giáo dục, nhà trường, trung tâm giáo dục, công ty trong ngành Giáo dục,
v.v…) mọi thành viên đều có nhận thức, hành vi và thái độ tích cực đối với tổ
chức (nơi mình đang làm việc), góp phần làm cho tổ chức phát triển vì xã hội
và vì thế hệ trẻ.
Văn hoá tổ chức của một nhà trường là hệ thống niềm tin, giá trị, chuẩn
mực, thói quen và truyền thống hình thành trong quá trình phát triển của nhà
trường, được các thành viên trong nhà trường thừa nhận, làm theo và được
thể hiện trong các hình thái vật chất và tinh thần, từ đó tạo nên bản sắc riêng
cho mỗi tổ chức sư phạm.
Tương tự như trên, những câu hỏi cần phải đặt ra đối với tổ chức giáo dục
(chẳng hạn đối với nhà trường) để giải đáp là:
6


Trách nhiệm của nhà trường đối với xã hội, đối với môi trường, đối với
cộng đồng và đối với sự phát triển của học sinh?
Sự đối xử đối với học sinh (đối tượng phục vụ)?
Sự đối xử giữa các thành viên trong nhà trường?
Sự đối xử với các liên đới (chẳng hạn phụ huynh học sinh, lãnh đạo địa
phương, lãnh đạo chuyên môn cấp trên, các lực lượng xã hội, các cơ quan chức
năng ở địa phương, với người sử dụng học sinh ra trường, v.v…)?
Quan niệm về chất lượng giáo dục (chất lượng nhân cách được nhà
trường đào tạo)?
Quan niệm về hợp tác và cạnh tranh trong giáo dục (chẳng hạn với các
trường bạn, với các tổ chức văn hoá, sản xuất, kinh doanh, v.v…)?
Những điều này được triển khai theo ba thành tố thuộc sơ đồ trên: nhận
thức, hành vi và thái độ, và được cụ thể hoá như sau.
Thứ nhất, về nhận thức, là thành viên trong tổ chức giáo dục, mọi người

đều phải có quan niệm đúng đắn về mục tiêu, tính chất của nền giáo dục trước
yêu cầu của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, một nền
giáo dục đáp ứng yêu cầu của đất nước đang xây dựng CNH, HĐH, mở cửa và
hội nhập. Điều này đã được các Nghị quyết của Đảng, Nhà nước chỉ ra. Trong
một cơ sở giáo dục, ví dụ như nhà trường, cả người dạy và người học đều phải
nắm vững điều này. Đối với người học, phải có quan niệm đúng về mục đích
của việc học: học để hình thành và phát triển nhân cách, để bồi dưỡng và phát
triển năng lực bản thân, để lập thân, lập nghiệp, để cống hiến cho xã hội. Do đó
khơng chấp nhận lối học vẹt, thụ động, ỷ lại vào thầy giáo và người khác, học
thuộc lòng những điều trong sách vở chỉ để thi lấy bằng cấp. Đây là quan niệm
và phong cách phi văn hố, khơng phải quan niệm và phong cách của người
chủ nhân tương lai theo mong muốn của xã hội, một xã hội đầy biến động
trong nền kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập.
Ngày nay giáo dục tập trung vào con người đang là xu hướng phát triển
mạnh mẽ ở nhiều nước trên thế giới. “Các mục tiêu giáo dục phải được hình
dung như là những sự lựa chọn có quan hệ đến các mục đích và trách nhiệm xã
7


hội cả sự phát triển và sự tăng trưởng quyền lực của cá nhân” 5. “Người xưa
thường nói: “Sĩ học hy hiền, hiền hy thánh, thánh hy thiên”. Nghĩa là: Kẻ sĩ
học tập với niềm mong ước trở thành người hiền, người hiền mong ước trở
thành bậc thánh, còn bậc thánh thì mong ước trở nên anh minh, khoan thứ như
trời cao”2. Như vậy, giáo dục phải hướng vào mục tiêu phát triển xã hội và phát
triển cá nhân. Đây là mục tiêu kép cần được nhận thức thống nhất trong tồn
xã hội, trước hết là những người làm cơng tác giáo dục và cha mẹ học sinh. Nó
được coi là nét văn hoá trong quan niệm về giáo dục. Vì vậy, quan niệm “học
vì bằng cấp”, “học để làm ông này ông nọ”, … không còn chỗ đứng và được
thay thế bằng quan niệm đúng đắn hơn, nhân bản hơn và cũng đượm màu sắc
văn hoá hơn.

