Tải bản đầy đủ (.pdf) (133 trang)

Nâng cao dân trí trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở đắk nông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 133 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------

NGUYỄN THỊ NHƯ HOA

NÂNG CAO DÂN TRÍ TRONG THỜI KỲ
CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA
Ở ĐẮK NƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2010


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------

NGUYỄN THỊ NHƯ HOA

NÂNG CAO DÂN TRÍ TRONG THỜI KỲ
CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA
Ở ĐẮK NƠNG
Chun ngành: CNXHKH
Mã số : 60. 22. 85

LUẬN VĂN THẠC SĨ CNXHKH

Người hướng dẫn khoa học
PGS.TS LÊ TRỌNG ÂN



THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2010


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU
Chương 1: KHÁI LUẬN CHUNG VỀ DÂN TRÍ VÀ NÂNG CAO
DÂN TRÍ
1.1. KHÁI NIỆM “DÂN TRÍ”, “NÂNG CAO DÂN TRÍ”
1.1.1 Khái niệm “Dân trí”.......................................................................................... 10
1.1.2. Khái niệm “Nâng cao dân trí”........................................................................... 13
1.2. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ DÂN TRÍ VÀ NÂNG CAO DÂN TRÍ
1.2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về “Dân trí” và “Nâng cao dân trí” ...... 17
1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về “Dân trí” và “Nâng cao dân trí” .............................. 26
1.2.3. Vai trị của nâng cao dân trí trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa .... 33
Chương 2: NÂNG CAO DÂN TRÍ PHỤC VỤ SỰ NGHIỆP CƠNG NGHIỆP
HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA Ở TỈNH ĐẮK NÔNG – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
2.1. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở ĐẮK NÔNG
2.1.1. Lịch sử và truyền thống của Đắk Nông ............................................................ 48
2.1.2. Tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội của Đắk Nông ......................................... 52
2.2. THỰC TRẠNG CỦA TÌNH HÌNH NÂNG CAO DÂN TRÍ Ở ĐẮK NƠNG SAU
HƠN 20 NĂM ĐỔI MỚI
2.2.1. Những thành tựu và hạn chế của tình hình nâng cao dân trí ở Đắk Nông sau hơn

20 năm đổi mới ................................................................................................................... 64
2.2.2. Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế về nâng cao dân trí ở Đắk Nơng
trong những năm qua.................................................................................................. 93
2.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO DÂN TRÍ PHỤC VỤ SỰ

NGHIỆP CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA Ở ĐẮK NƠNG HIỆN NAY
2.3.1. Tăng cường vai trị lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác nâng cao dân trí
2.3.2. Nâng cao dân trí phải gắn liền với phát triển kinh tế - xã hội .......................... 104
2.3.3. Tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục – đào tạo ................................................ 109


2.3.4. Tăng cường phổ biến tri thức khoa học – kỹ thuật và công nghệ cho nhân dân ........... 113

2.3.5. Nâng cao chất lượng hiệu quả công tác thông tin đại chúng ............................ 115
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời đại ngày nay khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ như vũ bão,
nền kinh tế tri thức và tồn cầu hóa đang trở thành xu thế tất yếu đã tạo ra nhiều thời
cơ thuận lợi, cũng như tiềm ẩn nhiều thách thức khó lường, tác động và ảnh hưởng
đến tất cả các nước trên thế giới.
Trong xu thế chung đó, để khơng bị tụt hậu, mỗi quốc gia nhất thiết phải có sự
đầu tư và phát triển tồn diện trên tấ cả các lĩnh vực, các nguồn lực, như: cơ sở vất
chất, vốn, khoa học và công nghệ, sử dụng và khai thác các nguồn tài nguyên… trong
đó, đặc biệt và quan trọng nhất vẫn là sự đầu tư, phát triển về nguồn lực con người có
trí tuệ, năng lực chun mơn ở trình độ cao. Khi khoa học kỹ thuật và công nghệ phát
triển, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội đều có quan hệ trực tiếp đến tri thức, trí tuệ của
con người. Vì thế, vấn đề dân trí và nâng cao dân trí là một trong những nhân tố quan
trọng, có ý nghĩa quyết định đến sự tồn vong, hưng thịnh của quá trình xây dựng và

phát triển đối với mỗi quốc gia, dân tộc.
Việt Nam là một quốc gia đang quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ nền kinh tế sản
xuất nhỏ là phổ biến, cho nên cùng với việc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội và
các lĩnh vực khác của đời sống, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến vấn đề
dân trí và nâng cao dân trí. Tại Hội nghị Trung ương 4 (khóa VII), Đảng ta đã khẳng
định: "Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”.
Đối với Đắk Nông - một trong những tỉnh thuộc địa bàn chiến lược quan trọng
của Tây Nguyên và của cả nước, vùng đất giàu truyền thống lịch sử và văn hóa, có
nhiều điều kiện và tiềm năng để phát triển kinh tế - xã hội theo hướng hiện đại. Tuy
nhiên, trên thực tế Đắk Nông hiện nay vẫn cịn là một trong những tỉnh nghèo, trình độ
dân trí cịn thấp, đời sống nhân dân cịn nhiều khó khăn so với mặt bằng chung của cả
nước. Do vậy việc nghiên cứu để góp phần nâng cao và phát triển kinh tế - xã hội ở
Đắk Nơng nói chung, nâng cao đời sống vật chất, bồi dưỡng và phát triển trí tuệ và đời
sống văn hóa tinh thần cho nhân dân Đắk Nơng nói riêng có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn cấp bách.


2

Xuất phát từ thực tế đó, tác giả chọn vấn đề “Nâng cao dân trí trong thời kỳ
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đắk Nơng” cho đề tài luận văn thạc sĩ của mình, và
coi đây như là một cơng việc cụ thể của bản thân nhằm góp phần vào sự nghiệp xây
dựng và phát triển vùng đất Đắk Nơng giàu truyền thống này.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Đắk Nông là một trong năm tỉnh của Tây Nguyên gồm: Gia Lai, Kon Tum, Đắk
Lắk, Lâm Đồng và Đắk Nông. Trước năm 2004, Đắk Nông vẫn là một địa bàn thuộc
tỉnh Đắk Lắk. Quá trình lịch sử phát triển, truyền thống văn hóa, đất, nước, con người
của vùng đất này ln gắn liền với q trình phát triển của Đắk Lắk nói riêng và Tây
Nguyên nói chung.
Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học về các lĩnh vực: lịch sử, văn hóa,

kinh tế - xã hội, dân tộc, giáo dục – đào tạo… của Tây Nguyên nói chung, của Đắk
Lắk (bao gồm cả Đắk Nơng) nói riêng. Có thể khái quát một số hướng tiếp cận, nghiên
cứu sau:
Trước hết, hướng tiếp cận và nghiên cứu về lĩnh vực lịch sử, văn hóa có thể kể
đến một số tác phẩm, cơng trình tiêu biểu của các tác giả như:
Bế Viết Đẳng, Chu Thái Sơn, Vũ Thị Hồng, Vũ Đình Lợi (1982), Đại cương về
các dân tộc Êđê, Mnông ở Đắk Lắk, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. Tác phẩm đã giới
thiệu khái quát những đặc điểm địa lý - tự nhiên, sự phân bố dân cư và thành phần dân
tộc tỉnh Đắk Lắk, đồng thời đề cập đến nguồn gốc lịch sử và những đặc điểm nhân
chủng của người Ê-đê và người Mnông gắn liền với các hoạt động sản xuất, kinh tế và
các quan hệ xã hội (bn làng, dịng họ, gia đình…) của họ. Một trong những phần
chủ yếu của tác phẩm đã được tác giả tập trung phân tích khá sâu sắc các lĩnh vực hoạt
động văn hố như: văn hố vật chất, văn hóa tinh thần, văn học nghệ thuật dân gian,
những nghi lễ phong tục trong chu kỳ đời người, thể hiện tính đặc thù, riêng có của
từng dân tộc. Ở phần cuối, tác phẩm giới thiệu khái quát về lịch sử đấu tranh chống
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc
và những thành tựu khắc phục hậu quả chiến tranh, phát triển kinh tế, văn hoá, xã
hội… ở Đắk Lắk từ sau thắng lợi của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, thống
nhất tổ quốc (1975).


