Tải bản đầy đủ (.pdf) (158 trang)

Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội một số vấn đề lí luận và thực tiễn ở thành phố cần thơ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 158 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


NGUYỄN KHÁNH LINH

MỐI QUAN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Ở THÀNH PHỐ CẦN THƠ

LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2011


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


NGUYỄN KHÁNH LINH

MỐI QUAN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Ở THÀNH PHỐ CẦN THƠ
Chuyên ngành: TRIẾT HỌC
Mã số: 602280

LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC


Người hướng dẫn khoa học:

PGS.TS. TRỊNH DỖN CHÍNH

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2011


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình do tôi nghiên cứu, dưới sự hướng dẫn của
PGS.TS. Trịnh Dỗn Chính. Kết quả nghiên cứu cơng trình khoa học này là trung thực và
chưa được công bố.

NGUYỄN KHÁNH LINH


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 01
Chương 1 : NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ

GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI ........................ 11
1.1. Các quan điểm khác nhau về tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội................. 11

1.1.1. Một số quan điểm về tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ................................ 11
1.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tăng trưởng kinh tế và công bằng
xã hội ........................................................................................................................ 33
1.2. Các quan điểm khác nhau về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và
công bằng xã hội và kinh nghiệm một số nước về giải quyết mối quan hệ giữa
tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường ....................... 41
1.2.1. Các quan điểm khác nhau về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công

bằng xã hội ................................................................................................................ 41
1.2.2. Kinh nghiệm của một số nước về giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế và công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường ................................................. 48
1.3. Quan điểm chỉ đạo của Đảng và các chính sách lớn của Nhà nước về giải
quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong nền kinh
tề thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa .................................................................. 69
1.3.1. Quan điểm chỉ đạo của Đảng ta về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và
công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ...................... 69
1.3.2. Các chính sách lớn của Nhà nước về giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế với công bằng xã hội ........................................................................................ 72
Chương 2: MỐI QUAN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ

CÔNG BẰNG XÃ HỘI Ở THÀNH PHỐ CẦN THƠ HIỆN NAY ...................... 79
2.1. Khái quát sự phát triển kinh tế - chính trị - xã hội và thực trạng mối quan
hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở thành phố Cần Thơ giai
đoạn 2001 – 2010....................................................................................................... 80
2.1.1. Khái quát sự phát triển kinh tế - chính trị - xã hội của thành phố Cần Thơ giai
đoạn 2001 – 2010 ....................................................................................................... 80


2.1.2. Thực trạng mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở thành
phố Cần Thơ giai đoạn 2001 – 2010 ............................................................................. 86
2.2. Phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết tốt hơn mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở thành phố Cần Thơ
trong giai đoạn hiện nay .......................................................................................... 120
2.2.1. Quan điểm và phương hướng cơ bản của Đảng bộ thành phố Cần Thơ nhằm
giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong
giai đoạn hiện nay..................................................................................................... 121
2.2.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở thành phố Cần Thơ trong giai đoạn hiện nay .......... 123


KẾT LUẬN ........................................................................................................... 139
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 143


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xã hội tồn tại và phát triển được trước tiên là nhờ sản xuất vật chất. Bởi
vì “… trước hết con người cần phải ăn, uống, ở và mặc, nghĩa là phải lao
động, trước khi có thể đấu tranh để giành quyền thống trị, trước khi có thể
hoạt động chính trị, tơn giáo, triết học v.v..” [8,166]. C.Mác và Ph.Ăngghen đã
chỉ ra vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất, song
cũng khẳng định quan hệ sản xuất có tính độc lập tương đối với lực lượng sản
xuất. Theo hai ông, các quan hệ về mặt phân phối sản phẩm lao động có khả
năng kích thích trực tiếp vào lợi ích của con người, là “chất xúc tác” của các
quá trình kinh tế - xã hội. Quan hệ phân phối có thể thúc đẩy tốc độ và nhịp
điệu của sự sản xuất, làm năng động toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội; hoặc
ngược lại, nó có khả năng kìm hãm sản xuất, kìm hãm sự phát triển của xã hội.
Như vậy, một xã hội được xem là tiến bộ và phát triển bền vững, không chỉ
đơn thuần là tăng trưởng kinh tế mà phải gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện
công bằng xã hội. Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là khát vọng của
tất cả các quốc gia và trong mọi thời đại. Tuy nhiên, việc đạt được mong
muốn “kép” này là hết sức khó khăn, và trong thực tiễn đã có nhiều bằng
chứng cho thấy sự đối lập giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.
Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đất nước cho đến nay, Việt Nam
được đánh giá là một trong những nước luôn duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế
nhanh. Tháng 01 năm 2007, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ
150 của Tổ chức thương mại Thế giới (WTO). Sự kiện này đã mở ra một giai

đoạn mới cho nền kinh tế nước nhà. Những cơ hội lớn mà WTO mang lại đã
và đang tạo điều kiện thúc đẩy đất nước phát triển nhanh hơn, tồn diện hơn,
sớm thốt khỏi tình trạng kém phát triển. Tuy nhiên, việc gia nhập WTO cũng