Mặt khác, quan niệm về vai trò của người giáo dục (theo nghĩa rộng của
từ này) và người được giáo dục đã thay đổi: người giáo dục là người hướng
dẫn, tổ chức, điều khiển, hỗ trợ nhằm làm cho người được giáo dục phát huy
vai trị tích cực, chủ động, độc lập trong việc chiếm lĩnh tri thức, tiến tới tự
giáo dục bản thân. Nghĩa là tạo điều kiện cho họ phát triển năng lực nội sinh
như: năng lực học tập (trong đó có năng lực tự học); khả năng thích ứng, nhanh
chóng hội nhập với hoàn cảnh, v.v… để khẳng định vai trị của mình trong xã
hội. Điều này địi hỏi người giáo dục và người được giáo dục luôn luôn đổi
mới phương pháp giáo dục, phương pháp dạy và học. Vì vậy, quá trình dạy học
(theo nghĩa rộng) được coi là quá trình dạy – tự học. Và quan hệ giữa người
dạy và người học là quan hệ hợp tác, không chấp nhận quan hệ một chiều, áp
đặt theo kiểu thụ động thầy giảng trò nghe như trước nữa. Đây là quan niệm có
tính cách mạng và cũng là văn hố trong giáo dục, vì nó đề cao vị trí và vai trò
người học, đồng thời cũng đòi hỏi người dạy nâng cao vai trị của mình với
trách nhiệm là người thiết kế, tổ chức sự phát triển của người học. Dạy học vì
sự phát triển của con người chứ khơng phải vì thi cử, vì thành tích và như vậy
sẽ gạt bỏ được “chất lương giả”, cũng là biểu hiện phi văn hoá trong giáo dục.
Giáo dục là một bộ phận của xã hội có chức năng chính yếu hình thành
và phát triển nhân cách. Từ xa xưa, người ta đã tìm ra nhiều phương thức giáo
8


dục khác nhau nhằm thực hiện mục đích đó. Tuy nhiên, việc này không đơn
giản, bởi lẽ một thừi người ta đã áp dụng phương thức giáo dục áp đặt một
chiều làm thui chột vai trò chủ thể của người học và khả năng sáng tạo, độc lập
của họ. Ngày nay, người học phải được đặt vào vị trí trung tâm trong mọi hoạt
động giáo dục, sao cho họ trở thành chủ thể đích thực trong hoạt động học. Do
đó, dạy học phải hướng vào người học, người học là người đi học mà không
phải là người được học (theo quan điểm của Jean – Mare Denommé và
Madeleine Roy). Về vấn đề này, J. Piaget đề cập đến thuật ngữ “tự chủ trí tuệ”

(autonomie intellectuelle) khi ơng nói: “Mục đích của tự chủ trí tuệ khơng phải
là biết nhắc lại hay bảo tồn những chân lý đã có, vì một chân lý mà người ta tái
sản xuất, chỉ là một “nửa – chân lý”: đó là phải học chiếm lĩnh bằng chính bản
thân mình cái “chân lý” đó, với sự chấp nhận chịu tốn thời gian và phải trải
qua tất cả những quanh co mà hoạt động thực sự đòi hỏi…”. Đây là nền giáo
dục nhân bản và cũng là văn hố nhân bản, vì nền giáo dục này bởi con người
và vì con người.
Bên cạnh nhận thức trên, người làm cơng tác giáo dục cịn phải có lý
tưởng nghề nghiệp, bởi nó làm thành nét văn hố trong nhân cách của người
giáo dục. “Tất cả vì học sinh thân yêu” là lý tưởng nghề nghiệp của nhiều giáo
viên. Để có lý tưởng nghề nghiệp, giáo viên phải có “Tâm” và “Đạo”. “Tâm”
khơi dậy ở người thầy lòng nhân ái, thương yêu học trò; “Đạo” đặt ra yêu cầu
đối với thầy trong việc thường xuyên nâng cao trình độ kiến thức, chun mơn
để vững vàng dẫn dắt học trị trên con đường phát triển. “Tâm” và “Đạo” ln
ln gắn bó, hỗ trợ nhau: “Tâm” là ngọn đuốc soi đường cho “Đạo”, ngược lại
“Đạo” làm cho “Tâm” sáng hơn. Đó cũng là một biểu hiện của “Đức” và “Tài”
trong nhân cách người giáo viên. Trong nền kinh tế thị trường, lý tưởng nghề
nghiệp của người giáo viên càng cần được khẳng định mạnh mẽ hơn bao giờ
hết. Bởi nếu “Tâm” không sáng, “Đạo” sẽ lệch lạc, sớm muộn sẽ sa vào con
đường sùng bái vật chất, đồng tiền, làm mất uy tín của người giáo viên, tiến tới
mất dần truyền thống “tơn sư trọng đạo” vốn có từ lâu đời trong nhân dân ta.

