Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

Phát triển xã hội bền vững ở việt nam vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (827.28 KB, 125 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

PHAN THỊ BÍCH TRÂM

PHÁT TRIỂN XÃ HỘI BỀN VỮNG Ở
VIỆT NAM - VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN

Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.80

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2009


2

LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình do tôi nghiên cứu.
Kết quả nghiên cứu là trung thực và chưa được ai cơng bố.

Người cam đoan

PHAN THỊ BÍCH TRÂM


3

MỤC LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1 - 9
Chương 1: KHÁI LUẬN CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN VÀ PHÁT TRIỂN
XÃ HỘI BỀN VỮNG .................................................................................. 10 - 34
1.1. HAI QUAN ĐIỂM VỀ PHÁT TRIỂN ................................... 10 - 19
1.1.1. Quan điểm phát triển của các nhà triết học trước Mác............. 10 - 13
1.1.2. Quan điểm phát triển của triết học Mác................................... 13 - 19
1.2. PHÁT TRIỂN XÃ HỘI BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM ............ 19 - 34
1.2.1 Khái niệm phát triển bền vững. ................................................ 19 - 23
1.2.2. Phát triển xã hội bền vững ở Việt Nam .................................... 23 - 34
Chương 2: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG QUÁ TRÌNH XÂY
DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI. NGUYÊN NHÂN, THỰC TRẠNG VÀ
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN XÃ HỘI BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM....34 - 109
2.1. LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG QUÁ TRÌNH XÂY
DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM THỜI KỲ TRƯỚC ĐỔI
MỚI. NGUYÊN NHÂN, THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI 34 - 40
2.2. LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG QUÁ TRÌNH XÂY
DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI
(1986) ĐẾN NAY. NGUYÊN NHÂN, THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN XÃ
HỘI BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM ............................................................... 40 - 90
2.2.1. Lý luận và thực tiễn trong quá trình xây dựng xã hội trong thời
kỳ đổi mới cho đến nay ................................................................................. 40 - 65
2.2.2. Nguyên nhân, thực trạng phát triển bền vững ở Việt Nam hiện
nay ................................................................................................................. 66 - 90


4
2.3. NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỊNH HƯỚNG ĐỂ PHÁT TRIỂN XÃ
HỘI BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ........................................ 90 - 109
KẾT LUẬN .............................................................................................. 110 - 112
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................113 - 121



5

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Ngày nay, Việt Nam đã và đang phát triển, chúng ta đã đạt được những
kết quả to lớn trong phát triển kinh tế, xã hội. Nền kinh tế tăng trưởng với tốc
độ cao. Sản xuất nông nghiệp không những đảo bảo an ninh lương thực vững
chắc mà còn vào danh sách những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới.
Công nghiệp đã được cơ cấu lại và dần dần tăng trưởng ổn định. Các ngành
dịch vụ đã được mở rộng và chất lượng phục vụ đã được tăng lên, đáp ứng
nhu cầu tăng trưởng kinh tế và phục vụ đời sống dân cư. Thị trường trong
nước đã thơng thống hơn với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Việt
Nam cũng đạt được nhiều thành tựu quan trọng về phát triển xã hội. Đầu tư
của Nhà nước cho các lĩnh vực xã hội ngày càng tăng, trong đó đặc biệt ưu
tiên đầu tư xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm,.. Nhiều chương trình mục
tiêu quốc gia về phát triển kinh tế, xã hội đã và đang thực hiện, đời sống của
người dân được cải thiện rõ rệt.
Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta cũng đang đối
mặt với một số vấn đề cơ bản nảy sinh trong quá trình phát triển. Trong kinh
tế, chúng ta chỉ tập trung đầu tư chủ yếu cho những cơng trình mang lại lợi
trực tiếp mà ít đầu tư cho tái tạo các tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi
trường. Sự tăng trưởng kinh tế chủ yếu theo chiều rộng. Các mục tiêu phát
triển của các ngành có sử dụng tài nguyên thiên nhiên còn mâu thuẫn nhau và
chưa được kết hợp một cách thỏa đáng. Về mặt xã hội, Việt Nam đang phải
đối mặt với sức ép về dân số và việc làm. Tỷ lệ hộ đói nghèo cịn cao. Chất
lượng nguồn nhân lực việc làm còn thấp, khoảng cách giàu nghèo và phân
tầng xã hội có xu hướng gia tăng nhanh chóng trong nền kinh tế thị trường.
Một số tệ nạn xã hội còn phổ biến, tạo ra nguy cơ mất ổn định xã hội, phá



6
hoại cân bằng sinh thái. Hiện tượng khai thác bữa bãi và sử dụng lãng phí tài
ngun, gây ơ nhiễm mơi trưởng và suy thối mơi trường, làm mất cân đối
các hệ sinh thái đang diễn ra phổ biến. Quá trình đơ thị hóa tăng nhanh chóng
kéo theo sự khai thác quá mức nguồn nước ngầm, ô nhiễm nguồn nước mặt,
khơng khí và ứ đọng chất thải rắn,...
Trước tình hình đó, việc phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững được đặt
ra và bắt buộc nhân loại nói chung và Việt Nam nói riêng phải hướng đến
việc phát triển nhưng bền vững đồng thời tạo ra sự ổn định và hài hịa trong
các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa,…
Tại Đại hội X, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã khẳng định: “phấn đấu
tăng trưởng kinh tế với nhịp độ nhanh, chất lượng cao và bền vững hơn, gắn
với phát triển con người; thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội trong từng
bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển
văn hóa, y tế, giáo dục..., giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát
triển con người; bảo vệ và sử dụng có hiệu quả tài ngun quốc gia, cải thiện
mơi trường tự nhiên; hồn chỉnh luật pháp, tăng cường quản lý nhà nước bảo
vệ và cải thiện môi trường tự nhiên” [38; 76,77,94].
Từ thực tiễn trên việc làm rõ vấn đề phát triển bền vững đặc biệt là
vấn đề phát triển xã hội bền vững là tất yếu và khách quan. Nhưng làm
thế nào để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục
khủng hoảng kinh tế - xã hội tạo điều kiện cần thiết về vật chất và tinh
thần để giữ vững ổn định chính trị, xây dựng và củng cố niềm tin của
nhân dân, tạo điều kiện để đổi mới các mặt khác của đời sống xã hội,
làm thế nào để phát triển xã hội nhanh nhưng ổn định và bền vững đang
được đặt ra. Việc phát triển vừa ổn định, vừa hài hòa trong xã hội là tất
yếu và khách quan.



