Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về giáo dục và ý nghĩa của nó đối với đổi mới giáo dục ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (787.39 KB, 111 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------

ĐỖ THỊ LAN

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC VÀ Ý
NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI ĐỔI MỚI GIÁO DỤC Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY
Chuyên ngành: Triết học
Mã số

: 60.22.03.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Thị Hạnh

Hà Nội – 2015


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................. 4
1. Lý do chọn đề tài .............................................................................. 4
2. Tình hình nghiên cứu ........................................................................ 5
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................... 9
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................... 9
5. Cở sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ......................................... 9
6. Đóng góp mới của luận văn ............................................................. 10
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn ............................................................ 10
8. Kết cấu của đề tài ........................................................................... 10
NỘI DUNG ........................................................................................ 11


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VÊ GIÁO DỤC .................................................................................. 11
1.1 Cơ sở thực tiễn của việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về
giáo dục ............................................................................................. 11
1.1.1 Thực trạng Giáo dục Việt Nam đầu thế kỷ XX ............................. 11
1.1.2 Thực trạng giáo dục Việt Nam sau Cách Mạng Tháng Tám ......... 17
1.2 Tiền đề lý luận cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo
dục ..................................................................................................... 23
1.2.1 Truyền thống giáo dục Việt Nam ................................................. 23
1.2.2 Tư tưởng giáo dục Phương Đông – Phương Tây cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX ..................................................................................... 24
1.3 Nhân tố chủ quan của Hồ Chí Minh: .......................................... 37
1.3.1 Hồ Chí Minh là một người học trò xuất sắc ................................ 37
1.3.2 Hồ Chí Minh là người thầy mẫu mực................................................... 41
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH VỀ GIÁO DỤC ...................................................................... 44

1


2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò và mục đích của giáo dục ............. 44
2.1.1 Giáo dục không chỉ giáo dục tri thức, học vấn mà còn góp phần
hình thành nên nhân cách, phẩm chất đạo đức của mỗi con người ....... 44
2.1.2 Giáo dục là đào tạo ra những con người biết làm chủ nước nhà,
phải lấy nhiệm vụ học tập làm chủ yếu ................................................ 48
2.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về nội dung của giáo dục ...................... 50
2.2.1 Giáo dục lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, giáo dục chính trị, tư tưởng.... 50
2.2.2 Giáo dục lý tưởng đạo đức XHCN, đạo đức cách mạng, thực hiện
cần, kiệm liêm, chính, chí công, vô tư, thực hành nhân, nghĩa, trí, dũng...
chống quan liêu, tham ô, lãng phí ....................................................... 53

2.2.3 Giáo dục nâng cao trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật, trình độ
chuyên môn ........................................................................................ 56
2.3 Tư tưởng Hồ Chí Minh về phương châm, phương pháp giáo dục ....... 63
2.3.1 Học đi đôi với hành, lý luận phải liên hệ với thực tế, học tập phải
kết hợp với lao động. .......................................................................... 64
2.3.2 Phải kết hợp phương pháp học ở mọi nơi, mọi lúc, học mọi người,
học suốt đời, coi trọng việc tự học, tự đào tạo và đào tạo lại ............... 66
2.3.3 Kết hợp các hình thức giáo dục nhà trường, gia đình và xã hội ... 68
CHƯƠNG 3: Ý NGHĨA CỦA VIỆC VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC VÀO ĐỔI MỚI GIÁO DỤC Ở NƯỚC
TA HIỆN NAY .................................................................................. 73
3.1 Yêu cầu và nội dung chủ yếu của công cuộc đổi mới toàn diện
giáo dục Việt Nam hiện nay .............................................................. 73
3.1.1 Những yêu cầu của công cuộc đổi mới toàn diện giáo dục Việt Nam
hiện nay .............................................................................................. 73
3.1.2 Nội dung của công cuộc đổi mới toàn diện giáo dục Việt Nam hiện
nay ..................................................................................................... 78

2


3.2 Một số ý nghĩa của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo
dục vào công cuộc đổi mới giáo dục ở nước ta hiện nay ................... 90
3.2.1 Ý nghĩa của việc vận dụng quan điểm “Học đi đôi với hành”, “Lý
luận đi đôi với thực tiễn” trong việc đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng
nhu cầu thực tiễn ................................................................................ 90
3.2.2 Ý nghĩa của việc vận dụng quan điểm “Tự học” của Hồ Chí Minh
đối với công cuộc đổi mới giáo dục ở Việt Nam hiện nay .................... 96
KẾT LUẬN ..................................................................................... 104
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................ 106


3


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục đào tạo đóng vai trò quan trọng là nhân tố chìa khóa, là động
lực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Không chỉ ở Việt Nam mà ở hầu hết
các quốc gia khác trên thế giới, các chính phủ đều coi giáo dục là quốc sách
hàng đầu. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm việc mở mang dân
trí, chăm lo cho sự nghiệp giáo dục. Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của
giáo dục đối với sự hưng thịnh của đất nước, với nhiệm vụ cực kỳ trọng đại là
mở mang dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, là động lực của sự
phát triển, đưa nước nhà tiến tới giàu mạnh, dân chủ, văn minh, sánh vai với
các cường quốc năm châu. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đã được thể
hiện qua nhiều bài nói, bài viết, và đặc biệt là những việc làm, tấm gương học
tập suốt đời của Hồ Chí Minh. Tư tưởng về giáo dục của Người là sự tiếp nối
và nâng cao những giá trị tinh túy của truyền thống Việt Nam và thế giới. Đây
cũng là sự kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng giáo dục của chủ
nghĩa Mác – Lê Nin vào trong điều kiện cụ thể của nước ta. Tư tưởng về giáo
dục của Hồ Chí Minh còn góp phần to lớn vào việc nâng cao dân trí, bồi
dưỡng đào tạo cho Cách Mạng Việt Nam những con người đủ đức, đủ tài để
lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Trong thời đại ngày nay, tư tưởng và những
chủ trương chính sách đối với giáo dục của Hồ Chí Minh đã góp phần quyết
định tới thắng lợi sự nghiệp giáo dục của nước ta.
Những năm gần đây, do tác động tiêu cực của kinh tế thị trường và sự
yếu kém, sa sút của các biện pháp giáo dục đã ảnh hưởng không nhỏ tới nhận
thức của một bộ phận thanh thiếu niên. Vấn đề giáo dục đã trở thành một vấn
đề bức thiết đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Trước thực trạng
đó, Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết về đổi mới căn bản, toàn diện

nền giáo dục và đào tạo Việt Nam, trong đó xác định:

4


"Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hoá, hiện
đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế" và "Phát triển nhanh
nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc
đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân" [9]
Để đảm bảo sự nghiệp đổi mới thành công, Đảng ta tiếp tục khẳng
định nghiên cứu, quán triệt sâu sắc và phổ biến rộng rãi tư tưởng Hồ Chí
Minh nói chung và tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục nói riêng , vận dụng
những tư tưởng lý luận đó một cách sáng tạo vào thực hiện công cuộc đổi mới
toàn diện nền giáo dục đáp ứng yêu cầu của sự phát triển đất nước.
Trong bối cảnh đó việc nghiên cứu tư tưởng của Hồ Chí Minh về giáo
dục là một việc làm cần thiết nhằm đảm bảo sự nghiệp đổi mới thành công,
đồng thời trang bị cho chúng ta những tư tưởng, lý luận đúng đắn, tiến bộ của
một nhà giáo dục, một nhà văn hóa lớn của thế giới, qua đó giúp mọi người
rút ra những giá trị, liên hệ với tình hình thực tiễn, và vận dụng vào công cuộc
đổi mới toàn diện nền giáo dục. Vì vậy tôi đã quyết định chọn đề tài “Tư
tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và ý nghĩa của nó đối với đổi mới giáo dục ở
nước ta hiện nay” làm đề tài luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều luận án, luận văn viết về tư
tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và vai trò của nó trong sự nghiệp phát triển
đất nước. Nhìn chung tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục được tiếp cận và tìm
hiểu ở nhiều góc độ khác nhau.
Trong phạm vi của đề tài mà ta có thể thống kê ra đây một số công
trình nghiên cứu sau:
* Nhóm những tác phẩm của Hồ Chí Minh về vấn đề giáo dục:

Bàn về công tác giáo dục, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1972; Phát
huy tinh thần cầu học cầu tiến bộ, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1960; Về

5


vấn đề học tập, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1971; Hồ Chí Minh toàn tập
(15 tập), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.
Những tác phẩm này đã trình bày chi tiết, cụ thể những lời nói, bài viết
của Hồ Chí Minh về vấn đề giáo dục.
* Nhóm những tác phẩm của các nhà nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục.
“Hồ Chủ Tịch nhà giáo dục vĩ đại” của giáo sư Nguyễn Lân với sự
cộng tác của Hà Trung Kính và Phan Thế Sùng (NXB Khoa học Xã Hội, Hà
Nội 1990). Tác phẩm tập trung trình bày về những vấn đề giáo dục Hồ Chí
Minh đã đề cập đến.
Tác giả tập trung phân tích những phê phán nghiêm khắc của Hồ Chí
minh chống chính sách ngu dân của thực dân Pháp. Đó là cuộc đấu tranh kiên
trì, bền bỉ, không khoan nhượng, kéo dài từ 1919 đến tận ngày Cách Mạng
Tháng Tám thành công. Từ sau khi chính quyền đã thuộc về tay nhân dân cho
đến ngày nay, Hồ Chủ Tịch luôn luôn theo dõi, khuyến khích, uốn nắn những
hoạt động giáo dục và vạch cho ngành ta con đường xây dựng nền giáo dục xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục”, NXB Lao Động, 2010.
Sách dày 580 trang, thu thập nhiều bài viết giá trị của các vị lãnh đạo,
trí thức về tư tưởng Hồ Chí Minh liên quan đến giáo dục. Đây là tập tài liệu
nghiên cứu và học tập rất cần thiết cho ngành giáo dục nói riêng và những ai
quan tâm học hỏi về tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung.
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và vận dụng vào đào tạo đại học
hiện nay” của TS Hoàng Anh chủ biên, NXB CTQG, Hà Nội 2013.

Nội dung cuốn sách trình bày nguồn gốc, quá trình hình thành và phát
triển tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục theo từng thời kỳ gắn với cuộc đời
hoạt động cách mạng của Người cũng như của đất nước. Đồng thời cuốn sách

6


phân tích nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và nêu bật tầm quan
trọng của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục vào việc nâng cao
chất lượng đào tạo đại học hiện nay. Từ việc phân tích một số vấn đề trong
công tác đào tạo đại học hiện nay như: chất lượng sinh viên, đội ngũ giảng
viên, nội dung, chương trình đào tạo, phương pháp giảng dạy, các tác giả đã
đề xuất các giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và nâng
cao chất lượng đào tạo đại học hiện nay.
Liên quan đến nội dung của đề tài cũng đã có những luận văn, luận án
nghiên cứu khá rộng và sâu sắc:
Luận văn thạc sỹ của Hoàng Thị Tuyết Thanh (2010) “Tư tưởng Hồ
Chí Minh về giáo dục và vận dụng vào xây dựng xã hội học tập ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay”. Tác giả đã đưa ra quan niệm của Hồ Chí Minh về
giáo dục và cho thấy được tính tất yếu trong việc vận dụng quan điểm đó vào
xã hội học tập ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Luận văn thạc sỹ của Ninh Thị Ánh Hồng (2014) “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục con người mới”. Luận văn đã nêu lên được quan điểm của
Hồ Chí Minh về giáo dục con người mới cũng như vận dụng những quan
niệm đó vào việc giáo dục con người Việt Nam hiện nay.
Ngoài ra còn rất nhiều những bài báo, bài viết đăng trên tạp chí như bài
viết “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục với việc phát triển nền giáo dục Việt
Nam trong những thập niên đầu thế kỷ XXI” của PGS.TS Nguyễn Thị Nga
trên tạp chí Triết học số 12 năm 2010. Tác giả đã phận tích một cách khái
quát tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh về giáo dục trên những khía cạnh như

mục tiêu, nội dung và phương pháp giáo dục. Trên cơ sở đó khẳng định tư
tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục không chỉ là ánh sáng soi đường, mà còn là
kim chỉ nam cho chiến lược phát triển con người Việt Nam trong thập niên
đầu thế kỷ XXI.