9


Trong một tổ chức giáo dục, người lãnh đạo và quản lý phải là người đi
đầu trong việc nhận thức về mục đích, tính chất của giáo dục, về vai trò của
người dạy và người học, về lý tưởng nghề nghiệp để thường xuyên có những
tác động giúp giáo viên, học sinh cũng như cha mẹ học sinh có quyết định
đúng trong quá trình giáo dục.

Nhà trường là một tổ chức giáo dục, cũng có thể coi là tổ chức văn hoá
trong cộng đồng. Những người làm giáo dục đều là những người có trình độ,
nói chung là những người được coi là có văn hố, nên việc tạo lập văn hoá của
tổ chức là thuận lợi đối với họ. Song, thực tế cho thấy, việc tạo dựng văn hoá
chung của nhà trường khơng chỉ trơng cậy vào trình độ và tính tự giác của các
thành viên (giáo viên, cơng nhân viên, học sinh, cha mẹ học sinh, …), mà phải
áp dụng những biện pháp mang tính cưỡng chế. Cho nên, một mặt tơn trọng
tính tự giác của các thành viên, mặt khác nhà quản lý (hiệu trưởng) phải thông
qua quyền lực và uy quyền của mình để làm cho các thành viên trong nhà
trường chấp nhận những nét văn hố tốt đẹp và có hành vi, thái độ phù hợp với
những nét văn hố đó. Đó cũng là q trình hình thành nền văn hố chung của
nhà trường, tiến tới trở thành những giá trị văn hoá truyền thống của riêng nhà
trường và là hành trang không thể thiếu của giáo viên, học sinh trong quá trình
giáo dục, ngay cả khi họ rời ghế nhà trường bước vào cuộc sống.
Ở rất nhiều trường thường có phịng truyền thống, bài học đầu tiên đối
với học sinh lớp đầu cấp được tổ chức ngay tại phòng truyền thống. Những
gương tốt của học sinh và giáo viên trong giảng dạy và học tập, trong chiến
đấu chống ngoại xâm, trong lao động sản xuất, trong kinh doanh, trong nghiên
cứu khoa học, v.v… làm thành nét văn hoá truyền thống riêng của nhà trường
và trở thành những bài học có tác dụng khích lệ rất lớn của thầy và trị phấn
đấu trong q trình “Dạy tốt, Học tốt” như lời căn dặn của Bác Hồ.
Thứ hai là về hành vi – có thể hiểu hành vi là quan hệ ứng xử trong hai
cặp quan hệ: người – người, người – việc. Quan hệ người – người là quan hệ
nhân tính trong tập thể sư phạm, biểu hiện sự hợp tác, khích lệ, cảm thơng,
chia sẻ. khoan dung, cầu thị, … Quan hệ người – việc là quan hệ mang tính tổ
10


chức – hành chính biểu hiện ở tinh thần kỷ luật, nề nếp, tinh thần trách nhiệm
đối với công việc và trên hết là lương tâm đối với nghề nghiệp. Đối với người

