Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về văn hóa và vận dụng trong xây dựng nếp sống văn hóa – văn minh đô thị thành phố đà nẵng trong xu thế phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (493.58 KB, 65 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

---O0O---

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA
VÀ VẬN DỤNG TRONG XÂY DỰNG NẾP SỐNG
VĂN HĨA – VĂN MINH ĐƠ THỊ THÀNH PHỐ
ĐÀ NẴNG TRONG XU THẾ PHÁT TRIỂN

GVHD: TS. Dương Anh Hoàng
SVTH: Hồ Thị Thúy
Lớp: 10SGC

Đà Nẵng tháng 5 năm 2014


Lời cảm ơn
Kính thưa q thầy cơ giáo!
Để hồn thành bài khóa luận một cách tốt nhất, em đã nhận được sự giúp đỡ rất
nhiệt tình của q thầy cơ giáo. Trước hết, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến
thầy giáo TS. Dương Anh Hoàng, với tâm huyết của một người thầy, thầy đã tận
tình hướng dẫn, giúp đỡ và đưa ra những lời góp ý chân thành, những lời nhận
xét, đánh giá quý báu trong suốt thời gian em làm khóa luận.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới q thầy cơ giáo khoa Giáo dục Chính trị Trường Đại học Sư phạm, quý thầy cô trong khoa Lý luận Chính trị - Trường
Đại học Kinh tế đã tạo điều kiện thuận lợi cho em hoàn thành khóa luận tốt
nghiệp của mình.
Tuy đã có nhiều cố gắng, nhưng do bước đầu làm quen với nghiên cứu khoa học
và cịn hạn chế về nhiều mặt nên bài khóa luận này khơng tránh khỏi những


thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự góp ý chân thành của q thầy cơ
và các bạn sinh viên để khóa luận được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Đà Nẵng, ngày 17 tháng 5 năm 2014
Sinh viên
Hồ Thị Thúy

MỤC LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU
TRANG
1. Lý do chọn đề tài.............................................................................................1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu..................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...................................................................3
4. Đóng góp của đề tài.........................................................................................3
5. Ý nghĩa đề tài.................................................................................................. 3
6. Cấu trúc khóa luận...........................................................................................3
7. Tổng quan tài liệu nghiên cứu.........................................................................4
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA
HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HĨA
1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa............................ .5
1.1.1. Chủ nghĩa Mác – Lê-nin..........................................................................5
1.1.2. Từ văn hóa phương Đông........................................................................5
1.1.3. Từ những tư tưởng phương Tây..............................................................6
1.2. Nội dung cơ bản của Hồ Chí Minh về văn hóa.........................................9
1.2.1. Quan điểm văn hóa của Hồ Chí Minh.....................................................9
1.2.2. Các chức năng, vai trị của văn
hóa.........................................................12

1.2.3. Quan điểm của của Hồ Chí Minh về các lĩnh vực của văn hóa.............17
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG XÂY DỰNG NẾP SỐNG VĂN HĨA,
VĂN MINH ĐƠ THỊ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
2.1. Nội dung xây dựng nếp sống văn hóa văn minh đơ thị
thành phố Đà Nẵng........................................................................................... 31
2.1.1. Một số khái niệm......................................................................................
31
2.1.2. Những nội dung xây dựng nếp sống văn hóa- văn minh đơ thị
trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng........................................................................31
2.2. Thực trạng việc xây dựng và thực hiện nếp sống văn hóa – văn minh
đơ thị trên địa bàn thành
phố.......................................................................................................................41
2.2.1. Một số nội dung nghiên cứu thực trạng vấn
đề.......................................41
2.2.2. Những ưu điểm và hạn chế trong xây dựng nếp sống
văn hóa – văn minh đơ
thị...................................................................................45


CHƯƠNG 3: MỤC TIÊU VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ XÂY DỰNG NẾP SỐNG
VĂN HĨA – VĂN MINH ĐƠ THỊ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ
NẴNG TRONG XU THẾ PHÁT TRIỂN
3.1. Mục tiêu xây dựng nếp sống văn hóa – văn minh đô thị ở
thành phố Đà
Nẵng..............................................................................................48
3.1.1. Tập trung xây dựng các hành vi ứng xử văn hóa – văn minh và chống
các hành vi thiếu văn hóa, vi phạm nếp sống văn hóa – văn minh đơ
thị.........48
3.1.2. Làm cho mọi người, mọi cộng đồng có nếp sống tơn trọng luật pháp,

tơn trọng quy ước, quy định của cộng
đồng.....................................................48
3.1.3. Thực hiện tốt các quy định về an tồn giao thơng,
trật tự đơ thị để góp phần xây dựng Đà Nẵng thành một thành phố giàu tính
nhân văn, hấp dẫn và đáng
sống....................................................................................49
3.2. Giải pháp xây dựng nếp sống văn hóa – văn minh đô thị ở thành phố
Đà Nẵng trong thời gian
tới.................................................................................................50
3.2.1.Tăng cường cơng tác chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền...............50
3.2.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật ............................................................50
3.2.3. Xây dựng và hồn thiện cơ sở hạ tầng .................................................51
3.2.4. Tăng cường cơng tác quản lý Nhà nước về trật tự an toàn đô thị .......51
3.2.5. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục ..........................................52
KẾT LUẬN.....................................................................................................54
TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh – lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt Nam – Anh hùng
giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, đóng góp của Hồ Chí Minh trên
lĩnh vực văn hóa vừa tồn diện vừa sâu sắc. Nhân dân Việt Nam loài người trên
thế giới biết đến Doanh nhân văn hóa Hồ Chí Minh khơng chỉ với tư cách là
người sáng tạo ra các cơng trình văn hóa kiệt xuất, hay với tư cách là nhà lãnh
đạo có nhều cơng lao thúc đẩy sự phát triển văn hóa dân tộc mà mọi người cịn
biết đến Bác bởi Người đã tạo ra được nhiều biểu tượng, hình mẫu về văn hóa
đặc sắc. Khơng những vậy, Hồ Chí Minh cịn là người xây dựng, phát triển và
hiện thực hóa các giá trị về một nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Trong tác phẩm “Hồ Chí Minh - quá khứ, hiện tại và tương lai”, cố Thủ tướng