7


“Hồ Chí Minh với nhân tố con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa” của PGS Trần Thanh – Lê Quang Hoan trên tạp chí nghiên cứu
lý luận. Các tác giả đã khái quát nội dung có ý nghĩa phương pháp luận của
Hồ Chí Minh về vấn đề con người như giáo dục chủ nghĩa yêu nước, lý tưởng
xã hội chủ nghĩa, đạo đức cách mạng.
Ngoài ra còn một số công trình nghiên cứu khác như:
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, (Đặng Quốc Bảo, Nhà xuất bản Giáo
dục, Hà Nội, 2008);
- Hồ Chí Minh với ngành giáo dục, (Nguyễn Vũ, Nhà xuất bản Thanh
Niên, 2001);
- Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp giáo dục Việt Nam, (Trần Quốc
Hùng, Nhà xuất bản Tp. Hồ Chí Minh, 2003.);
- Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp phát triển giáo dục, (Vũ Văn Gầu,
Nguyễn Anh Quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005);
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện (TS.Nguyễn Hữu
Công, NXB CTQG),
- Hồ Chí Minh đào tạo cán bộ và trọng dụng nhân tài (PGS.TS Nguyễn Đức
Vượng, NXB CTQG)
Nhìn chung những tác phẩm này đã tập trung nghiên cứu lý luận chung
của Hồ Chí Minh về vấn đề giáo dục, đi sâu làm rõ những điều kiện, tiền đề
cho sự ra đời tư tưởng về giáo dục của Hồ Chí Minh, cũng như nội dung của
nó.

Tuy vậy, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và chỉ ra
được ý nghĩa của nó đối với đổi mới giáo dục ở nước ta hiện nay vẫn chưa có
công trình nào nghiên cứu, tiếp cận dưới góc độ của khoa học triết học. Song
những tư liệu trên là tài liệu quý giá để tác giả tham khảo trong quá trình viết
luận văn.

8


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích:
Làm rõ nội dung tư tưởng của Hồ Chí Minh về giáo dục, từ đó chỉ ra ý
nghĩa của việc vận dụng tư tưởng này đối với đổi mới giáo dục ở nước ta hiện
nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Khái lược những cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục.
Làm rõ nội dung tư tưởng của Hồ Chí Minh về giáo dục.
Chỉ ra một số ý nghĩa của việc vận dụng những tư tưởng này đối với
đổi mới giáo dục ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo
dục.
Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thông qua các tác phẩm
của Hồ Chí Minh và công cuộc đổi mới giáo dục ở Việt Nam hiện nay do
Đảng Cộng Sản Việt Nam khởi xướng và chỉ đạo thực hiện.
5. Cở sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận:
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận khoa

học chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối,
chính sách của Đảng và nhà nước ta về vấn đề giáo dục.
Các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước về lĩnh vực
giáo dục.
Phương pháp nghiên cứu

9


Luận văn được xây dựng trên cơ sở phương pháp lịch sử, logic, phân
tích và tổng hợp, đồng thời sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khác của
khoa học xã hội.
6. Đóng góp mới của luận văn
Luận văn đã hệ thống hóa một cách đầy đủ hơn những tư tưởng của Hồ
Chí Minh về giáo dục. Đồng thời đưa ra ý nghĩa của tư tưởng Giáo dục của
Hồ Chí Minh vận dụng vào công cuộc đổi mới giáo dục ở nước ta hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Ý nghĩa lý luận:
Luận văn góp phần vào việc tìm hiểu, kế thừa và làm sâu sắc hơn nhận
thức về di sản tư tưởng của Hồ Chí Minh về lĩnh vực giáo dục.
Ý nghĩa thực tiễn:
Với những kết quả đạt được luận văn có thể dùng làm tài liệu tham
khảo cho giáo viên, sinh viên, những người làm công tác nghiên cứu và tìm
hiểu về tư tưởng Hồ Chí Minh.
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương 8 tiết.

10



NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÊ
GIÁO DỤC
1.1 Cơ sở thực tiễn của việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về
giáo dục
1.1.1 Thực trạng Giáo dục Việt Nam đầu thế kỷ XX
Trong trào lưu xâm lược thuộc địa của chủ nghĩa tư bản phương Tây, từ
năm 1858 thực dân Pháp bắt đầu tiến công quân sự để chiếm Việt Nam. Sau
khi đánh chiếm được nước ta, thực dân Pháp thiết lập bộ máy thống trị thực
dân và tiến hành những cuộc khai thác nhằm cướp đoạt tài nguyên, bóc lột
nhân công rẻ mạt và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa.
Về kinh tế - xã hội: Từ năm 1897, thực dân Pháp tiến hành chương
trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất và sau Chiến tranh thế giới thứ nhất
(1914-1918), tiến hành chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai ở Đông
Dương với số vốn đầu tư trên quy mô lớn, tốc độ nhanh.
Do sự du nhập của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tình hình
kinh tế Việt Nam có sự biến đổi: quan hệ kinh tế nông thôn bị phá vỡ, hình
thành nên những đô thị mới, những trung tâm kinh tế và tụ điểm cư dân mới.
Nhưng thực dân Pháp không du nhập một cách hoàn chỉnh phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa vào nước ta, mà vẫn duy trì các quan hệ kinh tế của chế
độ phong kiến. Chúng kết hợp hai phương thức bóc lột tư bản và phong kiến
để thu lợi nhuận siêu ngạch. Chính vì thế, nước Việt Nam không thể phát
triển lên chủ nghĩa tư bản một cách bình thường được, nền kinh tế
Việt Nam bị kìm hãm trong vòng lạc hậu và phụ thuộc nặng nề vào kinh tế
Pháp.
Về chính trị, Pháp tiếp tục thi hành chính sách chuyên chế với bộ máy
đàn áp nặng nề. Mọi quyền hành đều thâu tóm trong tay các viên quan cai trị