quản lý nhà trường, cách xem xét công việc cũng phải kèm theo cách nhìn
nhận con người, bởi lẽ dù việc gì đi nữa cũng đều thơng qua con người, vì con
người. Vì vậy, khi dự giờ để kiểm tra việc giảng dạy của giáo viên chẳng hạn,
ngoài mục đích xem chất lượng của giờ dạy, cịn (và đây là điều quan trọng) vì
sự phát triển của giáo viên, nghĩa là đánh giá một cách khách quan mặt được,
mặt chưa được của giáo viên, đồng thời “nhìn thấy được” tiềm năng sư phạm
của họ để gợi mở, hưởng dẫn nhằm giúp họ khắc phục nhược điểm, mau chóng
trở thành giáo viên vững vàng trong giảng dạy. Người hiệu trưởng chỉ vì việc
sẽ trở nên lạnh lùng đối với thuộc cấp, ngược lại chỉ vì người sẽ dễ rơi vào tình
trạng vơ ngun tắc. Trong nhà trường, người lãnh đạo thường xuyên đụng
chạm với cả hai loại quan hệ người – người và người – việc nêu trên. Nhưng
luôn ln phải đảm bảo tính cân đối, hài hồ khi vận dụng chúng. Điều này thể
hiện bảm lĩnh và cũng là nét văn hố quản lý trong cơng tác của người hiệu
trưởng.
Biểu hiện dễ thấy về văn hoá tổ chức là hành vi ứng xử giữa mọi người
với nhau: giữa giáo viên và giáo viên, giữa giáo viên và học sinh, giữa học sinh
và học sinh, giữa giáo viên và cha mẹ học sinh, giữa người lãnh đạo và các
thành viên trong và ngoài nhà trường, … Một hành vi gọi là có văn hố sẽ tạo
khơng khí thoải mái, tình cảm thân thiện, ấn tượng tốt đẹp, … giữa các đối tác
– yếu tố tạo hiệu quả tốt đẹp cho cơng việc.
Bên cạnh đó cịn là sự ứng xử của con người với môi trường tự nhiên và
xã hội. Một cảnh quan nhà trường xanh, sạch, đẹp, ngăn nắp gọn gàng, không
tệ nạn xã hội, vui tươi lành mạnh, … tạo thành mơi trường văn hố và cũng là
mơi trường sư phạm tốt đối với việc giáo dục tất cả các thành viên trong nhà
trường. Ở đây, các hành vi phản văn hố đều bị lên án và khơng tồn tại trong
đời sống trường học.
Cuối cùng, ta hãy nói về yếu tố thứ ba - thái độ - trong sơ đồ chỉnh thể
văn hoá tổ chức nêu trên. Nhưng, trước hết hãy đề cập đến bản chất của văn
11



hố. Về vấn đề này, nhiều tác giả đã có những quan niệm khác nhau. Nhưng,
họ đều thống nhất ở một điểm: bản chất văn hố thể hiện ở tính nhân bản của
nó. Do đó, văn hố đích thực là văn hố ln ln lấy con người làm đối
tượng, mục tiêu và cứu cánh. Đây chính là thái độ văn hố đối với con người.
Điều này, khi nói về yếu tố con người, Đảng ta đã từng khẳng định: “phát triển
con người với tư cách vừa là động lực, vừa là mục đích của cách mạng, của sự
nghiệp đổi mới đất nước”. Đây là sự khẳng định giá trị lớn lao và ý nghĩa
quyết định của nhân tố con người, chủ thể của mọi sự sáng tạo, mọi nguồn của
cải vật chất và tinh thần. Lẽ dĩ nhiên, tri thức trở thành nội dung đầu tiên căn
bản của con người. Do đó, khơng phải vơ cớ mà có nhà khoa học đã gọi con
người là “ông vua của sự sáng tạo” hàm chứa vai trò, tác dụng to lớn của tri
thức trong lịch sử phát triển của loài người. Bởi vậy văn hoá nhân bản trước
hết phải lo cho con người, hướng vào con người, coi con người là nguồn gốc
của mọi sự phát triển. Và để đạt được điều này thì cần phải làm sao cho con
người ngày càng phát triển tiềm năng và năng lực của mình, có đủ bản lĩnh,
xứng đáng là người chủ xã hội.
Nếu nhìn từ góc độ văn hố nhân bản, có thể bắt gặp một sự phân tích
rất khúc chiết và sâu sắc về con người của tác giả Phạm Minh Hạc. Theo tác
giả, sự phát triển của con người thành cá thể rồi cá nhân và nhân cách.
Tác giả đã chỉ ra cụ thể: nhiều khi người ta nói “cá thể người”, “cá nhân
người”, “nhân cách người”, trong đó, bậc thang cao nhất – “nhân cách người”
– là muốn “đưa tính cá thể lên trình độ khác hồn chỉnh, tính cá nhân (cá tính)
lên trình độ mới với nét đặc trưng là con người” 2. Như vậy con người nhân bản
mang đầy tính xã hội, tính nhân văn đã thể hiện rõ ràng trong quan niệm vừa
trình bày. Và, giáo dục với chức năng của mình có đầy đủ khả năng và điều
kiện làm cho trẻ em phát triển đầy đủ cá tính, trở thành cá nhân “phát triển hết
năng lực sẵn có” như Bác Hồ đã nói, xứng đáng là thành viên trong xã hội và
là chủ thể đích thực trong mọi hoạt động.
Trên đây chúng tơi đã trình bày sơ lược về ba yếu tố (nhận thức, hành vi, thái