Phạm Văn Đồng viết: “Hồ Chí Minh là một nhà văn hóa lớn của dân tộc Việt
Nam và của lồi người với ý nghĩa đầy đủ nhất của danh hiệu Nhà văn hóa. Ở
Hồ Chí Minh, nhà văn hóa lớn, gắn liền với nhân văn lớn, phát huy truyền thống
của một dân tộc “văn hiến”. Người là một nhà văn hóa lớn vì cuộc đời và sự
nghiệp của Người là tấm gương về nhân sinh quan, thế giới quan cao đẹp, làm
sáng lên một chủ nghĩa nhân văn trùng với những ước mơ cổ truyền của dân tộc
Việt Nam và các dân tộc, kết tinh những tư tưởng và tình cảm lớn của loài
người”.
Làm Chủ tịch nước, Người vẫn ở nhà gỗ đơn sơ, quần áo vải, với lối sống giản
dị, đơn giản. Đối với Người, vui với niềm vui chung của dân tộc mới là niềm vui
trọn vẹn. Người chỉ rõ rằng: Người ta ai cũng muốn ăn ngon mặc đẹp,nhưng
muốn phải cho đúng thời, đúng hoàn cảnh. Lối sống Hồ Chí Minh xây dựng cho
mọi người trước hết là lối sống có lý tưởng, có đạo đức. Đó cịn là lối sống văn
minh, tiên tiến, kết hợp hài hòa truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn
hóa của nhân loại.
Trong xã hội hiện nay, tình trạng lối sống thiếu văn hóa, văn minh vẫn cịn
tồn đọng gây nhiều bất cập trong sự phát triển đất nước và công cuộc hội nhập


trong bối cảnh tồn cầu hóa. Đà Nẵng từ khi thành lập và trở thành đơn vị hành
chính trực thuộc trung ương, sau đó được cơng nhận là đơ thị loại I cấp quốc gia
(2003), đã không ngường vươn lên đạt nhiều thành tựu to lớn cả về kinh tế chính trị, văn hóa – xã hội, an ninh – quốc phịng, cùng với đó là tốc độ đơ thị
hóa nhanh chóng. Bên cạnh đó cịn nảy sinh nhiều tiêu cực: tệ nạn xã hội, thất
nghiệp, vi phạm trật tự an tồn giao thơng, ứng xử thiếu văn hóa nơi công cộng,
nhập cư ồ ạt tới thành phố. Những tiêu cực này hạn chế sự phát triển và ảnh
hưởng đến bộ mặt của đất Đà thành.
Nhận thấy ảnh hưởng của những tiêu cực này, chính quyền thành phố đã đề ra
nhiều dự án xây dựng nếp sống văn hóa – văn minh đô thị của thành phố Đà
Nẵng trong thời kỳ mới nhằm hạn chế những khiếm khuyết đang là mầm mống
cản trở sự phát triển của thành phố.

Chính vì lý do trên nên tôi chọn vấn đề : Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa
và vận dụng vào xây dựng nếp sống văn hóa – văn minh đơ thị thành phố Đà
Nẵng trong xu thế phát triển làm đề tài khóa luận của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu:Từ góc độ lý luận về văn hóa, lối sống văn hóa mới và
xuất phát từ thực tiễn xây dựng nếp sống văn hóa ở nước ta hiện nay nói chung
và thành phố Đà Nẵng nói riêng. Mục đích là làm sáng tỏ bản chất, cấu trúc, đặc
điểm, vai trò, chức năng... của việc xây dựng nếp sống văn hóa – văn minh đơ
thị ở thành phố Đà Nẵng.
Qua nghiên cứu, khảo sát thực trạng của việc xây dựng nếp sống văn hóa –
văn minh ở thành phố, khóa luận đề xuất một số giải pháp chủ yếu để nâng cao
chất lượng, hiệu quả xây dựng nếp sống văn hóa - văn minh đơ thị ở thành phố
Đà Nẵng trong xu thế phát triển.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Bài khóa luận nghiên cứu về cơ sở hình thành tư tưởng
văn hóa của Hồ Chí Minh, góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về xây
dựng nếp sống văn hóa – văn minh đơ thị. Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực
trạng lối sống văn hóa, đề ra những giải pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng,


hiệu quả xây dựng nếp sống văn hóa – văn minh đô thị thành phố Đà Nẵng trong
thời kỳ mới
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng của bài khóa luận là người dân thành phố
Đà Nẵng chia làm 4 nhóm: Học sinh, sinh viên; Cơng nhân, nhân viên; Cơng
chức, viên chức và nhóm đối tượng khác: nội trợ, buôn bán nhỏ.
Vấn đề xây dựng nếp sống văn hóa – văn minh đơ thị trên địa bàn thành phố
Phạm vi nghiên cứu: Khóa luận chủ yếu tập trung phân tích, đánh giá thực
trạng nếp sống văn hóa ở khu vực đơ thị thành phố Đà Nẵng, trên cơ sở đó đề ra
các mục tiêu, giải pháp sát thực, đúng đắn.
4. Đóng góp của đề tài

Hệ thống hóa và làm sâu sắc hơn một số vấn đề lý luận về nếp sống văn hóa
và xây dựng nếp sống văn hóa – văn minh đơ thị ở thành phố Đà Nẵng hiện nay.
Phân tích, đánh giá để đi đến nhận thức đúng về thực trạng nếp sống văn hóa
ở khu vực đơ thị thành phố Đà Nẵng.
Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm góp phần cùng địa phương nâng cao
hiệu quả hoạt động xây dựng nếp sống văn hóa – văn minh đơ thị trong xu thế
phát triển.
Khóa luận có thể làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu và vận dựng
vào thực tiễn xây dựng nếp sống mới ở thành phố Đà Nẵng.

5. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài nghiên cứu giúp tác giả bước đầu làm quen với phương pháp nghiên
cứu khoa học, rèn luyện tư duy khoa học. Từ đó, củng cố kiến thức, mở rộng
hiểu biết về bản sắc văn hóa dân tộc và vai trị của nó đối với q trình hội nhập
quốc tế.
6. Cấu trúc khóa luận


Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, bài khóa luận
cịn có ba chương và 6 tiết
Chương 1: Cơ sở hình thành và quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về văn hóa.
Chương 2: Thực trạng xây dựng nếp sống văn hóa – văn minh đô thị thành phố
Đà Nẵng.
Chương 3: Mục tiêu và giải pháp để xây dựng nếp sống văn hóa – văn minh đô
thị thành phố Đà Nẵng trong xu thế phát triển.
7. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
Vấn đề của văn hóa từ rất sớm đã trở thành đối tượng của nhận thức. Đã có
nhiều cơng trình nghiên cứu, biên khảo có giá trị như: GS.PTS Trần Văn Bính
(Chủ biên): Văn hóa dân tộc trong thời kỳ mở cửa hiện nay, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 1996; Nguyễn Hồng Sơn, Mơi trường văn hóa với sự hình thành