3

Nguyễn Văn Kự - Lưu Hùng (2007), Nhà Rông Tây Nguyên, Nxb. Thế giới, Hà
Nội. Nhà rông là một trong những di sản văn hóa rất tiêu biểu, đặc thù của các dân tộc
vùng Trường Sơn - Tây Nguyên. Tác phẩm giới thiệu sự phong phú và đa dạng về kiểu
dáng, về kết cấu nhà rông, đồng thời cũng giúp ta hiểu sâu hơn những nét đặc sắc
trong truyền thống văn hóa lâu đời của các dân tộc ở Trường Sơn - Tây Nguyên. Tác
phẩm cũng đề cập đến những chuyển động và thách thức mới đang đặt ra đối với nhà
rơng nói riêng và văn hóa Tây Ngun nói chung, giúp người đọc tiếp cận và suy nghĩ

về vấn đề du nhập những yếu tố mới, hiện đại và đa tạp đang diễn ra trong thực tế đời
sống xã hội ở vùng đất đa dân tộc này.
Ngô Đức Thịnh (2007), Những mảng màu văn hóa Tây Nguyên, Nxb.Trẻ, Thành
phố Hồ Chí Minh. Xun suốt tác phẩm, tác giả Ngơ Đức Thịnh giới thiệu những nét
đặc sắc trong luật tục và sử thi Tây Nguyên. Nổi bật là kho tàng sử thi - một thể loại tự
sự dân gian truyền miệng được lưu giữ trong trí nhớ các bậc cao niên người dân tộc và
diễn xướng qua các dịp sinh hoạt cộng đồng. Tác phẩm đã giới thiệu cho người đọc về
Sử thi Khan của Êđê, sử thi Ot Ndrông của Mnông, sử thi Aka Juka của Raglai, sử thi
Hơ mon của Xơ Đăng, Ba Na, Sử thi Hri Gia Rai... Bên cạnh sự phong phú, đặc sắc
của những bộ sử thi, tác phẩm cũng đã giới thiệu một kho tàng văn hóa bản địa về
những ứng xử và quản lý cộng đồng đang tồn tại dưới dạng các lời nói vần truyền
miệng, chứa đựng những tri thức dân gian, những kinh nghiệm sống của tổ tiên trong
việc ăn, mặc, ở, đi lại, vui chơi, giải trí, tang ma, cưới hỏi, sinh đẻ…, những kinh
nghiệm ứng xử với môi trường thiên nhiên, ứng xử xã hội - đó là các luật tục. Luật tục
Tây Nguyên không chỉ chứa đựng giá trị về bản sắc văn hóa độc đáo của các tộc người
vùng sơn cước, mà còn đi vào đời sống, giúp cộng đồng gìn giữ những chuẩn mực xã
hội của tổ tiên, góp phần xây dựng nhân cách, bản tính chất phát, lòng can đảm, khát
vọng chiến thắng, đức hy sinh vì cộng đồng của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên.
Trần Phong (2008), Lễ hội Tây Nguyên, Nxb. Thế giới, Hà Nội. Tác phẩm này
tập trung khám phá, giới thiệu một trong những bản sắc độc đáo của Tây Nguyên vào
mùa hội, kéo dài suốt ba tháng mùa khô: tháng chạp, tháng giêng, tháng hai. Đây là lúc
đời sống văn hóa tinh thần của người Tây Nguyên biểu hiện tập trung nhất, sâu thẳm
nhất và cũng rực rỡ nhất như lễ cầu mưa, lễ mừng lúa mới, lễ cúng bến nước, lễ của


4

gia đình, dịng họ…Theo nghiên cứu của tác giả Trần Phong, do đồng bào các dân tộc
nơi đây tín ngưỡng “vạn vật hữu linh” nên bất cứ điều gì liên quan đến sản xuất và đời
sống con người đều phải có sự cầu xin để được các thần linh cho phép tiến hành. Và

khi xong việc, được việc phải tạ ơn, vi phạm luật lệ cộng đồng khiến các thần nổi giận
phải tạ tội...từ đó mà diễn ra các lễ thức, lễ nghi, lễ hội. Hơn nữa, sự cố kết cộng đồng
là một trong những cơ sở tồn tại của các tộc người Tây Nguyên, do đó việc chăm lo
cúng, cầu xin các vị thần linh sao cho mọi hoạt động trong một năm của tồn thể cộng
đồng được sn xẻ bao giờ cũng hết sức được coi trọng đối với đồng bào vùng đất Tây
Nguyên.
Thứ hai: Hướng tiếp cận và nghiên cứu về lĩnh vực giáo dục – đào tạo có một
số cơng trình nghiên cứu khoa học cấp nhà nước của một số tác giả như:
Đặng Đức Cường (2005), Nghiên cứu hệ thống mạng lưới trường lớp và quy
mô phát triển ở các ngành, bậc học nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên, đề tài nghiên cứu khoa học cấp
nhà nước, mã số N2003-50-01, Viện nghiên cứu giáo dục, Tp. Hồ Chí Minh.
Đào Trọng Hùng (2005), Nghiên cứu tổng thể về đặc trưng và dự báo nhu cầu
phát triển kinh tế - xã hội của vùng Tây Nguyên ở thập kỷ đầu thế kỷ 21 trong góc độ
liên quan đến Giáo dục – Đào tạo, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, Mã số
N2003-50-03, Viện nghiên cứu giáo dục, Tp. Hồ Chí Minh.
Mai Ngọc Lng (2005), Vấn đề đa dạng hóa các loại hình trường lớp và các
hình thức đào tạo theo chủ trương xã hội hóa giáo dục đối với các địa phương trong
vùng Tây Nguyên, đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước, mã số N2003-50-04 ,
Viện nghiên cứu giáo dục, Tp. Hồ Chí Minh.
Tăng Văn Chút (2005), Điều kiện và giải pháp thực hiện công tác chống mù
chữ - phổ cập giáo dục vững chắc ở các tỉnh Tây Nguyên và phổ cập trung học cơ sở ở
những nơi có điều kiện đến năm 2009, đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước, mã số
N2003-50-06, Viện nghiên cứu giáo dục, Tp. Hồ Chí Minh.
Các đề tài trên của Viện nghiên cứu giáo dục thành phố Hồ Chí Minh đã mơ tả
về thực trạng, q trình hoạt động của hệ thống trường lớp các cấp học với sự sắp xếp
có hệ thống, về nguyên nhân, lý do ra đời, sự vận hành và sự chấp nhận của xã hội,


