Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về dân tộc và vấn đề xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 121 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

TRẦN HẠ LONG

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ DÂN TỘC VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG
KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2011


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-----000-----

TRẦN HẠ LONG

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ DÂN TỘC VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG
KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: TRIẾT HỌC
Mã số: 60.22.80

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
PGS, TS. LƯƠNG MINH CỪ



TP. HỒ CHÍ MINH - 2011


LỜI CẢM ƠN

Để hồn thành luận văn này, tơi đã nhận được sự giúp đỡ, dìu dắt tận tình
của quý thầy (cơ), các nhà khoa học trong và ngồi Khoa Triết học, Trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn PGS, TS. Lương Minh Cừ và PGS, TS. Trịnh
Dỗn Chính – những người thầy đã ln nhiệt tình, tận tâm giúp đỡ tơi trong
cơng tác nghiên cứu khoa học và có những định hướng cho tơi trong suốt q
trình hồn thành luận văn này. Tơi ln trân trọng những tình cảm mà các thầy
đã giành cho tôi. Các thầy luôn là những tấm gương sáng trong lao động, trong
nghiên cứu khoa học để tôi ln hướng tới trong bước đường tương lai của
mình.
Tơi cũng xin trân trọng cảm ơn Ban Chủ nhiệm, quý thầy, cô trong khoa
Triết học - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP. Hồ Chí Minh đã
ln quan tâm, tạo mọi điều kiện thuận lợi chúng tôi trong suốt quá trình học
tập, nghiên cứu khoa học ở trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu Trường Đại học Tài chính Marketing cùng tập thể cán bộ, giảng viên Khoa Cơ bản của Trường đã có ln
quan tâm, giúp đỡ tơi trong q trình học tập và công tác.
Xin cảm ơn các anh (chị) học viên Cao học, chuyên ngành Triết học khóa
2008 - 2011 đã nhiệt tình giúp đỡ tơi trong học tập cũng như trong cuộc sống.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình tơi, những người thân u
nhất đã ln là chỗ dựa vững chắc, giúp đỡ động viên trong những lúc khó khăn,
tạo điều kiện cho tơi học tập để có kết quả ngày hơm nay.

Tác giả



LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan đây là kết quả công trình nghiên cứu của
tơi. Những kết luận khoa học chưa từng được cơng bố trong
bất kỳ cơng trình nào.

Tác giả

Trần Hạ Long


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 01
PHẦN NỘI DUNG .......................................................................................... 08
Chương 1: NHỮNG ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC ............ 08
1.1. Điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội thế giới và Việt Nam cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX với việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn
đề dân tộc................................................................................................ 08
1.1.1. Bối cảnh kinh tế, chính trị, xã hội thế giới cuối thế kỷ XIX đầu thế
kỷ XX với việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc ...... 08
1.1.2. Bối cảnh kinh tế, chính trị, xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX - cơ sở xã hội hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân
tộc .......................................................................................................... 15
1.2. Tiền đề lý luận hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc........... 24
1.2.1. Truyền thống dân tộc Việt Nam, gia đình và những phẩm chất cá nhân của
Nguyễn Ái Quốc ..................................................................................... 24
1.2.2. Tinh hoa văn hóa nhân loại với việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về

vấn đề dân tộc ......................................................................................... 30
1.2.3. Quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin về các vấn đề dân tộc và
thuộc địa.................................................................................................. 34
Chương 2: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH VỀ DÂN TỘC VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI
ĐOÀN KẾT DÂN TỘC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .................. 47
2. 1. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc ............................... 47
2.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc thuộc địa ................................ 47
2.1.2. Chiến lược đại đoàn kết dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh.................. 62


2. 2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở
Việt Nam hiện nay .................................................................................. 81
2.2.1. Đảng lãnh đạo xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong lịch sử và
vấn đề đặt ra trong việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở Việt
Nam hiện nay .......................................................................................... 81
2.2.2. Những quan điểm và giải pháp chủ yếu của Đảng về xây dựng khối đại
đoàn kết dân tộc ...................................................................................... 90
KẾT LUẬN .................................................................................................... 106
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 110


1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Dân tộc Việt Nam có lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ
nước vẻ vang. Với truyền thống anh hùng, bất khuất, đoàn kết dân tộc ta đã đánh
thắng nhiều kẻ thù xâm lược mạnh hơn mình gấp nhiều lần, giành được và giữ

vững nền độc lập dân tộc, toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ đưa dân tộc ta tiến bước
sánh ngang với các dân tộc khác trên thế giới.
Kế thừa những giá trị tốt đẹp của truyền thống văn hóa dân tộc, dưới ánh
sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, hơn 80 năm qua
Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành được những
thắng lợi vĩ đại: Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thành lập nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa; thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước; thắng
lợi của công cuộc đổi mới, đưa vị thế của nước ta trên trường quốc tế ngày càng
được nâng cao.
Những thành tựu to lớn đó đã chứng tỏ đường lối đổi mới, xây dựng đất
nước theo con đường chủ nghĩa xã hội của Đảng ta, dựa trên nền tảng của chủ
nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là hoàn toàn đúng đắn.
Hiện nay, chúng ta bước vào thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế với rất nhiều
thời cơ và thuận lợi nhằm phát triển đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội
thuận lợi đó chúng ta cũng phải đối mặt với những nguy cơ và thách thức khơng
nhỏ. Nếu chúng ta khơng có những biện pháp giải quyết tốt thì những nguy cơ,
thách thức này sẽ là những lực cản rất lớn đến sự phát triển của đất nước, thậm
chí ảnh hưởng đến sự tồn vong của dân tộc. Những nguy cơ mà Hội nghị đại
biểu tồn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 01 năm 1994) của Đảng đã chỉ ra
vẫn cịn tồn tại. Đó là, sự tụt hậu ngày càng xa hơn về kinh tế so với nhiều nước