2

đặt ra những thách thức gay gắt, sự tăng trưởng kinh tế tất yếu sẽ kéo theo sự
bất bình đẳng trong xã hội - là một trong những vấn đề cấp bách hiện nay đòi
hỏi sự quan tâm và nỗ lực của Đảng và Nhà nước ta để vượt qua. Nghị quyết
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X đã khẳng định: “Kết hợp các mục tiêu
kinh tế với mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa
phương; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng
chính sách phát triển, thực hiện tốt các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển
kinh tế, gắn quyền lợi với nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ, tạo động lực
mạnh mẽ và bền vững hơn cho phát triển kinh tế - xã hội. Tập trung giải quyết
những vấn đề xã hội bức xúc” [19,101]. Như vậy, tăng trưởng kinh tế và cơng
bằng xã hội chính là vấn đề cơ bản mang tính thời đại của đời sống xã hội và
việc hiện thực hóa quan điểm của Đảng ở từng địa phương, đặc biệt là những
trung tâm kinh tế - xã hội lớn của cả nước là rất quan trọng.
Nằm ở trung tâm đồng bằng sông Cửu Long, với những lợi thế nổi trội,
Cần Thơ đã được coi là thủ phủ của miền Tây Nam Bộ. Từ khi trở thành thành
phố trực thuộc trung ương (01/01/2004), vai trò và nhiệm vụ đặt ra đối với
Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố Cần Thơ trong thời kì cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa là rất lớn lao. Nghị quyết số 21/NQ-TW (20/01/2003)
và Nghị quyết số 45/NQ-TW (17/02/2005) của Bộ Chính trị ra đời khơng chỉ
“mở hướng” tháo gỡ những khó khăn mà còn mở ra cơ hội để thành phố Cần
Thơ huy động sức mạnh tổng hợp, bứt phá đi lên. Cần Thơ đang ra sức phát
huy những lợi thế về vị trí, địa lí, tiềm năng về kinh tế, khoa học - cơng nghệ,
nguồn nhân lực cùng truyền thống đồn kết, tinh thần năng động, sáng tạo để

xứng đáng với vị thế thành phố động lực của khu vực đồng bằng sông Cửu
Long. Một trong những trung tâm kinh tế - xã hội lớn của cả nước có khả năng
hợp tác, chủ động hội nhập kinh tế với khu vực và quốc tế. Dưới sự lãnh đạo
của Đảng bộ và sự chỉ đạo của chính quyền Cần Thơ, trong những năm qua,


3

thành phố đã đạt được những thành tựu quan trọng trong việc thực hiện mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Song, những hạn chế
mà tăng trưởng kinh tế mang lại cũng như những bất cập nảy sinh trong quá
trình thực hiện mối quan hệ trên đã trở thành lực cản đối với sự phát triển
của thành phố. Chính vì vậy, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố
Cần Thơ đang ra sức đẩy mạnh việc nghiên cứu trên phương diện lí luận lẫn
thực tiễn về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và cơng bằng xã hội, từ
đó tìm ra phương hướng và những giải pháp cho vấn đề này trong giai đoạn
hiện nay.
Vấn đề mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội đã trở
thành một trong những vấn đề cấp thiết, mang tính thời sự khơng chỉ đối với
thành phố Cần Thơ nói riêng, cả nước nói chung mà cịn là vấn đề chung của
cả thế giới. Với tất cả những lí do trên, chúng tơi chọn vấn đề “Mối quan hệ
giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội – Một số vấn đề lí luận và
thực tiễn ở thành phố Cần Thơ” làm đề tài luận văn thạc sĩ Triết học.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là đề tài từ
lâu đã thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học, các nhà kinh tế và các học
giả của nhiều nước trên thế giới. Ở Việt Nam, trước yêu cầu phải đổi mới và
phát triển đất nước, đặc biệt từ sau khi Đại hội VII của Đảng (1991) chính
thức nêu lên một số tư tưởng có ý nghĩa triết lí chỉ đạo việc kết hợp hài hịa
giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong quá trình đổi mới, thì vấn

đề mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội dần trở thành đề
tài thu hút sự quan tâm của xã hội. Từ các cơ quan ban ngành, các tổ chức
chính trị xã hội, đến các nhà kinh tế, các nhà chính trị và các nhà khoa học
khác đều đi sâu vào nghiên cứu, khảo sát với các hình thức, góc độ và phạm vi
khác nhau nhằm tìm lời giải đáp cho các vấn đề: tăng trưởng kinh tế, công


4

bằng xã hội và mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và cơng bằng xã hội.
Nhiều cơng trình đã được xuất bản và phổ biến rộng rãi, có thể kể đến một số
cơng trình nghiên cứu tiêu biểu của các tác giả sau đây:
Thứ nhất, cơng trình nghiên cứu về vấn đề tăng trưởng kinh tế: Các
giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam của Vũ Đình Bách, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội, năm 1998; Kinh tế xã hội Việt nam hướng
tới chất lượng tăng trưởng, hội nhập và phát triển bền vững của Nguyễn
Mạnh Hùng, Nhà xuất bản Thống kê Hà Nội, năm 2004; Tăng trưởng kinh tế
Việt Nam: những rào cản cần phải vượt qua của Nguyễn Văn Thường, Nhà
xuất bản Lí luận chính trị Hà Nội, năm 2005; Tốc độ và chất lượng tăng
trưởng kinh tế ở Việt Nam của Nguyễn Văn Nam và Trần Thọ Đạt, Nhà xuất
bản Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội, năm 2006; Tăng trưởng và chất lượng
tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam của Cù Chí Lợi, Nhà xuất bản Từ điển bách
khoa Hà Nội, năm 2008; Huy động và sử dụng các nguồn lực chủ yếu nhằm
đảm bảo tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam (sách chuyên khảo) của Võ Văn Đức,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội, năm 2009; … Nhìn chung, các cơng
trình trên tập trung vào ba vấn đề chính sau đây:
- Một là, lí luận chung về tăng trưởng kinh tế và kinh nghiệm của một
số nước trên thế giới trong việc giải quyết vấn đề tăng trưởng kinh tế.
- Hai là, đánh giá những thành tựu và hạn chế về tăng trưởng kinh tế ở
Việt Nam, đồng thời vạch ra những nguyên nhân của những hạn chế.

- Ba là, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao tốc độ và chất lượng tăng
trưởng kinh tế ở Việt Nam.
Riêng cuốn Các mơ hình tăng trưởng kinh tế (sách chuyên khảo) của
Trần Thọ Đạt, do Nhà xuất bản Thống kê Hà Nội xuất bản năm 2005 đã cho
người đọc thấy một hệ thống tương đối đầy đủ những mơ hình tăng trưởng
kinh tế vĩ mơ nổi tiếng nhất, từ truyền thống đến hiện đại.