7
Xuất phát từ nhận thức trên, tôi chọn đề tài: “Phát triển xã hội bền
vững ở Việt Nam - Vấn đề lý luận và thực tiễn” làm luận văn thạc sĩ triết
học của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài:
Vần đề phát triển xã hội bền vững là vấn đề có tầm quan trọng và chiến
lược trong quá trình đổi mới và phát triển đất nước. Do tầm quan trọng của
việc phát triển xã hội bền vững cho nên vấn đề này được sự quan tâm của
nhiền nhà khoa học. Tuy nhiên khi nghiên cứu về phát triển xã hội bền vững
thì tồn tại nhiều ý kiến trao đổi khác nhau.
Hướng thứ nhất, là các đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam và những chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam. Trước hết là
“Quyết định số 153/ 2004/ QĐ TTg/ 2004 về định hướng phát triển bền vững
ngày 29/11/2004” của Chính phủ. Quyết định này được xem như đường lối,
định hướng và chỉ đạo của Đảng về lý luận phát triển bền vững ở Việt Nam.
Để từ quyết định này Đảng tiến hành vạch ra chiến lược khung về phát triển
bền vững ở Việt Nam. Song song đó, cơng trình “Định hướng chiến lược phát
triển bền vững ở Việt Nam” (Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam), Nxb.
Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 2004, của Đảng Cộng sản Việt Nam càng làm rõ
và thống nhất được quan điểm phát triển bền vững ở Việt Nam. Từ đó, xun
suốt trong q trình lãnh đạo của mình, Đảng ln ln chú ý và đề cập đến
sự phát triển đất nước nói chung và phát triển xã hội bền vững nói riêng cũng
như định hướng phát triển và đổi mới. Quan điểm ấy được thể hiện rõ ràng và
sâu sắc trong các văn kiện của mỗi kỳ Đại hội như: Đảng Cộng Sản Việt
Nam, “Văn kiện Đảng thời kỳ đổi mới Đại hội 7 về phát triển kinh tế- xã hội”,
Nxb. Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 2005; Đảng Cộng Sản Việt Nam, “Văn
kiện Đảng thời kỳ đổi mới Đại hội 8 về phát triển kinh tế- xã hội”, Nxb.



8
Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 2005; Đảng Cộng Sản Việt Nam, “Văn kiện
Đảng thời kỳ đổi mới Đại hội 9 về phát triển kinh tế- xã hội”, Nxb. Chính Trị
Quốc Gia, Hà Nội, 2005; Đảng Cộng Sản Việt Nam, “Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ X”, Nxb. Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 2006.
Bên cạnh đó, cơng trình của Cục Mơi trường đã khái qt và tổng kết lại
những thành tựu và hạn chế của phát triển bền vững để chúng ta có cái nhìn
tồn diện hơn về tiến trình quan trọng này, cũng như thơng qua công cuộc đổi
mới và phát triển ở Việt Nam của những năm 1972, 1992, 2002 mà ta đề xuất
những hướng phát triển tiếp theo trong giai đoạn hiện nay. Đó là cơng trình
“Hành trình vì sự phát triển bền vững 1972-1992-2002”, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2002 do Cục Môi Trường xuất bản.
Hướng thứ hai, là các công trình nghiên cứu lý luận chung về phát triển
và phát triển xã hội. Với chủ đề này cũng có những tác giả tiêu biểu như:
PGS. TSKH. Lương Đình Hải, Phó Viện trưởng, Viện Triết học, Viện Khoa
học xã hội Việt Nam với bài viết “Phát triển xã hội bền vững và hài hòa:
Những vấn đề lý luận và thực tiễn chủ yếu hiện nay” trong Tạp Chí Triết học,
Số 2, năm 2007. Tác giả đã luận chứng từ đó làm rõ phát triển xã hội bền
vững và hài hòa là một xu hướng tất yếu, khách quan của thời đại. Tuy nhiên
nó khơng nằm trong khn mẫu cũ, quam niệm cũ mà địi hỏi phải có một
hướng tư duy mới, đó là một tư duy khoa học và một thế giới quan triết học
mới. Ngồi ra, cịn có tác giả cịn nghiên cứu nhiều cơng trình về vấn đề này
như: “Vấn đề sở hữu và phát triển bền vững ở Việt Nam và Trung Quốc trong
những năm đầu thế kỷ XXI”, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2008. PGS.
TSKH. Lương Đình Hải (chủ biên). Bên cạnh đó, cịn nhiều tác giả nghiên
cứu về vấn đề này như: Ngô Ngọc Cát và tập thể (2006), “Chính sách phát
triển bền vững. Thực trạng và kiến nghị”, Hà Nội; Vũ Tuấn Anh (2005)