2

trong khu vực và trên thế giới; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa; tệ nạn
tham nhũng và quan liêu; sự triển khai “diễn biến hịa bình” của các thế lực thù
địch vẫn còn gia tăng, v.v..
Ngày nay, các thế lực phản động tiếp tục dùng nhiều âm mưu thủ đoạn tinh
vi hơn để xuyên tạc chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng

tư tưởng của Đảng ta. Chúng xuyên tạc, phủ nhận những thành quả cách mạng
của dân tộc ta; âm mưu chia rẽ khối đại đồn kết dân tộc, kích động mối quan hệ
dân tộc, xúi giục gây bạo loạn, nhằm lật đổ chính quyền cách mạng.
Vì vậy, hiện nay việc kế thừa, bảo vệ và phát triển những giá trị của chủ
nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt tư tưởng Hồ Chí Minh về
vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc, xây dựng đất nước trong tình hình mới ngày
càng trở nên cấp thiết.
Chính vì vậy, tơi chọn đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và vấn
đề xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài
nghiên cứu của mình với hy vọng đóng góp một phần khẳng định một lần nữa
những giá trị to lớn, quý báu của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đồng thời góp phần xây dựng, minh
chứng thêm cơ sở khoa học để Đảng, Nhà nước thêm thơng tin, nhận thức. Từ
đó hoạch định đường lối, chính sách dân tộc một cách đúng đắn, khoa học nhằm
xây dựng, phát triển đưa dân tộc ta lên một tầm cao mới trong thời kỳ hiện đại
của lịch sử thế giới.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh – người anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa
kiệt xuất của thế giới. Trong suốt cả cuộc đời và sự nghiệp của mình, Người đã
phấn đấu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, cho tự do và hạnh phúc của nhân
dân. Tư tưởng của Hồ Chí Minh là một di sản tinh thần đặc sắc, phong phú cho
toàn Đảng, toàn dân ta, và được thể hiện rõ ràng đường lối chính sách của Đảng


3

và gắn liền với thực tiễn các giai đoạn lịch sử nước ta kể từ khi Đảng Cộng sản
Việt Nam ra đời, lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh được rất nhiều các tổ chức và các học giả có uy tín
trong và ngồi nước quan tâm nhiên cứu, trong đó có hàng trăm các cơng trình

trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến lĩnh vực tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề
dân tộc. Có thể kể đến một số cơng trình nghiên cứu tiêu biểu có liên quan trực
tiếp đến đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và vấn đề xây dựng khối
đại đoàn kết dân tộc ở Việt Nam hiện nay” như: Hồ Chí Minh với sự nghiệp
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội do PGS.TS. Vũ Đình Hịe và PGS.TS. Bùi
Đình Phong (đồng chủ biên), Nxb. Chính trị quốc gia (2010). Trong đó các tác
giả đã tập trung phân tích làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và
cách mạng giải phóng dân tộc ta. Nội dung cuốn sách được coi như là những
tổng kết bước đầu về cống hiến to lớn, quan trọng nhất của tư tưởng Hồ Chí
Minh cho cách mạng Việt Nam. Trên cơ sở đó các tác giả khẳng định giá trị lý
luận và thực tiễn to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với độc lập dân tộc và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay; Cuốn sách Chiến lược đại
đoàn kết Hồ Chí Minh do PGS. TS. Phùng Hữu Phú chủ biên, Nxb. Chính trị
quốc gia (1995), nội dung cuốn sách tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ chiến
lược đại đoàn kết do Hồ Chí Minh khởi xướng nhằm tập hợp, phát huy sức
mạnh của toàn dân tộc, và của quốc tế vì mục tiêu độc lập, tự do và chủ nghĩa xã
hội. Từ đó các tác giả rút ra ý nghĩa về lý luận và thực tiễn góp phần hồn thiện
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Ngồi ra cịn có các
cơng trình khác, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc ở nhiều
góc độ khác nhau như Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề
dân tộc do PTS. Nguyễn Thế Thắng chủ biên, Nxb. Lao động, Hà Nội (1999);
Sự hình thành tư tường Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc của TS.
Nguyễn Đình Thuận, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội (2002); Chủ tịch Hồ Chí


4

Minh với việc giải quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng Việt Nam của Chu Đức
Tính, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội (2001), v.v..Các cuốn sách tập trung
nghiên cứu, làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc trên các phương

diện tiếp cận khác nhau.
Đặc biệt, kỷ niệm lần thứ 106 ngày sinh chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 18
tháng 05 năm 1996, Ủy ban dân tộc miền núi cùng với Học viện Chính trị quốc
gia thành phố Hồ Chí Minh tổ chức hội thảo khoa học – thực tiễn với đề tài “Tư
tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc ở Việt Nam”. Trong Hội thảo này có 45
bản báo cáo của các nhà khoa học và hoạt động thực tiễn, đã làm nổi bật về sự
quan tâm sâu sắc và tình cảm gắn kết của chủ tịch Hồ Chí Minh với đồng bào
các dân tộc ở Việt Nam. Các bài tham luận đã làm sáng tỏ một số vấn đề chủ
yếu như: Tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng, đồn kết giữa các dân tộc; tư
tưởng Hồ Chí Minh với vấn đề dân tộc ở miền núi trong sự nghiệp bảo vệ tổ
quốc; chủ tịch Hồ Chí Minh với việc phát triển kinh tế xã hội vùng dân tộc miền
núi những vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc trong chủ nghĩa xã hội, trong sự
nghiệp đổi mới dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh; đồng bào các dân tộc với
Bác Hồ, v.v..
Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 65 ngày thành lập mặt trận dân tộc thống nhất (18
tháng 11 năm 1930 – 18 tháng 11 năm 1995), ngày 03 tháng 11 năm 1995, Ủy
ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã tổ chức hội thảo khoa học - thực
tiễn “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và mặt trận dân tộc thống
nhất”. Gần 50 tham luận trong Hội thảo này đã nêu bật tư tưởng chiến lược đại
đoàn kết của chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải
phóng xã hội và giải phóng con người. Nhiều ý kiến phân tích và khẳng định sự
đúng đắn, tính nhất quán trong đường lối, chủ trương thực hiện chiến lược đại
đồn kết của chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng ta về đoàn kết giữa các tầng
lớp, dân tộc, tơn giáo, đồn kết giữa miền ngược với miền xuôi, giữa Trung –