5

Thứ hai, cơng trình nghiên cứu về vấn đề cơng bằng xã hội như:
Công bằng xã hội, trách nhiệm xã hội, đoàn kết xã hội (Social justice, social
responsibility and social solidarity) của nhiều tác giả biên soạn, do Nhà xuất
bản Khoa học xã hội Hà Nội xuất bản năm 2008, đây là cơng trình tập hợp
nhiều bài viết của các tác giả nghiên cứu về công bằng xã hội ở mọi góc độ
khác nhau, từ lí luận đến thực tiễn; Những vấn đề lí luận cơ bản về cơng bằng
xã hội trong điều kiện nước ta hiện nay của Phạm Thị Ngọc Trầm (chủ biên),
Nhà xuất bản Khoa học xã hội Hà Nội, năm 2009 và Công bằng xã hội trong
tiến bộ xã hội của Nguyễn Minh Hoàn, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà
Nội, năm 2009 đều tập trung nghiên cứu hai vấn đề: lí luận chung về công
bằng xã hội và việc thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Mặc dù các cơng trình nghiên cứu trực tiếp về vấn đề công bằng xã hội
không nhiều nhưng các vấn đề liên quan đến việc thực hiện công bằng xã hội
đều đã được nhiều nhà nghiên cứu tiếp cận bằng nhiều hướng khác nhau, góp
phần làm sáng tỏ vấn đề cơng bằng xã hội. Có thể kể tên một số cơng trình
nghiên cứu sau: Thực trạng kinh tế - xã hội và những giải pháp xóa đói giảm
nghèo ở người Khmer tỉnh Sóc Trăng của Ngô Văn Lê và Nguyễn Văn Tiệp,
Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hồ Chí Minh, năm 1997; Vấn đề giảm nghèo
trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay của Trần Thị Hằng, Nhà xuất
bản Thống kê Hà Nội, năm 2001; Giải quyết việc làm cho lao động nơng

nghiệp trong q trình đơ thị hóa của Nguyễn Thị Thơm và Phí Thị Hằng,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội, năm 2009; Xóa đói giảm nghèo ở
Malaixia và Thái Lan, bài học kinh nghiệm cho Việt Nam của Võ Thị Thu
Nguyệt, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội, năm 2010; …
Ngày 22, 23 tháng 04 năm 2010, Viện Konrad Adenauer Stiftung
(KAS- Cộng hòa Liên Bang Đức tại VN) tại Việt Nam và Viện Nhà nước và
Pháp luật đã tổ chức Hội thảo khoa học: Chính sách, pháp luật về an sinh xã


6

hội ở Việt Nam hiện nay tại thành phố Cần Thơ. Hội thảo đã nghe nhiều bài
tham luận của các Bộ, Ban, Ngành trung ương, Sở và chính quyền tại địa
phương, viện Nhà nước và Pháp luật, viện Khoa học Xã hội Việt Nam, trường
Đại học Luật Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Các báo cáo tham luận đã
xoay quanh nhiều vấn đề về hệ thống chính sách và pháp luật an sinh xã hội ở
Việt Nam hiện nay; đào tạo pháp luật về an sinh xã hội tại các cơ sở đào tạo
luật ở Việt Nam. Từ đó, hội thảo đã vạch ra những hạn chế, bất cập trong quá
trình thực hiện các chế độ an sinh xã hội và nhận thấy việc nghiên cứu hoàn
thiện pháp luật an sinh xã hội, đặc biệt là yêu cầu đào tạo pháp luật về an sinh
xã hội lại càng trở nên quan trọng và cấp thiết. Ông Amos Helms, trưởng văn
phịng đại diện Viện KAS, cho rằng khơng thể đặt hết gánh nặng an sinh xã
hội lên vai nhà nước, mà phải có sự chia sẻ của cộng đồng, sự tham gia rộng
rãi của nhiều người. Không nên điều gì cũng trơng chờ vào Nhà nước.
Thứ ba, cơng trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh
tế và công bằng xã hội như: Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở một
số nước Châu Á và Việt Nam của Lê Bộ Lĩnh, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia
Hà Nội, năm 1998; Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Nhật Bản giai
đoạn “thần kì” và Việt Nam thời kì “đổi mới” của Lê Văn Sang và Kim Ngọc,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội, năm 1999; Tăng trưởng kinh tế và

cơng bằng xã hội một số vấn đề lí luận và thực tiễn ở một số tỉnh miền Trung
(sách tham khảo) của Phạm Hảo, Võ Xuân Tiến và Mai Đức Lộc, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia Hà Nội, năm 2000; Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế
và công bằng xã hội ở Việt Nam thời kì đổi mới – vấn đề và giải pháp của
Nguyễn Thị Nga, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội, năm 2007; Tăng
trưởng kinh tế và cơng bằng xã hội, lí thuyết và thực tiễn ở thành phố Hồ Chí
Minh của Đỗ Phú Trần Tình, Nhà xuất bản Lao động Hà Nội, năm 2010; …
Hầu hết các cơng trình này đều tập trung nghiên cứu ba vấn đề chính sau đây:


7

- Một là, lí luận chung về tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.
- Hai là, bài học kinh nghiệm của một số nước trong việc giải quyết mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.
- Ba là, đánh giá việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế
và công bằng xã hội ở địa phương hoặc nước ta hiện nay, đồng thời đề xuất
một số giải pháp nhằm giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế
và cơng bằng xã hội trong thời gian tới.
Ngồi ra, trên các tạp chí và trang Web cịn đăng rất nhiều bài viết của
các tác giả về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội như:
Công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay của
Lương Việt Hải, Tạp chí Triết học số 4 (155), năm 2004; Tăng trưởng kinh tế
và công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
của Phạm Xuân Nam, Tạp chí Cộng sản số 1 (122), năm 2007; Tăng trưởng
kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội: thành tựu và những vấn đề đang
đặt ra của Trần Du Lịch, Tạp chí Cộng sản số 23 (191), năm 2009; Thúc đẩy
kinh tế tăng trưởng cao, bền vững tạo tiền đề vững chắc cho q trình xóa đói
giảm nghèo của Bùi Hà, Vụ trưởng Vụ Tổng hợp Kinh tế Quốc dân, Bộ Kế