nhân cách, Tạp chí Tư tưởng văn hóa, 1/1997; GS.TS Huỳnh Thái Vinh, Lối
sống với môi trường sinh thái và môi trường văn hóa,Thơng tin lý luận, 4/1998;
GS.PTS Hồng Vinh, Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng văn hóa ở nước
ta, Viện văn hóa, Nxb VHTT,1999; PGS. Trường Lưu, Văn hóa một số vấn đề lý
luận, Nxb Chính trị quốc gia, 1999; Phạm Vũ Dung, Nhận diện mấy vấn đề văn
hóa, Viện Văn hóa và Nxb Văn hóa – thông tin, 1999; Lê Như Thủy, “Xây dựng
đời sống văn hóa trong giai đoạn mới”, Báo văn hóa Quảng Nam, số 17; Giáo
trình tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003; Nguyễn
Nguyên Trứ, “Cách viết của Bác Hồ”, NXB Giáo dục, 1999; Viên Đình Phong,
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về đời sống văn hóa mới”, Tạp chí văn hóa du lịch Đà
Nẵng; T.S. Nguyễn Liên Châu, Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa vào xây
dựng nông thôn mới; T.S. Nguyễn Liên Châu, tác phẩm: Đời sống mới của Chủ
tịch Hồ Chí Minh với vấn đề xây dựng nơng thơn mới hiện nay, Tạp chí Lịch sử
Đảng, số 3/2012; Dương Thành Tuân – Thực trạng xây dựng đời sống văn hóa
ở cơ sở trong giai đoạn hiện nay, trường Chính trị tỉnh Hậu Giang; Hồ Chí
Minh, Tồn tập, tập 13, NXB Chính Trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2009; Lại
Nguyên Ân: Mấy nhận xét về hiện trạng văn hóa. Hồ Chí Minh – Văn hóa và


Đổi mới, NXB Lao động, Hà Nội, 1998; Tư tưởng Hồ Chí Minh với các giá trị
văn hóa cơ bản của Đảng cộng sản Việt Nam Nam của NXB Văn hóa – thơng
tin; Vũ Thị Tú – trường đại học kinh tế với bài nghiên cứu khoa học: “ Xây dựng
và thực hiện nếp sống văn hóa – văn minh đô thị trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng”; Quỳnh Đan - Xây dựng đời sống văn hóa và nếp sống văn minh đô thị ở
Đà Nẵng giai đoạn 2012 – 2015; Các đề án xây dựng nếp sống văn hóa – văn
minh đô thị, thành phố Đà Nẵng.

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HỒ
CHÍ MINH VỀ VĂN HĨA

1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa
1.1.1. Chủ nghĩa Mác – Lênin
Nói đến văn hóa nhân loại có tầm cỡ vĩ đại nhất và ảnh hưởng lớn nhất đối
với Hồ Chí Minh là phải nói đến chủ nghĩa Mác-Lênin. Có thể nói, Hồ Chí


Minh đã tiếp thu phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin và ứng dụng sáng tạo vào điều
kiện cụ thể của đất nước, đưa cách mạng Việt Nam giành nhiều thắng lợi vĩ đại
và cống hiến nhiều vào kho tàng lý luận mác-xít cũng như phương pháp hoạt
động sáng tạo của cuộc cách mạng vơ sản.
Xuất thân trong một gia đình khoa bảng, với tư chất thông minh tuyệt vời, từ
nhỏ, Hồ Chí Minh đã được giáo dục Hán học và đã tiếp thu nền văn hóa phương
Tây tại trường Quốc học Huế. Khi bôn ba khắp năm châu, bốn bể, Người vừa
hoạt động cách mạng, vừa học hỏi không ngừng. Người đã thông thạo các ngôn
ngữ tiêu biểu cho nền văn minh của nhân loại, am tường các nền văn hóa Đơng,
Tây, kim, cổ. Khi tiếp thu các nền văn hóa, Người bao giờ cũng phân tích các
yếu tố giá trị toàn nhân loại và vĩnh cửu. Người đã làm giàu trí tuệ của mình
bằng tinh thần văn hóa nhân loại. Người là tượng trưng cho sự kết hợp hài hòa
giữa các nền văn hóa và tỏa ra một nền văn hóa của tương lai.
1.1.2. Từ văn hóa phương Đơng
Văn hóa phương Đơng mà nổi lên nhất là văn hóa Nho giáo, văn hóa Phật
giáo, văn hóa Đạo giáo, đã sớm du nhập vào Việt Nam. Nhưng những trào lưu
văn hóa này của phương Đông khi vào Việt Nam đã được cải biên cho phù hợp
với hoàn cảnh kinh tế, xã hội, với tình cảm, hồi bão và lẽ sống của con người
Việt Nam.
Tiếp thu văn hóa phương Đơng, trước hết là Nho giáo, Hồ Chí Minh đã đánh giá
đúng đắn vai trò của Nho giáo và người sáng lập ra nó là Khổng Tử và đã đặc
biệt khai thác những mặt tích cực của tư tưởng Nho giáo.
Hơn ai hết, Hồ Chí Minh hiểu rõ những mặt bất cập, hạn chế của Nho giáo. Đó
là trong Nho giáo có những yếu tố duy tâm, lạc hậu, phản động như tư tưởng

đẳng cấp, khinh lao động chân tay, khinh phụ nữ, khinh thường thực nghiệm,
doanh lợi…Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng thấy được những mặt tích cực của nó
và khun chúng ta “nên học”. Theo Người, mặt tích cực của Nho giáo là nó đề
cao văn hóa, lễ giáo, tạo ra truyền thống hiếu học với châm ngôn “Học không
biết chán, dạy không biết mỏi”. Về điểm này, Nho giáo hơn hẳn các học thuyết


cổ đại, bởi vì nhiều học thuyết cổ đại chủ trương ngu dân để dễ cai trị.
Hồ Chí Minh đã khai thác Nho giáo, lựa chọn những yếu tố tich cực, phù hợp để
phục vụ cho nhiệm vụ cách mạng.
Tiếp thu tư tưởng vị tha ở Phật giáo, Hồ Chí Minh là hiện thân của lòng nhân ái,
độ lượng, khoan dung – những nét đặc trưng của giáo lý đạo Phật.
Thứ nhất là, tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ cứu nạn, thương người như
thể thương thân - một tình u bao la khơng chỉ dành cho con người mà dành
cho cả chim muông, cây cỏ.
Thứ hai là, nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo làm điều thiện.
Thứ ba là, tinh thần bình đẳng, tinh thần dân chủ chất phác chống lại mọi phân
biêt đẳng cấp.
Thứ tư là, Phật giáo Thiền tông đề ra luật “chấp tác”: “nhất nhật bất tác, nhất
nhật bất thực” (một ngày không làm, một ngày không ăn), đề cao lao động,
chống lười biếng. Cuối cùng, Phật giáo vào Việt Nam, gặp chủ nghĩa yêu nước,
tinh thần đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc ta, đã hình thành nên
Thiền phái Trúc lâm Việt Nam, chủ trương sống khơng xa rời, lẩn tránh mà gắn
bó với đời sống của nhân dân, với đất nước, tham gia vào cộng đồng, vào cuộc
đấu tranh của nhân dân, chống kẻ thù dân tộc.
Như thế, có thể nói, những mặt tích cực của Phật Việt Nam đã đi vào đời sống
tinh thần dân tộc và nhân dân lao động. Gia đình Bác Hồ là gia đình nhà nho
nghèo, gần gũi với nơng dân, cũng thấm nhuần tinh thần đó và để lại dấu ấn
trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Ngồi ra, cịn có thể tìm thấy nhiều trích dẫn khác nữa về các nhà tư tưởng

phương Đông như Lão Tử, Mặc Tử, Quản Tử…trong các bài nói, bài viết của
Hồ Chí Minh. Cũng như sau này, khi đã trở thành người mác-xít, Nguyễn Ái
Quốc vẫn tìm hiểu thêm về Chủ nghĩa Tam dân của Tơn Trung Sơn và tìm thấy
trong đó “những điều thích hợp với điều kiện nước ta”. Các tiêu chí của chủ
nghĩa Tam dân là dân tộc - độc lập; dân quyền - tự do; dân sinh - hạnh phúc đã
được Hồ Chí Minh rút gọn trong quốc hiệu của Việt Nam “Độc lập - Tự do -