5


làm rõ thực chất hoạt động, quy mô đào tạo, mạng lưới trường lớp, cơ sở vật chất, đội
ngũ giáo viên, cán bộ quản lý, chất lượng, hiệu quả đào tạo, nội dung chương trình.
Đồng thời, các đề tài cũng nêu lên mối quan hệ của giáo dục đối với các vấn đề kinh
tế, văn hóa, xã hội của Tây Nguyên. Đánh giá khách quan vai trò, hiệu quả của công
tác giáo dục và đề xuất những giải pháp định hướng phát triển và phương thức quản lý
cho phù hợp. Đề tài cũng đã đưa ra những kiến nghị nội dung chương trình học của
các cấp nên có một phần kiến thức gắn với địa phương như: Kinh tế, nghề nghiệp đặc
biệt là nghề nơng. Ngồi ra, cần có các giải pháp hỗ trợ khác như: đầu tư cơ sở vật
chất, thực hiện triệt để chính sách miễn giảm học phí ở các cấp, qui định cụ thể các
hình thức hỗ trợ gia đình hiếu học...Tuy nhiên, ở mảng đề tài này chưa tập trung phạm
vi nghiên cứu cụ thể là tỉnh Đắk Nông mà chỉ tập trung nghiên cứu các tỉnh Tây
Ngun nói chung.
Đắk Nơng là tỉnh mới thành lập (2004), tách ra từ tỉnh Đắk Lắk cũ. Kể từ khi
thành lập tỉnh Đắk Nông, tuy thời gian chưa nhiều nhưng đã có một số tác giả tiếp cận,
nghiên cứu Đắk Nơng dưới các góc độ khác nhau, trước hết và chủ yếu là lĩnh vực
kinh tế, văn hóa, giáo dục.
Thứ ba: Hướng tiếp cận, nghiên cứu về lĩnh vực kinh tế, tài chính ở Đắk Nơng
có một số cơng trình của các tác giả như:
Vũ Thị Hịa (2004), Kinh tế nông nghiệp truyền thống Đắk Nông, đề tài nghiên
cứu khoa học, mã số VNH3.TB8.42, Viện kỹ thuật khoa học nơng nghiệp Việt Nam,
Hà Nội. Cơng trình nghiên cứu này tìm hiểu về nền kinh tế nơng nghiệp cổ truyền ở
Đắk Nông, nhằm trả lời cho câu hỏi: Tại sao cho đến nay Đắk Nông vẫn là một trong
những tỉnh chậm phát triển với nền kinh tế mang nặng tính thuần nơng, tổng thu nhập
bình qn đầu người thấp, trong khi Đắk Nơng có những điều kiện tự nhiên vô cùng
thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội như đất đai, địa hình, khí hậu, khống
sản…?Câu trả lời có thể phần nào được tìm thấy qua việc tìm hiểu kinh tế nơng nghiệp
cổ truyền ở Đắk Nông của tác giả.
Phan Xuân Bỉnh (2008), Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại chi nhánh
ngân hàng nơng nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Đắk Nông, Luận văn thạc sĩ kinh

tế, Đại học Kinh tế, Tp. Hồ Chí Minh. Luận văn đề cập đến một trong những giải


6

pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn cho nơng dân, nơng nghiệp và nơng thơn Đắk
Nơng trong tình hình hiện nay, khi việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất, cơ cấu lao động
ngay trong lĩnh vực nơng nghiệp cịn khó khăn. Tỷ lệ hộ nghèo ở vùng nông thôn,
vùng sâu, vùng xa còn cao, khoảng cách thu nhập, chênh lệch đời sống giữa khu vực
nơng thơn và thành thị có xu hướng ngày càng tăng, một bộ phận nông dân thiếu vốn,
đất sản xuất...Trong khi đó giá cả tiêu dùng, các loại hàng hóa vật tư phục vụ sản xuất
nơng nghiệp như phân bón, thuốc trừ sâu, xăng dầu...tăng nhanh, kéo theo giá nhiều
loại hàng hóa khác tăng theo, làm cho người nơng dân gặp nhiều khó khăn. Chính vì
thế, giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng, mục đích tạo điều kiện thuận giúp người
dân có thể tiếp cận được nguồn vốn nhanh chóng, dễ dàng hơn. Tuy chưa phải là một
cơng trình tồn diện, mang tầm khái qt cao nhưng tác giả đã giới thiệu cho người
đọc khá cụ thể về tình hoạt động kinh doanh tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và
phát triển nông thôn tỉnh Đắk Nơng, về thực trạng chất lượng tín dụng tại chi nhánh
ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Đắk Nông, về những giải pháp và
kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và
phát triển nông thôn tỉnh Đắk Nông.
Thứ tư: Hướng tiếp cận, nghiên cứu về văn hóa, lễ hội ở Đắk Nơng, có thể kể
đến một số cơng trình của các tác giả sau:
Lê Khắc Ghi (2008), Lễ hội Tăm blang m’prang bon của người M’nông Preh
(ở xã Nâm Nung, huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông), Luận văn thạc sĩ Văn hóa, Viện
nghiên cứu văn hóa, Hà Nội. Các dân tộc ở Tây Nguyên có rất nhiều lễ hội. Tăm
blang m’prang bon là một trong những lễ hội cổ truyền của người M’nông ở Đắk
Nông. Lễ hội được tổ chức hàng năm, với mục đích cầu mong mùa màng thuận lợi và
để cúng tạ các vị thần đã giúp dân làng được mùa. Tuy nhiên, lễ hội không được quảng
bá rộng rãi, điều đặc biệt của lễ hội là mang tính truyền thống cao, chưa bị thương mại

hóa. Về kết cấu của luận văn gồm có ba chương: Chương thứ nhất, luận văn giới thiệu
tổng quan về đời sống, điều kiện kinh tế, xã hội người M’nông ở xã Nâm Nung, huyện
Krông Nô, tỉnh Đắk Nông. Chương thứ hai, luận văn giới thiệu về nét đặc sắc của lễ
hội Tăm blang m’prang bon của người M’nông và chương thứ ba, luận văn phản ánh
những hoạt động của lễ hội Tăm blang m’prang bon trong đời sống của đồng bào dân


7

tộc M’nông ở xã Nâm Nung, huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông hiện nay. Đồng thời,
đưa ra một số những kiến nghị nhằm bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của lễ hội
truyền thống này.
Nguyễn Kiên Trường, Trương Anh (2008), Hồn thiện hệ thống chữ viết
M’nơng và biên soạn từ điển M’nông - Việt, Việt - M’nông, mã số B2005-20-05TĐ,
Viện Khoa học xã hội vùng Nam bộ, Tp. Hồ Chí Minh. Cơng trình khoa học “Hồn
thiện hệ thống chữ viết M’nông và biên soạn từ điển M’nông - Việt, Việt – M’nông” do
tiến sỹ Nguyễn Kiên Trường - Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ và ông Trương
Anh, Phó Giám đốc Sở Giáo dục đào tạo tỉnh Đắk Nông thực hiện. Mục tiêu của đề tài
là khảo sát, nghiên cứu, chọn lựa và xây dựng hệ thống chữ viết M’Nông chuẩn để sử
dụng trên các phương tiện thông tin đại chúng và dùng rộng rãi trong xã hội, đồng thời
biên soạn Từ điển M’Nông-Việt để phục vụ việc học tập, giảng dạy tiếng M’Nông cho
người Việt và dạy tiếng Việt cho người M’Nơng. Theo đó, dân tộc M’nơng ở Đăk
Nơng gồm có 7 nhánh, Preh, Nong, Gar, R’lâm, Cill, Kuênh, Bu Nơr, phương ngữ
Preh được lựa chọn làm ngơn ngữ chính.
Việc thống nhất chữ viết và xây dựng bộ từ điển M’nông - Việt là cơ sở để tỉnh
Đắk Nông áp dụng việc giảng dạy song ngữ cho học sinh người dân tộc thiểu số, đào
tạo cán bộ địa phương, góp phần bảo tồn, khơi phục các giá trị văn hố truyền thống…
sẽ góp phần nâng cao dân trí, chất lượng giáo dục, bảo tồn và phát triển văn hố các
dân tộc thiểu số Tây Ngun, góp phần đẩy mạnh quá trình phát triển kinh tế - xã hội
và xố đói giảm nghèo tại khu vực này. Ngồi ra cịn có một số bài viết, bài báo của