hoạch và Đầu tư; Đảm bảo cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng
xã hội, một yêu cầu để phát triển bền vững ở thành phố Hồ Chí Minh của Cao
Ngọc Thành, Viện Nghiên cứu phát triển thành phố Hồ Chí Minh; …
Tóm lại, vấn đề mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã
hội tuy đã được các nhà khoa học, các học giả tiếp cận, nghiên cứu ở nhiều khía
cạnh, bằng nhiều hình thức và các cấp độ khác nhau nhưng cho đến nay vẫn
chưa có cơng trình nào nghiên cứu về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và
công bằng xã hội ở thành phố Cần Thơ. Kế thừa thành quả của các cơng trình
nghiên cứu trên, chúng tôi cố gắng đi sâu vào nghiên cứu một cách có hệ thống


8

mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở thành phố Cần Thơ
hiện nay qua đề tài luận văn thạc sĩ Triết học.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Mục đích của luận văn
Thơng qua việc nghiên cứu những vấn đề lí luận chung về mối quan hệ
giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội và bài học kinh nghiệm của một
số nước về giải quyết mối quan hệ trên, luận văn nhằm chỉ ra những vấn đề
được đặt ra trong việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công
bằng xã hội ở thành phố Cần Thơ thời gian qua, từ đó đề xuất một số giải pháp
mang tính định hướng nhằm giải quyết tốt hơn mối quan hệ này ở thành phố
Cần Thơ trong giai đoạn hiện nay.
Nhiệm vụ luận văn
Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ
cơ bản sau:
Thứ nhất, phân tích làm rõ nội dung các quan điểm khác nhau về tăng
trưởng kinh tế, công bằng xã hội, mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và
công bằng xã hội; quan điểm chỉ đạo của đảng và các chính sách lớn của nhà

nước về giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, khảo sát và đánh giá việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở thành phố Cần Thơ trong thời gian qua.
Thứ ba, trên cơ sở quan điểm của Đảng bộ và chính quyền thành phố Cần
Thơ về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, đề xuất một
số giải pháp có tính định hướng nhằm giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở thành phố Cần Thơ giai đoạn hiện nay.


9

Phạm vi giới hạn của luận văn
Luận văn được giới hạn trong phạm vi nghiên cứu về mối quan hệ giữa
tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở thành phố Cần Thơ hiện nay. Tuy
nhiên, để có cở sở đánh giá đúng việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế và công bằng xã hội ở thành phố Cần Thơ cũng như đề xuất các giải
pháp một cách hợp lí, luận văn có nghiên cứu lí luận chung về mối quan hệ
giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội; kinh nghiệm của một số nước về
giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội; quan
điểm chỉ đạo của Đảng và các chính sách lớn của nhà nước về giải quyết mối
quan hệ này trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
4. Cở sở lí luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ trên, luận văn dựa trên cở sở thế
giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử, cụ thể là quan điểm toàn diện và quan điểm phát triển; đồng
thời tác giả luận văn đã sử dụng tổng hợp các phương pháp như: phân tích và
tổng hợp, trừu tượng và cụ thể, logic và lịch sử, so sánh và phương pháp hệ
thống…. để nghiên cứu và trình bày luận văn.
5. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn

Về ý nghĩa khoa học, luận văn đã góp phần hệ thống hóa và làm rõ hơn
các quan điểm khác nhau trong lịch sử về tăng trưởng kinh tế, công bằng xã
hội, mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội và biểu hiện
mối quan hệ ấy ở thành phố Cần Thơ hiện nay. Ngồi ra, luận văn có thể được
sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác nghiên cứu, giảng dạy và
học tập các môn Triết học, Kinh tế chính trị học, Xã hội học ở các trường Cao
đẳng và Đại học.


10

Về ý nghĩa thực tiễn, luận văn có ý nghĩa thiết thực đối với các cơ quan
chức năng, các nhà quản lí kinh tế, chính trị, xã hội ở thành phố Cần Thơ
trong việc qui hoạch, xây dựng và phát triển thành phố Cần Thơ bền vững.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu 2 chương, 5 tiết.
Chương 1: Những vấn đề lí luận chung về mối quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế và công bằng xã hội.
Chương 2: Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở
thành phố Cần Thơ hiện nay.


11

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI
1.1. CÁC QUAN ĐIỂM KHÁC NHAU VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI


1.1.1. Một số quan điểm về tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội
Tăng trưởng kinh tế là một trong những vấn đề trung tâm của mọi quốc
gia trên thế giới. Đó là điều kiện tiên quyết để phát triển kinh tế, cải thiện đời
sống của người dân và giải quyết các vấn đề xã hội. Đối với các nước đang
phát triển thì tăng trưởng kinh tế là điều kiện để thu hẹp khoảng cách giàu
nghèo với các nước phát triển, gia nhập vào nhóm các nước phát triển và là cơ
hội tham gia hội nhập kinh tế quốc tế.
Ngân hàng thế giới (WB) trong bài “Báo cáo về phát triển thế giới
1991”, đã đưa ra định nghĩa như sau: tăng trưởng kinh tế chỉ là sự gia tăng về
lượng của những đại lượng chính là đặc trưng cho một trạng thái kinh tế, trước
hết là tổng sản phẩm xã hội, có tính đến mối liên quan với dân số.
Ta cũng có thể hiểu khái niệm tăng trưởng kinh tế theo quan điểm của
kinh tế học, đó là sự tăng lên về quy mơ sản lượng của nền kinh tế trong một
thời kỳ nhất định. Sự tăng trưởng được so sánh theo các thời điểm gốc sẽ phản
ánh tốc độ tăng trưởng. Đó là sự gia tăng quy mô sản lượng nhanh hay chậm
so với thời điểm gốc. “Tăng trưởng kinh tế, dưới dạng khái quát, là sự gia tăng
của tổng sản phẩm quốc dân (GNP) hoặc tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trong
một thời gian nhất định (thường tính cho một năm).” [5,38]. Như vậy, bản
chất của tăng trưởng kinh tế là phản ánh sự thay đổi về lượng của nền kinh tế.
Hiện nay, các quốc gia luôn quan tâm đến sự tăng trưởng kinh tế bền
vững. Đó là sự “tăng trưởng kinh tế đạt mức tương đối cao và ổn định trong
thời gian tương đối dài (thường là một thế hệ từ 20 – 30 năm).” [90,278]