5

Nam – Bắc và đoàn kế quốc tế. Hội thảo cũng khẳng định cuộc đời của chủ tịch
Hồ Chí Minh ln là tấm gương tiêu biểu cho khối đại đồn kết dân tộc.

Kỷ niệm 113 năm ngày sinh chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 16 tháng 05 năm
2003, Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng, Học viện chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh đã tổ chức Hội thảo khoa học “Tư tưởng đại đồn kết Hồ Chí
Minh với vấn đề phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời kỳ
mới”. Gần 30 bản tham luận của các nhà nghiên cứu, các nhà khoa học đã khẳng
định vai trò to lớn và sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong
quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Các tham luận cũng đã khẳng
định sự thống nhất giữa tư tưởng đại đồn kết dân tộc của Hồ Chí Minh với
đường lối đại đoàn kết của Đảng ta. Từ đó cho thấy, q trình từ nhận thức, xây
dựng và củng cố phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc dưới sự lãnh
đạo của chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng ta là những kinh nghiệm quý báu để
bảo vệ xây dựng và chấn hưng đất nước trong thời kỳ mới.
Ngồi ra, có thể kể đến một số bài báo nghiên cứu đề cập đến vấn đề này
như: Nguyễn Dương Bình (1990), “Chủ tịch Hồ Chí Minh và vấn đề dân tộc”,
Tạp chí Dân tộc học, (01), Tr. 13 – 22; Nguyễn Thị Kim Dung (2003), “Vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và miền núi vào việc thực hiện
chính sách dân tộc hiện nay”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (06), Tr. 30 – 33; Phạm
Hồng Chương (2003), “Tiếp tục nghiên cứu, vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ
Chí Minh về vấn đề dân tộc”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (07), Tr.25 – 27; Phạm Thế
Duyệt (2003), “Thực hiện đại đoàn kết dân tộc và những vấn đề đặt ra cho hệ
thống chính trị hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, (16), Tr.3 – 7; Lê Nhị Hoà (1998),
“Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa và sự lựa chọn con đường cứu
nước của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (04), Tr. 28 – 31;
Nam Hưng (1994), “Một số suy nghĩ về sự kết hợp giữa giải phóng dân tộc và
giải phóng con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (03),


6

Tr.15 – 17; Nguyễn Bá Linh (1993), “Những nhân tố quyết định đến sự hình

thành tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân
tộc”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (02), Tr.3 – 18; Trịnh Nhu (1996), “Quan hệ giữa
dân tộc và tôn giáo theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (06),
Tr.22 – 24; Nguyễn Duy Quý (2004), “Mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân
tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí Triết học, (05),
Tr.11 – 15, và nhiều bài báo khác nữa.
Có thể nói, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc đã được nhiều tổ chức
và nhiều nhà khoa học có uy tín quan tâm nghiên cứu, tìm hiểu. Nhưng thực sự
chưa có một cơng trình nào nghiên cứu về vấn đề này một cách có hệ thống.
Tuy vậy, những cơng trình, những tài liệu với các cách tiếp cận trên là tư
liệu hết sức bổ ích đối với tác giả trong quá trình thực hiện luận văn thạc sĩ Triết
học của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích của đề tài
Đề tài tập trung làm rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh
về vấn đề dân tộc. Từ đó làm rõ những giá trị to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh
đối với việc hoạch định đường lối chiến lược và chính sách của Đảng trong sự
nghiệp xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của đề tài:
Từ mục đích nêu trên đề tài có nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, trình bày và phân tích làm rõ những tiền đề dẫn đến sự hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc.
Thứ hai, trình bày và phân tích những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí
Minh về vấn đề dân tộc.
Thứ ba, tìm hiểu sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng Cộng sản
Việt Nam vào xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở nước ta hiện nay.


7


4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Với mục đích và nhiệm vụ nêu trên, luận văn dựa trên thế giới quan và
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử làm cơ sở lý luận cho quá trình nghiên cứu. Đồng thời tác giả luận văn cũng
đã sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như: lịch sử
và lơgíc, phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, so sánh, đối chiếu, v.v.. để
nghiên cứu và trình bày luận văn.
5. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ những nội dung và giá trị cơ bản của tư tưởng
Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và đại đoàn kết dân tộc, trên cơ sở đó góp phần
khẳng định rõ thêm vai trị đặc biệt quan trọng của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam của Đảng trong sự nghiệp
đấu tranh giải phóng dân tộc và công cuộc xây dựng, phát triển đất nước ta hiện
nay. Đồng thời, luận văn cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo bổ ích cho
việc nghiên cứu và giảng dạy về tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường Đại
học và Cao đẳng.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn bao gồm 2 chương với 4 mục, 9 tiểu mục với 98 trang viết.


8

Chương 1
NHỮNG ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC

1.1.