độ) trong văn hoá tổ chức. Sự thực ba yếu tố này không tách rời nhau một cách
12


máy móc mà chúng đan xen nhau, hỗ trợ nhau, bổ sung cho nhau làm thành
văn hoá đặc trưng của tổ chức, trong đó có quản lý.
Về “văn hố quản lý” – điều mà gần đây người ta hay nói đến và trở
thành một tiếp cận; một quan điểm khi xem xét hoạt động của chủ thể quản lý
– trước tiên phải khẳng định: khơng có cái gọi là “văn hoá quản lý” trong một
tổ chức phi văn hoá, ngược lại, văn hố tổ chức là cái nơi của văn hố quản
lý. Và, có thể coi văn hố quản lý là một thành phần trong nhân cách của nhà
quản lý, trong đó có nhà quản lý giáo dục.
Văn hố quản lý được xem là tổng thể những nét đặc trưng về tư tưởng
và tình cảm, nhận thức và hành vi, niềm tin và thái độ, phẩm chất và năng lực,
phong cách và cá tính, khoa học và nghệ thuật, trí tuệ và tài năng, v.v… của
chủ thể quản lý. Cũng như văn hoá quản lý thuộc các lĩnh vực khác, văn hoá
quản lý giáo dục vừa là mục tiêu, vừa là phương tiện của người lãnh đạo tổ
chức giáo dục. Trước hết nó là hành trang của chủ thể quản lý để từ đó lơi cuốn
các thành viên trong tổ chức đem tâm sức và trí tuệ thực hiện có hiệu quả mục
tiêu của tổ chức.
Về mặt cấu trúc, văn hóa quản lý giáo dục có thể coi là tổ hợp của ba
yếu tố: tâm, đạo và thuật.
Tâm ở đây có thể hiểu là lịng nhân ái, tình người, chân tình, thiện chí, sẵn
sàng vì nghĩa lớn, thương u đồng nghiệp, bạn bè, thuộc cấp, v.v… Đạo là
con đường, lý lẽ, nói rộng ra là quan điểm, đường lối, luật lệ, chiến lược quản
lý, … Thuật bao gồm phương pháp, trình độ, phong cách, thủ thuật quản lý
được nâng lên mức nghệ thuật trong hoạt động và quan hệ quản lý. Người quản
lí phải có đồng thời ba yếu tố này. Tâm và Đạo giúp cho hoạt động quản lý của
người lãnh đạo vừa có lý vừa có tình; Thuật giúp người lãnh đạo hành động
một cách sáng tạo, hiệu quả. Tóm lại, Tâm, Đạo, Thuật làm thành chỉnh thể

trong văn hoá quản lý, đồng thời cũng là bộ phận cấu thành nhân cách của
người lãnh đạo.
Vậy thực trạng văn hóa Nhà trường ở Việt nam hiện nay ra sao?