12

Có nhiều ý kiến cho rằng, tăng trưởng kinh tế đồng nhất với phát triển
kinh tế. Thực ra, tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế là hai thuật ngữ khác
nhau nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. “Phát triển kinh tế là sự tăng

trưởng kinh tế gắn liền với sự hoàn thiện cơ cấu, thể chế kinh tế và nâng cao
chất lượng cuộc sống.” [5,42]. Muốn phát triển kinh tế trước hết phải có sự
tăng trưởng kinh tế. Nhưng không phải sự tăng trưởng kinh tế nào cũng dẫn
tới phát triển kinh tế. Các chuyên gia của WB cho rằng: tăng trưởng chưa phải
là phát triển, song tăng trưởng lại là một cách cơ bản để có phát triển và khơng
thể nói phát triển kinh tế mà trong đó lại khơng có tăng trưởng kinh tế.
Tư tưởng về tăng trưởng kinh tế đã được bàn đến ngay từ thời cổ đại và
ở mỗi giai đoạn lịch sử đều được các nhà kinh tế nghiên cứu, bổ sung và phát
triển. Tuy nhiên, vấn đề cốt lõi không nằm ở thuật ngữ “tăng trưởng kinh tế”
mà nằm ở nguồn gốc của sự tăng trưởng. Đó là cả một quá trình truy tìm căn
nguyên tăng trưởng.
Quan điểm của Adam Smith về tăng trưởng kinh tế: A.Smith là người
đầu tiên trình bày một cách có hệ thống những luận điểm về kinh tế học nên
được coi là người sáng lập ra kinh tế học. Tác phẩm “Nghiên cứu về nguồn
gốc và bản chất của của cải các dân tộc” đã nêu bật tư tưởng của ông về tăng
trưởng kinh tế.
Theo A.Smith, tích lũy tư bản là nguồn gốc của sự tăng trưởng kinh tế.
Khi lượng tư bản của nhà tư bản tăng lên thì sự phân cơng lao động càng được
thúc đẩy vì nhà tư bản có thể th thêm lao động cho những công đoạn sản
xuất riêng biệt hơn, như vậy sẽ nâng cao năng suất lao động. Để tránh sự giảm
sút của tư bản dành cho sản xuất, ông cho rằng cần phải giảm thu nhập của
những người chỉ biết ăn tiêu hoang phí (tức là cắt giảm bổng lộc của giới quý
tộc, đánh thuế vào tầng lớp địa chủ, bãi bỏ chế độ độc quyền thương mại của


13

thương nhân). Mặt khác, có thể thúc đẩy tích lũy tư bản bằng cách bãi bỏ
những quy định về thuế đối với các nhà tư bản.
Do ủng hộ sự tự do cạnh tranh nên ông chống lại sự điều tiết của Nhà

nước đối với cơ chế thị trường. Ông cho rằng, trong khi theo đuổi lợi ích của
mình, nhà tư bản chịu sự tác động bởi “bàn tay vơ hình”, tức là “sự hoạt động
của các quy luật kinh tế khách quan” [91,77]. A.Smith quan niệm, hệ thống
các quy luật kinh tế khách quan là một “trật tự tự nhiên”, tức là nền kinh tế
phải được phát triển trên cơ sở tự do kinh tế, bao gồm: tự do sản xuất, tự do
liên doanh, tự do liên kết và tự do mậu dịch. Hoạt động sản xuất và lưu thông
hàng hóa được phát triển theo sự điều tiết của “bàn tay vơ hình”.
Dưới sự tác động “bàn tay vơ hình” và nhờ lợi nhuận thúc đẩy, nhà tư
bản sẽ tiến hành sản xuất hàng hóa và dịch vụ cần thiết, như vậy họ đã thực
hiện một nhiệm vụ không nằm trong dự định là đáp ứng lợi ích chung của xã
hội và trong nhiều trường hợp lợi ích xã hội được đáp ứng tốt hơn lợi ích cá
nhân. Ơng nhận định: “Mỗi cá nhân đều cố gắng sử dụng vốn của mình sao
cho có được sản phẩm có giá trị cao nhất. Thơng thường, cá nhân này khơng
có chủ định củng cố lợi ích này ở mức độ nào. Cá nhân này chỉ có mục đích
bảo vệ sự an tồn và thành quả của riêng mình. Trong quá trình này, một bàn
tay vơ hình đã buộc anh ta phải theo đuổi một mục đích khơng nằm trong dự
định. Trong khi theo đuổi lợi ích của mình, anh ta thường bảo vệ ln lợi ích
của xã hội một cách hữu hiệu hơn cả khi anh ta có ý định làm việc này.”
[91,77]
Từ đó, A.Smith kết luận, nhà nước khơng nên can thiệp vào kinh tế,
hoạt động kinh tế có cuộc sống riêng của nó, mặc dù chính sách kinh tế của
Nhà nước có thể kìm hãm hoặc thúc đẩy sự hoạt động của các quy luật kinh tế.
A.Smith viết: “Bạn nghĩ rằng bạn đang giúp cho hệ thống kinh tế bằng những
quản lí đầy ý định tốt đẹp và bằng những hoạt động can thiệp của mình.