ĐIỀU KIỆN KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, XÃ HỘI THẾ GIỚI VÀ VIỆT


NAM CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX VỚI VIỆC HÌNH THÀNH TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC

1.1.1. Bối cảnh kinh tế, chính trị, xã hội thế giới cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX với việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc
Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất
của thế giới. Cả cuộc đời và sự nghiệp của người gắn liền với lịch sử cách mạng
giải phóng dân tộc của Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng
của Người về vấn đề dân tộc nói riêng là sự kết tinh tinh hoa văn hóa nhân loại
và thực tiễn thời đại Người đã sống. Đây là thời kỳ thế giới xẩy ra nhiều biến
động to lớn trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng, v.v..
Từ những năm 40 của thế kỷ XIX phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã
phát triển mạnh mẽ và trở thành thống trị ở các Anh, Pháp và một số các nước
khác của châu Âu. Đến những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX chủ nghĩa tư
bản phương Tây bước sang một giai đoạn mới, chuyển từ giai đoạn tự do cạnh
tranh sang giai đoạn độc quyền.
Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế hàng hóa đã làm biến đổi cơ cấu kinh
tế của xã hội tư bản theo hướng tập trung sản xuất với quy mơ ngày càng lớn. Vì
vậy, nó đã đặt ra những yêu cầu bức xúc về nguồn nguyên liệu, nhân cơng và thị
trường tiêu thụ hàng hóa. Để giải quyết những vấn đề này, các nước tư bản đế
quốc, trong nước thì tăng cường bóc lột nhân dân lao động, bên ngồi thì đẩy
mạnh q trình xâm lược và áp bức nhân dân các nước thuộc địa, biến các quốc
gia này thành thị trường tiêu thụ hàng hóa, nơi cung cấp nguyên vật liệu, khai


9

thác sức lao động và xuất khẩu tư bản. “Chỉ chín nước1 với tổng số dân
320.657.000 người và diện tích 11.407.600 km 2 bóc lột các nước thuộc địa với

hàng trăm dân tộc với số dân 560.193.000 và diện tích 55.637.000 km 2. Toàn bộ
lãnh thổ các nước thuộc địa rộng gấp năm lần lãnh thổ của các nước chính
quốc, cịn số dân của các nước chính quốc chưa bằng 3/5 số dân của các nước
thuộc địa… Số dân của các thuộc địa Anh đông gấp 8 lần rưỡi số dân nước Anh
và đất đai của các nước thuộc địa Anh gấp 252 lần đất đai của nước Anh. Còn
nước Pháp thì chiếm một số đất đai rộng gấp 19 lần nước Pháp; và số dân ở
các nước thuộc địa Pháp đông hơn số dân nước Pháp 16.600.000 người” [41,
tr. 277].
Sự thống trị tàn bạo của các nước tư bản đế quốc làm đời sống nhân nhân dân
lao động, đặc biệt ở các nước thuộc địa vô cùng cực khổ. Điều này đã làm cho
hai mâu thuẫn lớn, đó là: mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô sản
cùng với mâu thuẫn giữa các nước thuộc địa với các nước đế quốc ngày càng trở
nên gay gắt. Từ đó dẫn đến phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế và phong
trào đấu tranh chống xâm lược, giải phóng dân tộc ở khắp nơi trên thế giới diễn
ra ngày càng mạnh mẽ.
Bên cạnh đó, do sự phát triển không đồng đều, giữa các nước tư bản chủ
nghĩa cũng đã xuất hiện mâu thuẫn và nổ ra những cuộc đấu tranh rất gay gắt để
tranh giành thị trường, thuộc địa và phân chia lại thế giới. Sự đấu tranh ấy đã
làm nổ ra cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 – 1918). Cuộc chiến tranh
này đã gây ra hậu quả đau thương cho nhân dân các nước trên thế giới (khoảng
10 triệu người chết và 20 triệu người bị tàn phế do chiến tranh). Đồng thời nó
cũng đã làm cho các nước tư bản suy yếu và mâu thuẫn giữa các nước đế quốc
cũng tăng thêm. Tình hình này đã tạo điều kiện cho phong trào đấu tranh của các
1

Chín nước đế quốc bao gồm: Anh, Pháp, Mỹ, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Italia, Nhật Bản, Hà Lan và Bỉ


10


dân tộc ở các nước thuộc địa phát triển mạnh mẽ.
Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân chống áp bức bóc lột phát triển
ngày càng mạnh mẽ đã đặt ra yêu cầu bức thiết là cần phải có một lý luận cách
mạng dẫn đường. Chủ nghĩa Mác, ra đời vào giữa thế kỷ XIX, đã đáp ứng yêu
cầu đó. Chủ nghĩa Mác là một học thuyết khoa học, tiên tiến của thời đại, có sức
hấp dẫn lớn đối với quần chúng nhân dân lao động và những nhà tư tưởng tiến
bộ trên thế giới, vì nó đặt ra vấn đề giải phóng con người khỏi ách áp bức bóc
lột của chế độ tư bản chủ nghĩa, nó đã nâng những người vô sản, những người bị
áp bức trở thành người chủ của xã hội, đưa quần chúng nhân dân trở thành chủ
thể sáng tạo của lịch sử, sáng tạo ra một xã hội mới tốt đẹp hơn, xã hội mà tất cả
mọi người có cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc. Chủ nghĩa Mác đã cổ vũ tình
đồn kết của giai cấp vơ sản trên tồn thế giới trong cuộc đấu tranh lật đổ chế độ
tư bản bằng khẩu hiệu “Vơ sản tất cả các nước đồn kết lại !”. Chủ nghĩa Mác
đã phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là lực lượng lãnh đạo
cách mạng xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa; giải phóng giai cấp mình, giải phóng
nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn, lạc
hậu, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa tươi đẹp. Vì vậy, chủ nghĩa Mác đã trở
thành lý luận cách mạng, là kim chỉ nam soi đường, chỉ lối cho cuộc đấu tranh
của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động. Nhờ đó giai cấp cơng nhân đã trở
thành một lực lượng chính trị độc lập trên vũ đài chính trị, chủ nghĩa cộng sản
đã trở thành một thế lực trên khắp châu Âu.
Bước vào những năm cuối thế kỷ XIX, trung tâm của phong trào cách mạng
chuyển từ các nước châu Âu sang nước Nga. Vận dụng, kế thừa và phát triển lý
luận của chủ nghĩa Mác vào tình hình mới để giải quyết những vấn đề thực tiễn
đang đặt ra đối với phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động, V. I. Lênin đã bổ sung và lý luận của chủ nghĩa Mác nhiều nội dung mới
gắn với thực tiễn cách mạng và lý luận ấy trở thành chủ nghĩa Mác – Lênin, soi