các tác giả bàn về những vấn đề kinh tế - xã hội Đắk Nông trong bối cảnh đẩy mạnh sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tóm lại, những cơng trình nghiên cứu về Tây Ngun nói chung, về Đắk Nơng
nói riêng khá phong phú và là nguồn tư liệu rất quý để tác giả tham khảo, kế thừa phục
vụ cho đề tài luận văn của mình. Tuy nhiên, mảng đề tài về “nâng cao dân trí” ở Đắk
Nơng, nhất là nâng cao dân trí phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa vẫn
chưa được nghiên cứu một cách cặn kẽ và có hệ thống. Bởi vậy, tác giả chọn vấn đề
“Nâng cao dân trí trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Đắk Nơng” cho


8

đề tài luận văn thạc sĩ của mình nhằm góp phần phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa, vì mục tiêu phát triển con người tồn diện ở Đắk Nơng hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích của luận văn
Góp phần làm rõ quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và của Đảng ta về dân trí và nâng cao dân trí, qua đó nêu lên thực trạng và giải pháp
nâng cao dân trí phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Đắk Nông
hiện nay.
Nhiệm vụ của luận văn
Để thực hiện mục đích nêu trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ
chủ yếu sau:
Thứ nhất: Khái luận chung về dân trí và nâng cao dân trí, trên cơ sở phân tích
các nội dung: Khái niệm dân trí, nâng cao dân trí; quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta về dân trí và nâng cao dân trí.
Thứ hai: Phân tích thực trạng nâng cao dân trí ở tỉnh Đắk Nơng trong thời kỳ
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thứ ba: Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao dân trí phục vụ sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đắk Nông hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi của đề tài
Luận văn tập trung phân tích tình hình dân trí và nâng cao dân trí ở một địa
phương cụ thể, đó là tỉnh Đắk Nơng trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa (chủ
yếu từ khi thành lập tỉnh cho đến nay).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Để đạt được mục đích và nhiệm vụ đã nêu trên, luận văn dựa trên cơ sở thế giới
quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm của Đảng ta về dân trí và nâng cao dân trí. Đồng thời, luận văn còn kết hợp sử
dụng một số phương pháp nghiên cứu khác như: phương pháp phân tích – tổng hợp,
phương pháp lôgich – lịch sử, phương pháp đối chiếu – so sánh… để thực hiện đề tài.


9

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa khoa học của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ quan điểm khoa học và cách mạng của chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta về dân trí, nâng cao dân trí nói
chung và nâng cao dân trí ở Đắk Nơng nói riêng trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước hiện nay.
Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Kết quả của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, phục vụ cho sinh
viên học tập, nghiên cứu về vấn đề dân trí và nâng cao dân trí trong sự nghiệp cơng
nghiệp hóa Tây Ngun nói chung và ở Đắk Nơng nói riêng. Ngồi ra, luận văn có thể
sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ các cơ quan ban ngành, các đồn thể và tổ
chức chính trị - xã hội của tỉnh và các địa phương ở Đắk Nông trong việc hoạch định
chủ trương và đề ra giải pháp nâng cao dân trí phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn liền với việc thực hiện “Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội
tỉnh Đắk Nông đến năm 2020”.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết
cấu gồm 2 chương, 5 tiết.


10

Chương 1
KHÁI LUẬN CHUNG VỀ DÂN TRÍ VÀ NÂNG CAO DÂN TRÍ
1.1. KHÁI NIỆM “DÂN TRÍ”, “NÂNG CAO DÂN TRÍ”
1.1.1. Khái niệm “Dân trí”
Từ xưa đến nay trình độ hiểu biết của con người về các lĩnh vực của đời sống
xã hội thông qua hoạt động thực tiễn như: lao động, sản xuất vật chất, chính trị, giáo
dục, văn học, nghệ thuật, y tế, xây dựng, luật pháp, giao thông, giao tiếp, chinh phục
thiên nhiên, chiến đấu bảo vệ Tổ quốc... Đó là những tri thức được tổng kết từ kinh
nghiệm và hoạt động thực tiễn mà con người tích luỹ được trong quá trình lịch sử.
Trong thời đại ngày nay, tri thức khoa học càng quan trọng hơn bao giờ hết, bởi nó đã
trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp của xã hội. Bởi vậy, phát triển kinh tế trí thức
đang trở thành khuynh hướng tất yếu trong xã hội hiện đại, dẫn đến những thay đổi lớn
lao không chỉ trong tổ chức - quản lý, sản xuất kinh doanh, mà còn làm thay đổi cuộc
sống, thay đổi các quan niệm, thói quen của con người, là thước đo các thang giá trị.
Ngày nay, đã đến lúc phải nói đến một xã hội mà trong mọi hoạt động của con người
phải ln ln đề cao tri thức, trí tuệ, bởi tri thức, trí tuệ là tiêu chí quyết định nhất đến
thước đo các giá trị không chỉ đối với mỗi cá nhân mà còn đối với cả một dân tộc.
Chính vì vậy, việc đánh giá tiến bộ kinh tế - xã hội của một quốc gia không phải chỉ ở
tổng sản phẩm quốc dân, những tiêu chí cơ bản như là thu nhập, tuổi thọ… mà cịn ở
trình độ trí tuệ của người dân.
Tại Hội Nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương khóa VII, Nguyên Tổng bí
thư Đỗ Mười đã khẳng định: “Sự phát triển con người đã trở thành mục tiêu chính,
ngày càng quan trọng trong việc xếp hạng các nước trên thế giới”[27; tr.16]. Điều đó
cũng có nghĩa là ơng muốn nhấn mạnh đến vai trò của nguồn lực con người trong sự

phát triển xã hội và trong nguồn lực con người cái quyết định nhất đến chất lượng đó
chính là trí tuệ của người lao động hay là trình độ hiểu biết của người lao động – cịn
gọi là trình độ dân trí.