11



người Pháp, từ toàn quyền Đông Dương, thống đốc Nam Kỳ, khâm sứ Trung
Kỳ, thống sứ Bắc Kỳ, công sứ các tỉnh, đến các bộ máy quân đội, cảnh sát,
toà án...; biến vua quan Nam triều thành bù nhìn, tay sai. Chúng bóp nghẹt tự
do, dân chủ, thẳng tay đàn áp, khủng bố, dìm các cuộc đấu tranh của dân ta
trong biển máu. Chúng tiếp tục thi hành chính sách chia để trị rất thâm độc,
chia nước ta làm ba kỳ, mỗi kỳ đặt một chế độ cai trị riêng và nhập ba kỳ đó
với nước Lào và nước Campuchia để lập ra liên bang Đông Dương thuộc
Pháp, xóa tên nước ta trên bản đồ thế giới. Chúng gây chia rẽ và thù hận giữa
Bắc, Trung, Nam, giữa các tôn giáo, các dân tộc, các địa phương, thậm chí là
giữa các dòng họ; giữa dân tộc Việt Nam với các dân tộc trên bán đảo Đông
Dương.
Về văn hóa, Pháp thi hành triệt để chính sách văn hóa nô dịch, gây tâm
lý tự ti,vong bản, khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan, đồi phong bại
tục. Mọi hoạt động yêu nước của nhân dân ta đều bị cấm đoán. Chúng tìm
mọi cách bưng bít và ngăn chặn ảnh hưởng của nền văn hóa tiến bộ trên thế
giới vào Việt Nam và thi hành chính sách ngu dân để dễ bề thống trị.
Như vậy, xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX chứa đựng nhiều biến động
căn bản trên nhiều phương diện: kinh tế, lịch sử, xã hội, văn hóa. Pháp khai
thác triệt để nguồn tài nguyên của chúng ta và để dễ bề cai trị, chúng còn thi
hành một chính sách ngu dân về giáo dục hết sức thâm độc và tàn bạo nhằm
thực hiện mục đích của mình.
Đế quốc chiếm thuộc địa bao giờ cũng nêu lên cái chiêu bài lừa bịp là
đi khai hóa những dân tộc lạc hậu. Nhưng mọi người đều hiểu rằng mục đích
chính của chúng là vơ vét tài nguyên, bóc lột nhân dân thuộc địa đến tận
xương tủy. Bọn chúng không mở mang giáo dục ở các nước thuộc địa, vì
chúng sợ nhân dân bản xứ mà có học thì họ sẽ thấy rõ sự áp bức của chúng và
sẽ kịch liệt chống lại cái ách thống trị tàn bạo của chúng. Trong một công văn


12


mật, đề ngày 1-3-1899, một tên thống sứ Bắc kỳ đã nói với tên toàn quyền
Đông Dương rằng: “Kinh nghiệm của các dân tộc châu Âu khác đã chỉ rõ
rằng việc truyền bá một nền học vấn đầy đủ cho người bản xứ là hết sức dại
dột” [47;10]
Hồ Chí Minh trong nhiều tác phẩm của mình đã nhiều lần vạch rõ bản
chất tội ác cũng như lên án chính sách ngu dân của thực dân Pháp:
“Trong vài phút, tôi không thể vạch được hết những sự tàn bạo mà bọn
tư bản ăn cướp đã gây ra ở Đông Dương. Nhà tù nhiều hơn trường học và lúc
nào cũng chật ních. Bất kỳ người bản xứ nào có tư tưởng xã hội chủ nghĩa
cũng đều bị bắt và có khi bị giết mà không cần xét xử…Chúng tôi không có
quyền tự do báo chí và tự do ngôn luận, ngay cả quyền tự do hội họp và lập
hội cũng không có. Chúng tôi không có quyền sống hoặc đi du lịch ở nước
ngoài, chúng tôi phải sống trong cảnh ngu dốt tối tăm vì chúng tôi không có
quyền tự do học tập” [18; 34, 35]
“May mắn thay! tuy chúng tôi thiếu trường học, nhưng nước Pháp đã
ban cho chúng tôi rất nhiều nhà thổ, tiệm hút thuốc phiện và ty rượu
“Để có thể đánh lừa dư luận bên chính quốc và yên ổn bóc lột người
bản xứ, bọn cá mập của văn minh không những làm cho người Việt Nam ngu
độn bằng rượu cồn và thuốc phiện, lại còn thi hành một chính sách ngu dân
triệt để [19; 106]
“Lúc đó có một nghìn năm trăm ty rượu và thuốc phiện cho một nghìn
làng trong khi chỉ có mười trường học cũng cho bấy nhiêu làng. [18; 38]
Người viết tiếp:
“Ở Đông Dương nhân dân đòi trường học vì số trường học thiếu một
cách nhơ nhuốc. Mỗi năm cứ đến ngày khai trường, cha mẹ phải đến gõ mọi
cửa, xin xỏ mọi kẻ có thế lực, có khi chịu trả gấp đôi tiền ăn học, thế mà cũng


13


không tìm được chỗ nào cho con vào học. Và hàng ngàn trẻ em đành chịu ngu
dốt vì không có trường” [19; 107]
Hồ Chí Minh cũng đã chỉ rõ dân tộc Việt Nam ta rất hiếu học, nhưng
khi người Pháp đến đã làm thay đổi tất cả, chúng làm cho nhân dân ta không
có điều kiện để học hành vì những chính sách thuế khóa nặng nề mà chúng áp
đặt. Mặt khác chúng:
“Cố tâm hủy bỏ Hán học mà chúng thấy là nguy hiểm cho sự thống trị
của chúng, vì chúng biết rằng Hán học có thể đưa vào An Nam những tư
tưởng tiến bộ Phương Tây thông qua Trung Quốc và Nhật Bản” [18; 423] với
thâm ý sẽ đưa nhân dân ta vào vòng ngu tối.
Và để thay thế vào một nền giáo dục đã phần nào đáp ứng được cái
“nhiệt tình ham muốn có học thức của dân tộc Việt nam” [17; 73], bọn thực
dân chỉ mở một số trường tối thiểu mà mục đích:
“không phải để giáo dục cho thanh niên Việt Nam một nền học vấn tốt
đẹp và chân thực, mở mang trí tuệ và phát triển tư tưởng cho họ, mà trái lại
càng làm cho họ đần độn thêm. Ngoài mục đích giáo dục để đào tạo tùy phái,
thông ngôn và viên chức nhỏ đủ số cần thiết phục vụ cho bọn xâm lược, người
ta đã gieo rắc một nền giáo dục đồi bại, xảo trá và nguy hiểm hơn cả sự dốt
nát nữa, vì một nền giáo dục như vậy chỉ làm hư hỏng mất tính nết của người
đi học, chỉ dạy cho họ một lòng trung thực giả dối, chỉ dạy cho họ biết sùng
bái những kẻ mạnh hơn mình, dạy cho thanh niên yêu Tổ Quốc không phải Tổ
Quốc mình, một Tổ Quốc đã từng áp bức dân tộc mình. Hấp thụ nền giáo dục
ấy, thanh thiếu niên trở lại khinh rẻ nguồn gốc, dòng giống mình và trở nên
ngu ngốc thêm” [18; 424]
Trong nền giáo dục của thực dân “điều gì có thể rèn luyện được cho
học sinh biết suy nghĩ, biết phân tích thì người ta không dạy ở nhà trường,
Vấn đề nào có liên quan đến chính trị xã hội và có thể làm cho người ta tỉnh