14

Không phải như vậy đâu. Hãy để mặc, hãy để mọi sự việc xảy ra, đừng nhúng
tay vào. Dầu nhờn của lợi ích cá nhân sẽ làm cho các bánh xe kinh tế hoạt

động một cách gần như kì diệu. Không ai cần kế hoạch, không cần quy tắc, thị
trường sẽ giải quyết tất cả.” [89,52]
Quan điểm về tăng trưởng kinh tế của David Ricardo: D.Ricardo là
người kế thừa xuất sắc tư tưởng của A.Smith và chịu ảnh hưởng tư tưởng về
dân số học của T.R.Malthus. Năm 1817, ông cho ra đời tác phẩm nổi tiếng
“Những nguyên lí của kinh tế chính trị và thuế khóa”. Thời gian này, trung
tâm kinh tế chính trị khơng phải là vấn đề sản xuất ra của cải vật chất mà là sự
phân phối nó giữa các giai cấp cơ bản trong xã hội. D.Ricardo đã cố gắng xây
dựng và phân tích quy luật phân phối trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa: tiền
lương cho công nhân, lợi nhuận cho tư bản và tô tức cho chủ đất. Và ông nhấn
mạnh, phần phân phối cho giai cấp này giảm xuống thì phần phân phối cho
giai cấp kia tăng lên.
Theo Ricardo, các yếu tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế là đất đai, lao
động và vốn. Trong đó, đất đai là yếu tố quan trọng nhất, là giới hạn của sự
tăng trưởng. Vì, khi nhu cầu về lương thực, thực phẩm tăng lên (do dân số
tăng), các nhà tư bản cần phải tiến hành sản xuất trên những đất đai kém màu
mỡ hơn, dẫn đến chi phí sản xuất tăng lên để thu về cùng một lượng lương
thực, thực phẩm trên mỗi đơn vị đất đai kém màu mỡ. Lúc này giá lương thực,
thực phẩm sẽ tăng cao thì tiền cơng phải trả cho cơng nhân cũng tăng theo
tương ứng, cịn lợi nhuận của các nhà tư bản thì giảm xuống. Ơng viết: “Nếu
tiền cơng hạ xuống thì lợi nhuận tăng lên chứ không phải địa tô tăng lên; nếu
địa tô và tiền cơng tăng lên thì lợi nhuận giảm xuống…” [91,99]. Nếu cứ tiếp
tục như vậy, đến một lúc nào đó, nền kinh tế sẽ trở nên bế tắc: địa tô ở mức
cao (do cầu về đất đai màu mỡ tăng lên), tiền công ở mức tối thiểu, lợi nhuận
ở gần mức khơng, tích lũy tư bản ngừng lại.


15

Tương ứng với các yếu tố tăng trưởng, ông chia xã hội thành ba nhóm

người: địa chủ, tư bản và cơng nhân. Địa chủ có đất thì nhận địa tơ, tư bản có
vốn thì nhận lợi nhuận và cơng nhân có sức lao động thì nhận tiền cơng. Thu
nhập của xã hội bằng tổng thu nhập của ba nhóm người này, tức là bằng: địa
tô + lợi nhuận + tiền cơng. Trong ba nhóm người này, nhà tư bản giữ vai trò
quan trọng cả trong sản xuất và phân phối. Trong sản xuất, họ là người đứng
ra tổ chức sản xuất và thực hiện tích lũy tư bản để tái sản xuất. Trong phân
phối, họ là người chủ động trong quá trình phân phối giữa tư bản và địa chủ
cũng như giữa tư bản và công nhân.
D.Ricardo cũng thống nhất với quan điểm của A.Smith trong việc phủ
nhận vai trò của nhà nước, thậm chí cịn cho rằng, chính sách của Chính phủ
có khi cịn hạn chế khả năng phát triển kinh tế.
Quan điểm về tăng trưởng kinh tế của trường phái Tân cổ điển: Cuối
thế kỉ XIX là thời kì đánh dấu sự chuyển biến mạnh mẽ của khoa học - kỹ
thuật. Hàng loạt các phát minh khoa học được đưa vào phục vụ cho quá trình
sản xuất, làm nền kinh tế thế giới phát triển mạnh mẽ. Sự chuyển biến này đã
đưa đến sự ra đời của trường phái tân cổ điển, đứng đầu là Alfred Marshall với
tác phẩm “Các nguyên lý của kinh tế học” (1890).
Đối với các nguồn lực về tăng trưởng kinh tế, trường phái tân cổ điển
nhấn mạnh vai trò đặc biệt quan trọng của vốn. Từ quan điểm đó, họ đưa ra
hai khái niệm: “Phát triển kinh tế theo chiều sâu” là tăng trưởng dựa vào sự
gia tăng số lượng vốn cho một đơn vị lao động trong sản xuất; “Phát triển kinh
tế theo chiều rộng” là tăng trưởng dựa vào sự gia tăng vốn tương ứng với sự
gia tăng của lao động.
Để chỉ mối quan hệ giữa sự gia tăng sản phẩm với sự tăng lên của các
yếu tố vốn, lao động, tài nguyên và khoa học – công nghệ, các nhà kinh tế học
tân cổ điển đã đưa ra hàm sản xuất Cobb – Douglas:


16


Y = f (K, L, R, T)
Y: sự gia tăng sản phẩm (đầu ra)