11

Về khái niệm Dân trí: Hiện nay có rất nhiều ý kiến và quan niệm
khác nhau về “dân trí”. Theo Từ điển Bách khoa tồn thư mở thì “Dân” là danh từ,
có thể dùng để chỉ người dân - những người cùng sống trong một khu vực địa lý, hay
nhân dân – toàn thể người dân trong cùng một nước hay một địa phương; cịn “Trí” là
trí tuệ, là sản phẩm của hoạt động lao động xã hội và tư duy của con người, bao gồm
những khả năng tưởng tượng, ghi nhớ, phê phán, lý luận, thu nhận tri thức... có thể tiến
lên tới phát minh khoa học, sáng tạo nghệ thuật… Như vậy, “dân trí” ở góc độ này có
thể hiểu là một khái niệm chung về trí tuệ, trình độ nhận thức, sự suy nghĩ, khả năng
suy xét của một cộng đồng hay một nhóm dân cư ở một phạm vi nhất định.
Theo “Từ điển Tiếng Việt thông dụng” do Nguyễn Như Ý chủ biên, nhận định:
Dân trí là trình độ hiểu biết, kiến thức chung của nhân dân [80; tr.59].
Giáo sư, Viện sĩ, Tiến sĩ khoa học Phạm Minh Hạc lại cho rằng: Dân trí có thể
hiểu đó là trình độ trí tuệ, trình độ văn hóa chung, trình độ xử lý khơn khéo các vấn đề
cuộc sống của một tập thể dân cư, một cộng đồng, một dân tộc [48; tr.15].
Có thể thấy ở các khái niệm trên đều có điểm chung khi cho rằng: Dân trí là
trình độ hiểu biết, trình độ trí tuệ của người dân. Trình độ hiểu biết,
trình độ trí tuệ đó, tất nhiên chỉ có được trong q trình phản ánh biện chứng hiện thực
khách quan mang tính tích cực, năng động, sáng tạo, trên cơ sở thực tiễn, được tích lũy
qua quá trình lịch sử. Trong đời sống hiện thực có những hiểu biết, nhận thức
được hình thành một cách tự phát, trực tiếp từ trong hoạt động hàng ngày của con
người, nó phản ánh sự vật, hiện tượng với tất cả những đặc điểm chi tiết, cụ thể và
những sắc thái khác nhau của sự vật. Vì vậy, kiến thức có được thường mang tính
phong phú, nhiều vẻ và gắn với những quan niệm sống thực tế hàng ngày, chi phối

hoạt động của con người trong xã hội. Bên cạnh đó cịn có những hiểu biết, nhận thức
được hình thành một cách tự giác, gián tiếp từ sự phản ánh đặc điểm bản chất, những
mối liên hệ và quan hệ tất yếu của các sự vật hiện tượng, nó vừa mang tính khách
quan, trừu tượng, khái quát lại vừa có tính hệ thống, có căn cứ và có tính chân thực. Vì
thế nó có vai trị ngày càng to lớn trong hoạt động thực tiễn, đặc biệt trong thời đại


12

khoa học và cơng nghệ. Tuy nhiên, khi nói đến trình độ hiểu biết, trình độ trí tuệ
của một cộng đồng hay một nhóm dân cư thường được đo bằng: mặt bằng học vấn,
bằng tỷ lệ bằng cấp từ trình độ tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông đến
trung học, cao đẳng, đại học, sau đại học... Lẽ đương nhiên, khi kết quả của các thang
đo này càng cao thì mặt bằng dân trí, trí tuệ của xã hội càng phát triển cao lên.
Tuy nhiên, ở cách tiếp cận của Từ điển Bách khoa toàn thư, Nguyễn Như Ý bàn
về dân trí chỉ thuần túy là trình độ, kiến thức chung của nhân dân. Còn trong cách
tiếp cận của Giáo sư, Viện só, Tiến só khoa học Phạm Minh Hạc thì dân trí
khơng chỉ là trình độ trí tuệ, trình độ văn hóa chung, ơng cịn đề cập đến cả trình độ xử
lý khơn khéo (có thể hiểu là trình độ thực tiễn) các vấn đề cuộc sống của con người
trong các mối liên hệ và tác động biện chứng giữa con người với xã hội. Bởi lẽ, trong
cuộc sống hằng ngày con người luôn phải ứng phó và giải quyết với biết bao tình
huống, có lúc dễ dàng xử lý, có lúc phức tạp, khó xử. Xã hội càng văn minh thì nhu
cầu trong giao tiếp của con người càng cao. Ứng xử một cách thông minh, khơn khéo,
tế nhị, kịp thời, có hiệu quả, đạt tới mức độ nghệ thuật, được coi như bí quyết thành
công trong cuộc đời của mỗi con người, mỗi cộng đồng, dân tộc.
Tiếp cận ở một góc độ khác, cố thủ tướng Phạm Văn Đồng xác định: Nội dung
dân trí có ba vấn đề: Tư tưởng, chính trị, phẩm chất đạo đức; sự hiểu biết khoa học tự
nhiên, khoa học kỹ thuật và khoa học xã hội (nói chung là khoa học công nghệ); và nội
dung thứ ba là văn hóa.
Riêng nói tới văn hóa thì có rất nhiều quan niệm khác nhau, nó là một lĩnh vực

rộng lớn và phong phú, khi đề cập đến nó mỗi người có một cách hiểu riêng tùy thuộc
vào góc độ tiếp cận khác nhau. Bởi vậy cho đến nay vẫn chưa có được một sự nhất trí
cao và cũng chưa có định nghĩa thống nhất nào. Tuy nhiên, cho dù các định nghĩa đó
như thế nào đi nữa cũng đều thống nhất ở một điểm, coi văn hóa là cái do con người
sáng tạo ra bằng lao động và hoạt động thực tiễn trong quá trình lịch sử của mình, biểu
hiện trình độ phát triển xã hội trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Văn hóa bao gồm
cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Sự phân chia này là nhằm mục đích phân biệt
các sản phẩm có sự tồn tại dưới hình thức vật thể (vật chất) như các cơng trình điêu


13

khắc, kiến trúc, hội họa các di tích văn hóa, các khu bảo tồn, bảo tàng, danh lam, thắng
cảnh... với những sản phẩm văn hóa có sự tồn tại thuần túy tinh thần như trình độ học
vấn, trình độ nhận thức…Trong khía cạnh nghiên cứu của luận văn, văn hóa mà
luận văn đề cập đến được hiểu là trình độ học vấn của nhân dân,
thuộc văn hóa tinh thần, phản ánh thông qua các cấp học, bậc học và sự quan tâm, đầu
tư cho giáo dục…
Theo cố thủ tướng Phạm Văn Đồng “ba lĩnh vực này kết hợp, đan xen với nhau
như ánh sáng mặt trời, là sự kết hợp hài hòa của bảy sắc cầu vồng” [21; tr. 3-10].
Trên cơ sở tiếp thu, kế thừa những hạt nhân hợp lý từ những tư tưởng, quan
điểm về dân trí; xuất phát từ mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài luận văn thạc
sĩ của mình, tác giả đưa ra một khái niệm về dân trí như sau: Dân trí là một khái niệm
khoa học dùng để chỉ trình độ học vấn; trình độ hiểu biết về tự nhiên – xã
hội; về khoa học – kỹ thuật và công nghệ; hiểu biết về tư tưởng, chính trị, đạo
đức và lối sống của nhân dân gắn liền với những điều kiện lịch
sử cụ thể.
1.1.2. Khái niệm “Nâng cao dân trí”
Khi nói “Dân trí là trình độ học vấn của nhân dân”, đó chính là tri thức, trình
độ hiểu biết của quần chúng với những kiến thức về tự nhiên, xã hội và trong chừng

mực nhất định, trình độ học vấn của nhân dân biểu hiện mặt bằng dân trí của quốc gia
đó.
Trình độ học vấn của nhân dân mỗi quốc gia, mỗi địa phương trong quốc gia đó
thường được biểu hiện thông qua các tỷ lệ như:
+ Tỷ lệ người biết chữ và chưa biết chữ.
+ Tỷ lệ học sinh bậc tiểu học
+ Tỷ lệ học sinh bậc phổ thông cơ sở
+ Tỷ lệ học sinh bậc phổ thông trung học
+ Tỷ lệ học sinh bậc cao đẳng, đại học và sau đại học
Trình độ học vấn của người dân là một tiêu chí hết sức quan trọng phản ánh
chất lượng nguồn lực lao động và có tác động mạnh mẽ đến qúa trình phát triển kinh tế