14


ngộ đều bị bóp méo và xuyên tạc đi. Có học lịch sử nước Pháp đi nữa thì
người ta không hề đả động đến chương nói về cách mạng. Người ta cấm học
sinh đọc tác phẩm của Huy-gô, Rút-xô, Mông-tét-xki-ơ. Nói tóm lại trường
học thật là tương xứng với chế độ đã khai sinh ra nó” [18; 424, 425].
Chính vì thực dân sợ những tư tưởng tiến bộ, nên chúng không muốn
cho thanh niên Việt Nam đi du học ở nước ngoài, kể cả ở nước Pháp:
“Người Việt Nam nào có ý định đi du học nước ngoài thì sẽ bị coi như
một người nổi loạn, một người chống Pháp, có tội lớn, người ta hãm hại
người đó và cả gia đình họ. An-be Xa-rô, nguyên toàn quyền Đông Dương,
nay là Bộ trưởng bộ thuộc địa, đã nói rõ chính sách bao vây tinh thần ấy
bằng những lời lẽ sau đây: “Để cho lớp thượng lưu trí thức được đào tạo ở
nước ngoài thoát khỏi vòng kiêm tỏa của chúng ta, chịu ảnh hưởng văn hóa
và chính trị của nước khác, thì thật là một điều nguy hiểm vô cùng. Những
người trí thức đó trở về nước đã đưa hết tài năng của họ để tuyên truyền vận
động chống lại chúng ta là những người bảo hộ đã ngăn cấm không cho họ
học tập” [19; 426].
Để hạn chế việc thanh niên nước ta sang Pháp học tập, bọn thực dân đã
đặt ra nhiều điều lệ khe khắt, như điều 500b trong nghị đinh ngày 20-6-1921
về học chính ở Đông Dương mà Hồ Chí Minh đã vạch ra trong “Bản án chế
độ thực dân Pháp”:
“Người bản xứ nào vô luận là dân thuộc địa hay dân bảo hộ, muốn
sang chính quốc tiếp tục học tập đều phải được ông toàn quyền cho phép”
[19; 108].
Mà được phép của toàn quyền có phải là một việc dễ dàng đâu.
“Nếu vì trường hợp đặc biệt, một thanh niên nào được phép sang học ở
bên Pháp thì chính phủ Pháp cố đưa du học sinh Việt Nam vào học ở những

trường phản động nhất. Những sách vở báo chí mà anh ta đọc, những hoạt

15


động giao thiệp hằng ngày của anh ta đều bị kiểm soát theo dõi. Người ta
giao anh cho những tên ba que thực dân già đã về hưu trông nom” [18; 426]
Như vậy ta thấy là bọn thực dân tìm mọi cách để ngăn cản du học sinh
Việt Nam tiếp xúc với những luồng tư tưởng cách mạng ở ngay nước Pháp
Và với một chính sách ngu dân thâm độc như thế, tất nhiên đế quốc
Pháp không thể coi trọng những người thầy giáo Việt nam. Sau những cuộc
biểu tình năm 1907,chính quyền thực dân đã cho binh lính về phá phách các
trường và bắt bớ giáo viên:
“Các ông giáo bị bắt, bị ngược đãi, hành hạ, tay trói giật cánh khuỷu
và bị dẫn từng xâu lên tỉnh lỵ, đầu trần, chân không, nhịn đói, nhịn khát, họ bị
đánh đạp như trâu, ngựa rồi bị kết án khổ sai. Còn trường học thì bọn sĩ quan
Pháp dùng làm chuồng ngựa” [18; 77].
Rõ ràng thâm ý của bọn thực dân là dìm nhân dân ta trong vòng ngu
tối. Để chứng minh điều đó, Hồ Chí Minh đã dưa ra một loạt những dẫn
chứng cụ thể:
“ Người Pháp không tổ chức một nền giáo dục mới thay thế cho nền giáo
dục An Nam mà họ đã bỏ đi. Họ chỉ xây dựng một số ít trường học để đào tạo
ra những con vẹt, những người vong bản thiếu đạo đức và thiếu cả kiến thức
phổ thông” [18; 424]
“ Nhưng ngay cả nền giáo dục sơ đẳng ấy cũng chỉ được phổ cập một
cách qua bủn xỉn và nhỏ giọt. Cao Miên có 2.000.000 dân mà chỉ có 60
trường học. Ở Trung Kỳ chỉ có 118 trường cho 6.000.000 dân. Trường học
được lập ra không phải để giáo dục cho thanh niên An Nam một nền học vấn
tốt đẹp và chân thực, mở mang trí tuệ và phát triển tư tưởng cho họ, mà trái
lại càng làm cho họ đần độn thêm. Ngoài mục đích giáo dục để đào tạo tùy

phái, thong ngôn và viên chức nhỏ đủ số cần thiết để phục vụ cho bọn xâm

16


lược – người ta đã gieo rắc một nền giáo dục đồi bại, xảo trá và nguy hiểm
hơn cả sự dốt nát nữa” [18; 424].
Như vậy qua những lời lẽ sắc bén và dẫn chứng cụ thể, Hồ Chí Minh đã
bóc trần được phần nào bản chất tội ác của thực dân Pháp và cho chúng ta
thấy được ý đồ thâm độc của chúng. Để rồi kết luận được rút ra là, chính
quyền Pháp muốn:
“Làm cho dân ngu để trị, đó là chính sách mà các nhà cầm quyền ở các
thuộc địa của chúng ta ưa dùng nhất” [19; 108].
1.1.2 Thực trạng giáo dục Việt Nam sau Cách Mạng Tháng Tám
Cách Mạng Tháng Tám là một bước ngoặt lịch sử vĩ đại trong lịch sử
cách mạng Việt Nam. Từ thân phận bị áp bức, nô lệ, nhân dân Việt nam vụt
đứng lên làm chủ cuộc đời mình và xây dựng một xã hội của mình.
Sau ngày Cách mạng thành công, chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
phải đối mặt với nhiều khó khăn, trong đó có nền giáo dục hết sức lạc hậu với
90% dân số mù chữ, huyện lớn mới có trường tiểu học, vài tỉnh mới có một
trường trung học cơ sở, cả nước có 5 năm trường trung học phổ thông toàn
cấp và cả Đông Dương mới có một trường đại học với vài trăm sinh viên. Do
vậy, bên cạnh việc tiến hành chiến dịch chống nạn mù chữ, Chính phủ Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa phải bắt tay ngay vào việc xây dựng nền giáo dục
mới của một nước độc lập và dân chủ.
Ba nguyên tắc căn bản của nền giáo dục mới là: đại chúng, dân tộc và
khoa học, theo tôn chỉ phụng sự lý tưởng quốc gia và dân chủ. Tính dân tộc,
có ý nghĩa là nội dung giáo dục phải giáo dục lịch sử dân tộc, giáo dục tinh
thần yêu dân tộc, tin tưởng vào sức mạnh của dân tộc. Đó là cơ sở của toàn bộ
nội dung giáo dục, thực tế dân tộc là cơ bản của nền giáo dục nhằm đào tạo