9

“Phát triển bền vững: quan niệm và tình hình thực hiện trên thế giới và ở Việt
Nam”, (Bài thuyết trình tại Viện Nghiên cứu Môi trường và Phát triển bền
vững tháng10/2005); Duy Anh (2004), “Việt Nam hướng tới phát triển bền
vững”, Tạp chí Khoa học và Tổ quốc, Số 14; Đặng Quang Anh (2006), Quan
điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về vai trò, động lực của nhu cầu, lợi ích
trong sự phát triển xã hội, Tạp chí Khoa học Xã hội, Số 11; Hồng Đình Cúc
(2009), “Phát triển bền vững ở Việt Nam – Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn”, Tạp chí Triết học, Số 8 (219); Nguyễn Hữu Dũng (2007), “Vấn đề lý
luận và thực tiễn về xóa đói, giảm nghèo theo hướng bền vững”, Tạp chí Lý
luận chính trị, Số 3; Nguyễn Đình Hịa (2007), “Phát triển bền vững trên nền
tảng sự đồng hóa giữa con người và tự nhiên”, Tạp chí Triết học, Số 3; Hồ
Đức Hoàng, “Kinh tế Việt Nam hội nhập phát triển bền vững”, Nxb. Thống
tấn; PGS. TS Nguyễn Văn Khánh, PGS, TS Nguyễn Văn Dân, Lê Huy Hòa,
Nguyễn Đăng Linh, ThS. Đỗ Xuân Tuất (2006), “Việt Nam 20 năm đổi mới
và phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, Nxb. Lao Động, Hà Nội;
Phan Văn Khải (2006), “Đổi mới sâu rộng phát triển đất nước nhanh và bền
vững tiến cùng thời đại”, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội; GS. TS. Nguyễn
Quang Thái, PGS.TS. Ngô Thắng Lợi (2007), “Phát triển bền vững ở Việt
Nam, thành tựu, cơ hội, thách thức và triển vọng”, Nxb. Lao động- Xã hội;
Nguyễn Phú Trọng (chủ biên) (2006), “Đổi mới và phát triển ở Việt Nam –
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Thơng tin Khoa học Xã hội, Số
10; GS. Trần Nhâm (1999), “Đổi mới và phát triển bền vững dưới ngọc cờ tư
tưởng của giai cấp công nhân”, Nxb. Lao động, Hà Nội; Bộ Kế hoạch và Đầu
tư (2006), “Phát triển bền vững ở Việt Nam”, Hà Nội
Hướng thứ ba, là các cơng trình nghiên cứu trên nhiều góc độ khác nhau
về phát triển bền vững xã hội. Về hướng này có các cơng trình tiêu biểu sau:


10
Về phát triển xã hội bền vững có bài viết của PGS. TSKH. Lương Đình

Hải (2007), “Phát triển xã hội bền vững và hài hòa: Những vấn đề lý luận và
thực tiễn chủ yếu hiện nay”, Tạp chí Triết học, Số 2. Với nội dung của quan
niện phát triển xã hội bền vững và hài hòa phải bao gồm tăng trưởng kinh tế,
hiện đại hóa hay phát triển xã hội gắn với việc giữ gìn, bảo vệ và cải thiện
mơi trường; Cơng trình của tác giả Hồng Đình Cúc (2009), “Phát triển bền
vững ở Việt Nam – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Triết học, Số
8 (219). Trong bài viết này, tác giả đã luận chứng để làm rõ việc thực hiện
chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam trong thời gian qua. Theo tác giả,
ngoài những thành tựu to lớn đã đạt được, chúng ta cũng đang phải đối mặt
với một số vấn đề cơ bản nảy sinh trong tiến trình phát triển đất nước. Đó là,
nền kinh tế có sự tăng trưởng nhưng chưa thật bền vững; chưa thực hiện tốt
việc kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội; nguy cơ ô
nhiễm môi trường và cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên. Trên cơ sở đó, tác giả đề
xuất và luận giải một số biện pháp chủ yếu nhằm góp phần vào việc giải quyết
một cách hiệu quả những vấn đề đặt ra. Ngồi ra, cịn một số cơng trình có
đóng góp đáng kể cho việc nghiên cứu vấn đề này như: Cơng trình “Tự đổi
mới, tự chỉnh đốn Đảng để bảo đảm cho sự thành công của công cuộc đổi
mới và phát triển đất nước”, của Nguyễn Hữu Dũng (2007), Nguyễn Trọng
Chuẩn (2007), Tạp chí Triết học, Số 12; “Vấn đề lý luận và thực tiễn về xóa
đói, giảm nghèo theo hướng bền vững”, Tạp chí Lý luận chính trị, Số 3; Phan
Thị Hồng Duyên (2008); “Giáo dục đạo đức sinh thái vì sự phát triển bền
vững cho con người và giới tự nhiên”, Tạp chí Triết học, Số 1; Hà Khanh
(2004); “Dân số trong sự phát triển bền vững”, Tạp chí Thơng tin Khoa học
Xã hội, Số 7; Hội thảo Khoa học(2009), “Cải cách hành chính để phát triển
và hội nhập”, Tạp chí Thơng tin Khoa học Xã hội, Số 7.


11
Ở góc độ phát triển kinh tế bền vững với các tác giả” Thái An (2005),
“Bảo vệ mơi trường vì sự phát triển bền vững trong q trình Cơng nghiệp

hóa – Hiện đại hóa”, Tạp chí Thơng tin Khoa học Xã hội, Số 6. Trong bài
nghiên cứu này, tác giả đề cập đến hiện trạng môi trường và đề xuất những
giải pháp để bảo vệ môi trường kết hợp với tiến hành q trình cơng nghiệp
hóa – hiện đại hóa. Cơng trình của Phạm Thị Hồng Điệp (2008), “Nguồn lực
con người và phát triển bền vững kinh tế tri thức”, Tạp chí Khoa học Xã hội,
Số 1; Tatyana P. Soubbảotina (2005), “Không chỉ là tăng trưởng kinh tế –
nhập môn về phát triển bền vững”, Nxb. Văn hóa-Thơng tin, Hà Nội.
Ở góc độ bảo vệ mơi trường để phát triển bền vững có các cơng trình
nghiên cứu sau: Lưu Đức Hà, Nguyễn Ngọc Sinh (2007), “Quản lý môi
trường cho sự phát triển bền vững”, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội; Koos
Neefjes (2003), “Môi trường và sinh kế – các chiến lược phát triển bền
vững”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; “Các công ước quốc tế về bảo vệ
môi trường” (1995), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Các cơng trình này
khai thác từng lĩnh vực, từng nội dung về phát triển bền vững trên các phương
diện: bảo vệ môi trường, kinh tế tri thức, nguồn lực con người,…, đồng thời
nêu lên những hướng giải quyết trong quá trình phát triển bền vững.
Ngồi ra, một số cơng trình như: Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2006), “Phát
triển bền vững ở Việt Nam”, Hà Nội; GS, TS. Nguyễn Trọng Chuẩn (2007),
“Đảng – “Phải thường xuyên tự đổi mới” để đưa đất nước phát triển nhanh
hơn”, Tạp chí Lý luận chính trị, Số 12; Hồng Đình Cúc (2009),
Như vậy, việc nghiên cứu quan điểm phát triển được nhiều tác giả quan
tâm nghiên cứu dưới nhiều hướng, nhiều khía cạnh khác nhau, nhưng chưa có
cơng trình nào mang tính chun biệt và tập trung vào nghiên cứu, làm rõ
quan điểm phát triển xã hội bền vững ở Việt Nam. Trên cơ sở kế thừa những