13


Trong nền kinh tế toàn cầu như hiện nay và nhất là khi Việt nam đã gia
nhập WTO với nhiều thời cơ và thách thức, mặt trái của nền kinh tế thị trường
và hội nhập đã tác động lớn đến xã hội nói chung cũng như giáo dục nói riêng,
nó làm cho bộ mặt văn hóa của xã hội dần bị biến dạng, và đã có nhiều biểu
hiện xuống cấp, tha hóa.
Hiện nay, một bộ phận khơng nhỏ thanh thiếu niên đua đòi ăn chơi, sa
vào các tệ nạn xã hội, thực trạng bạo lực học đường đến mức báo động; đạo
đức nhà giáo thì xuống cấp nghiêm trọng, tình trạng thiếu công bằng, gian lận
trong thi cử, chuyện mua bán các kết quả học tập khơng cịn là xa lạ... Những
minh chứng tiêu biểu gần đây như: vụ tiêu cực trong kỳ thi tốt nghiệp THPT
trường Dân lập Đồi Ngơ - Bắc Giang, Vụ “đổi tình lấy điểm” ở Trường CĐ
Phát thanh - Truyền hình trung ương I, những clip video liên tục được tung lên
mạng internet về bạo lực học đường với cảnh học sinh đánh nhau thô bạo,
thậm chí là dã man trong sự chứng kiến vơ cảm của bạn bè xung quanh... Tất
cả điều đó đã gây ra những hệ lụy đáng tiếc cho xã hội và ảnh hưởng nghiêm
trọng đến chất lượng giáo dục. Văn hóa tổ chức bị biến dạng cũng là điều hiển
nhiên. Thực tế đó đã làm cho những người có lương tri đau xót và đối với
những Nhà giáo chân chính thì chắc hẳn đó là sự xúc phạm nhân phẩm và đạo
đức nghề nghiệp ghê gớm, xúc phạm đến truyền thống “tôn sư trọng đạo” của
dân tộc. Vậy mà những gì chúng ta chứng kiến được cũng chỉ là phần nổi của
cả tảng băng khổng lồ chứa đầy tiêu cực trong ngành giáo dục.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, chúng ta đã chuyển sang nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Quá trình xây dựng và phát triển kinh

tế đất nước, chúng ta đã nỗ lực tìm kiếm nhiều cơ hội, đạt được những thành
tựu to lớn về khoa học, kỹ thuật và công nghệ,... Nhưng chúng ta đã chưa
lường hết được mức độ tấn công của mặt trái nền kinh tế thị trường để ngăn
chặn nó. Điều đó đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới bộ mặt văn hóa xã hội, để
lại những hậu quả khôn lường cho giáo dục nước nhà.
Mặt khác, lâu nay giáo dục chúng ta coi trọng dạy chữ mà lơ là việc dạy
người; coi trọng số lượng hơn là chất lượng. Để tạo ra được một sản phẩm lao
14


động cho xã hội, quả thực là cần đến kiến thức và kỹ năng của sinh viên đã
được đào tạo. Tuy nhiên, vì chạy đua theo sản phẩm, theo số lượng mà chúng
ta chưa quan tâm đến phương thức tạo ra sản phẩm đó một cách đầy đủ. Xã hội
cần phải nhìn nhận lại, đánh giá giá trị sản phẩm đó gồm cả cách thức mà
người đó lao động có chân chính khơng, có vì mục tiêu con người khơng... hay
nói cách khác là cách thức lao động để tạo ra sản phẩm đó có văn hóa hay
khơng. Một doanh nghiệp không thể kiếm lợi nhuận bằng mọi cách bất chấp
đạo lý, một Nhà trường không được coi kinh tế làm mục tiêu hàng đầu, và một
người lao động không thể tạo ta sản phẩm cho xã hội một cách phi văn hóa.
Đã đến lúc chúng ta cần phải chấn hưng giáo dục nước nhà. Thực tế,
cũng đã có rất nhiều giải pháp của các nhà nghiên cứu nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục. Dưới góc độ của cấp quản lý cơ sở thực tiễn, thiết nghĩ, việc
xây dựng văn hóa tổ chức nhà trường là vơ cùng quan trọng, bởi Nhà trường là
cơ sở nền tảng, là tế bào của hệ thống giáo dục. Cũng như cơ thể người, chỉ khi
có được những tế bào lành mạnh thì cơ thể mới phát triển bình thường.
Xây dựng văn hố tổ chức trong giáo dục và quản lý giáo dục
Xây dựng văn hoá tổ chức trong quản lý là một quá trình. Thực tế cho
thấy đây là q trình khơng đơn giản vì phải phá bỏ những ràng buộc cản trở
sự phát triển của tổ chức để đi đến thống nhất trong tổ chức về quan niệm,
hành vi, niềm tin và thái độ. Trong giáo dục, một cơ sở giáo dục, một bộ phận