L: lao động

K: vốn sản xuất

R: tài nguyên
T: khoa học – công nghệ

Sau khi biến đổi, Cobb – Douglas thiết lập được mối quan hệ theo tốc
độ tăng trưởng của các biến số: g = t + αk + βl + γr. Trong đó:
g: tốc độ tăng trưởng của GDP
k, l, r: tốc độ tăng trưởng của các yếu tố: vốn, lao động, tài nguyên
t: phản ánh tác động của khoa học – công nghệ
α, β, γ: các số lũy thừa, phản ánh tỉ trọng của các yếu tố đầu vào
trong tổng sản phẩm (α + β + γ = 1)
Ví dụ: Giả sử phương trình trên nhận các giá trị sau: g = 0,06 (tốc độ
tăng trưởng của GDP là 6%); k = 0,07 (vốn tăng 7%); l = 0,02 (lao động tăng
2%); r = 0,01 (tài nguyên tăng 1%); α = 0,3 (vốn chiếm 30% trong GDP); β =
0,6 (lao động chiếm 60% trong GDP); γ = 0,1 (tài nguyên chiếm 10% trong
GDP)
Khi thay các số liệu vào phương trình trên ta có:
0,06 = t + (0,3 x 0,07) + (0,6 x 0,02) + (0,1 x 0,01)  t = 0,024 (trong
số 6% tăng GDP thì tác động của khoa học – cơng nghệ là 2,4%).
Như vậy, hàm Cobb – Douglas cho biết có 4 yếu tố cơ bản tác động đến
tăng trưởng kinh tế và mỗi sự gia tăng thêm một yếu tố sản xuất sẽ làm gia
tăng thêm sản lượng đầu ra. Mỗi nhân tố đều có vai trị nhất định đối với tăng
trưởng sản xuất và giữa chúng có mối quan hệ lẫn nhau. Trong đó, tư bản gia
tăng được quan tâm nhất bởi vì nó đi liền với tiến bộ kĩ thuật và công nghệ.

Lao động được coi như nguồn vốn ban đầu thiết yếu nhất của tăng trưởng.
Quan điểm về tăng trưởng kinh tế của J.M.Keynes: Keynes là chuyên
gia trong lĩnh vực tài chính, tín dụng và lưu thơng tiền tệ. Ơng cịn được xem


17

là người đặt nền móng cho các lý thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại.
J.M.Keynes với tác phẩm “Lí thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ”
đã đánh dấu sự ra đời một học thuyết kinh tế mới.
Keynes cho rằng, khi việc làm tăng lên, thì thu nhập cũng tăng lên, do
đó tiêu dùng cũng tăng lên. Song do khuynh hướng tiêu dùng cận biên1, nên
mức tăng tiêu dùng không bằng mức tăng thu nhập, quy luật tâm lí thơng
thường của chúng ta khi thu nhập thực tế của cộng đồng tăng hay giảm, thì
tiêu dùng của cộng đồng sẽ tăng hay giảm nhưng không nhanh bằng. Do đó
làm cho cầu tiêu dùng giảm tương đối và ảnh hưởng đến tình hình sản xuất,
thu hẹp đầu tư và gây ra nạn thất nghiệp. Để điều chỉnh sự thiếu hụt của cầu
tiêu dùng, cần phải tăng đầu tư (tăng tiêu dùng sản xuất). Mỗi sự gia tăng của
đầu tư đều kéo theo cầu bổ sung về công nhân và tư liệu sản xuất, có nghĩa là
việc làm gia tăng, thu nhập quốc dân (sản lượng quốc gia) gia tăng, do đó tiêu
dùng cũng tăng lên. Tuy nhiên, khối lượng đầu tư lại phụ thuộc vào hiệu quả
giới hạn của tư bản. Tức là, nếu như đầu tư mang lại cho người đầu tư một
khoản lợi nhuận lớn thì người ta tích cực đầu tư, nếu ngược lại thì người đầu
tư sẽ kém nhiệt tình đầu tư, hoặc khơng đầu tư. Keynes nhận định, khi vốn đầu
tư tăng lên, hiệu quả giới hạn của tư bản sẽ giảm dần. Bởi lẽ, khối lượng hàng
hóa cung cấp cho thị trường tăng lên, do đó giá cả hàng hóa giảm xuống, kéo
theo lợi nhuận giảm sút; hàng hóa tăng lên làm gia tăng chi phí tư bản thay
thế. Ngồi ra, các nhà kinh doanh còn là những người đi vay tư bản để sản
xuất kinh doanh nên họ phải trả một khoản lãi suất nhất định. Vì thế, các nhà
kinh doanh sẽ mở rộng đầu tư cho đến khi hiệu quả giới hạn của tư bản giảm

xuống đến mức lãi suất. Cái khó trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa là ở chỗ,

1

Keynes chia thu nhập làm hai phần: phần tiêu dùng và phần tiết kiệm. Từ đó, có hai khuynh hướng
đối với việc sử dụng thu nhập: khuynh hướng tiêu dùng và khuynh hướng tiết kiệm. Khuynh hướng
tiêu dùng cận biên là mối quan hệ giữa sự gia tăng tiêu dùng so với sự gia tăng thu nhập. Theo
Keynes, khuynh hướng tiêu dùng cận biên được kí hiệu là MPC.


18

hiệu quả giới hạn của tư bản thì giảm sút, cịn lãi suất của tư bản cho vay lại
có tính ổn định. Điều đó tạo ra giới hạn chật hẹp cho đầu tư mới.
Để thốt khỏi tình trạng trên cần có sự can thiệp của nhà nước vào kinh
tế để tăng tổng cầu thông qua các công cụ sau: thứ nhất, chương trình đầu tư
của nhà nước (qua các đơn đặt hàng hay trợ cấp vốn cho các doanh nghiệp);
thứ hai, chính sách tài chính, tín dụng và lưu thơng tiền tệ có tác dụng làm
tăng lợi nhuận, giảm lãi suất và kích thích sự đầu tư của các nhà đầu tư, cịn hệ
thống thuế khóa và cơng trái nhà nước góp phần bổ sung cho ngân sách; thứ
ba, mở rộng việc làm bằng cách mở rộng đầu tư (cả vào lĩnh vực quân sự); thứ
tư, khuyến khích tiêu dùng cá nhân. Như vậy, sự tham gia của nhà nước vào
kinh tế giữ một vai trò quan trọng trong việc kích thích các nhà kinh doanh mở
rộng đầu tư. Theo “nguyên lí số nhân”1 nền kinh tế được tái phát triển, khủng
hoảng và thất nghiệp được ngăn chặn.
Điểm hạn chế lớn nhất trong học thuyết của Keynes là những nghiên
cứu của ông xuất phát từ trạng thái tĩnh của nền kinh tế, bỏ qua tác động của
những biến đổi của kỹ thuật và những biến đổi khác nên không phù hợp với
điều kiện của cuộc cách mạng kỹ thuật hiện nay. Hàng loạt các mơ hình tăng