12
thành quả của các cơng trình nghiên cứu đã được công bố, tác giả luận văn sẽ
đi sâu nghiên cứu về phát triển xã hội bền vững ở Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay dưới cách đánh giá và nhận xét của triết học, cũng như đưa ra những

giải pháp định hướng để phát triển xã hội bền vững những yêu cầu của xã hội.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn:
a. Mục đích của luận văn:
Làm rõ q trình phát triển xã hội bền vững ở Việt Nam lý luận và thực
tiễn, đồng thời chỉ ra những nguyên nhân, thực trạng và các giải pháp định
hướng phát triển xã hội bền vững ở Việt Nam hiện nay.
b. Nhiệm vụ của luận văn:
Một là, từ quan điểm phát triển của triết học Mác làm rõ khái niệm phát
triển bền vững và phát triển xã hội bền vững ở Việt Nam.
Hai là, trình bày mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trước thời kỳ đổi mới. Nguyên nhân,
thực trạng phát triển xã hội.
Ba là, trình bày mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới (1986) đến nay. Nguyên
nhân, thực trạng phát triển xã hội và những giải pháp định hướng để phát triển
xã hội bền vững ở Việt Nam hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn:
Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ đã nêu của đề tài, tác giả dựa trên cơ
sở thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam để nghiên cứu quan
điểm phát triển xã hội bền vững ở Việt Nam. Đồng thời trong quá trình
nghiên cứu và trình bày đề tài, tác giả còn sử dụng tổng hợp các phương pháp:


13
phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp logic lịch sử
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn:
Phát triển xã hội bền vững với tư cách một vấn đề triết học chứa đựng
trong bản thân nó cả một hệ vấn đề phong phú, phức tạp, liên quan đến hoạt
động của con người, sự phát triển con người và tiến bộ xã hội. Vì vậy, việc

làm sáng tỏ một vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển xã hội bền vững, tác
giả đã góp phần đưa lại một cách hiểu những vấn đề chính trị - xã hội của
cơng cuộc đổi mới để phát triển ở nước ta hiện nay.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng
dạy về giáo dục, làm cơ sở để nghiên cứu, vận dụng trong quá trình nghiên
cứu những lĩnh vực liên quan đến xã hội.
6. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 2 chương, 5 tiết, 6 mục.
Chương 1. Khái luận chung về phát triển và phát triển xã hội bền vững
Chương 2. Lý luận và thực tiễn trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Nguyên nhân, thực trạng và giải pháp phát triển xã hội bền vững ở
Việt Nam


14
Chương 1: Khái luận chung về phát triển và phát triển xã hội
bền vững
1.1. Hai quan điểm về phát triển
Phát triển là bản chất của vận động theo hướng đi lên của bản thân sự
vật, giới tự nhiên, xã hội và con người. Nắm được nguyên lý, quy luật phát
triển của thế giới nói chung, của xã hội lồi người nói riêng chính là nắm
được cơ sở khoa học của sự phát triển, cho phép con người chủ động, tích cực
hoạt động, thúc đẩy xã hội phát triển theo mục đích lồi người đã đặt ra.
Trong lịch sử triết học đã nhiều lý thuyết về phát triển, tính đúng đắn, mức độ
hoàn chỉnh của các quan điểm và các lý thuyết đó phụ thuộc vào trình độ nhận
thức và lý tưởng xã hội của con người. Chung quy lại, có hai quan điểm về
phát triển, đó là quan điểm siêu hình và quan điểm biện chứng.
1.1.1. Quan điểm phát triển của các nhà triết học trước Mác
Các nhà triết học trước Mác tuy chưa đề cập đến vấn đề phát triển như

một hệ thống nhưng trong quá trình giải quyết các vần đề của mình, các ơng
cũng đưa ra quan điểm của mình về vận động, phát triển.
Theo Galilê, các sự vật, hiện tượng trong thế giới vận động theo những
quy luật thuần túy vật lý. Còn Arixtốt đã phân chia vận động thành sáu loại là:
xuất hiện, diệt vong, tăng lên, giảm xuống, biến đổi và chuyển dịch.
Đến thế kỷ XVII thì quan điểm về vận động được hiểu rộng hơn và
bước đầu đi đến quan niệm về vận động như mọi sự thay đổi nói chung. Tiêu
biểu có Bacon, nhà triết học Anh thế kỷ XVII. Ông đã cố gắng tìm hiểu các
học thuyết đa dạng của vận động vật chất. Ơng đã nói đến hơn 20 vận động
khác nhau: vận động phát tán lớn, vận động phát tán nhỏ, vận động hấp dẫn,...
Đóng góp kiệt xuất thuộc về các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVIII. Chủ
nghĩa duy vật Pháp thế kỷ XVIII đến gần với chủ nghĩa duy vật biện chứng


15
trong quan niệm về tự nhiên. Nhà triết học Descartes cho rằng thuộc tính thứ
hai của vật chất là vận động và vận động hiểu theo nguyên lý cơ học, vận
động là sự chuyển dịch hay thay đổi vị trí lẫn nhau của các phân tử vật chất.
Nhưng bên cạnh đó hạn chế lớn nhất của chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVIII
là tính chất máy móc siêu hình do ảnh hưởng của cơ học, vì cơ học là khoa
học chiếm vị trí thống trị bây giờ.
Phép siêu hình cho rằng, mọi sự vật, hiện tượng, quá trình trong thế giới
đều tồn tại trong trạng thái biệt lập, riêng lẽ, khơng có liên hệ với nhau; nếu
có liên hệ thì đó chỉ là những liên hệ giản đơn, bề ngồi, phiến diện. Mọi sự
vật, hiện tượng và quá trình đều nằm trong trạng thái tĩnh tại, bất động và nếu
có vận động thì đó chỉ là sự vận động đơn giản mang tính cơ học, vận động
vịng trịn, lặp lại, khép kín. Phép siêu hình cịn khẳng định khơng có sự phát
triển trong các sự vật, hiện tượng, quá trình nếu có phát triển thì chỉ tăng lên
về số lượng chứ khơng có sự phát triển về chất lượng, tức là khơng có cái mới
ra đời trên cơ sở kế thừa những cái cũ để tiến lên.