Hạnh phúc”. Là người mác-xít tỉnh táo và sáng suốt, Hồ Chí Minh đã biết khai
thác những yếu tố tích cực của tư tưởng và văn hóa phương Đơng để phục vụ
cho sự nghiệp cách mạng nước ta.
1.1.3. Từ những tư tưởng Phương Tây
Lĩnh hội tư tưởng văn hóa phương Tây: Trong ba mươi năm hoạt động cách
mạng ở nước ngồi, Hồ Chí Minh sống chủ yếu ở châu Âu nên cũng chịu ảnh
hưởng rất sâu rộng của nền văn hóa dân chủ và cách mạng của phương Tây
Khi xuất dương, Người đã từng sang Mỹ, đến sống ở Niu Oóc, làm thuê và
thường đến thăm khu ở của người da đen. Trong các bài viết sau này, Người
thường nhắc đến ý chí đấu tranh cho tự do, độc lập, cho quyền sống của con
người được ghi lại trong Tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ. Người đã tiếp
thu giá trị của tư tưởng nhân quyền với nội dung là quyền tự do cá nhân thiêng
liêng trong bản tuyên ngơn này. Sau này Người đã phát triển nó thành quyền
sống, quyền độc lập, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của tất cả các dân
tộc. Nội dung nhân quyền được Người nâng lên một tầm cỡ mới trong Tuyên
ngôn Độc lập của Việt Nam năm 1945.
Cuối năm 1917, Người từ Anh sang Pháp và quyết định sống và hoạt động ở
thủ đơ nước Pháp có ý nghĩa lịch sử rất lớn, mở ra một thời kỳ mới trong cuộc
đời mình. Là thủ đơ của nước Pháp, Pa-ri cũng đồng thời là trung tâm văn hóa nghệ thuật của châu Âu. Các trào lưu triết học và các trường phái nghệ thuật nổi
tiếng thế giới phần lớn đều được hình thành và ra mắt tại đây. Sống ở giữa nơi
hợp lưu của các dịng văn hóa thế giới, Người đã có điều kiện thuận lợi để nhanh
chóng chiếm lĩnh vốn tri thức của thời đại, đặc biệt là truyền thống văn hóa dân

chủ và tiến bộ của nước Pháp.
Đến với quê hương của lý tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, Hồ Chí Minh được
tiếp xúc trực tiếp với tác phẩm của các nhà tư tưởng khai sáng: Vôn-te, Rút-xô,
Mông-tét-xki-ơ,…những lý luận gia của đại cách mạng Pháp 1789, như Tinh
thần pháp luật của Mông-tét-xki-ơ, Khế ước xã hội của Rút-xô, v.v…tư tưởng
dân chủ của các nhà khai sáng đã có ảnh hưởng tới tư tưởng của Người. Ngồi


ra, Người còn hấp thụ được tư tưởng dân chủ và hình thành được phong cách
dân chủ của mình từ trong cuộc sống thực tiễn. Rõ ràng là, ở Pháp, Người đã có
thể hoạt động và đấu tranh cách mạng một cách tương đối tự do, thuận lợi hơn ở
trên đất nước mình, dưới chế độ thuộc địa.
Nhờ được rèn luyện trong phong trào công nhân Pháp và sự cổ vũ, dìu dắt trực
tiếp của nhiều nhà cách mạng và trí thức tiến bộ Pháp như M. Ca-sanh, P.V. Cutuya-ri-ê, G. Mơng-mút-xơ…mà Hồ Chí Minh đã từng bước trưởng thành. Con
người ấy, trên hành trình cứu nước, đã làm giàu trí tuệ của mình bằng vốn trí tuệ
của thời đại, Đông và Tây, vừa thâu thái, vừa gạn lọc để có thể từ tầm cao của tri
thức nhân loại mà suy nghĩ và lựa chọn, kế thừa và đổi mới, vận dụng và phát
triển.
Kế thừa lòng nhân ái, đức hy sinh của Thiên chúa giáo: Nói đến việc kết hợp
văn hóa Đơng, Tây trong con người Hồ Chí Minh, khơng thể khơng đề cập đến
sự kế thừa lịng nhân ái, đức hy sinh, những giá trị cơ bản của Thiên chúa giáo.
Người đã cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng
nhân dân lao động khỏi ách áp bức, bóc lột; đã là hiện thân của lòng nhân ái và
đức hy sinh cao cả. Sau này, Người luôn luôn giáo dục cán bộ, đảng viên về
lịng thương người, thương dân, thương các chiến sỹ ngồi mặt trận - đó là
những tư tưởng thấm đậm những giá trị cao cả mang tính nhân loại mà Thiên
chúa giáo đã khởi xướng và răn dạy.
Người lên án gay gắt những kẻ “giả danh Chúa” để thực hiện những “hành vi
ác quỷ”: dẫn đường cho đội quân viễn chinh; cướp của cải, đánh đập, bắt giết
người (đặc biệt là trẻ em); chiếm ruộng đất canh tác, v.v…Người coi những

hành động đó là sự đi ngược lại và phản bội lòng nhân ái cao cả của Chúa, làm
hoen ố tư tưởng lớn của Ngài là muốn mưu cầu phúc lợi cho xã hội. Người viết:
“Nếu Chúa bất hạnh đã chịu đóng đanh trên cây thánh giá trở về cõi thế này, thì
chắc Ngài sẽ vơ cùng ngao ngán khi thấy “các mơn đồ trung thành” của mình
thực hiện đức khổ hạnh như thế nào”.