thế hệ trẻ thành những người phụng sư dân tộc một cách đắc lực. Tính khoa
học, có ý nghĩa là nội dung giảng dạy cho học sinh những tri thức và phương

17


pháp khoa học tiến bộ, chống giáo điều, dạy và học theo nguyên tắc học để
hành, giáo dục gắn liền với cuộc sống của nhân dân. Lấy nền giáo dục làm
công cụ để giải phóng về mặt tư tưởng. Tính đại chúng, có nghĩa là nền giáo
dục có nhiệm vụ mang tri thức tới quần chúng, từ chỗ mù chữ đến chỗ biết
chữ, phổ cập một trình độ học vấn nhất định từ thấp đến cao, cũng như đem
các tri thức khoa học đến với quần chúng rộng rãi để họ áp dụng những tri
thức ấy vào cuộc sống, vào sản xuất. Như vậy, tính đại chúng của nền giáo
dục cũng đồng nghĩa với tính dân chủ, được thực hiện từng bước. Nền giáo
dục mới gồm ba bậc học: Bậc học cơ bản gồm 4 năm và bắt đầu từ 1950 sẽ là
bậc học cưỡng bách; Bậc học trung học và chuyên nghiệp; Bậc học đại học.
Sắc lệnh 147/SL đã ấn định thêm những điều khoản pháp chế để thực hiện bậc
học cơ bản, không phải trả tiền, các môn học dạy bằng tiếng Việt ở tất cả các
bậc từ tiểu học đến đại học trong tất cả các bộ môn khoa học: khoa học xã
hội, khoa học tự nhiên và kỹ thuật. Để cụ thể hoá nội dung của các sắc lệnh
trên, một loạt chủ trương biện pháp nhằm khuyến khích học tập đã được ban
hành và thực hiện như: bãi bỏ tiền học ở tất cả các bậc học, gia hạn tuổi cho
học sinh các lớp, cấp học bổng và mở ký túc xá cho học sinh các trường trung
học. Chính phủ cũng định ra một chương trình giáo dục, tổ chức ngạch thanh
tra và lập hội đồng sách giáo khoa… Đặt trong thời điểm lịch sử lúc bấy giờ,
những chủ trương, quan điểm, phương châm, sắc lệnh và việc làm nói trên, đã
trực tiếp xóa bỏ tính chất phong kiến, thực dân của nền giáo dục cũ, đồng thời
đặt nền móng cho sự ra đời của nền giáo dục Việt Nam mới.
Từ đầu năm 1947, giáo dục Việt Nam diễn ra theo hai khuynh hướng
khác nhau. Nền giáo dục mới tiếp tục được xây dựng, phát triển ở vùng tự do,

do chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tổ chức và hệ thống giáo dục cũ
được hồi phục ở vùng tạm bị chiếm, do chính quyền thực dân và Bảo Đại
quản lý.

18


Trong vùng tự do, từ ngày cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ (1912-1946), hoạt động của ngành giáo dục đã có những biến động to lớn, sâu
sắc để thích ứng với cuộc kháng chiến của dân tộc. Trong chỉ thị Toàn dân
kháng chiến, Trung ương Đảng chỉ rõ kháng chiến phải toàn diện, trong đó
văn hóa, giáo dục là một lĩnh vực quan trọng. Trong tác phẩm “Kháng chiến
nhất định thắng lợi”, Trường Chinh, Tổng bí thư của Đảng đã nhấn mạnh rằng
kháng chiến về mặt văn hoá có hai nhiệm vụ: một là đánh đổ văn hoá ngu
dân, nô dịch, xâm lược của thực dân Pháp; hai là xây dựng nền văn hoá mới
của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trên ba nguyên tắc: dân tộc - khoa học
- đại chúng, coi "văn hoá, giáo dục cũng là một mặt trận đấu tranh của nhân
dân ta".
Tháng 4 - 1947, Hội nghị cán bộ Trung ương Đảng xác định chú
trọng mở mang giáo dục kháng chiến, chương trình học phải thiết thực, nhằm
mục đích đào tạo nhân tài, cần dùng cho kháng chiến trước hết, về tất cả các
ngành y tế, canh nông, quân giới cũng như thương mại, ngoại giao. Học sinh
phải vừa học vừa tham gia sản xuất để tự túc một phần nào, tiếp tục phát triển
bình dân học vụ; chú ý mở trường ở các vùng quốc dân thiểu số.
Từ giữa năm 1947, phần lớn các trường học sau khi sơ tán đến các
vùng tự do, vùng căn cứ du kích, đã đi vào hoạt động. Các trường cao đẳng
kinh tế, kỹ thuật ở Huế chủ yếu chuyển ra vùng Hà Tĩnh, Nghệ An, các
trường ở Hà Nội, ở Liên khu III một số lên Việt Bắc, một số vào Thanh
Hóa… Nhằm đưa sự nghiệp giáo dục đi vào ổn định và có bước phát triển
mới trong hoàn cảnh kháng chiến, tháng 1-1948, Trung ương Đảng đã họp hội
nghị giáo giới chấn chỉnh và mở mang việc học trong thời chiến, định chương

trình học cho các cấp, soạn sách giáo khoa mới, định cách dạy học trò theo lối
mới, vừa tránh được nạn nhồi sọ của thời thuộc Pháp, vừa thích hợp với tinh
thần kháng chiến và dân chủ. Chính phủ mở trường Sư phạm đào tạo giáo sư