Quan điểm siêu hình hoặc là không thừa nhận sự phát triển của các sự
vật, hiện tượng; hoặc là xem xét nó một cách phiến diện, chỉ đơn giản như là
sự gia tăng hay giảm thuần túy về mặt lượng, là sự lặp lại cái cũ mà khơng có
sự thay đổi về chất. Khi đáng giá về quan điểm siêu hình Ph. Ăngghen viết:
“Phương pháp nhận thức siêu hình, dù được coi là chính đáng và thậm chí là
cần thiết trong những lĩnh vực nhất định ít nhiều rộng lớn tùy theo tính chất
của đối tượng nghiên cứu, nhưng chóng hay chầy nó cũng sẽ gặp phải một
ranh giới mà nếu nó vượt qua thì nó trở thành phiến diện, hạn chế, trừu tượng
và sa vào những mâu thuẫn không thể nào giải quyết được, vì nó chỉ nhìn thấy
những sự vật riêng biệt mà khơng nhìn thấy mối liên hệ qua lại giữa những sự
vật ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại của những sự vật ấy mà khơng nhìn thấy sự


16
phát triển và sự tiêu vong của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh
của những sự vật ấy mà quên mất sự vận động của những sự vật ấy, chỉ nhìn
thấy cây mà khơng thấy rừng” [17; 37].
Heghen là người đầu tiên trình bày tồn bộ thế giới tự nhiên, lịch sử và
tư duy dưới dạng một q trình, nghĩa là đặt nó trong sự vận động, biến đổi và
phát triển khơng ngừng. Ơng khơng chỉ trình bày các phạm trù như: chất,
lượng, phủ định, mâu thuẫn v.v… mà cịn nói đến cả các quy luật như “lượng
đổi dẫn đến chất đổi và ngược lại” “phủ định của phủ định”, và quy luật mâu
thuẫn. Theo Mác “…. Đó là những quy luật mà Heghen lần đầu tiên đã phát
biểu một cách bao quát nhưng dưới một hình thức thần bí” [17; 23].
Tóm lại, các nhà triết học trước Mác cịn nhìn nhận và nghiên cứu về
sự phát triển một cách phiến diện chưa đầy đủ hoặc diễn đạt theo quan
điểm duy tâm. Do đó, Ph. Ăngghen phê phán Heghen đã đem những quy
luật bản chất từ bên ngồi vào tự nhiên và ơng đã khẳng định: “đối với tôi,
vấn đề là ở chỗ không thể đưa những quy luật biện chứng từ bên ngoài vào
giới tự nhiên, mà là phát hiện ra chúng trong giới tự nhiên và rút chúng ra

từ giới tự nhiên” [17; 25].
Sau này, Lênin cũng phê phán quan điểm siêu hình, V.I. Lênin viết: “Hai
quan niệm cơ bản…. về sự phát triển (sự tiến hóa): sự phát triển coi như là
giảm đi và tăng lên, như là lặp lại, và sự phát triển coi như là sự thống nhất
của các mặt đối lập…Với quan niệm thứ nhất về sự vận động, sự tự vận động,
động lực của nó, nguồn gốc của nó, động cơ của nó nằm trong bóng tối…Với
quan niệm thứ hai, sự lưu ý chủ yếu lại hướng chính vào sự nhận thức nguồn
gốc của “tự’ vận động. Quan niệm thứ nhất là chết cứng, nghèo nàn, khô
khan. Quan niệm thứ hai là sinh động. Chỉ có quan niệm thứ hai mới cho ta
chìa khóa của “sự tự vận động” của tất thảy mọi cái đang tồn tại; chỉ có nó


17
mới cho ta chìa khóa của những “bước nhảy vọt”, của sự “gián đoạn của tính
phiến diện”, của sự “chuyển hóa thành mặt đối lập”, của sự tiêu diệt cái cũ và
sự nảy sinh ra cái mới” [97; 379, 380].
Như vậy, trong lịch sử triết học, chỉ khi triết học Mác ra đời mới có quan
điểm đúng đắn về sự phát triển.
1.1.2. Quan điểm phát triển của triết học Mác
C. Mác và Ph. Ăngghen đã tiếp thu có phê phán triết học của Heghen.
Một mặt, các ông vạch ra mâu thuẫn giữa hệ thống duy tâm và phương pháp
biện chứng trong triết học Heghen; mặt khác, hai ông đã rút ra “hạt nhân hợp
lý” – phép biện chứng – trong triết học đó và cải tạo nó trên cơ sở duy vật.
Ăngghen khẳng định rằng” “một quan niệm đúng đắn về vũ trụ, về sự phát
triển của vũ trụ và sự phát triển của loài người, cũng như về sự phản ánh của
sự phát triển ấy vào trong đầu óc con người chỉ có thể có được bằng con
đường biện chứng, với sự chú ý thường xuyên đến những tác động qua lại phổ
biến giữa phát sinh và sự tiêu vong, giữa sự biến đổi tiến bộ và sự biến đổi
thụt lùi” [17; 39]. Phát triển tư tưởng khoa học và đúng đắn đó của Ph.
Ăngghen, V.I. Lênin nhấn mạnh: “Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải

nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mối liên hệ và “quan hệ gián tiếp” của
sự vật đó. Chúng ta khơng thể làm được điều đó một cách hồn tồn đầy đủ,
nhưng sự cần thiết phải xét tất cả mọi mặt sẽ đề phong cho chúng ta khỏi
phạm phải sai lầm và sự cứng nhắc. Đó là điểm thứ nhất. Điểm thứ hai là
lơgíc biện chứng địi hỏi phải xét sự vật trong sự phát triển, trong sự “tự vận
động” (…) trong sự biến đổi của nó” [98; 364]. Đối với V.I. Lênin, điều quan
trọng nhất của một sự nghiên cứu khoa học là “… không nên quên mối liên hệ
lịch sử căn bản, là xem xét mỗi vấn đề theo quan điểm sau đây: một hiện
tượng nhất định đã xuất hiện trong lịch sử như thế nào, hiện tượng đó đã trải