1

Để chứng minh mối quan hệ giữa gia tăng đầu tư và gia tăng thu nhập, ơng đã nghiên cứu và đưa
ra ngun lí "số nhân đầu tư". Số nhân đầu tư (k) chỉ rõ sự gia tăng đầu tư sẽ kéo theo sự gia tăng
thu nhập lên bao nhiêu. Mơ hình số nhân của ông là:
ΔY
k = --------- => Δ Y = k. Δ I
ΔI
Trong đó, ΔY là thay đổi về thu nhập
1
k là số nhân [k = / 1 - MPC ]
ΔI là thay đổi về đầu tư
Thu nhập được chia thành tiêu dùng và tiết kiệm
Y
=
C
+ S
Thu nhập cũng chia thành tiêu dùng và đầu tư
Y
=
C
+ I
Từ đó, ơng cho rằng Tiết kiệm (S) = Đầu tư (I).
Khi khuynh hướng tiêu dùng cận biên càng tăng thì số nhân (k) càng lớn, do đó thu
nhập sẽ được khuếch đại lên cao.


19

trưởng kinh tế xuất hiện, trong đó đáng chú ý nhất là mơ hình tăng trưởng

mang tên hai nhà kinh tế học là Harrod và Domar.
Quan điểm về tăng trưởng kinh tế của Harrod – Domar: Vào những
năm 40 của thế kỉ XX, hai nhà kinh tế học là Roy Harrod (Anh) và Evsay
Domar (Mỹ) với sự nghiên cứu độc lập, đã đồng thời đưa ra mơ hình về tăng
trưởng kinh tế xem xét mối quan hệ giữa tăng trưởng và các nhu cầu về vốn để
đảm bảo sự tăng trưởng ổn định trong một thời gian dài.
Hai ông đã xem xét mối tương quan giữa ba nhân tố: sức lao động, vốn
và tỷ lệ vốn-sản lượng. Phương trình cơ bản trong mơ hình Harrod - Domar là:
s

i

g = ------- = -------k
k
Trong đó: g: tốc độ tăng trưởng (g = ΔY/Y);
i: tỉ lệ đầu tư (i = I/Y)
s: tỉ lệ tiết kiệm (s = S/Y);
I: đầu tư
S: tiết kiệm;
k: ICOR – hệ số gia tăng tư bản - đầu ra (ΔK/ ΔY)
ΔY: gia tăng tổng sản lượng đầu ra trong thời kỳ xem xét
Δ K: gia tăng vốn đầu tư (tư bản)
Hệ số này nói lên trình độ kĩ thuật của sản xuất và là số đo năng lực sản
xuất của đầu tư. Ví dụ: nếu đầu tư 3 tỷ đồng dưới dạng trang bị máy móc thiết
bị mới, làm cho nhà máy có khả năng tăng sản lượng thêm 1 tỷ đồng/năm, thì
ICOR trong trường hợp này là 3.
ICOR được coi là thước đo độ hiệu quả của đầu tư. Nếu phân bổ đầu tư
và vốn hiệu quả, thì với cùng một mức đầu tư, sản lượng sẽ tăng thêm, và do
đó ICOR thấp hơn. Nói cách khác, ICOR cao thể hiện đầu tư không hiệu quả,
và ngược lại.



20

Như vậy, theo Harrod – Domar, để tăng trưởng chỉ đơn giản là gia tăng
tiết kiệm và đầu tư quốc gia. Nhưng nó cũng là trở ngại chính đối với tăng
trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển. Bởi lẽ, các nước này ln rơi vào
cái vịng lẩn quẩn: năng suất lao động rất thấp  thu nhập thấp  tiết kiệm
cũng thấp  đầu tư thấp  tích lũy thấp  năng suất lao động thấp… Hơn
nữa, thị trường tài chính và thị trường hàng hóa của các nước này cũng hoạt
động yếu. Kết quả, toàn bộ tiết kiệm sẽ không được đưa ra đầu tư hết. Cho
nên, mơ hình này hàm ý rằng, cần có kế hoạch hóa và mệnh lệnh của chính
phủ nhằm thúc đẩy đầu tư, qua đó đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế ở các nước
đang phát triển.
Nhìn chung, mơ hình Harrod – Domar có ưu điểm là cơ sở để đề ra một
kế hoạch ưu tiên tăng trưởng một ngành hay một lĩnh vực nào đó, của một
chính sách điều chỉnh cơ cấu kinh tế khi xét tới tương quan giữa nguồn tài
chính và nguồn lực hiện có. Tuy nhiên, nó cũng có nhược điểm là quá đơn
giản khi coi tốc độ tăng trưởng chỉ được xác định bởi tỉ lệ tiết kiệm. Đúng như
Solow đã nói, theo mơ hình Harrod – Domar, “một nền kinh tế có thể thúc đẩy
tốc độ tăng trưởng công nghiệp đơn thuần chỉ bằng cách tăng tỉ lệ đầu tư.
Nhưng một vấn đề khác nảy sinh là: nếu có thể tăng trưởng kinh tế dễ dàng
như thế, vậy tại sao ngày càng có nhiều quốc gia khơng đi theo con đường
tăng trưởng nhanh đó? Ngay cả những nước giàu chắc đôi lúc cũng muốn tận
dụng khả năng tăng trưởng thông qua tăng tỉ lệ đầu tư. Dường như có điều gì
đó sai lầm trong cách xem xét tăng trưởng kinh tế dài hạn này.” [21,64].
Quan điểm về tăng trưởng kinh tế của Robert Solow: Đến cuối những
năm 50 của thế kỉ XX, cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại bắt đầu
phát triển mạnh mẽ và ảnh hưởng sâu rộng, R.Solow (nhà kinh tế học Mỹ) đã
nghiên cứu và nhận thấy rằng, các yếu tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế gồm

có vốn, lao động và tiến bộ cơng nghệ. Trong đó, tiến bộ cơng nghệ mới chính


×