19


mới và bổ túc cho giáo sư cũ, rút kinh nghiệm của các trường hiện nay và mở
thêm các trường mới theo kế hoạch (đặc biệt chú ý mở các trường đại học và
gửi du học sinh ra nước ngoài), thiết thực giúp đỡ bình dân học vụ, khuyến
khích văn nghệ, soạn lại bộ Sử nước ta, bắt đầu viết ngay cuốn sử cách mạng
Việt Nam chống Pháp và cuốn sử kháng chiến. Mở trường và đặt chữ cho các
vùng dân tộc thiểu số. Ngày 20-5-1948, Trung ương Đảng chủ trương "Chỉnh
đốn giáo dục, sửa chữa lại chương trình giáo dục các cấp, Chính phủ mở thêm
trường (tiểu học, trung học, đại học) và khuyến khích tư nhân mở trường tư",
"tiếp tục quét nạn mù chữ. Đi đến bình dân học vụ bổ túc, dạy kiến thức phổ
thông. Không công chức hoá giáo viên bình dân học vụ, nhưng tùy theo địa
phương mà thù lao cho giáo viên". Đối với các dân tộc thiểu số, Trung ương
Đảng lưu ý: “Mở thêm trường tiểu học", "Phát triển bình dân học vụ, đào tạo
cán bộ bình dân học vụ người địa phương. Cung cấp học bổng cho một số học
sinh người thiểu số”.
Những năm 1948 - 1949, phong trào Thi đua ái quốc phát triển sôi
nổi, nhất là ở các vùng tự do. Ngành giáo dục đã có nhiều hoạt động hưởng
ứng cuộc thi đua và giành thêm nhiều kết quả mới, nổi bật là phong trào bình
dân học vụ và phong trào xây dựng, chấn chỉnh giáo dục cấp tiểu học, trung
học.
Trong vùng tạm bị chiếm, thời gian đầu sau cuộc kháng chiến toàn
quốc bùng nổ, nhiều giáo viên, học sinh đã rời các đô thị, các vùng địch tạm
chiếm đi về các vùng tự do lớn như Việt Bắc, Thanh - Nghệ - Tĩnh, Nam –
Ngãi - Bình-Phú... để tiếp tục dạy và học. Tuy nhiên do hoàn cảnh khách

quan, chủ quan, nhiều giáo viên, học sinh phải ở lại vùng địch kiểm soát và
dạy, học theo chương trình, nội dung cũ. Đến đầu năm 1948, với âm mưu "lấy
chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt", thực dân
Pháp đã ra sức bình định vùng tạm bị chiếm, gây nhiều khó khăn cho việc học

20


tập của nhân dân, nhất là vùng thôn quê, miền núi, hải đảo, vùng dân tộc thiểu
số. Tuy vậy, sau khi thực dân Pháp lập lại chính quyền tay sai, “trao trả độc
lập” cho Việt Nam do chính quyền Bảo Đại làm đại diện, hệ thống trường lớp
các cấp học được củng cố, tái giảng. Hệ thống trường, lớp tiểu học được tái
lập, duy trì ở nhiều địa phương. Một số tỉnh có trường trung học. Các đô thị
lớn như Hà Nội, Nam Định, Huế, Sài Gòn có một số trường đại học, cao
đẳng, trung học. Năm 1949, Hà Nội có Trường Albert Sarraut, cho trẻ con
Pháp và một số ít trẻ con Việt Nam; Trường Chu Văn An cho học sinh Việt
Nam, trường nữ học Trưng Vương cho nữ học sinh, và 4-5 trường tiểu học..
Trường tư thục có Trí Tri, Dũng Lạc, Hồng Bàng, Thăng Long, có hai ban
Tiểu học và Trung học. Có 2 ngành học: Sơ học cấp tốc, 9 tháng cho học sinh
từ 5 đến 18 tuổi và Tráng niên giáo dục, 4 tháng cho người trên 18 tuổi. Ngoài
ra còn có Trường Đại học Y khoa… Nam Định có 3 trường ở thành phố:
Trường công (Ecole Muncipale), 450 học sinh; Lê Bảo Tịnh, 69 học sinh;
Sacré Coeur, 200 học sinh. Huế do Nha học chính và văn hóa Trung phần
quản lý, có trường Khải Định, Đồng Khánh. Tây Nguyên do Phòng học vụ,
sau đổi thành Ty Thanh tra tiểu học kiêm bình dân học vụ Tây Nguyên quản
lý. Đắc Lắc, Gia Lai mỗi tỉnh có 1 trường tiểu học, Kontum có 3 trường ở
Komplong, Daglây, Cheo Reo. Các trường đại học, cao đẳng chủ yếu dành
cho con em tầng lớp trên và những người khá giả. Đại đa số con em nhân dân
lao động không được đi học, nếu có thì cũng chỉ hết bậc Tiểu học. Những
người đến trường đều phải tiếp thu nền giáo dục thực dân, phục vụ cho cuộc

chiến tranh xâm lược của Pháp. Ngoài những môn tự nhiên, kỹ thuật, các môn
học khác thường nặng về ca tụng sự viện trợ của Pháp, Mỹ, ca tụng nền độc
lập giả hiệu của bọn bù nhìn tay sai. Các loại văn hóa phẩm đồi trụy, độc hại,
như phim ảnh, sách báo, thơ ca nhạc họa phản động, bi quan, hoặc liều lĩnh,
hung ác được phổ biến trong thanh niên, học sinh. Thực dân Pháp còn dùng