18
qua những giai đoạn phát triển chủ yếu nào và đứng trên quan điểm của sự
phát triển đó để xem xét hiện nay nó đã trở thành như thế nào” [98; 78].
Trong triết học duy vật biện chứng của C. Mác, nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến và sự phát triển của thế giới luôn gắn liền với nhau. Trong “Biện
chứng của tự nhiên”, Ph. Ăngghen đã khẳng định rằng: “Tất cả thế giới tự
nhiên mà chúng ta có thể nghiên cứu được là một hệ thống, một tập hợp các
vật thể khăng khít với nhau… Việc các vật thể ấy đều có liên hệ qua lại với
nhau đã có nghĩa là các vật thể này tác động lẫn nhau, và sự tác động qua lại
ấy chính là sự vận động” [17; 520]. Vì vậy, theo Ph. Ăngghen, nhiệm vụ của
phép biện chứng là nghiên cứu toàn diện sự vận động, sự phát triển của các
hiện tượng vật chất và tinh thần, qua đấy, vạch ra bản chất, các quy luật phổ
biến của những quá trình vận động, phát triển của chúng.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác chỉ ra vận động không tách rời vật
chất. Vận động khơng tách rời vật chất là một thuộc tính của vật chất. Ph.
Ăngghen khẳng định: “Vận động – là phương thức tồn tại của vật chất. Bất kỳ
ở đâu và bất cứ lúc nào cũng khơng có và khơng thể có vật chất mà khơng vận
động … Vật chất khơng có vận động, cũng như vận động khơng có vật chất,
đều là điều khơng thể hình dung nổi” [17; 84]. Vật chất không do ai sinh ra và

cũng không mất đi, nó chỉ chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác. Nó tồn tại
vĩnh viễn, do đó, vận động – thuộc tính cơ bản của vật chất – cũng tồn tại
vĩnh viễn. Ăngghen viết: “… chúng ta biết rằng người ta không thể sáng tạo
ra vật chất cũng như không thể sáng tạo ra phương thức tồn tại của vật chất,
tức là sự vận động, rằng do đó vật chất và phương thức tồn tại của nó là
nguyên nhân cuối cùng của bản thân chúng” [17; 751].
Theo quan điểm của C. Mác và Ph. Ăngghen, mọi sự vật, hiện tượng
luôn có những mối liên hệ và ở trong q trình vận động, biến đổi. Ph.


19
Ăngghen cho rằng “ Khi chúng ta dùng tư duy để xem xét giới tự nhiên, lịch
sử loài người, hay hoạt động tinh thần của bản thân chúng ta thì trước mắt,
chúng ta thấy một bức tranh về sự chằng chịt vô tận của những mối liên và
những sự tác động qua lại trong đó khơng có cái gì đứng nguyên, không thay
đổi, mà tất cả đều vận động, biến đổi, phát sinh và mất đi” [17; 35]. Sự vận
động, biến đổi ấy là vô cùng vô tận và diễn ra theo nhiều khuynh hướng. Ph.
Ăgghen khẳng định, “Vận động đem ứng dụng vào vật chất, thì có nghĩa là sự
biến hóa nói chung” [17; 742]. Đối với ơng, vận động không chỉ đơn thuần là
sự đổi chỗ hay di động, mà cịn là sự chuyển hóa, nhảy vọt về chất, là sự nảy
sinh và phát triển không ngừng của mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã
hội và tư duy. “Vận động không phải chỉ là một sự thay đổi vị trí: trong
những lĩnh vực siêu cơ học, nó cịn là những thay đổi về chất lượng” [17;
748]. Trình bày một cách khái quát quan điểm của mình về vận động, Ph.
Ăngghen viết: “Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, - tức được hiểu là một
phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, - thì
bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự
thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy” [17; 519]. Có thể coi đây là một định
nghĩa kinh điển của Ph. Ăngghen về sự vận động nói chung.
Khẳng định mọi sự vật, hiện tượng đều ở trong q trình vận động khơng

ngừng, triết học Mác cịn cho rằng q trình đó bao hàm cả sự đứng im tương
đối. Thiếu sự đứng yên tương đối này, mọi sự vật, hiện tượng sẽ không tồn tại
và phát triển. Ph. Ăngghen viết: “Vận động và cân bằng. Cân bằng không thể
tách khỏi vận động. Trong vận động của các thiên thể, có vận động trong cân
bằng và có cân bằng trong vận động (một cách tương đối). Nhưng bất kỳ vận
động tương đối riêng biệt nào, ở đây tức là bất kỳ vận động riêng biệt nào của
những vật riêng biệt trên một thiên thể đang vận động, cũng đều có xu hướng


20
khôi phục lại sự đứng yên tương đối, sự cân bằng. Khả năng đứng yên tương
đối của các vật thể, khả năng cân bằng tạm thời là những điều kiện chủ yếu
của sự phân hóa của vật chất, và do đó của sự sống” [17; 740].
Theo Ph. Ăngghen, vận động bao gồm nhiều hình thức khác nhau từ đơn
giản đến phức tạp, từ thấp đến cao. Trong “Biện chứng của tự nhiên”, Ph.
Ăngghen đã phân loại vận động của vật chất thành năm hình thức cơ bản: cơ,
lý, hóa, sinh và xã hội. Các hình thức vận động đó “đều do bản chất của
những vật thể đang vận động mà ra” [17; 743]. Sự phân loại các hình thức vận
động của Ph. Ăngghen có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng nhằm vạch ra
bức tranh khái quát về thế giới, vạch ra sự liên hệ và sự chuyển hóa lẫn nhau
giữa các sự vật, hiện tượng.
Vận động của vật chất bao gồm nhiều hình thức khác nhau, song các
hình thức đó tồn tại trong mối liên hệ và có sự chuyển hóa lẫn nhau. Ph.
Ăngghen khẳng định rằng: “…bằng tác động của bản thân chúng, những hình
thái ấy chứng minh rằng chúng là hình thái của cùng một sự vận động duy
nhất, bởi vì, trong những điều kiện nhất định, chúng có thể chuyển hóa từ một
hình thái này sang một hình thái khác” [17; 520].
Nguồn gốc tạo nên sự vận động, phát triển, theo quan niệm của các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác, là sự khác biệt, là những mâu thuẫn bên trong
của các sự vật, hiện tượng. Động lực thúc đẩy sự vận động, phát triển của

chúng là sự đấu tranh giữa các mặt đối lập. Do vậy, sự vận động của các sự
vật, hiện tượng là sự “tự vận động”. Theo Ph. Ăngghen, người ta sẽ khơng tìm
thấy sự khác biệt, mâu thuẫn nội tại của các sự vật, hiện tượng nếu xét chúng
trong trạng thái tĩnh. Tuy nhiên, tình hình sẽ khác hẳn khi chúng được xem
xét trong sự vận động và tác động lẫn nhau. Và Ph. Ăngghen đã giải thích
điều này như sau: “Lúc đó, chúng ta sẽ lập tức gặp phải mâu thuẫn. Bản thân