Người lên án những giáo sĩ đại diện cho chủ nghĩa tư bản phương Tây, những kẻ
nhân danh Chúa để quan hệ mật thiết với thế lực thực dân, tham gia vào guồng
máy của chủ nghĩa thực dân, xâm nhập về kinh tế và quân sự, áp đặt nền văn
hóa thực dân, làm xuất hiện nguy cơ bá quyền văn hóa.
Tóm lại, Hồ Chí Minh tiếp thu các tinh hoa văn hóa nhân loại một cách có
chọn lọc rồi vận dụng tinh hoa đó một cách sát hợp vào những điều kiện cụ thể
của đất nước, của dân tộc vì mục đích khơng chỉ cho sự nghiệp giải phóng dân
tộc mình mà cịn góp phần tích cực nhất vào sự nghiệp của các dân tộc khác trên
thế giới.
1.2. Nội dung cơ bản của Hồ Chí Minh về văn hóa
1.2.1. Quan điểm văn hóa của Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh đã từng nêu ra một định nghĩa về văn hóa trong mục đọc sách ở
phần cuối tập Nhật ký trong tù (1942 -1943), Người nói rằng: “Vì lẽ sinh tồn
cũng như mục đích của cuộc sống, lồi người mới sáng tạo và phát minh ra
ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử
dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự
tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà lồi
người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và địi hỏi của sự
sinh tồn”. Có năm điểm lớn để xây dựng nền văn hóa dân tộc:
+ Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường
+ Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng
+ Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong

xã hội.
+ Xây dựng chính trị: dân quyền.
+ Xây dựng kinh tế
Như vậy, văn hóa được hiểu theo một nghĩa rộng nhất. Đó là toàn bộ những giá
trị vật chất và những giá trị tinh thần mà loài người sáng tạo ra nhằm đáp ứng lẽ


sinh tồn, đồng thời cũng là mục đích cuộc sống của lồi người. Và muốn xây
dựng nền văn hóa của dân tộc thì phải xây dựng tất cả các mặt kinh tế, chính trị,
xã hội, đạo đức, tâm lý con người.
Từ sau cách mạng Tháng Tám, văn hóa đã được Người xác định là đời sống
tinh thần của xã hội, là thuộc về kiến trức thượng của xã hội. Văn hóa được đặt
ngang hàng với chính trị, kinh tế, xã hội, tạo thành bốn vấn đề chủ yếu của đời
sống xã hội. Trong cơng cuộc kiến thiết nước nhà, có bốn vấn đề cần chú ý đến,
cũng phải coi là quan trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hơi, văn hóa.
Nhưng văn hóa là một kiến trúc thượng tầng. Tinh thần đó đã được thể hiện
trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(1991); “Xây dựng nền văn hóa mới, tạo ra một đời sống tinh thần cao đẹp,
phong phú và đa dạng”.
Theo Hồ Chí Minh, bốn vấn đề có quan hệ mật thiết với nhau, cùng tác động
lẫn nhau: Chính trị, xã hội có được giải phóng thì văn hóa mới được giải
phóng.Chính trị giải phóng mở đường cho văn hóa phát triển. Khi cả đất nước
và dân tộc cịn bị nơ lệ thì văn hóa cũng cùng chung số phận nô lệ, tuyệt đại bộ
phận nhân dân bị đày đọa trong vịng tăm tối, dốt nát. Vì vậy, có những nhà yêu
nước chủ trương trước hết phải khai dân trí, nâng cao trình độ văn hóa của nhân
dân, sau đó mới tính đến chuyện giành độc lập, tự do cho đất nước và dân tộc.
Đường lối cải lương đó hoàn toàn bị thất bại.
Lãnh đạo nhân dân theo con đường cách mạng vơ sản, Hồ Chí Minh đã
vạch ra một đường lối mới: Phải tiến hành cách mạng chính trị trước mà cụ thể ở
Việt Nam là tiến hành cách mạng giải phóng chính trị, giải phóng xã hội, từ đó

giải phóng văn hóa, mở đường cho văn hóa phát triển. Người viết: “Xã hội thế
nào, văn hóa thế âý. Văn nghệ của dân tộc ta vốn rất phong phú, nhưng dưới
chế độ thực dân và phong kiến nhân dân ta bị nô lệ, bị tồi tàn, không thể phát
triển được”.
Xây dựng kinh tế tạo điều kiện cho việc vây dựng và phát triển văn hóa.


Cùng với việc xác định bốn vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa đều phải
coi trọng như nhau, Hồ Chí Minh vẫn chỉ rõ kinh tế là thuộc về cơ sở hạ tầng, là
nền tảng của việc xây dựng văn hóa, xây dựng kiến trúc thượng tầng. Từ đó,
Người nêu ra luận điểm phải xây dựng kinh tế, xay dựng cơ sở hạ tầng để có
điều kiện xây dựng và phát triển văn hóa. “Văn hố là một kiến trúc thượng
tầng, nhưng cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi, văn hóa mới kiến thiết
được và có đủ điều kiện phát triển được”.Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì
phải phát triển kinh tế và văn hóa. Phát triển kinh tế và văn hóa để nâng cao đời
sống vật chất và văn hóa của nhân dân ta.
Văn hóa khơng thể đứng ngồi, mà phải ở trong kinh tế và chính trị. Văn hóa
phải phục vụ nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy xây dựng và phát triển kinh tế. Trong
kháng chiến chống thực dân Pháp, Hồ Chí Minh khẳng định: “Văn hóa, nghệ
thuật cũng như mọi hoạt động khác, khơng thể đứng ngồi mà phải ở trong kinh
tế và chính trị”. Quan điểm này của Người đã định hướng cho mọi hoạt động
văn hóa, động viên giới văn hóa văn nghệ đi vào kháng chiến, thực hiện khẩu
hiệu: “ văn hóa hóa kháng chiến, kháng chiến hóa văn hóa”, tạo nên một phong
trào văn hóa kháng chiến sôi động chưa từng thấy trong cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp. Văn hóa khơng đứng ngồi mà ở trong cuộc kháng chiến thần
thánh của dân tộc. Cuộc kháng chiến đã trở thành cuộc kháng chiến không thể
thiếu văn hóa. Quan điểm trên đây của Hồ Chí Minh cũng định hướng cho việc
xây dựng và phát triển nên văn hóa mới của nước ta trong suốt hai mươi năm
chống Mỹ cứu nước, cũng như trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện
nay.

Người đã chỉ rõ: “Trình độ văn hóa của nhân dân nâng cao sẽ giúp chúng ta
đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ...cần thiết để xây
dựng nước ta thành một nước hịa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu
mạnh”.
1.2.2. Các chức năng, vai trị của văn hóa
* Chức năng của văn hóa:


Tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta hiểu rằng văn hóa có những chức năng
rất quan trọng: nhận thức, giáo dục, thẩm mỹ, giải trí...Những chức năng ấy
được thể hiện trên tất cả các mặt của đời sống xã hội và con người, từ lao động,
chiến đấu đến học tập, sinh hoạt hằng ngày; trong mọi mối quan hệ từ hẹp đến
rộng, từ gần đến xa, từ cá nhân đến cộng đồng, từ gia đình, làng xóm đến quốc
gia, quốc tế. Văn hóa khơng những tác động đến tư tưởng mà cịn cả tình cảm
con người, khơng những nâng cao trí tuệ mà cịn bồi dưỡng tâm hồn của các
thành viên trong cộng dồng dân tộc Việt Nam.
Từ di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, chức năng của văn hóa mới có thể quy tụ
vào ba chức năng chủ yếu sau đây:
Một là, bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp
Tư tưởng và tình cảm là vấn đề chủ yếu nhất của đời sống tinh thần của con
người. Tư tưởng có thể đúng đắn hoặc sai lầm, tình cảm có thể thấp hèn hoặc
cao đẹp. Theo Hồ Chí Minh, văn hóa có chức năng là phải bồi dưỡng tư tưởng
đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho nhân dân, loại bỏ những sai lầm và thấp hèn
có thể có trong tư tưởng, tình cảm mỗi người. Chức năng cao quý ấy phải được
tiến hành thường xuyên, vì tư tưởng, tình cảm con người ln chuyển biến theo
hoạt động thực tiễn xã hội. Việc bồi dưỡng ấy phải đặc biệt quantâm đến những
tư tưởng và tình cảm lớn có ý nghĩa chi phối đời sống tinh thần của mỗi người
và của cả dân tộc.
Trong Diễn văn khai mạc Hội nghị văn hóa tồn quốc ngày 24 -11-1946, Hồ Chí
Minh nêu rõ: Văn hóa phải làm thế nào cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập

tự do. Đồng thời văn hóa phải làm thể nào cho quốc dân có tinh thần vì nước
qn mình, vì lợi ích chung mà quên lợi ích riêng.
Hai mươi năm sau, trong lời kêu gọi nhân dân chống Mỹ cứu nước, Người đã
nhắc lại lí tưởng độc lập tự do bằng một mệnh đề mới: Khơng có gì q hơn độc
lập tự do!. Tuy nhiên, lí tưởng mà Người xác định cho Đảng và nhân dân ta là
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc phải đi tới chủ nghĩa xã hội


để làm cho dộc lập dân tộc được vững bền, để sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải
phóng xã hội, giải phóng con người được thực hiện trọn vẹn.
Lí tưởng là điểm hội tụ của những tư tưởng lớn của cả một Đảng, của cả một
dân tộc. Mọi hành động anh hùng cũng như mọi sự nghiệp lớn chỉ có thể bắt
nguồn từ một mục tiêu lớn, một lí tưởng lớn. Khi đã phai nhạt lí tưởng độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội thì bất cứ người nào cũng sẽ trở nên nhỏ bé, tầm
thường và sẽ không còn ý nghĩa trong sự vận động của lịch sử, dù đó là người đã
được coi là lỗi lạc, đã từng được yêu mến quý trọng một thời. Lịch sử đã để lại
khơng ít những dẫn chúng về điều đó.
Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã thường xuyên quan tâm đến việc
bồi dưỡng lí tưởng và những tư tưởng lớn cho cán bộ, Đảng viên và các tầng lớp
nhân dân, và cũng đặt chức năng cao q đó vào văn hóa.
Hồ Chí Minh cịn nói: phải làm thế nào cho văn hóa đi sâu vào tâm lí quốc dân
để xây dựng những tình cảm lớn như lịng u nước, tình u thương con người;
u cái chân, cái thiện, cái mỹ; yêu tính trung thực, chân thành, thủy chung, ghét
những thói hư tật xấu, những sa đọa biến chất,căm thù mọi thứ “giặc nội
xâm...”. Hơn nữa chính những tư tưởng đúng đắn lại được tiếp nhận không phải
bằng lí trí mà cịn bằng tình cảm, từ đó lại trở thành tình cảm lớn, tạo nên sự bền
vững bên trong mỗi người. Mà điều này văn hóa lại có khả năng nhất.
Hai là, nâng cao dân trí.
Nói đến văn hóa là phải nói đên dân trí. Đó là trình độ hiểu biết, trình độ
nhận thức của người dân, của mỗi cơng dân. Trình độ đó phải từ chỗ biết chữ

đến chổ hiểu biết các lĩnh vực khác cần thiết cho hoạt động của mỗi người,
nhằm phục vụ cho mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, điều mà Đảng
ta xác định hiện nay là mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh. Những hiểu biết đó bao gồm nhiều lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn
hóa (theo nghĩa vẫn thường dùng là trình độ học vấn), nghiệp vụ chun mơn,
khoa học – kĩ thuật, lịch sử, thực tiễn Việt Nam và thế giới,v.v....


Khi đất nước đã được độc lập, Hồ Chí Minh nói: “ Một trong những cơng việc
phải thực hiện cấp tốc trong lúc này, là nâng cao dân trí....
Muốn giữ nền độc lập,
Muốn làm cho dân mạnh nước giàu,
Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình... phải có kiến thức mới
để tham gia vào cơng cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết đọc, biết
viết chữ quốc ngữ”.
Khi miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Người nói:
“Chúng ta phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao và
đời sống tươi vui hạnh phúc”.
Vấn đề nâng cao dân trí trước kia đã được nhiều nhà yêu nước đặt ra. Phan Chu
Trinh là người tiêu biểu nhất đề ra chủ trương “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu
dân sinh” ngay dưới chế độ thục dân phong kiến, nhưng đã không thể thực hiện
được. Dịng văn hóa cách mạng xuất hiện trong những thời kì trước Cách mạng
Tháng Tám chỉ làm chuyển biến dân trí được phần nào. Vấn đề nâng cao dân trí
thực sự chỉ có thể thực hiện khi chính quyền đã về tay nhân dân, khi chính trị đã
được giải phóng. Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc việt Nam xã hội chủ
nghĩa trong thế giới hiện đại càng địi hỏi nâng cao dân trí hơn nữa và khơng bao
giờ có điểm tận cùng. Đó chính là chức năng của yếu tố văn hóa.
Ba là, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách lành mạnh,
luôn hướng con người vươn tới cái chân, cái thiện, cái mỹ để khơng ngừng hồn
thiện bản thân mình.

Muốn tham gia vào việc tạo ra những giá trị văn hóa, đồng thời biết hưởng thụ
một cách đúng đắn những giá trị văn hóa của xã hội, mỗi người khơng những
phải có những tư tưởng và tình cảm lớn, những hiểu biết ngày càng được nâng
cao, mà cịn phải có những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách lành mạnh
trong cuộc sống. Phải biến những tư tưởng, tình cảm lớn thành phẩm chất và
phong cách con người mới dụng được kiến thức để tham gia vào việc tạo ra