14

- xã hội của một đất nước. Trình độ học vấn cao tạo khả năng tiếp thu và vận dụng một
cách nhanh chóng những tiến bộ khoa học – kỹ thuật vào thực tiễn.
Trình độ hiểu biết về tự nhiên – xã hội: Do yêu cầu tất nhiên của cuộc sống, địi
hỏi con người phải có hiểu biết về tự nhiên cũng như xã hội. Từ sự hiểu biết nảy ra
những phát minh sáng chế, xã hội ngày càng phát triển.
Sự hiểu biết về tự nhiên, là sự hiểu biết về thời tiết, khí hậu, về đất đai, thủy
triều hay mùa vụ phát triển của các loại cây trồng, vật nuôi…Những tri thức và hiểu
biết về tự nhiên giúp con người lợi dụng các yếu tố, điều kiện thuận lợi của tự nhiên
ứng dụng vào trong phát triển sản xuất và đời sống. Đồng thời tìm cách cải tạo các yếu
tố tự nhiên, thích ứng và ứng phó với những tác động bất lợi của tự nhiên (gió bão, tố,
lốc, lũ lụt, hạn hán, hỏa hoạn, dịch bệnh,..) để bảo vệ sản xuất và cuộc sống.
Sự hiểu biết về xã hội, là sự hiểu biết về các mối quan hệ giữa người với người
được thể hiện trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, pháp luật…để từ đó điều
chỉnh, phát huy được yếu tố cá nhân và tạo ra một nội lực cho xã hội phát triển.
Trình độ hiểu biết về khoa học – kỹ thuật: Được hiểu là trình độ chun mơn

của chủ thể lao động (người lao động), khả năng thực hành về một lĩnh vực chun
mơn nào đó, nó biểu hiện ở trình độ đào tạo ở các trường trung học chuyên nghiệp, cao
đẳng, đại học và sau đại học, có khả năng chỉ đạo, quản lý một việc thuộc chun mơn
nhất định.
Trình độ hiểu biết về khoa học – kỹ thuật được thể hiện qua các tỷ lệ:
+ Tỷ lệ cán bộ trung cấp
+ Tỷ lệ cán bộ đại học, cao đẳng
+ Tỷ lệ cán bộ sau đại học
Trình độ kỹ thuật của người lao động dùng để chỉ trình độ của người lao động
được đào tạo ở các trường kỹ thuật, được trang bị kiến thức nhất định những kỹ năng
thực hành về một cơng việc nào đó.
Trình độ kỹ thuật được biểu hiện qua các chỉ tiêu:
+ Số lao động được đào tạo và lao động phổ thơng
+ Số người có bằng kỹ thuật và khơng có bằng


15

Về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống: Lập trường tư tưởng,
chính trị kiên định, vững vàng sẽ giúp con người có định hướng đúng cho tương lai, có
lối sống lành mạnh, có ích cho gia đình, cộng đồng và xã hội.
Con người có đạo đức, nhất là đạo đức cách mạng sẽ giúp con người tự điều
chỉnh hành vi, hành động phù hợp với sự phát triển đi lên của xã hội, mới thể hiện rõ
trách nhiệm – quyền lợi và nghĩa vụ công dân, mới giải quyết hài hịa các mối quan hệ
và lợi ích cá nhân - tập thể - xã hội.
Lối sống lành mạnh, giản dị, văn minh, hiện đại sẽ là cơ sở loại bỏ dần dần
những tập quán, thói quen, hủ tục lạc hậu, hạn chế, khắc phục những tiêu cực. Đồng
thời phát huy mặt tích cực năng động, sáng tạo của con người, xây dựng và phát triển
lối sống văn hóa – nhân văn vì sự tiến bộ của con người và xã hội.
Tóm lại, nâng cao dân trí đó là một quá trình nâng cao trình độ học

vấn; trình độ hiểu biết về tự nhiên - xã hội, khoa học – kỹ thuật và cơng
nghệ; trình độ nhận thức và giữ vững được lập trường chính trị, đạo đức
và lối sống văn minh. Nói cách khác, nâng cao dân trí là nâng cao trình độ
hiểu biết của nhân dân trong các mối quan hệ và tác động biện chứng rất đa dạng và
phong phú giữa tự nhiên – con người và xã hội trong quá trình thực tiễn.
Khi xem xét về dân trí và nâng cao dân trí cần lưu ý một số vấn đề sau:
Thứ nhất, dân trí và nâng cao dân trí ln gắn liền với điều kiện hồn cảnh lịch
sử cụ thể về kinh tế, văn hóa, xã hội…và bản chất chính trị của chế độ xã hội cụ thể.
Đất nước ta sau hơn 20 năm đổi mới, vừa thốt khỏi tình trạng khủng hoảng
kinh tế - xã hội nhưng đồng thời lại phải đương đầu với những thách thức mới từ mặt
trái của nền kinh tế thị trường và của tồn cầu hóa nền kinh tế quốc tế. Trong nền kinh
tế thị trường mọi người đều phải nâng cao trình độ, đều phải học tập thường xuyên và
không ngừng trao dồi kỹ năng, thường xuyên bổ túc kiến thức, cập nhật thông tin…,
nhạy bén và chủ động trong mọi hoạt động sao cho phù hợp với xu hướng phát triển
của thời đại và của đất nước. Mô hình giáo dục truyền thống đang chuyển dần sang mơ
hình học tập suốt đời, đầu tư vơ hình (cho con người, giáo dục, kinh tế, văn hóa, xã


16

hội…) sẽ phải ngày càng cao hơn đầu tư hữu hình (xây dựng cơ sở vật chất, kỹ
thuật…), phát triển con người trở thành nhiệm vụ trung tâm của xã hội.
Trong giai đoạn hiện nay, vị trí vai trị của văn hóa hết sức quan trọng như
Đảng ta đã nhận định: “văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa
là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”. Tại Hội nghị liên chính phủ về
chính sách văn hóa do Unesco tổ chức tại Thụy Điển cũng nhận định: Sự phát triển của
xã hội chính là sự phát triển của văn hóa và sự thăng hoa của văn hóa là đỉnh cao nhất
của sự phát triển xã hội. Nói đến văn hóa là nói đến con người phát triển tồn diện, hài
hịa. Nâng cao dân trí là để đạt tới mục tiêu đó. Hay nói một cách cụ thể hơn nâng cao
dân trí ( gắn với lĩnh vực văn hóa) là nhằm hình thành một con người có lý tưởng phấn