21
sự vận động đã là một mâu thuẫn; ngay như sự di động một cách máy móc và
đơn giản sở dĩ có thể thực hiện được cũng chỉ là vì một vật trong cùng một
lúc vừa ở nơi này vừa ở nơi khác… Và sự nảy sinh thường xuyên và việc giải
quyết đồng thời mâu thuẫn này – đó cũng chính là sự vận động” [17; 172,
173]. Ơng khơng những vạch ra mâu thuẫn tồn tại trong sự di động đơn giản,
mà còn vạch ra những mâu thuẫn nội tại trong các hình thái vận động cao
hơn: trong bản thân sự sống hữu cơ, trong tư duy của con người. Ph. Ăngghen
viết: “Nếu bản thân sự di động một cách máy móc đơn giản đã chứa đựng
mâu thuẫn, thì tất nhiên những hình thức vận động cao hơn của vật chất và
đặc biệt là sự sống hữu cơ và sự phát triển của sự sống hữu cơ và sự phát triển
của sự sống hữu cơ đó lại càng phải chứa đựng mâu thuẫn như vậy … rằng sự
sống trước hết chính là ở chỗ một sinh vật trong mỗi lúc vừa là nó nhưng lại
vừa là một cái khác. Như vậy, sự sống cũng là một mâu thuẫn tồn tại trong
bản thân các sự vật và các quá trình, một mâu thuẫn thường xuyên nảy sinh và
tự giải quyết, và khi mâu thuẫn chấm dứt thì sự sống cũng khơng còn nữa và
cái chết xảy đến. Cũng như chúng ta đã thấy rằng trong lĩnh vực tư duy,
chúng ta không thể tránh khỏi mâu thuẫn, chẳng hạn như mẫu thuẫn giữa
năng lực nhận thức vô tận bên trong của con người với sự tồn tại thực tế của
năng lực ấy trong những con người bị hạn chế bởi hoàn cảnh bên ngoài, và bị
hạn chế trong những năng lực nhận thức, - mâu thuẫn này được giải quyết
trong sự nối tiếp của các thế hệ … - và được giải quyết trong sự vận động đi

lên vô tận” [17; 172, 173]. Triết học Mác – Lênin coi sự tồn tại của các mẫu
thuẫn và sự đấu tranh giữa các mặt đối lập trong mọi sự vật, hiện tượng là
nguồn gốc và động lực tạo nên sự vận động, sự phát triển của chúng.
Tóm lại, trong học thuyết của C. Mác và Ph. Ăngghen, các khái niệm
“vận động” và “phát triển” là không đồng nhất với nhau. Tuy vậy, các ông


22
cũng chưa đưa ra sự phân định mang tính cụ thể, rạch ròi về các khái niện
này. Nhưng một điều rõ ràng là qua tư tưởng của các ông, những khái niệm
“vận động” và “phát triển” có sự liên hệ chặt chẽ với nhau. Khái niệm “vận
động” biểu hiện sự vận động, biến đổi nói chung theo các khuynh hướng khác
nhau, trong đó bao hàm cả “sự biến đổi tiến bộ và biến đổi thụt lùi” của các sự
vật, hiện tượng. Khái niệm “phát triển” hẹp hơn so với khái niệm “vận động”.
“Phát triển” đương nhiên là sự vận động (vận động theo khuynh hướng đi
lên). Song, không phải mọi sự vận động đều là sự phát triển. Sự phát triển,
một mặt là vận động đi lên; mặt khác, bao hàm trong đó tính kế thừa, lặp lại
cái cũ nhưng ở mức độ cao hơn và có sự xuất hiện của cái mới. Sự phát triển
– với ý nghĩa như vậy, theo quan điểm của triết học Mác, là khuynh hướng
chung của mọi sự vật, hiện tượng và quá trình. Phép biện chứng duy vật
khẳng định rằng tất cả mọi sự vật, hiện tượng đều có q trình phát sinh, phát
triển và tiêu vong, rằng “…toàn bộ thế giới tự nhiên, từ cái nhỏ nhất cho đến
cái lớn nhất, từ hạt cát cho đến mặt trời, từ những sinh vật nguyên thủy cho
đến con người, đều nằm trong tình trạng không ngừng sinh ra và diệt vong,
lưu động không ngừng, vận động và biến hóa bất tận” [17; 417].
Phát triển những tư tưởng của Mác và Ăngghen về vấn đề này, V.I. Lênin
cũng đưa ra được luận điểm khoa học, cho rằng: “Sự phát triển là một cuộc “đấu
tranh giữa các mặt đối lập” [97; 379]. Theo ông, sự thống nhất giữa các mặt đối
lập là tương đối, tạm thời và sự đấu tranh giữa các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là
tuyệt đối, do đó, cũng như sự phát triển, sự vận động là tuyệt đối. Nếu không có

sự đấu tranh của các mặt đối lập – tức là khơng có sự xuất hiện, tồn tại, phát triển
và giải quyết mâu thuẫn, thì khơng thể có sự vận động và phát triển của các sự
vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Trong tự nhiên, nhờ có sự tồn
tại và đấu tranh giữa các mặt đối lập – chẳng hạn giữa điện tích âm và điện tích