những giá trị văn hóa cho xã hội và biết hưởng thụ một cách đúng đắn những giá
trị văn hóa của xã hội.
Căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, Hồ Chí Minh đã đề ra những phẩm
chất và phong cách cần thiết để mỗi người tu dưỡng, rèn luyện. Trước hết là đối
với cán bơ, đảng viên. Đó là những phẩm chất đạo đức – chính trị, những phong
cách trong lao động, sinh hoạt và trong mọi quan hệ xã hội. Từ Đường Kách
mệnh, Sửa đổi lối làm việc, Đời sống mới đến hàng loạt bài nói, bài viết về sau
này của Người đã chứa đựng những chỉ dẫn rất phong phú về vấn đề này.
Phẩm chất và phong cách được hình thành trong đạo đức, lối sống của con người
và xã hội, trong thói quen của cá nhân và trong phong tục tập quán của cả cộng
đòng và dân tộc. Văn hóa giúp cho con người phân biệt cái tốt đẹp, lành mạnh
với cái xấu xa hư hỏng, cái tiến bộ thúc đẩy sự phát triển của xã hội với cái lạc
hậu cản trở con người và dân tộc tiến lên phía trước. Từ đó con người phấn đấu
để làm cho cái tốt đẹp, lành mạnh ngày càng tăng, cái tiến bộ ngày càng nhiều;
mặt khác làm cho cái lạc hậu lỗi thời ngày càng bớt, cái xấu xa hư hỏng ngày
càng bị loại bỏ khỏi đời sống con người và xã hội. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Phải
làm thế nào cho văn hóa vào sâu trong tâm lí quốc dân, nghĩa là văn hóa phải
sửa đổi được những tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ. Người đã nêu ra
một luận điểm khái quát: Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi.
Với đặc trưng khơng giống với chính trị và kinh tế, văn hóa hướng con người
vươn tới cái chân, cái thiện, cái mỹ, từ cái hiện có vươn tới cái lí tưởng, từ cái
chưa hồn thiện vươn tới cái hồn thiện ln ln ở phía trước, đặc biệt là việc

hồn thiện bản thân mỗi người.
Xây dựng nền văn hóa mới là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể và
các tầng lớp nhân dân. Hồ Chí Minh coi đội nhũ những nhà văn hóa, những
người làm cơng tác văn hóa, những văn nghệ sĩ là lực lượng nòng cốt trong sự
nghiệp to lớn này. Đối với đội ngũ này, Người đã nói những câu bất hủ:
“Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận.


Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”; “Văn hóa giáo dục là một mặt trận
quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh
thực hiện thống nhất nước nhà”.
Quan điểm của Hồ Chí Minh coi văn hóa là một mặt trận là quan điểm rất độc
đáo, đòi hỏi các chiến sĩ chiến đấu trên mặt trận này vừa phải bền bỉ, kiên
cường, dũng cảm, vùa phải biết sử dụng vũ khí của mình một cách sắc bén và có
hiệu quả trong kháng chiến chống ngoại xâm trước kia cũng như trong cuộc
chiến đấu khổng lồ phục hưng và phát triển đất nước hiện nay.
Ba chức năng trên đây được thực hiên trên các lĩnh vực khác nhau của mặt
trận văn hóa.
* Vai trị của văn hóa:
Thứ nhất: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội:
Đời sống xã hội có hai mặt : vật chất và tinh thần. Nếu kinh tế là nền tảng vật
chất của đời sống xã hội, thì văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Văn hóa là
nền tảng tinh thần của xã hội có nghĩa là văn hóa góp phần tạo nền móng của xã
hội. Nền móng có vững chắc thì sự phát triển của đất nước mới lành mạnh. Nói
văn hóa là nền tảng tinh thần có nghĩa là coi văn hóa là tổng thể các giá trị, các
tiềm năng sáng tạo của đất nước. Muốn phát triển cần phải dựa vào các giá trị
đó, cần khai thác và phát huy các giá trị đó.
Thứ hai: Văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh
tế - xã hội.
Nguồn lực nội sinh của sự phát triển của một dân tộc thấm sâu trong văn hóa. Sự

phát triển của một dân tộc phải vươn tới cái mới, tiếp nhận cái mới, tạo ra cái
mới, nhưng lại không thể tách rời cội nguồn. Phát triển phải dựa trên cội nguồn,
bằng cách phát huy cội nguồn. Cội nguồn đó của mỗi quốc gia, dân tộc là văn
hóa.
Văn hóa là động lực thúc đẩy phát triển: Văn hóa khơi dậy và phát huy mọi tiềm
năng sáng tạo của con người. Trong thời đại ngày nay, việc phát huy tiềm năng


sáng tạo của con người có tầm quan trọng đặt biệt, tiềm năng sáng tạo này nằm
trong các yếu tố cấu thành văn hóa, nghĩa là trong sự hiểu biết, tâm hồn, đạo lý,
lối sống, thị hiếu, trình độ thẩm mỹ của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng. Hàm
lượng trí tuệ, hàm lượng văn hóa trong các lĩnh vực của đời sống con người
ngày càng cao thì khả năng phát triển kinh tế - xã hội càng lớn. Do vậy, đối với
một nền kinh tế, muốn phát triển bền vững thì động lực khơng thể thiếu là phát
triển văn hóa
Thứ ba: Văn hóa khơi dậy tiềm năng, phát huy sức sáng tạo của con người,
tạo ra sự phát triển hài hòa giữa đời sống vật chất và tinh thần.
Văn hóa là nền tảng cho mọi hoạt động sáng tạo của con người. Con người
không thể làm việc, không thể làm việc nếu thiếu đi cái giá trị tinh thần – đó là
văn hóa. Sự hưởng thụ những giá trị tinh thần giúp con người vận động và phát
triển, phát huy mọi tiềm năng con người, khơi dậy mọi nguồn lực, mọi giác quan
cho những hoạt động cần thiết trong cuộc sống. văn hóa là động lực cơ bản tạo
ra sự phát triển hài hòa giữa đời sống vật chất và tinh thần.

1.2.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về các lĩnh vực của văn hóa
* Văn hóa giáo dục.
Khi tìm thấy con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã bỏ nhiều cơng sức phân tích
sâu sắc nền giáo dục phong kiến cũng như nền giáo dục thực dân, từ đó chuẩn bị
chi những suy tư về việc xây dựng nền giáo dục nước Việt Nam độc lập sau này.
Nền giáo dục phong kiến là nền giáo dục từ chương, kinh viện xa rời thực tế,

không quan tâm đến thực nghiệm, coi kinh sách của thánh hiền là đỉnh cao của
tri thức. Mẫu người của nền giáo dục phong kiến hướng tới là kẻ sĩ, là người
quân tử, là bậc trượng phu, hồn tồn khác với kẻ bình dân. Phụ nữ bị tước
quyền học vấn.
Còn nền giáo dục thực dân là nền giáo dục ngu dân, không phải để mở mang trí
tuệ và phát triển tư tưởng cho dân, trái lại chỉ làm cho họ đần độn thêm. Đó là
một nền giáo dục đồi bại, xảo trá và nguy hiểm hơn của sự dốt nát. Nó chỉ dạy