đấu vì độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội, gắn bó với cộng đồng, vì sự tiến bộ của xã
hội, có lối sống lành mạnh, thực hiện nếp sống văn minh, tôn trọng kỷ cương phép
nước, lao động sáng tạo, khơng ngừng nâng cao trình độ hiểu biết về khoa học xã hội,
khoa học tự nhiên để cống hiến hết sức mình đất nước.
Thứ hai, dân trí và nâng cao dân trí phải gắn liền với bản chất chính trị của chế
độ xã hội cụ thể. Bởi lẽ, nâng cao dân trí là để giải phóng con người nhưng sự phát
triển của trí tuệ cũng có vai trị và khả năng tác động thúc đẩy con người phát triển cao
hơn. Vấn đề sử dụng khoa học - kỹ thuật và trí tuệ vào mục đích gì và sử dụng như thế
nào cịn phụ thuộc vào bản chất chính trị của giai cấp cầm quyền của chế độ xã hội đó.
Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, giai cấp cầm quyền cũng nhận thức được tầm
quan trọng của dân trí nhưng suy cho cùng thì việc đó cũng chỉ nhằm bảo vệ mục đích
phục vụ và mang lại lợi ích tối đa cho nhà tư bản vì giai cấp cơng nhân và nhân dân
lao động khác vẫn phải đi làm thuê, bán sức lao động cho nhà tư bản và bị bóc lột giá
trị thặng dư.
Ở nước ta và các nước xã hội chủ nghĩa nói chung, xuất phát từ mục tiêu, bản
chất của chế độ chính trị xã hội nên nâng cao dân trí là vì dân, vì cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc và sự phát triển toàn diện của con người. Chúng ta xây dựng, củng cố và
bảo vệ chế độ chính trị, phát triển kinh tế - xã hội cuối cùng là để phấn đấu vì mục tiêu


17

“dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Cho nên Đảng và Nhà
nước ta xác định: Trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vấn đề nâng
cao dân trí cần được đẩy mạnh và cụ thể hóa bằng những nội dung thiết thực mới đáp
ứng được yêu cầu của sản xuất và phát triển xã hội. Hiện nay, Việt Nam vẫn còn là
một nước nơng nghiệp, trình độ dân trí cịn thấp so với yêu cầu phát triển đất nước,
thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vì vậy, vấn đề nâng cao dân trí cho nhân dân
là vấn đề cấp bách trong quá trình đưa đất nước đi lên. Nâng cao dân trí phải gắn liền
với phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, khoa học, giáo dục, xây dựng kết cấu hạ tầng

cơ sở ở nông thôn (điện, đường, trường, trạm…). Đây là những nội dung cần thiết
nhằm phục vụ mục tiêu kinh tế - xã hội và nâng cao dân trí cho nhân dân trong q
trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
1.2. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN, TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN TRÍ VÀ NÂNG CAO DÂN TRÍ
1.2.1. Quan điểm của chủ nghóa Mác – Lênin về “dân trí” và
“nâng cao dân trí”
Với sự ra đời của “Quan niệm duy vật về lịch sử”, mà hạt nhân của nó là lý luận
về hình thái kinh tế - xã hội, chủ nghĩa Mác – Lênin kết luận: Xã hội loài người phát
triển trải qua nhiều giai đoạn kế tiếp nhau từ thấp đến cao là một quá trình lịch sử - tự
nhiên, ứng với mỗi giai đoạn phát triển đó là một hình thái kinh tế - xã hội. Tiến bộ xã
hội chính là sự vận động theo hướng tiến lên của các hình thái kinh tế - xã hội, là quá
trình vận động, biến đổi, phát triển từ hình thái kinh tế - xã hội này lên hình thái kinh
tế - xã hội mới cao hơn, tiến bộ hơn.
Khi khẳng định tiến trình lịch sử của xã hội loài người là sự thay thế nhau của
các hình thái kinh tế - xã hội, C. Mác đã nói tới việc lấy sự phát triển của con người
làm thước đo chung cho sự phát triển xã hội. Con người là chủ thể sáng tạo chân chính
ra lịch sử, lực lượng quyết định sự phát triển của lịch sử. Do đó, lịch sử trước hết và
căn bản là lịch sử hoạt động của con người trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế
- xã hội. Tuy nhiên, con người là chủ thể sáng tạo ra lịch sử không theo phương thức
hành vi đơn lẻ, rời rạc, cô độc của mỗi cá nhân mà là theo phương thức liên kết những


18

con người thành sức mạnh cộng đồng xã hội có tổ chức, có lãnh đạo của những cá
nhân hay các tổ chức chính trị, xã hội nhất định nhằm giải quyết các nhiệm vụ lịch sử
trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội – cộng đồng đó chính là quần
chúng nhân dân. Sự phát triển tồn diện của quần chúng nhân dân luôn là mục tiêu,
động lực cho sự phát triển xã hội, đặc biệt là những quần chúng có trình độ trí tuệ,

năng lực chun mơn, phẩm chất đạo đức…Vì vậy, trong bất kỳ một xã hội nào cũng
đều nhấn mạnh tầm quan trọng nhiệm vụ nâng cao dân trí cho quần chúng nhân dân,
phát triển dân trí cho quần chúng ln gắn liền với sự phát triển của xã hội, bởi lẽ quần
chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội, trực tiếp sản xuất ra của cải
vật chất và các giá trị văn hóa, tinh thần, là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển
của xã hội.
Học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội đã chứng minh rằng, phương thức sản
xuất là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Nguyên lý cơ bản đó của
chủ nghĩa duy vật lịch sử vạch rõ rằng, khơng có sản xuất vật chất thì bất cứ xã hội nào
cũng khơng tồn tại được. Lịch sử của xã hội, do vậy trước hết cũng là lịch sử phát triển
của sản xuất vật chất. C.Mác viết: “Việc sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt vật chất
trực tiếp… tạo ra một cơ sở, từ đó mà người ta phát triển các thể chế nhà nước, các
quan điểm pháp quyền, nghệ thuật và thậm chí cả những quan niệm tôn giáo của con
người ta”[16; tr.500]. Thực tiễn lịch sử của xã hội loài người cho thấy, mọi quan hệ
phức tạp của đời sống xã hội dù thể hiện trong bất kỳ lĩnh vực nào: chính trị hay pháp
quyền, nghệ thuật hay đạo đức, tôn giáo hay khoa học… tất cả đều hình thành và biến
đổi trên cơ sở sự vận động của nền sản xuất vật chất. Quần chúng nhân dân lao động
chính là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội bao gồm cả lao động chân tay và lao
động trí óc. Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất đã dẫn đến sự thay thế các quan
hệ sản xuất lỗi thời bằng những quan hệ sản xuất mới, dẫn đến sự thay đổi toàn bộ
kiến trúc thượng tầng của xã hội. Như vậy, lịch sử của xã hội loài người trước hết là
lịch sử của sản xuất, lịch sử của sự thay đổi các phương thức sản xuất khác nhau qua
các thời đại, lịch sử của những người sản xuất của cải vật chất, của quần chúng nhân
dân. Vai trò của quần chúng nhân dân trong sản xuất sẽ càng được nâng cao khi trình
độ trí tuệ, trình độ thực tiễn được nâng cao theo trình độ phát triển của xã hội.