11


sáng cho con đường cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
trên toàn thế giới.
Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênnin, Đảng Cộng sản Bơsêvích
Nga đã lãnh đạo cuộc Cách mạng Tháng Mười vĩ đại giành thắng lợi năm 1917.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười đã xóa bỏ ách áp bức, bóc lột tư bản chủ
nghĩa và những tàn dư của chế độ chuyên chế Nga hoàng. Thắng lợi của cách
mạng tháng Mười Nga đã làm cho chủ nghĩa cộng sản từ lý luận trở thành thực
tiễn sinh động, đã không chỉ giải phóng cho giai cấp cơng nhân, nơng dân và
nhân dân lao động, đưa họ tới địa vị của người làm chủ xã hội, mà còn làm rung
chuyển thế giới, mở ra một thời đại mới trong lịch sử nhân loại, thời đại quá độ
từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Cách mạng
Tháng Mười đồng thời còn mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, thức tỉnh và cổ vũ các dân tộc trong cuộc đấu tranh giải
phóng, chống lại ách áp bức, bóc lột và nơ dịch của chủ nghĩa đế quốc và chủ
nghĩa thực dân, xóa bỏ mọi hình thức nơ lệ, vươn tới tự do, bình đẳng, thực hiện
quyền tự quyết dân tộc.
Ðánh giá về tầm vóc lịch sử thế giới, ý nghĩa quốc tế và thời đại của Cách
mạng Tháng Mười, Hồ Chí Minh đã viết: “Như ánh mặt trời rạng đơng xua tan
bóng tối, cuộc Cách mạng Tháng Mười đã chiếu rọi ánh sáng mới vào lịch sử
loài người... Cách mạng Tháng Mười đã chặt đứt xiềng xích của chủ nghĩa đế
quốc, phá tan cơ sở của nó và giáng cho nó một địn chí mạng. Cách mạng
Tháng Mười như tiếng sét đánh thức nhân dân châu Á thức tỉnh giấc mê hàng
thế kỷ nay mở ra trước mắt họ thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải
phóng dân tộc” [48, tr. 558 – 562].
Sau khi giành được chính quyền, Lênin và Đảng Cộng sản Bơsêvích đã lãnh
đạo giai cấp công nhân và nhân dân lao động nước Nga thiết lập chính quyền Xơ
viết - bộ máy nhà nước mới của nhân dân lao động. Chính quyền Xô viết đã xây



12

dựng nhiều chính sách hết sức tiến bộ như: xóa bỏ mọi phân biệt đẳng cấp, sắc
tộc, tuyên bố quyền bình đảng nam nữ, tơn trong quyền tự do tín ngưỡng và thừa
nhận bình đẳng và chủ quyền giữa các dân tộc.
Trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế,
đặc biệt sau cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga thành công và
sự ra đời của Nhà nước Xô viết, Lênin và Đảng Cộng sản Bơsêvích đã tập hợp
những lực lượng cách mạng chân chính để tiến hành thành lập một tổ chức quốc
tế mới của giai cấp vô sản. Tháng 03 năm 1919 Quốc tế III – Quốc tế Cộng sản
(Quốc tế III) được thành lập tại Mátxcơva với sự tham gia của các tổ chức cộng
sản từ 30 nước trên khắp thế giới. Quốc tế Cộng sản được xây dựng theo những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Quốc tế Cộng sản đã xác định
đường lối cách mạng triệt để và khoa học của phong trào cách mạng là lật đổ
chính quyền tư sản, giành chính quyền về tay giai cấp vơ sản, thiết lập chính
quyền vơ sản với sự giúp đỡ của chính quyền nước Nga Xơ viết, xóa bỏ chế độ
xã hội cũ, xây dựng chế độ xã hội mới xã hội cộng sản chủ nghĩa. Quốc tế Cộng
sản đã trở thành một tổ chức có vai trị to lớn trong việc tập hợp, tổ chức quần
chúng bị áp bức trên thế giới thành một trận tuyến cách mạng rộng lớn trong
cuộc đấu tranh chống đế quốc.
Sau khi thành lập, Quốc tế Cộng sản đã có nhiều hoạt động tích cực thúc đẩy
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đặc biệt Quốc tế Cộng sản rất quan
tâm đến vấn đề dân tộc và thuộc địa. Năm 1920, tại đại hội II của Quốc tế Cộng
sản, Lênin đã trình bày Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa.
Những nội dung trong luận cương đã đặt nền tảng chính trị và tư tưởng cho việc
giải quyết đúng đắn những vấn đề của phong trào giải phóng dân tộc. Từ đó, đã
vạch ra con đường đấu tranh của nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc,
cũng như chỉ ra sự phối hợp giữa phong trào công nhân quốc tế và cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc. Đây chính là tác phẩm có ảnh hưởng quyết định nhất