hoặc một cấp quản lý nào đó bao gồm nhiều thành viên đều được đào tạo và có
trình độ học vấn nhất định. Nhưng, điều đó khơng có nghĩa là mặc nhiên tổ
chức giáo dục, cấp quản lý đó đã có văn hố của tổ chức mình. Trình độ học
vấn chỉ được xem là một nhân tố thuận lợi cho việc xây dựng văn hoá tổ chức
giáo dục.
Trong q trình xây dựng văn hố tổ chức giáo dục, người lãnh đạo phải
là “chim đầu đàn”. Họ phải chứng tỏ mình là người tiên phong trong việc canh
tân (đổi mới) giáo dục, người nắm vững quan điểm, đường lối giáo dục của
Đảng và Nhà nước, người biết đồng cảm và chia sẻ khó khăn với thuộc cấp,
15


biết tạo điều kiện thuận lợi cho các thành viên làm việc và thành cơng, biết
khích lệ, tơn trọng lao động của mọi người, …
Nội dung văn hoá tổ chức giáo dục phải mang tính tồn diện, cụ thể:
1) Tạo sự thống nhất về nhận thức các quan điểm giáo dục, các giá trị nhân
văn cao quý trong tất cả các thành viên của tổ chức; xây dựng truyền
thống tốt đẹp của tổ chức; đưa các yếu tố văn hoá vào trong nhà trường;
2) Đặt người học ở vị trí trung tâm của hoạt động giáo dục, hướng hoạt
động giáo dục vào người học, phát triển mọi tiềm năng ở họ; quan hệ
bình đẳng, thân ái với người học;
3) Mạnh dạn, chủ động đổi mới hoạt động giáo dục; tích cực vận dụng
thành tựu khoa học vào giáo dục;
4) Hình thành nề nếp chuyên môn, đẩy mạnh kỷ cương, xây dựng chế độ
làm việc, tác phong làm việc khoa học;
5) Tạo khơng khí dân chủ, xây dựng văn hố ứng xử, quan hệ quản lý tốt
đẹp trong tập thể sư phạm.
6) Kết hợp văn hoá của tổ chức và văn hoá cộng đồng, xây dựng tổ chức
thành trung tâm văn hoá, khoa học của cộng đồng; v.v…
Việc xây dựng văn hố tổ chức giáo dục là một q trình khơng chỉ dựa

vào tinh thần tự giác của mọi thành viên trong tổ chức. Cần phải kết hợp những
biện pháp khơi gợi tính tự giác và những biện pháp mang tính uy quyền, uy
quyền của nhà quản lý và của chế độ quản lý. Nhưng dù sao thì việc làm cho
tất cả các thành viên nhân thức được lợi ích của văn hoá tổ chức đối với sự
nghiệp chung và cả sự nghiệp của từng thành viên vẫn là yếu tố cơ bản để tố
chức và cá nhân phát triển. Lúc đó, văn hố tổ chức (và cả văn hố quản lý) sẽ
trở thành tài sản không thể thiếu, thành giá trị truyền thống, tạo điều kiện cho
tổ chức giáo dục hoạt động hiệu quả và có uy tín trong cộng đồng và xã hội.
Phát triển văn hóa nhà trường khơng phải chuyện ngày một ngày hai mà
cần có những bước đi phù hợp. Có nhiều mơ hình được các nhà nghiên cứu đề
xuất. Dưới đây, chúng tôi xin đề xuất mơ hình xây dựng văn hóa nhà trường

16


dựa trên cơ sở mơ hình xây dựng văn hóa tổ chức gồm 11 bước cụ thể do hai
tác giả Julie Heifetz & Richard Hagberg đề xuất.
Tìm hiểu mơi trường và các yếu tố ảnh hưởng tới hiến lược phát triển
của nhà trường trong tương lai xem những yếu tố nào có ảnh hưởng nhất làm
thay đổi chiến lược phát triển của tổ chức nhà trường;
Xác định đâu là giá trị cốt lõi làm cơ sở cho thành công. Đây là bước cơ
bản nhất. Các giá trị cốt lõi phải là các giá trị khơng phai nhịa theo thời gian
và là trái tim và linh hồn của nhà trường;
Xây dựng tầm nhìn – một bức tranh lý tưởng trong tương lai – mà nhà
trường sẽ vươn tới. Đây là định hướng để xây dựng văn hóa nhà trường, thâm
chí có thể tạo lập một nền văn hóa tường lai cho nhà trường khác hẳn trạng thái
hiện tại;
Đánh giá văn hóa hiện tại và xác định những yếu tố văn hóa nào cần
thay đổi. Văn hóa thường tiềm ẩn, khó thấy nên việc đánh giá là cực kỳ khó
khăn, dẽ gây nhầm lẫn vì các chủ thể văn hóa vốn đã hịa mình vào nền văn