19

Con đường trước tiên để nâng cao trình độ trí tuệ và trình độ thức tiễn của con

người khơng thể nào khác hơn đó là hoạt động lao động. Theo ng – ghen, lao
động là nguồn gốc của mọi của cải vật chất … Là điều kiện cơ
bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người, và như thế đến
một mức mà trên một ý nghóa nào đó, chúng ta phải nói : “lao
động đã sáng tạo ra bản thân con người” [19; tr.641].
Con người chinh phục, cải biến tự nhiên không phải chỉ với tư
cách cá nhân riêng lẻ mà còn với tư cách là những thành viên
trong cộng đồng xã hội. Sốâng trong cộng đồng xã hội, con người
tất yếu có quan hệ với nhau, trao đổi hoạt động với nhau, nhất là
trong hoạt động lao động sản xuất. Con người và xã hội không
thể tách rời tự nhiên, nếu không có tự nhiên thì xã hội và con
người không thể tiến hành sản xuất vật chất được. Song đến lượt
mình, sản xuất xã hội lại trở thành điều kiện tiên quyết để con
người cải biến tự nhiên, xã hội, trở thành nhân tố quyết định
trực tiếp sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
Con người bằng sức lực và trí tuệ của mình đã chế tạo ra
công cụ lao động và dùng công cụ lao động đó tác động vào giới
tự nhiên để tạo ra những sản phẩm vật chất nhằm thõa mãn nhu
cầu vật chất của chính bản thân mình và xã hội. Trong quá trình
sản xuất, bản thân con người đối diện với tự nhiên với tư cách
là một lực lượng tự nhiên. Để tác động vào tự nhiên với mục
đích có lợi cho đời sống thì trước hết con người phải sử dụng
những thứ sẵn có của bản thân họ, trước hết là sức mạnh cơ
bắp và trong quá trình đó, tự nhiên tác động lại con người ngày
càng hoàn thiện về trí tuệ. Thông qua hoạt động thực tiễn, con
người dùng trí tuệ nhận thức bản chất, quy luật của các sự vật,
hiện tượng của thế giới khách quan, sử dụng chúng vào phương


20


tiện sản xuất và con người không ngừng tạo ra cho mình những lực
lượng sản xuất ngày càng lớn mạnh và hiện đại hơn.
Khi nền sản xuất xã hội ngày càng phát triển, tính chất xã hội hóa của nền sản
xuất đó ngày càng cao, thì q trình tiến hành sản xuất bằng lực lượng của toàn xã hội
và sự phát triển hơn nữa của nền sản xuất xã hội do q trình đó mang lại càng cần đến
những con người có khả năng và phẩm chất tương ứng với trình độ phát triển ấy
“những con người có năng lực phát triển tồn diện đủ sức tinh thơng” và “nắm vững
nhanh chóng tồn bộ hệ thống sản xuất trong thực tiễn”, đáp ứng được nhu cầu khai
thác và sử dụng các nguồn lực tự nhiên cho sự phát triển xã hội. [14; tr.474-475].
Theo đó, con người phát triển tồn diện khơng chỉ là mục đích tự thân của phát triển,
mà còn là động lực của phát triển, một xã hội chỉ được coi là phát triển khi lực lượng
sản xuất của nó phát triển đến một trình độ cao, mà trong các yếu tố cấu thành lực
lượng sản xuất đó, người lao động lại là yếu tố quan trọng nhất, là “lực lượng sản xuất
hàng đầu của toàn thể nhân loại” [54; tr.430]. Nói cách khác, một xã hội chỉ có thể
phát triển khi nó tạo cho mình một đội ngũ những người lao động có đủ năng lực, trình
độ và phẩm chất để khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tự nhiên cho sự
phát triển của mình.
Từ cuối thời kỳ nguyên thủy, khi lực lượng sản xuất phát triển cao hơn trước
đó, phân cơng lao động phát triển, bất bình đẳng về kinh tế xuất hiện thì sự phân chia
xã hội thành giai cấp bóc lột và bị bóc lột là kết quả tất yếu, nguyên nhân trực tiếp của
nó là chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Sự phân chia xã hội có giai cấp, từ xã
hội chiếm hữu nơ lệ đến nay đã trải qua hàng ngàn năm, đã tạo ra sự biến động xã hội
đầy bất công, đẩy hàng triệu người lao động rơi vào cảnh cùng khổ: bị áp bức, đàn áp,
nơ dịch . Xã hội có đối kháng giai cấp, có áp bức bóc lột thì những người lao động
càng năng động sáng tạo thì càng bị áp bức, bóc lột nặng nề, càng làm cho người lao
động phát triển què quặt, đặc biệt là trong xã hội tư bản.
Khi phân tích về lực lượng sản xuất trong xã hội tư bản, C. Mác viết: “trong tất
cả những cơng cụ sản xuất, thì lực lượng sản xuất hùng mạnh nhất là bản thân giai cấp
cách mạng” [14; tr.257]. Cũng vấn đề đó, V.I.Lênin viết: “lực lượng sản xuất chủ yếu

của nhân loại, là công nhân” [54; tr.430]. Giống như C. Mác, Lênin đều coi trọng tầm


21

quan trọng của người công nhân, giai cấp tiên tiến đại diện cho lực lượng sản xuất tiến
bộ trong xã hội tư bản, ra đời gắn với nền đại công nghiệp, là sản phẩm của chính bản
thân nền đại cơng nghiệp, nền sản xuất ngày càng xã hội hóa cao. Trong xã hội tư bản,
giai cấp cơng nhân khơng có tư liệu sản xuất phải bán sức lao động cho nhà tư bản và
bị bóc lột giá trị thặng dư. Trong giai đoạn đầu của phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa, khi lực lượng sản xuất còn hạn chế thì phương pháp chủ yếu để tăng giá trị
thặng dư là kéo dài ngày lao động của cơng nhân, vì vậy ngày lao động của công nhân
không phải là 8 giờ mà có khi là 12 giờ, 13 giờ một ngày nhiều khi tới 15 giờ, 16 giờ
hoặc hơn thế. Khi những thành tựu mới của cách mạng khoa học - cơng nghệ đem lại,
tiếp đó là cuộc cách mạng tin học, đã dần dần đưa nhân loại từ văn minh cơng nghiệp
sang văn minh trí tuệ, đánh dấu bước phát triển nhảy vọt chưa từng có của lực lượng
sản xuất trong lịch sử. Vai trò của khoa học - cơng nghệ, của lao động trí tuệ đối với
phát triển kinh tế, xã hội ngày càng tăng, là cơ hội để giai cấp công nhân càng trở nên
năng động hơn, sáng tạo hơn để đáp ứng điều kiện của văn minh trí tuệ. Thế nhưng
trong xã hội tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân càng năng động, càng sáng tạo càng
bị bóc lột một cách tinh vi hơn, xảo quyệt hơn. Bởi trong nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa hiện đại, trong việc áp dụng tự động hoá cao, cường độ lao động của người lao
động vẫn tăng nên dưới những hình thức mới, cường độ lao động thần kinh, trí tuệ,
chất xám của người lao động thay thế cho cường độ lao động cơ bắp, mà lao động chất
xám tạo ra giá trị thặng dư gấp nhiều lần lao động cơ bắp và bị giai cấp tư sản chiếm
lấy. Bên cạnh bị áp bức bóc lột về thể xác giai cấp cơng nhân cịn phải chịu áp bức về
tinh thần. C.Mác và Ph.Ăngghen viết: "Giai cấp nào chi phối những tư liệu sản xuất
vật chất thì cũng chi phối luôn cả những tư liệu sản xuất tinh thần, thành thử nói chung
tư tưởng của những người khơng có tư liệu sản xuất tinh thần cũng đồng thời bị giai
cấp thống trị đó chi phối". Chính vì vậy đã làm cho mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân

và giai cấp tư sản trong xã hội tư bản càng trở nên gay gắt, chỉ có chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng quần chúng lao động, tạo cơ hội cho người lao
động phát triển toàn diện, đặc biệt là phát triển về trí tuệ.
Giải pháp cơ bản để phát triển trí tuệ của nhân dân, giải phóng con người và xã
hội lồi tất yếu phải thơng qua cách mạng xã hội chủ nghĩa do chính đảng của giai cấp


×