13

đến bước chuyển của Nguyễn Ái Quốc từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa
cộng sản - chủ nghĩa Mác – Lênin. Đại hội đã tán thành đường lối chính trị của
Lênin về những vấn đề dân tộc và thuộc địa đồng thời nêu cao tinh thần đoàn kết
anh em của các dân tộc phương Đông và giai cấp vô sản phương Tây.
Tháng 12 năm 1922, Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết (Liên
Xô) ra đời. Đây chính là thắng lợi của chính sách dân tộc theo chủ nghĩa Lênin,
thắng lợi của tình hữu nghị anh em giữa các dân tộc trong quốc gia công nông
đầu tiên trên thế giới. Từ đây, loài người tiến bộ đã tìm thấy con đường đúng
đắn giải quyết vấn đề dân tộc, thủ tiêu mọi bất bình đẳng và xây dựng một cộng
đồng anh em giữa các dân tộc.
Chính thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, sự ra đời của nhà
nước vô sản đầu tiên trên thế giới và sự ra đời của Quốc tế Cộng sản III là nguồn
động viên, cổ vũ vô cùng to lớn đối với phong trào giải phóng dân tộc ở các
nước thuộc địa trên khắp thế giới.
Trong khi các nước phương Tây có sự phát triển mạnh mẽ, một số nước trở
thành đế quốc thì hầu hết các nước phương Đơng vẫn cịn là những quốc gia
phong kiến bảo thủ, trì trệ, lạc hậu. Do vậy, khi bị chủ nghĩa đế quốc xâm lược
thì phần lớn chính quyền phong kiến ở các quốc gia này đều bất lực trong vấn đề
bảo vệ độc lập dân tộc và trở thành thuộc địa của các nước đế quốc.
Cuối thế kỷ XIX, tình hình kinh tế - chính trị Trung Quốc lâm vào suy thối.
Triều đình Mãn Thanh bảo thủ khơng cịn đảm đương được vai trị lịch sử của
mình nên đã liên tiếp thất bại trước những cuộc chiến tranh của các nước đế
quốc và dần dần rơi và cảnh bị các nước thực dân đế quốc xâu xé.
Đầu thế kỷ XX, lịch sử Trung Quốc có sự chuyến biến quan trọng đó là cuộc
cách mạng Tân Hợi năm 1911, do nhà các mạng vĩ đại Tôn Trung Sơn lãnh đạo,
lật đổ nền quân chủ chuyên chế Mãn Thanh và sau đó thành lập nền cộng hòa
của Trung Hoa dân quốc, thực hiện cương lĩnh chính trị theo học thuyết Tam



14

dân: Dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc.
Cùng với Cách mạng Tân Hợi 1911 của Tôn Trung Sơn, phong trào Duy Tân
của hai nhà tư tưởng tiến bộ Trung Quốc lúc bấy giờ là Khang Hữu Vi và Lương
Khải Siêu cũng ảnh hưởng sâu sắc đến các nhà nho tiến bộ của Việt Nam. Từ đó
thúc đẩy phong trào cách mạng theo khuynh dân chủ tư sản ở Việt Nam những
năm đầu thế kỷ XX.
Nhật Bản là một trong số những nước hiếm hoi ở châu Á không bị các nước
đế quốc xâm lược và trở thành thuộc địa, thậm chí nước Nhật sau này đã phát
triển và trở thành một đế quốc hùng mạnh đi xâm lược, áp bức các dân tộc khác.
Đó là vì năm 1868 khi Thiên hồng Minh trị lên ngơi, đã nhanh chóng thi hành
chính sách mở cửa, canh tân đất nước. Đồng thời cử phái đoàn tham quan, học
hỏi, nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, thể chế chính trị, hiến pháp của các nước
châu Âu và châu Mỹ để áp dụng vào quá trình phát triển đất nước. Từ đó đã tạo
ra một thời kỳ phát triển mạnh mẽ về kinh tế - xã hội, đưa Nhật Bản từ một nước
phong kiến trở thành một nước tư bản chủ nghĩa đầu tiên ở phương Đơng. Sau
đó Nhật Bản cũng thi hành chính sách thực dân đế quốc, bành trướng xâm lược
các nước khác. Từ năm 1879 đến 1894, Nhật Bản liên tiếp gây chiến tranh với
các nước Triều Tiên, Trung Quốc, Đài Loan. Đặc biệt trong cuộc chiến tranh với
nước Nga 1904 – 1905, Nhật Bản đã giành thắng lợi. Chiến thắng đó đã gây
tiếng vang lớn và tác động lớn đến phong trào giải phóng dân tộc ở các nước
châu Á. Từ đó có rất nhiều nhân sĩ, chính khách châu Á đến Nhận Bản để mong
học hỏi kinh nghiệm và nhờ Nhật giúp đỡ phong trào giải phóng dân tộc ở nước
mình.
Ở các nước Đơng Nam Á, ngay từ đầu thế kỷ XV các nước đế quốc đã bắt
đầu xâm lược các nước ở khu vực này. Đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX thì
tồn bộ các nước Đông Nam Á đều trở thành thuộc địa hoặc phụ thuộc và bị bóc