21


nhà trường để thu hút, quản lý và theo dõi thanh niên, bắt học sinh phải "báo
cáo về tình hình Việt Minh", tham gia các "tổ lượm tin", theo dõi, gây nghi kỵ
lẫn nhau. Các thủ đoạn mua chuộc, dụ dỗ, làm sa đọa và lừa bắt học sinh, sinh
viên đi lính làm bia đỡ đạn cho chúng được thực thi ráo riết. Những giáo viên,
công chức, học sinh, sinh viên tiến bộ, không chịu sự áp bức, nô dịch của nhà
cầm quyền đều bị thực dân Pháp và bọn bù nhìn dùng các biện pháp cứng rắn
để đe dọa, khủng bố. Nhiều giáo viên công chức giáo dục, học sinh, sinh viên
đã bị bắt, bị tù, bị giết, bị thương trong các cuộc đàn áp do tham gia các
phong 8 8 trào đấu tranh yêu nước, dân chủ tiến bộ. Phần đông nhân sĩ trí
thức, học sinh, sinh viên vẫn hướng về cách mạng, về kháng chiến. Nhiều
cuộc bãi khoá, biểu tình chống giáo dục nhồi sọ, chống khủng bố, bắt lính đã
diễn ra trong các nhà trường, sôi nổi là phong trào đấu tranh chống các trò hề
dân chủ, đề cao Bảo Đại và ngụy quyền tay sai, của giáo chức, học sinh, sinh
viên Hà Nội, Hải Phòng năm 1948. Đầu năm 1950, một phong trào học sinh,
sinh viên đã diễn ra rầm rộ trong cả nước, mở đầu và trung tâm là ở Sài Gòn.
Học sinh Trần Văn Ơn đã trở thành ấm gương tiêu biểu cho tinh thần yêu
nước của học sinh, sinh viên vùng tạm bị chiếm. Cuộc đấu tranh của học sinh,
sinh viên thành phố Sài Gòn ngày 9-1-1950 với hơn 10 vạn nhân dân thành
phố xuống đường biểu tình đưa tang học sinh Trần Văn Ơn và các học sinh bị
thực dân Pháp giết hại đã lan rộng ra cả nước, lôi kéo hàng vạn học sinh, sinh
viên, trí thức, công chức Hà Nội và nhiều tỉnh thành khác mít tinh, bãi khóa.

Ngày 9-1-1950 trở thành ngày học sinh, sinh viên toàn quốc.
Tóm lại, sau Cách Mạng Tháng Tám, do những biến động của lịch
sử, chính trị mà giáo dục Việt Nam vẫn bị phân chia, chưa có sự thống nhất
về mục tiêu, nội dung và phương pháp. Tuy vậy, những cố gắng của chính
phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa về lĩnh vực giáo dục lúc bấy giờ cũng góp

22


phần tạo nên nền tảng cho sự ra đời của những tư tưởng giáo dục của Hồ Chí
Minh sau này.
1.2 Tiền đề lý luận cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo
dục
1.2.1 Truyền thống giáo dục Việt Nam
Trước khi ra nước ngoài tiếp xúc với văn minh thế giới, Hồ Chí Minh đã
được quê hương và gia đình trang bị cho một vốn văn hóa dân tộc khá vững
vàng, tạo cho Người một bản lĩnh để tiếp thu có chọn lọc những giá trị chân
chính của văn hóa nhân loại, để “hòa mà không đồng”.
Do ảnh hưởng của hệ tư tưởng Nho giáo đối với Việt Nam mà nền giáo
dục truyền thống cũng mang đậm màu sắc nho học.
Giáo dục thời này được chia làm hai loại: giáo dục để đào tạo người ra
làm quan và dạy học trong làng xã: dạy nhân, lễ, nghĩa. Tư tưởng giáo dục
Nho học này đã thấm đẫm vào bao thế hệ Nho sĩ ở Việt Nam thời bấy giờ.
Từ nhỏ, Hồ Chí Minh đã được học, được dạy dỗ trực tiếp từ ông cha của
mình là cụ Hoàng Đường và ông Nguyễn Sinh Sắc, những nhà Nho nổi tiếng
của đất Nam Đàn, Nghệ Tĩnh thời đó. Hồ Chí Minh được học chữ Hán và
tiếng tăm đồn đại về sự thông minh trác việt đã lan tỏa khắp vùng Nghệ Tĩnh
nói chung. Không những vậy, Người còn được người cha Nguyễn Sinh Sắc,
trong khi dạy chữ đã chú trọng giáo dục lòng thương người, thương nước gắn
với thương nòi, yêu nhân dân lao động. Cho nên một điểm nổi bật xuyên suốt

tư tưởng của Hồ Chí Minh sau này chính là lòng thương người, là lòng
thương yêu những người cùng khổ, tình thương yêu vô cùng rộng lớn đối với
nhân dân lao động toàn thế giới.
Hồ Chí Minh còn chịu ảnh hưởng sâu sắc của thầy Vương Thúc Độ.
Thầy Vương Thúc Độ trong lúc dạy học thường ngụ ý nhắc nhở học trò noi
theo những tấm gương nghĩa liệt, tỏ rõ lòng trọng nhân cách học trò, không

23


bao giờ đánh học trò. Thầy thường tâm niệm phải thương yêu trẻ con như
thương mình thì mới dạy học được.
Đặc biệt Hồ Chí Minh còn chịu ảnh hưởng tốt đẹp từ thầy Vương Thúc
Quý, con trai tú tài Vương Thúc Mậu, người thủ lĩnh đội Chung nghĩa binh
dựng cờ Cần Vương chống giặc Pháp năm 1885, và đã hy sinh ngay trên
mảnh đất quê hương Kim Liên để bảo toàn khí tiết. Bản thân thầy Vương
Thúc Quý cũng tham gia trong đội Sĩ tử Cần Vương do nhà yêu nước Phan
Bội Châu lập ra. Học với thầy Quý, ngoài phần chịu ảnh hưởng về mặt tư
tưởng yêu nước, tình cảm thương dân, Hồ Chí Minh còn rất tâm đắc với tính
tức thời của thầy, không nệ cổ, không bắt học trò nhồi sọ cổ văn theo lối tầm
chương trích cú.
Hồ Chí Minh còn được tiếp xúc với một luồng tư tưởng duy tân trong
giáo dục của các nhà Nho như: Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc
Kháng…Đây là những người thuộc tầng lớp trí thức trong xã hội nên họ luôn
coi trọng và đề cao tri thức, cho rằng tri thức là dấu hiệu cơ bản để phân biệt,
so sánh con người với vạn vật và đưa con người lên vị trí ưu đẳng. Vì vậy họ
đã đưa ra những tư tưởng duy tân trong giáo dục, cụ thể như: giáo dục phải
đào tạo con người mới, mục đích xuyên suốt của giáo dục là nâng cao trình độ
dân trí, cung cấp tri thức mới. Họ còn tuyên truyền cho tư tưởng dân chủ, bình
đẳng, không phân biệt tôn giáo, giới, đẳng cấp trong giáo dục…..

Như vậy có thể nói Hồ Chí Minh do những ảnh hưởng nhất định từ nền
giáo dục truyền thống và những tư tưởng duy tân thời bấy giờ nên đã bắt đầu
có những nhận thức đổi mới, tiến bộ về công tác giáo dục, tạo tiền đề cho việc
hình thành những tư tưởng của người về nền văn hóa giáo dục mới sau này.
1.2.2 Tư tưởng giáo dục Phương Đông – Phương Tây cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX
* Tư tưởng giáo dục Phương Đông

24


×