hóa đương đại, khó nhìn nhận một cách khách quan sự tồn tại của những hạn
chế và những mặt trái, mặt tiêu cực cần thay đổi;
Tập trung nghiên cứu, đề xuất giải pháp để thu hẹp khoảng cách của
những giá trị văn hóa hiện có và văn hóa tương lai của nhà trường;
Xác định vai trị của lãnh đạo trong việc dẫn dăt thay đổi và phát triển
văn hóa nhà trường. Lãnh đạo phải thực hiện vai trò người đề xướng, người
hướng dẫn các nỗ lực thay đổi. Lãnh đạo lại có vai trị hoạch định tầm nhìn,
truyền bá cho mọi thành viên nhận thức đúng tầm nhìn đó, có sự tin tưởng và
cũng nỗ lực thực hiện; cũng như chính lãnh đạo là người coa vai trò xua đi
những đám mây ngờ vực, lo âu của các thành viên trong tổ chức nhà trường;
Soạn thảo một kế hoạch, một phương án hành động cụ thể, chi tiết tới
từng việc, từng người, phù hợp với các điều kiện thời gian và nguồn lực khác
để có thể thực thi được kế hoạch đó;
Phổ biến nhu cầu thay đổi, viễn cảnh tương lai để mọi người cùng chia
sẻ, từ đó, động viên tinh thần, tạo động lực cho đội ngũ cán bộ giáo viên trong
17


nhà trường có sự đồng thuận, hiểu rõ vai trị, vị trí, quyền lợi và trách nhiệm
của mình trong việc nỗ lực tham gia xây dựng, phát triển văn hóa mới cho nhà
trường;
Giúp cho mọi người, mọi bộ phận nhận rõ những trở ngại của sự thay
đổi một cách cụ thể, từ đó, động viên, khích lệ các cá nhân mạnh dạn từ bỏ thói
quen cũ khơng tốt, chấp nhận vất vả để có sự thay đổi tích cực hơn;
Thể chế hóa, mơ hình hóa và củng cố, cải thiện liên tục sự thay đổi văn
hóa; coi trọng việc xây dựng và động viên mọi người noi theo các hình mẫu lý
tưởng phù hợp với mơ hình văn hóa nhà trường đang hướng tới. Sự khích lệ
kèm theo một cơ chế khen thưởng có sức động viên thiết thực là rất cần thiết;
Thường xuyên đánh giá văn hóa nhà trường và thiết lập các chuẩn mực
mới, những giá trị mới mang tính thời đại; đặc biệt là các giá trị học tập không

ngừng và thay đổi thường xuyên. Việc truyền bá các giá trị mới cho mọi thành
viên trong nhà trường cần được coi trọng song song với việc duy trì những giá
trị, chuẩn mực tốt đã xây dựng được là lọc bỏ những chuẩn mực, giá trị cũ lỗi
thời hoặc gây ra ảnh hưởng tiêu cưc cho tiến trình phát triển của văn hóa nhà
trường.

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đảng CSVN. Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương
khoá VII. Nxb, CTQG, 1993.
2. Hàm Châu. Rời Paris hoa lệ về bưng biền tham gia kháng chiến. Văn
nghệ. Hội Nhà văn Việt Nam, số 3 – 4 – 5 (2006). Tết Bính Tuất.
3. Nguyễn Cảnh Toàn (chủ biên) – Nguyễn Kỳ – Vũ Văn Tảo – Bùi Tường.
Quá trình dạy – tự học. NXB Giáo dục, Hà Nội, 1998.
4. Phạm Minh Hạc. Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào cơng
nghiệp hố, hiện đại hố. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001.
5. Raja Roy Singh. Nền giáo dục cho thế kỷ XXI: Những triển vọng của
châu Á – Thái Bình Dương. Viện khoa học giáo dục Việt Nam, 1994.
6. Trần Kiểm. Yếu tố văn hoá trong nhà trường phổ thơng. trong ấn phẩm:
Văn hố và Giáo dục, Giáo dục và Văn hoá (chủ biên Phạm Minh Hạc),
NXB Giáo dục, Hà Nội, 1998.
7. Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Tổ chức, quản lý. Khoa học tổ chức
và quản lý. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn. NXB Thống kê, Hà Nội,
1999.

19




×