lột hết sức nặng nề. Mặt khác cũng đồng thời đã xuất hiện nhiều cuộc đấu tranh


15

chống xâm lược, giải phóng đất nước ở các quốc gia này, nhưng hầu hết khơng
có một thắng lợi đáng kể nào. Duy chỉ có nước Xiêm (Thái Lan) đã nhận thức
được cục diện chính trị thế giới và đã xây dựng được chương trình hành động để
bảo vệ được chủ quyền, tuy vậy cũng khơng thốt khỏi sự lệ thuộc và bị khống
chế bởi sức mạnh kinh tế - chính trị của các nước đế quốc.
Đầu thế kỷ thứ XX, do ảnh hưởng của các trào lưu tư tưởng mới, phong trào
đấu tranh ở các nước Đông Nam Á chuyển sang khuynh hướng dân chủ tư sản.
1.1.2. Bối cảnh kinh tế, chính trị, xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX - cơ sở xã hội hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân
tộc
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, đời sống kinh tế, chính trị, xã hội Việt Nam
đã diễn ra bước chuyển mạnh mẽ về mọi mặt. Xã hội Việt Nam từ chế độ phong
kiến, quân chủ chuyên chế chuyển sang chế độ xã hội thuộc địa nửa thực dân,
phong kiến. Sự chuyển biến này được đánh dấu vào năm 1958 khi thực dân
Pháp nổ súng xâm lược Đà Nẵng. Trong khi triều đình nhà Nguyễn hèn hạ từng
bước đầu hàng thực dân Pháp thì các phong trào yêu nước chống xâm lược của
nhân dân liên tiếp nổi lên. Tuy nhiên, tất cả các phong trào yêu nước đều lần
lượt thất bại vì khơng có một đường lối chiến lược đúng đắn và không xuất phát
từ một hệ tư tưởng đúng đắn.
Sau khi cơ bản đã dập tắt các phong trào yêu nước, thực dân Pháp từng bước
thiết lập bộ máy thống trị của chúng ở Việt Nam.
Về chính trị, thực dân Pháp thi hành chính sách chia để trị, chúng chia Việt
Nam ra thành 03 xứ, Nam Kỳ, Trung Kỳ và Bắc Kỳ, mọi quyền hành đều năm
trong tay người Pháp. Đứng đầu Nam Kỳ là thống đốc, Trung Kỳ là khâm sứ,
Bắc Kỳ là cơng sứ. Triều đình nhà Nguyễn trị vì ở Trung Kỳ thực chất chỉ là bù

nhìn, mọi quyền hành đều nằm trong tay khâm sứ người Pháp. Ở mỗi một Kỳ,
thực dân Pháp lại thực hiện chế độ cai trị riêng, nhằm chia rẽ dân tộc và tôn


16

giáo, thực hiện mục tiêu phá hoại khối đoàn kết của dân tộc Việt Nam. Bên cạnh
đó thực dân Pháp vẫn duy trì bộ máy chính quyền phong kiến, hợp tác với bọn
quan lại, địa chủ nhằm biến chúng trở thành tay sai đắc lực để dễ bề thống trị
dân tộc Việt Nam.
Sau này, khi đánh giá chính sách cai trị tàn bạo của thực dân Pháp đối với
dân tộc Việt Nam, trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945, chủ tịch Hồ Chí
Minh viết:
“Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân chúng ta một quyền tự do
dân chủ nào.
Chúng thi hành pháp luật hết sức dã man. Chúng thiết lập ba chế độ khác
nhau ở Trung, Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn
cản dân tộc ta đoàn kết.
Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết
những người yêu nước, thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của
ta trong bể máu” [44, tr. 1, 2].
Về kinh tế, chúng thi hành chính sách độc quyền về kinh tế, làm cho kinh tế
Việt Nam phụ thuộc hoàn toàn vào kinh tế Pháp và phát triển một cách què quặt,
và mặt khác chúng dùng mọi thủ đoạn cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền, ra
sức khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên. Chúng độc chiếm nguồn
thuế, độc quyền sản xuất và độc quyền ngoại thương. Do vậy, nhân dân tan bị
bần cùng hóa, nông dân bị mất ruộng đất, các nhà tư sản dân tộc bị chèn ép dẫn
tới phá sản. Tuyên ngôn Độc lập 1945 của chủ tịch Hồ Chí Minh nhận xét tiếp:
“Về kinh tế, chúng bóc lột nhân dân ta đến tận xương tủy, khiến cho nhân dân ta
nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất,

hầm mỏ, nguyên liệu.
Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng.
Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và


17

dân buôn, trở nên bần cùng.
Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột cơng nhân
ta một cách vô cùng tàn nhẫn” [44, tr. 2].
Về văn hóa, thực dân Pháp thực hiện chính sách ngu dân để dễ bể thống trị.
Chúng đầu độc nhân dân ta bằng rượu và thuốc phiện; dung túng, duy trì các tập
tục lạc hậu; hủy hoại các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt
Nam, tuyên truyền tâm lý tự ti vong bản. Chúng tìm cách cấm đốn ngăn chặn
những ảnh hưởng của văn hóa tiến bộ trên thế giới du nhập vào Việt Nam.
Dưới sự tác động của các chính sách bóc lột của thực dân Pháp, xã hội Việt
Nam đã diễn ra sự phân hóa giai cấp ngày càng sâu sắc. Bên cạnh những giai
cấp có tính chất truyền thống cũ (giai cấp địa chủ và giai cấp nông dân) trong xã
hội Việt Nam xuất hiện thêm các giai cấp, tầng lớp mới. Đó là giai cấp công
nhân, giai cấp tư sản và tầng lớp tiểu tư sản thành thị.
Giai cấp địa chủ phong kiến Việt Nam vốn đã tồn tại từ lâu đời, nay thực dân
Pháp xâm lược Việt Nam, chúng khơng xóa bỏ mà vẫn tiếp tục duy trì và củng
cố địa vị của giai cấp này để làm cơ sở cho chế độ thuộc địa của chúng. Tuy
nhiên, xét về mặt tư tưởng và tinh thần yêu nước có thể chia giai cấp này thành
hai hạng: Hạng thứ nhất có quyền lợi và địa vị do phục vụ đắc lực cho thực dân
Pháp mà ngày càng được cùng cố. Cho nên lực lượng này rất trung thành và cam
chịu làm tay sai cho thực dân Pháp, áp bức bóc lột nhân dân, phản bội lại quyền
lợi của dân tộc; hạng thứ hai, tuy cũng là địa chủ phong kiến nhưng bị thực dân
Pháp chèn ép về kinh tế, hơn nữa họ sinh ra trong một dân tộc có truyền thống
yêu nước, không cam chịu nỗi nhục mất nước, đã đứng về phía quyền lợi của

dân tộc, tham gia chống chủ nghĩa thực dân và bọn tay sai phản động.
Giai cấp nông dân là lực lượng lao động đông đảo nhất trong xã hội Việt
Nam, chiếm khoảng 90 % dân số. Họ phải chịu hai tầng áp bức bóc lột: chủ
nghĩa thực dân và địa chủ phong kiến. Phần lớn nông dân bị tước đoạt hết ruộng