23
dương, giữa biến dị và di truyền, giữa đồng hóa và dị hóa…đã tạo nên sự vận
động, sự phát triển của các sự vật. Cũng như vậy, trong lĩnh vực xã hội và tư duy
đều có sự tồn tại và đấu tranh thường xuyên giữa các mặt đối lập, do vậy, tạo nên
sự vận động và phát triển của xã hội, của tư duy.
Đối với V.I. Lênin, phép biện chứng “… là học thuyết của sự phát triển,
dưới hình thức hồn bị nhất, sâu sắc nhất và khơng phiến diện” [95; 53].
Như vậy, theo quan điểm của triết học Mác phát triển là tự phát triển do
sự đấu tranh của các mặt đối lập trong bản thân các sự vật, hiện tượng. Phát
triển khơng theo đường thẳng, khơng theo vịng trịn khép kín mà theo đường
xoắn ốc. Phát triển là hệ thống phát triển. Hệ thống cũ mất đi, hệ thống mới ra
đời, chất cũ mất đi, chất mới ra đời. Nhưng trong sự phát triển ấy thì cái mới
cũng kế thừa tinh hoa của cái cũ để tiếp tục phát triển và lại kế thừa,.. Do đó,
phát triển phải có cái mới ra đời.
1.2. Phát triển xã hội bền vững ở Việt Nam
1.2.1. Khái niệm phát triển bền vững
Phát triển bền vững hiện đang là mục tiêu hướng tới của nhiều quốc gia
trên thế giới, mỗi quốc gia sẽ dựa theo đặc thù kinh tế, xã hội, chính trị, địa lý,
văn hóa… riêng để đề ra kế hoạch chiến lược phù hợp nhất với quốc gia đó,
vì vậy, họ đều tìm hiểu khái niệm bền vững và cho đó là một khái niệm mới
nhằm định nghĩa một sự phát triển về mọi mặt trong hiện tại mà vẫn phải bảo
đảm sự tiếp tục phát triển trong tương lai xa.
Xét về mặt lịch sử, khái niệm phát triển bền vững được Ủy ban Môi
trường và Phát triển thế giới (WCED) chính thức sử dụng trong báo cáo có

tựa đề Tương lai của chúng ta (Báo cáo Brundtland) năm 1987.
Xét về mặt nội dung, thoạt đầu, phát triển bền vững được hiểu với
nội dung là sự phát triển không chỉ chú trọng đến tới phát triển kinh tế,


24
mà cịn phải tơn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động
đến môi trường sinh thái. Ngày nay thì khái niệm phát triển bền vững
được hiểu theo nội dung bao quát và rộng hơn: phát triển bền vững là một
sự phát triển đảm bảo tăng trưởng kinh tế trên cơ sở sử dụng một cách
hợp lý tài nguyên thiên nhiên kết hợp với bảo vệ mơi trường sống nhằm
vừa có thể thỏa mãn được nhu cầu của thế hệ hôn nay, vừa không làm ảnh
hưởng đến điều kiện thỏa mãn nhu cầu và môi trường sống của các thế hệ
mai sau.
Khái niệm "phát triển bền vững" nhấn mạnh đến khả năng phát triển
kinh tế liên tục lâu dài, không gây ra những hậu quả tai hại khó khơi phục ở
những lĩnh vực khác, nhất là thiên nhiên. Phát triển mà làm hủy hoại môi
trường là một phát triển không bền vững, phát triển mà chỉ dựa vào những
loại tài nguyên có thể cạn kiệt (mà khơng lo trước đến ngày chúng cạn kiệt thì
phải làm sao) là một phát triển khơng bền vững. Có người còn thêm rằng lối
phát triển phụ thuộc quá nhiều vào ngoại lực (như FDI) cũng là khó bền vững,
vì nguồn ấy có nhiều rủi ro, khơng chắc chắn.
Tóm lại, phát triển bền vững là giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế và bảo vệ môi trường tự nhiên, đảm bảo công bằng giữa các thế hệ
trong việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Vì vậy, phát
triển bền vững thực chất là giải quyết ba mục tiêu chủ yếu: tăng trưởng kinh
tế, bảo vệ mơi trường và cơng bằng xã hội. Nói cách khác, phát triển bền
vững là sự phát triển trong đó bảo đảm kết hợp hài hòa giữa mục tiêu kinh tế,
mục tiêu xã hội và mục tiêu bảo vệ môi trường.
Đây là một quan điểm mang tính tổng hợp, bao gồm nhiều yếu tố cấu

thành khác nhau như về kinh tế, chính trị, xã hội, kỹ thuật, văn hóa… Mục
tiêu của phát triển ngày nay phải là nâng cao điều kiện và chất lượng cuộc


25
sống của lồi người, tạo nên cuộc sống cơng bằng và bình đẳng giữa các
thành viên.
Phát triển bền vững có nội hàm rất rộng, mỗi thành tố trong đó đều có
một ý nghĩa riêng. Một mẫu hình phát triển bền vững là mỗi địa phương,
vùng, quốc gia… không nên thiên về thành tố này và xem nhẹ thành tố kia.
Vấn đề là áp dụng nó như thế nào ở các cấp độ trên và trong các lĩnh vực khác
nhau của đời sống xã hội. Để chuyển hóa khái niệm phát triển bền vững từ
cấp độ lý thuyết áp dụng vào thực tiễn, khái niệm cần được làm sáng tỏ sau đó
áp dụng trực tiếp đối với các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
"Phát triển bền vững” là khái niệm mới ở Việt Nam. Như nhiều các quốc
gia khác trên thế giới, Việt Nam, phát triển bền vững đã sớm trở thành một
mục tiêu chiến lược quan trọng của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam.
Trước những thách thức của quá trình đổi mới và phát triển Việt Nam đề
ra nhiệm vụ của phát triển bền vững đó là phát triển nhưng phải đảm bảo việc
kết hợp hài hòa cả ba mặt kinh tế - xã hội – môi trường trong công cuộc đổi
mới, phát triển, công cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Ngày 25/6/1998, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 36-CT/TW “về việc
tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ cơng nghiệp hóa và hiện
đại hóa đất nước”. Tiếp đó, Đại hội IX của Đảng đã khẳng định Phát triển
nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ,
công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”. “Phát triển kinh tế – xã hội gắn chặt
với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hịa giữa mơi trường nhân
tạo với mơi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học”.
Ngày 17 tháng 8 năm 2001 tại Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg, Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở

Việt Nam (Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam) nhằm phát triển bền vững


×