cho họ một “lòng trung thực” giả dối, chỉ dạy cho họ biết sùng bái những kẻ
mạnh hơn mình, dạy cho thanh niên yêu Tổ quốc không phải là Tổ quốc của
mình, chỉ giáo dục cho họ thái độ thờ ơ đối với xã hội, xa rời đời sống lao động
và đấu tranh của nhân dân, học để lấy bằng cấp, để được tiến thủ nhờ vào tấm
bằng của mình mà đầu óc thì “rỗng”, khơng có kiến thức chun mơn, lối dạy
học chỉ mang tính “nhồi sọ” mà thơi. Bởi mục đích của nền giáo dục đó chỉ
nhằm đào tạo những người phục vụ cho chính quyền thực dân – tùy phái, thơng
ngơn, viên chức nhỏ.
Hồ Chí Minh đã tố cáo nền giáo dục thực dân trước thế giới, làm cho thế giới
hiểu rõ thực chất của nền giáo dục “ngu dân”, “nhồi sọ” của chủ nghĩa thực dân,
đồng thời thức tỉnh nhân dân Việt Nam và nhân dân các nước thuộc địa vùng
dậy đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân.
Nền giáo dục mới của nước Việt Nam độc lập sau này đã được Hồ Chí Minh
chuẩn bị từ những lớp bồi dưỡng cán bộ cách mạng của Hội Việt Nam Cách
mạng thanh niên từ những năm 1925 -1927.
Sau khi chính quyền đã về tay nhân dân, việc xây dựng một nền giáo dục mới đã
chính thức được đặt ra như là một trong những nhiệm vụ chiến lược cơ bản lâu
dài, đồng thời cũng là nhiệm vụ cấp bách phải tiến hành ngay, không được chậm
trễ: “Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân chúng ta.
Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu
nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập”.

Để xây dựng nền văn hóa giáo dục của nước Việt Nam độc lập, Hồ Chí Minh đã
nêu ra nhiều quan điểm rất quan trọng. Những quan điểm ấy được Người nêu ra
cũng với thực tiễn phát triển của nền giáo dục nước ta, định hướng cho văn hóa
giáo dục phát triển đứng đắn và giành được những thành tựu to lớn. Nền văn hóa
giáo dục mới ra đời trong cách mạng và phát triển trong hai cuộc kháng chiến
lâu dài, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng ta
thực sự là niềm tự hào của dân tộc ta.


Những quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục tập trung ở những điểm
sau:
+ Mục tiêu của văn hóa giáo dục là thực hiện cả ba chức năng của văn hóa bằng
giáo dục, có nghĩa là bằng dạy và học.
Dạy và học để mở mang dân trí, nâng cao kiến thức, bồi dưỡng tư tưởng đúng
đắn và tình cảm cao đẹp, những phẩm chất trong sáng và phong cách lành mạng
cho nhân dân.
Đó là đào tạo những con người mới vừa có đức, vừa có tài, những cơng dân biết
làm chủ để đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Học
không phải để chạy theo bằng cấp mà để có thực học. Học để làm việc, làm
người, làm cán bộ. Người đặt việc học làm cán bộ sau việc học để làm việc và
làm người là hàm chứa ý nghĩa hoàn toàn khác với việc học để làm quan của xã
hội cũ. Trong những mục tiêu đó, học làm người là khó nhất. Đó là “cải tạo trí
thức cũ”, “đào tạo trí thức mới”, thực hiện “cơng nơng trí thức hóa”, “trí thưc
cơng nơng hóa”, xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng đơng đảo và có trình độ
ngày càng cao. Trong đấu tranh giành độc lập tự do, trí thức có vai trị quan
trọng hơn.
Nền văn hóa giáo dục cịn phải đào tạo những lớp người kế tục sự nghiệp cách
mạng, xây dựng đất nước giàu mạnh và văn minh để theo kịp các nước trên toàn
cầu, sánh vai cùng các cường quốc năm châu. Tinh thần ấy cũng được cơ đọng
trong câu nói: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì

phải trồng người”.
Mở mang dân trí phải bắt đầu từ việc xóa bỏ nạn mù chữ, chống giặt dốt, nần
cao dần trình độ, kết hợp phổ cập với nâng cao, biến nước ta thành một nước văn
hóa cao. Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, phong trào xóa nạn mù
chữ, chống giặc dốt, bình dân học vụ, bổ túc văn hóa, đào tạo trí thức mới đã
đem lại những thành tựu hết sức rực rỡ cho nền giáo dục mới trong suốt thời kỳ
vừa kháng chiến, vừa kiến quốc vô cùng oanh liệt của nhân dân ta.


Phải tiến hành cải cách giáo dục để xây dựng một hệ thống trường lớp với
chương trình, nội dung dạy và học thật khoa học, thật hợp lý, phù hợp với những
bước phát triển của ta.
Nội dung giáo dục phải bao gồm cả văn hóa, chính trị, khoa học – kỹ thuật,
chun mơn nghề nghiệp, lao động. Người nói với thanh niên: Các cháu phải cố
gắng học tập kỹ thuật, văn hóa, chính trị.. Nếu khơng học văn hóa, khơng có
trình độ văn hóa thì khơng học tập được kỹ thuật, khơng học tập được kỹ thuật
thì khơng theo kịp được nhu cầu về kinh tế nhà nước; nhưng phải chú ý học
chính trị, vì nếu chỉ học văn hóa, kỹ thuật mà khơng có chính trị thì như người
nhắm mắt mà đi.
Học chính trị là học chủ nghĩa Mác – Lênin và đường lối quan điểm của Đảng
để hiểu rõ nhiệm vụ cách mạng, đồng thời xây dựng cho bản thân mình một
phương pháp nhận thức đúng đắn trước những diễn biến phức tạp của cuộc sống,
để từ đó vững tin vào lý tưởng cách mạng, tránh được mọi sai lầm vấp ngã. Để
đạt đến kết quả, Hồ Chí Minh yêu cầu phải học một cách sáng tạo, chứ không
phải học một cách giáo điều, học một cách cẩn thận chứ không phải qua loa đại
khái. Học chủ nghĩa Mác – Lê nin, như Người nói, khơng phải để “thuộc sách
lầu lầu”, để biết “cụ Mác nói thế này, cụ Lênin nói thế kia”, mà là “học tập cái
tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình; là học tập
những chân lý phổ biến của Chủ nghĩa Mác – Lênin để áp dụng một cách sáng
tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta”.

Lại rất cần phải học tập khoa học, kỹ thuật, bởi chúng ta đang sống trong một
thời đại mà cuộc cách mạng khoa học khoa học và công nghệ hiện đại đang tiến
như vũ bão, loài người đang vận dụng những thành tựu kỳ diệu của khoa học, kỹ
thuật, công nghệ để đấy mạnh sản xuất và cải tạo nhanh chóng bộ mặt thế giới.
Theo Hồ Chí Minh, trên nền tảng giáo dục chính trị và tư tưởng tốt, phải nâng
cao chất lượng văn hóa và chun mơn, nhằm thiết thực giải quyết những vấn đề
do cách mạng nước ta đề ra và trong một thời gian không xa, đạt những đỉnh cao
của khoa học và kỹ thuật.


×