18

đất, họ bị bần cùng hóa, bị mất nhà cửa. Họ phải đi tha phương cầu thực, một số
ra thành thị làm công nhân, một số làm phu mỏ, phu đồn điền, số còn lại tiếp tục
ở lại quê hương, gắn bó với đồng ruộng. Nhưng dù họ có ở lại quê hương hay đi
làm thuê ở nơi khác thì cũng đều bị bóc lột hết sức nặng nề. Do vậy, họ có mâu
thuẫn sâu sắc với cả thực dân Pháp và bọn địa chủ phong kiến tay sai, họ vừa có
yêu cầu độc lập dân tộc và yêu cầu ruộng đất. Do chiếm phần lớn dân số và là
đối tượng bị bóc lột nặng nề nhất nên họ cũng chính là lực lượng to lớn có tinh
thần cách mạng mạnh mẽ. Vì vậy, nếu được lơi kéo vào phong trào cách mạng
và được tổ chức tốt họ sẽ phát huy được vai trị quan trọng của minh trong cơng
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp.
Giai cấp tư sản là giai cấp mới, ra đời trong quá trình thực dân Pháp tiến
hành cuộc khai thác thuộc địa. Đa phần trong số họ là nhà buôn hoặc địa chủ đi
lên. Giai cấp tư sản Việt Nam ra đời trong điều kiện bị thực dân Pháp chèn ép,
số lượng ít ỏi, tiềm lực kinh tế cịn nhỏ bé, thế lực chính trị yếu đuối. Trong q
trình phát triển có thể chia giai cấp tư sản Việt Nam thành hai bộ phận: tư sản
mại bản và tư sản dân tộc. Tư sản mại bản là những nhà tư sản lớn, họ làm trung
gian giữa tư bản nước ngoài và thị trường trong nước, gắn chặt lợi ích của mình
với lợi ích của thực dân Pháp, thực chất là làm tay sai cho các thế lực đế quốc
bóc lột nhân dân mình. Tư sản mại bản vừa cấu kết chặt chẽ với tư bản nước
ngoài vừa cấu kết chặt chẽ với giai cấp địa chủ phong kiến phản động trong
nước để bóc lột nhân dân lao động, duy trì địa vị và lợi ích của mình. Vì vậy, tư
sản mại bản cũng là đối tượng của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.

Tư sản dân tộc là một bộ phận đông đảo trong giai cấp tư sản, gồm những tư sản
vừa và nhỏ, hoạt động trong lĩnh vực cơng nghiệp, thương nghiệp và tiểu thủ
cơng nghiệp. Do chính sách độc quyền của thực dân Pháp, họ cũng bị chèn ép và
không đủ sức đương đầu với sự cạnh tranh của đế quốc. Trong mối quan hệ với
đế quốc Pháp, tư sản dân tộc cũng là những người mất nước, có mâu thuẫn về


19

quyền lợi với thực dân phong kiến, nên họ cũng có tinh thần chống thực dân,
phong kiến.
Do vậy, giai cấp tư sản không đủ điều kiện để lãnh đạo cách mạng, nhưng
trong q trình cách mạng cần phải biết khơn khéo, lôi kéo bộ phận tư sản dân
tộc tham gia vào phong trào cách mạng giải phóng dân tộc.
Tầng lớp tiểu tư sản trong thời kỳ này bao gồm học sinh, trí thức, tiểu
thương, tiểu chủ, thợ thủ cơng, viên chức, những người làm nghề tự do, dân
nghèo thành thị… Những người này cuộc sống cũng rất bấp bênh, họ cũng bị
bóc lột, ln bị de dọa phá sản, thất nghiệp và rất nhiều trong số họ trở thành
những người vô sản. Tầng lớp tiểu tư sản đặc biệt là giới học sinh, trí thức tiến
bộ cũng có tinh thần yêu nước và hăng hái hoạt động cách mạng. Do vậy tầng
lớp tiểu tư sản cũng là một lực lượng cách mạng rất quan trọng và là bạn đồng
minh tin cậy của giai cấp công nhân.
Giai cấp công nhân Việt Nam là sản phẩm trực tiếp của công cuộc khai thác
thuộc địa của thực dân Pháp, ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất. Đến
cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai giai cấp công nhân Việt Nam nhanh chóng
phát triển về số lượng. Đa phần trong số họ xuất thân trực tiếp từ giai cấp nông
dân - những người bị tước đoạt ruộng đất, khơng cịn tư liệu sản xuất vì vậy phải
đi làm thuê để kiếm sống qua ngày. Đặc điểm này làm cho giai cấp vơ sản Việt
Nam có những điều kiện thuận lợi để liên minh với giai cấp nông dân trong cuộc
đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Cùng với giai cấp nơng dân họ là giai cấp

bị áp bức, bóc lột nặng nề nhất do vậy họ là những người có tinh thần cách mạng
triệt để nhất. Mặc dù giai cấp cơng nhân cịn non trẻ, số lượng ít nhưng họ làm
việc tập trung ở các thành thị, nhà máy, hầm mỏ, đồn điền nên rất thuận lợi cho
sự đoàn kết thống nhất trong đấu tranh cách mạng. So với các giai cấp khác thì
giai cấp cơng nhân Việt Nam là một giai cấp mới, tiên tiến, đại diện cho một
phương thức sản xuất mới, tiến bộ. Do vậy, khi được tổ chức lại, được trang bị


×